You are on page 1of 10

x

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BÀI TẬP
MÔN: LUẬT TỐ TỤNG HÀNH
CHÍNH
LỚP: HC44A3

Nhóm 2:
1. Huỳnh Nguyễn Kim Ngân 1953801014128
2. Vương Phạm Kim Ngân 1953801014133
3. Nguyễn Thị Bảo Ngọc 1953801014136
4. Mạc Tú Nguyên 1953801014140
5. Nguyễn Thái Trung Nguyên 1953801014142
6.Nguyễn Trần Ngọc Nhi 1953801014152
7. Dương Quang Phú 1953801014169
8. Dương Gia Phúc 1953801014170
9. Nguyễn Minh Quân 1953801014184

BÀI THẢO LUẬN SỐ 2.


CHƯƠNG 5
 Nhận định:
Nhận định 1: Người thực hiện việc khởi kiện VAHC phải là người có quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm bởi các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo thủ tục TTHC.
Nhận định này sai. Với những cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi thì người đại hợp pháp của họ thể tự mình hoặc nhờ người khác
làm hộ đơn khởi kiện vụ án theo khoản 3 Điều 117 Luật TTHC.
Nhận định 2: Chỉ có cá nhân mới được quyền khởi kiện VAHC.
Nhận định này sai. Ngoài cá nhân có quyền khởi kiện VAHC thì cơ quan, tổ chức có
quyền khởi kiện VAHC theo khoản 1 Điều 115 Luật TTHC.
Nhận định 3: Trong trường hợp cá nhân khiếu nại QĐKLBTV theo đúng qui định của
pháp luật đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trước khi khởi kiện, thời điểm
cá nhân nhận được hoặc biết được QĐKLBTV đó không là căn cứ để xác định thời
hiệu khởi kiện.
Nhận định này đúng. Khi QĐKLTBTV về khiếu nại theo đúng qui định pháp luật
đến cơ quan nhà nước người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện
được tính 1 năm kể từ nhận được hoặc biết được giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết
định giải quyết khiếu nại lần hai. Vì thế khi hết 1 năm người khiếu nại nhận định hoặc
biết được khiếu nại đó nên không là căn cứ xác định thời hiệu khởi kiện theo khoản 3
Điều 116 Luật TTHC.
Nhận định 4: Nếu tổ chức, cá nhân khởi kiện QĐGQKN về QĐXLVVCT, thời hiệu
khởi kiện luôn là 30 ngày kể từ ngày nhận được QĐGQKN đó.
Nhận định này sai. Với trường hợp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
khác làm cho người khởi kiện được trong thời hạn qui định với 30 ngày kể từ ngày nhận
được QĐGQKN về QĐXLVVCT thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện theo khoản 4 Điều 116 Luật TTHC.
Nhận định 5: Nếu vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho
người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn theo qui định của pháp luật thì
thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác luôn không được
tính vào thời hiệu khởi kiện.
Nhận định này sai. Với sự kiện sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
không tính vào thời hiệu khởi kiện khi được qui định tại điểm a và b khoản 2 Điều 116
Luật TTHC với danh sách cử tri thì không qui định về sự kiện bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan theo khoản 4 Điều 116 Luật TTHC.
Nhận định 6: Sau khi khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, cá
nhân chỉ có quyền khởi kiện VAHC đối với QĐKLBTV trong trường hợp khiếu nại
được giải quyết mà không đồng ý với việc giải quyết đó.
Nhận định này sai. Không phải đối với QĐKLTBTV mà với những trường hợp
không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải
quyết nhưng hết thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã giải quyết mà
không đồng ý với khiếu nại về quyết định, hành vi đó thì có quyền khởi kiện vụ án theo
khoản 1 Điều 115 Luật TTHC, k3 điều 116
Nhận định 7: Trong trường hợp cá nhân, tổ chức khiếu nại đối với QĐKLTBTV
nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo qui định của pháp luật mà khiếu nại
không được giải quyết thì có quyền khởi kiện VAHC.
Nhận định này sai. Trường hợp cá nhân có quyền khởi kiện vụ án về danh sách cử
tri trong trường hợp đã khiếu nại với cơ quan có thầm quyền giải quyết, hết thời hạn giải
quyết, đã giải quyết hoặc không đồng ý giải quyết khiếu nại đó vì thế không hẳn khiếu
nại đối với QĐKLBTV theo Điều 115 Luật TTHC.
Nhận định 8:Nếu cơ quan, tố chức, các nhân khiếu nại QĐHC theo quy định của
pháp luật khiếu nại thì ít nhất sau 30 ngày kể từ ngày khiếu nại được thụ lý, cơ quan,
tổ chức, cá nhân mới có quyền khởi kiện VAHC.
Nhận định sai.
Nếu cơ quan, tố chức, các nhân khiếu nại QĐHC theo quy định của pháp luật khiếu
nại và khiếu nại được thụ lý thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đó có thời hiện khởi kiện
VAHC theo quy định tại khoản 3 Điều 116 Luật TTHC năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
như sau:
- 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
- 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho
người khiếu nại.
CSPL: Khoản 3 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
-Sai. Khoản 1.115 và khoản 3.116 , được đi kiện nếu không đồng ý quyết định giải
quyết khiếu nại hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại nhưng k dc giải quyết.
Nhận định 9:Người khởi kiện VAHC không thể khởi kiện bằng hình thức trực tiếp
trình bày nội dung khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền.
