You are on page 1of 48

Chương 6

Giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế

1. Khái niệm
1.1. Định nghĩa và đặc điểm của tranh chấp quốc tế
Hiện nay, cùng với sự gia tăng của quan hệ hợp tác quốc tế, tranh chấp
quốc tế cũng ngày càng phát triển cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng.
Tranh chấp quốc tế có thể nảy sinh từ việc hai quốc gia không thỏa thuận được
với nhau trong việc phân chia vùng biển chồng lấn hoặc xác định biên giới trên
bộ; tranh chấp cũng có thể bắt đầu từ sự bất đồng giữa hai hay một nhóm quốc
gia có liên quan đến tình hình bất ổn định của một khu vực nào đó trên thế giới;
hay chỉ đơn giản là từ việc hiểu và giải thích không thống nhất một quy phạm
pháp luật quốc tế, việc thực hiện pháp luật quốc tế hoặc các nghĩa vụ pháp luật
quốc tế mà các chủ thể đã cam kết thực hiện phù hợp với pháp luật quốc tế..
Tranh chấp quốc tế tồn tại một cách tất yếu như là mặt trái của quan hệ hợp tác
giữa các quốc gia.
Từ trước tới nay, các bên tranh chấp đã sử dụng nhiều phương thức để
giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ, mặc dù vậy, vẫn chưa có một
định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp lý quốc tế về tranh chấp quốc tế
là gì? Liên hợp quốc- một tổ chức quốc tế liên chính phủ lớn nhất thế giới, tính
đến thời điểm hiện nay, khi đề cập đến giải quyết tranh chấp quốc tế, hiến
chương Liên hợp quốc cũng chỉ xác định các biện pháp hòa bình mà các bên
tranh chấp có thể áp dụng nếu tranh chấp kéo dài có thể đe dọa hòa bình và an
ninh quốc tế tại Khoản 1 điều 33 Hiến chương LHQ 1. Thực tiễn quan hệ quốc
tế cho thấy, ngoài các tranh chấp quốc tế nếu kéo dài sẽ đe dọa hòa bình và an
ninh quốc tế, còn có loại tranh chấp quốc tế không tạo ra mối hiểm họa toàn
cầu nhưng có ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển tốt đẹp của quan hệ quốc tế
giữa các nước liên quan như tranh chấp về ngoại giao, thương mại, môi
trường…
Tranh chấp được hiểu là sự đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng,
thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên2. Tuy nhiên, không phải bất kỳ
1
Trong mỗi vụ tranh chấp, nếu kéo dài có thể đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế, các đương sự phải tìm giải
pháp trước hết bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, bằng các cơ quan hay
hiệp định khu vực hoặc các biện pháp hòa bình khác tùy họ lựa chọn.
2
Trung tâm Từ điển học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Năng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, tr.
1313.
tranh chấp nào phát sinh trong quan hệ quốc tế đều là tranh chấp quốc tế và
được sự điều chỉnh của Luật Quốc tế. Để xác định một tranh chấp quốc tế cần
dựa vào những đặc điểm cơ bản sau:
 Về chủ thể: Chủ thể của tranh chấp quốc tế chính là chủ thể của luật
quốc tế như quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ, dân tộc đang
đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết và một số chủ thể đặc biệt
khác (Tòa thánh Vaticăng, vùng lãnh thổ) Mặc dù quốc gia không là
chủ thể duy nhất của luật quốc tế, nhưng quan hệ quốc tế chủ yếu
vẫn là quan hệ giữa các quốc gia, vì vậy, trong thực tiễn quốc tế, hầu
hết các tranh chấp quốc tế chủ yếu xảy ra giữa các quốc gia, ví dụ
như các tranh chấp về lãnh thổ, biên giới, thương mại… Những
tranh chấp phát sinh giữa các thực thể không phải là chủ thể của
Luật Quốc tế như cá nhân, pháp nhân, tổ chức phi chính phủ….;
hoặc tranh chấp giữa một bên là chủ thể Luật Quốc tế với bên kia
không phải là chủ thể Luật Quốc tế không được coi là tranh chấp
quốc tế.
 Đối tượng điều chính của tranh chấp quốc tế: Quan hệ pháp luật,
nơi phát sinh tranh chấp phải là quan hệ pháp luật thuộc đối tượng
điều chỉnh của Luật quốc tế (Công pháp quốc tế)
 Cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế mang nét đặc thù riêng. Trong
cơ chế đó, tranh chấp giữa các chủ thể Luật Quốc tế được giải quyết
bằng các biện pháp đa dạng, phong phú dựa trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của Luật Quốc tế như nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền
giữa các quốc gia, nguyên tắc không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ
lực lượng quan hệ quốc tế... và đặc biệt là nguyên tắc hòa bình giải
quyết tranh chấp quốc tế. Ngoài ra, điểm đặc thù của cơ chế này là ý
chí của các bên tranh chấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Luật
Quốc tế không có các quy định cứng nhắc, mang tính áp đặt về biện
pháp giải quyết tranh chấp buộc các chủ thể phải áp dụng. Việc áp
dụng một biện pháp giải quyết tranh chấp nào đó hoàn toàn do các
bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn với điều kiện biện pháp đó phải
là những biện pháp hòa bình.
 Luật áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế, bao gồm
cả luật nội dung và luật hình thức, là các nguyên tắc và quy phạm
của Luật Quốc tế. Pháp luật quốc gia không được áp dụng để giải
quyết tranh chấp quốc tế ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt (giải
quyết tranh chấp thông qua Trọng tài Quốc tế) và phải có sự thỏa
thuận của các chủ thể về việc áp dụng phát luật quốc gia. Điều này
hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các
quốc gia, bởi lẽ luật điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể trong tranh
chấp quốc tế không thể là pháp luật do quốc gia đơn phương ban
hành mà phải là các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế do
các chủ thể thỏa thuận xây dựng nên.
Theo Khoa học Luật quốc tế, khi đề cập tới thuật ngữ “tranh chấp quốc
tế” cần phải phân biệt với thuật ngữ “tình thế” – tức là khả năng có thể dẫn đến
tranh chấp hoặc gây ra tranh chấp. Theo Hiến chương Liên hợp quốc: “Hội
đồng bảo an có quyền tra mọi vụ tranh chấp hoặc mọi tình thế có thể dẫn đến
sự bất hòa giữa các nước để xác định xem vụ tranh chấp hay tình thế ấy nếu
kéo dài có thể đe dọa nền hòa bình và an ninh quốc tế không”3.
Một tranh chấp quốc tế sẽ phát sinh khi xuất hiện các xung đột giữa các
chủ thể luật quốc tế về lợi ích và quan điểm pháp lý liên quan tới đối tượng
tranh chấp. Tranh chấp sẽ chấm dứt, khi sự xung đột này không còn tồn tại - có
thể đã được đáp ứng hoặc vì lý do khách quan, chủ quan nào đó.
Tình thế quốc tế được hiểu là một tình huống quan hệ quốc tế vào một
thời điểm và địa điểm cụ thể đã xác định, xuất hiện mâu thuẫn lợi ích giữa các
bên hữu quan, vẫn tạo ra sự căng thẳng trong quan hệ quốc tế nhưng không kéo
theo những yêu cầu hay đòi hỏi cụ thể của các bên hữu quan.Ví dụ: tình thế
quốc tế có thể xuất hiện do các vụ đụng độ biên giới, sự tập trung quân đội của
quốc gia này tại đường biên giới của quốc gia khác.
Từ cách hiểu về tranh chấp và tình thế quốc tế kể trên, chúng ta có thể
phân biệt sự khác nhau giữa hai thuật ngữ này,theo đó tình thế quốc tế là khái
niệm rộng hơn tranh chấp. Một tình thế quốc tế cụ thể có khả năng tạo ra các
vấn đề tranh chấp và có thể trở thành tranh chấp,nhưng không phải tất cả các
tình thế quốc tế có thể trở thành tranh chấp trong thực tiễn quan hệ quốc tế. Vì
thế, tình thế quốc tế được hình thành trước khi phát sinh tranh chấp và vẫn có
thể được duy trì kể cả sau khi tranh chấp đã được giải quyết.

3
Điều 34 Hiến chương LHQ
Việc phân biệt tranh chấp và tình thế quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong
thực tiễn hoạt động của Liên hợp quốc, cụ thể khi xem xét và giải quyết các vụ
tranh chấp quốc tế tại Hội đồng bảo an, thì quốc gia tham gia vào vụ tranh chấp
không được quyền biểu quyết. Trong trình tự thủ tục làm việc này đã áp dụng
một trong các nguyên tắc pháp luật chung của luật quốc tế: Nguyên tắc không
ai là quan tòa trong chính các vụ việc của mình. Còn khi xem xét các “tình thế”
quốc tế, các quốc gia có liên quan vẫn đảm bảo có quyền biểu quyết.