Nhận định đúng.
Theo khoản 1 Điều 117 Luật TTHC năm 2015 thì “Khi khởi kiện vụ án hành chính
thì cơ quan, tổ chức, cá nhân phải làm đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 118 của Luật
này”. Vì vậy, người khởi kiện chỉ có thể khởi kiện bằng cách làm đơn khởi kiện lên Tòa
án cs thẩm quyền theo Điều 118 Luật TTHC năm 2015.
CSPL: khoản 1 Điều 117 Luật TTHC Năm 2015.
Nhận định 10:Người ký tên vào đơn khởi kiện có thể là không phải là người khởi
kiện vụ án.
Nhận định đúng.
Người ký tên vào đơn khởi kiện có thể không phải là người khởi kiện VAHC trong
trường hợp nếu người khởi kiện là cá nhân chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi của mình và đã có quyết định tuyên bố mất NLHVDS của Tòa án thì
người đại diện hợp pháp của họ là người làm đơn và ký tên trong đơn khởi kiện.
CSPL: khoản 3 Điều 117 Luật TTHC năm 2015, khoản 5 điều 117
-
Nhận định 11: Cá nhân, tổ chức có thể ủy quyền khởi kiện VAHC.
Nhận định sai.
Cá nhân, tổ chức không thể ủy quyền khởi kiện VAHC vì khởi kiện là hành vi phải
“tự mình” thực hiện của đương sự (cá nhân, tổ chức) khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Trừ trường hợp cá nhân là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc
nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án (khoản 3 Đ117).
 Không có quy định về việc ủy quyền khởi kiện, chỉ có uỷ quyền tham gia VAHC
Cá nhân, tổ chức có thể ủy quyền cho người khác bằng giiaays ủy quyền khi tham
gia hoạt động tố tụng hành chính.
CSPL: Đ54 và Đ117 Luật TTHC năm 2015.
Nhận định 12: Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ, chứng minh quyền,
lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm, nếu người khởi kiện không nộp
đầy đủ các tài liệu, chứng cứ này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện.
Nhận định sai.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015 thì Tòa án sẽ trả lại đơn trong
các trường hợp sau:
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;
- Người khởi kiện không có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ;
- Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã
khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật;
- Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
- Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong
trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này;
- Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này
mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật
này;
- Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này mà người
khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp
người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí
hoặc có lý do chính đáng.
Trường hợp, đơn khởi kiện nộp lên Tòa án thiếu tài liệu, chứng cứ, chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm thì Tòa án sẽ không trả lại đơn
khởi kiện mà yêu cầu người khởi kiện bổ sung theo yêu cầu hoặc người khởi kiện tự
mình bổ sung các tài liệu kèm theo này.
CSPL: khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015.
Nhận định 13: Khi khởi kiện bằng phương pháp trực tuyến qua cổng thông tin điện tử
tòa án, người khởi kiện chỉ cần có địa chỉ thư điện tử hoặc có chữ ký điện tử được
chứng thực bằng bằng chứng thư điện tử đang còn hiệu lực do cơ quan tổ chức có
thẩm quyền cấp, công nhận.
Nhận định này là sai.
CSPL: Điều 5, điều 12 Nghị định 04/2016/NQ-HĐTP.
Khi khởi kiện bằng phương pháp trực tuyến qua cổng thông tin điện tử tòa án, người
khởi kiện cần có địa chỉ thư điện tử để gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử đến và đi từ
cổng thông tin điện tử của Tòa án; Có chữ ký điện tử được chứng thực bằng chứng thư
điện tử đang còn hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận; đã đăng ký
giao dịch thành công theo hướng dẫn tại Điều 12 Nghị quyết 04/2016/NQ-HĐTP; Đáp
ứng các điều kiện khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử và hướng dẫn tại
Nghị quyết 04/2016/NQ-HĐTP.
Nhận định 14: Ngày, tháng, năm trong đơn khởi kiện không là căn cứ cứ để xác định
ngày khởi kiện vụ án hành chính.
Nhận định này là đúng.
CSPL: Điều 120 luật TTHC năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 201 .
Theo luật định thì ngày khởi kiện là ngày mà người khởi kiện nộp trực tiếp, đơn trực
tuyến thì là ngày gửi đơn, còn nếu qua dịch vụ bưu chính là ngày có dấu của dịch vụ bưu
chính nơi gửi hoặc ngày gửi đơn qua dịch vụ bưu chính trong trường hợp không tìm được
ngày, tháng, năm theo dấu bưu chính.
Nhận định 15: Trường hợp người khởi kiện người đơn lên tòa án qua dịch vụ bưu
chính, ngày có dấu của tổ chức dịch bưu chính nơi đến đến cùng có thể được xác định
là ngày khởi kiện.
Nhận định này là sai.
CSPL: Khoản 3 điều 120 luật TTHC năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2019.
Trường hợp người khởi kiện người đơn lên tòa án qua dịch vụ bưu chính, ngày có
dấu của tổ chức dịch bưu chính nơi gửi chứ không phải nơi đến, kể cả trường hợp không
tìm được ngày, tháng, năm của dấu bưu chính nơi gửi thì ngày khởi kiện là ngày mà
đương sự gửi đơn tại dịch vụ bưu chính.
Nhận định 16: Khi xét đơn khởi kiện nếu phát hiện thời hiệu khởi kiện đã hết, Thẩm
phán được phân công xem xét đơn phải trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Nhận định này là sai.
CSPL: Điểm h khoản 1 điều 123 luật TTHC năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2019.
Khi xét đơn khởi kiện nếu phát hiện thời hiệu khởi kiện đã hết, Thẩm phán được
phân công xem xét đơn phải trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong trường hợp
không xuất trình được biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho tòa án hoặc được
miễn(không) nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.
Nhận định 17: Trong quá trình xem xét đơn khởi kiện, nếu thấy vụ việc không thuộc
thẩm quyền giải quyết của tòa án mình, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi
kiện phải trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Nhận định này là sai.
CSPL: Điểm c khoản 3 điều 121 luật TTHC năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2019.
Trong quá trình xem xét đơn khởi kiện, nếu thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền
giải quyết của tòa án mình, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện và chuyển
đơn khởi kiện cho tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện chứ không
phải trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Nhận định 18: Chánh án TANDTC không có quyền giải quyết khiếu nại văn bản trả
lại đơn khởi kiện.
Nhận định đúng.
Vì chánh án TANDTC phải phân công một thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại,
kiến nghị.
Chánh án TANDTC chỉ có quyền ra một trong các quyết định sau:
1) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;
2) Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo
để tiến hành việc thụ lý vụ án.
CSPL: Khoản 6 Điều 124 Luật TTHC 2015.
Nhận định 19: Trong trường hợp người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí, Tòa
án thụ lý vụ án vào thời điểm người khởi kiện nộp tiền tạm ứng án phí.
Nhận định sai.
Vì thẩm phán sẽ thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng
án phí.
CSPL: Khoản 2 Điều 125 Luật TTHC.
Nhận định 20: Trong trường hợp người khởi kiện từ đủ 60 tuổi trở lên, Tòa án phải
thụ lý VAHC ngay sau khi nhận đơn khởi kiện.
Nhận định sai.
Người từ đủ 60 trở lên thuộc trường hợpmiễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, nên
ngày thụ lý vụ án là ngày Thẩm phán thông báo cho người khởi kiện biết việc thụ lý.
CSPL: Điểm đ khoản 1 Điểu 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14; Khoản 2
Điều 125 LTTHC 2015.
 Bài tập:
Bài 1:
a) Xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án trên.
Đối tượng khởi kiện trong vụ án: chính là quyết định 1707/QĐ- CTUBND về việc
không công nhận quyền sử dụng đất và nhà trên thuở đất mà ông đã yêu cầu trước đó.
b) Xác định thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện trong vụ án này là 1 năm ( Điểm a khoản 2 Điều 116) mà trong
vụ án ngày là từ 10/8/2019 đến 10/8/2020.
c) Ngày 05/8/2020, tỉnh QN có một trận bão lớn làm cho Tòa án phải tạm dừng
hoạt động trong 15 ngày để khắc phục hậu quả. Ngày 20/8/2020 ông L khởi kiện
VAHC đối vối Quyết định 1707/QĐ-CTUBND thì vụ việc có được thụ lý hay không?
Vì sao?
Về việc đến ngày 20/8/2020 ông L mới khởi kiện thì vẫn có cơ sở để được thụ lý.
Khoản 4 điều 116 về quy định thời hiệu khởi kiện có nêu rõ “4. Trường hợp vì sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện
được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện”
Vì sự kiện bão lũ là một trở ngại khách quan của thiên nhiên, nên thời gian bị ảnh
hưởng sẽ không được tính vào thời hiệu khởi kiện. Vậy nên đơn của ông L vẫn được thụ
lý vì vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
còn hay hết thời hiệu vẫn thụ lý, thuộc điểu 123 : ko thuộc th trả lại đơn khởi kiện
d) Vì nhận thấy ông L tuổi già, sức yếu nên ông T.T.M là cháu ruột của ông L đã
làm đơn, ký tên trong đơn khởi kiện VAHC đối với Quyết định số 1707/QĐ-CYUBND
và gửi đến TAND có thẩm quyền. Việc khởi kiện như tên có phù hợp theo quy định
của Luật TTHC năm 2015 hay không? Vì sao?
Việc ông T.T.M làm đơn và kí tên vào đơn khiếu nại VAHC giúp ông của mình là
ông T.T.L không phù hợp với luật TTHC. Khoản 2 và Khoản 4 Điều 117 Luật TTHC
năm 2015 có quy định “2. Cá nhân có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ thì có
thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của
người khởi kiện trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của cá nhân; ở phần cuối đơn cá nhân
phải ký tên hoặc điểm chỉ.” “4. Cá nhân thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản
3 Điều này là người không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình làm đơn khởi
kiện, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi
kiện và phải có người có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ làm chứng, ký xác
nhận vào đơn khởi kiện.”
 Ko rơi vào TH hạn chế … nên chủ thể này phải kí tên vào đơn kiện

Bài 2:
a) Ngày 22/4/2018 đơn khởi kiện được xem xét. Thẩm phán được phân công
xem xét đơn khởi kiện sẽ xử lý như thế nào nếu ông D nộp đơn khởi kiện
(qua dịch vụ bưu chính đến TAND thành phố.
-K2.119
b) Tòa án có thẩm quyền giải quyết đã ra Thông báo số 132/TB-TA trả lại đơn
khởi kiện cho ông do cho rằng thời hiện khởi kiện của ông D đã hết. Anh(chị) có
nhận xét gì về Thông báo trên của Tòa án. Nếu không đồng ý, ông D có thể thực hiện
thủ tục gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Do ông D có khiếu nại nhưng do không được chấp nhận nên thời hiệu được tính như
sau: Ngày bắt đầu tính thời hiệu là ngày 25/9 thêm 30 ngày là ngày 25/10. Mà theo Điều
116 Luật TTHC năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện là 1 năm 25/10/2018. Mà do ông D
khởi kiện ngày 25/4/2018 nên vẫn còn hiêu lực. Vì vậy, theo em Tòa án đã quyết định
sai.
c) Ngày 12/5/2018 Tòa án có thẩm quyền ra Thông báo số 140/TB-TA về việc
nộp tiền tạm ứng án phí nhưng đế ngày 24/5/2018 ông D vẫn không nộp
biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án nên Tòa án đã ra Thông báo
trả lại đơn khởi kiện, Giả sử vào ngày 30/5/2018 ông D xuất trình chứng
cứ chứng minh đã nộp tiền tạm ứng án phí vào ngày 15/5/2018 nhưng do
bị tai nạn nên không thể đến Tòa án nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Hãy nêu cách xử lý của Tòa án.
- D xuất trình chứng cứ đã nộp án phí vào hôm 15/5 nghĩa là D đã nộp tiền vào 15/5
sau khi khi có quyết định 140 là 3 ngày. Nên vẫn còn trong hạn (theo khoản1 điều
125).
- D có lý do chính đáng (bị tai nạn) nên ngày khởi kiện sẽ là ngày nộp đơn lần đầu
22/4 (theo điểm b khoản 3 điều 125).
- Đối với trường hợp giả sử, D chưa đóng tiền ( theo k4 điều 125) , thì sẽ không có
biên lai tạm ứng án phí liên quan đến việc là Tòa án sẽ thông báo cho D là không thụ
lý. Bởi D đã không nộp tiền. Hệ quả là D có quyền khởi kiện lại nếu thời hiệu vẫn
còn hạn để kiện.
áp dụng điểm b.3.125 , tòa án yêu cầu nộp …
Nếu chưa đóng tiền tạm ứng án phí  k4.125

You might also like