Theo tinh thần của điều 34 Hiến chương Liên hợp quốc thì cả “tranh
chấp” và “tình thế” có điểm chung là nếu kéo dài sẽ gây nguy hiểm cho nền hòa
bình và an ninh quốc tế. Cũng theo điều 34 này, cơ quan duy nhất có quyền
“định danh” các tranh chấp và tình thế như vậy thuộc thẩm quyền của Hội đồng
bảo an.
Từ góc độ thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu một vấn đề, chúng ta có thể
hiểu khái quát về tranh chấp quốc tế như sau:
Tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế trong đó các chủ thể của Luật
Quốc tế có sự khác nhau về quan điểm và sự xung đột, mâu thuẫn về lợi ích,
đòi hỏi phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình và dựa trên các nguyên
tắc, quy phạm của Luật Quốc tế nhằm ổn định các quan hệ quốc tế và duy trì
hòa bình, an ninh quốc tế.
1.2. Phân loại tranh chấp quốc tế
Trong quan hệ quốc tế, khi tranh chấp quốc tế xảy ra, trên cơ sở quy định
của luật quốc tế, cần xác định rõ tranh chấp quốc tế đó là gì, để phân biệt với
các loại tranh chấp quốc tế khác phát sinh trong đời sống dân sự quốc tế, như
tranh chấp phát sinh giữa các thể nhân và pháp nhân có quốc tịch khác nhau,
thuộc quan hệ của tư pháp quốc tế. Việc xác định rõ tranh chấp quốc tế, tạo
điều kiện sử dụng đúng và chính xác công cụ pháp lý điều chỉnh. Khi nhận diện
được tranh chấp thuộc công pháp quốc tế, chúng ta cần phân loại, việc phân
loại này sẽ cụ thể hóa các loại hình tranh chấp, để từ đó lựa chọn các biện pháp
hòa bình nào giải quyết đem lại hiệu quả cao nhất.
Trong khoa học luật quốc tế, việc phân loại tranh chấp quốc tế được thực
hiện dựa trên những tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia tranh chấp có tranh chấp song
phương và tranh chấp đa phương. Tranh chấp song phương là tranh chấp chỉ có
hai chủ thể luật quốc tế tham gia trực tiếp vào vụ tranh chấp đó, ví du: Ấn độ và
Pakixtan là các bên tham gia vào vụ tranh chấp vùng đất Casômia đã kéo dài
trên nửa thế kỉ nay. Tranh chấp đa phương là loại hình tranh chấp mà trong đó
có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể luật quốc tế trở lên, ví dụ vụ tranh chấp về
quần đảo Trường Sa trong khu vực biển Đông giữa các nước ở khu vực địa lý
này. Trong tranh chấp đa phương lại có tranh chấp đa phương khu vực chỉ liên
quan đến một khu vực địa lý xác định, như ví dụ về tranh chấp đa phương khu
vực biển Đông nêu trên, bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philipin, Malaysia,
Brunei, loại tranh chấp đa phương khu vực thường không gây tác động và ảnh
hưởng tiêu cực cho các quốc gia ở khu vực địa lý khác. Còn tranh chấp đa
phương toàn cầu là loại tranh chấp có phạm vi bao trùm toàn bộ hoặc số lớn các
quốc gia trên thế giới, đây là loại hình tranh chấp quốc tế có tác động và ảnh
hưởng nghiêm trọng, gây hậu quả tiêu cực cho cộng đồng quốc tế.Ví dụ tranh
chấp giữa các nước đang phát triển và phát triển trong khuôn khổ hoạt động của
WTO về vấn đề giá nông sản và thực phẩm. Đây là tranh chấp vẫn đang tồn tại
và WTO chưa có thể giải quyết một cách thỏa đáng.
- Căn cứ vào mức độ nguy hại của tranh chấp quốc tế có tranh chấp quốc tế
nghiêm trọng và tranh chấp quốc tế thông thường.Tranh chấp quốc tế nghiêm
trọng là loại tranh chấp có nguy cơ phá hoại hòa bình và an ninh quốc tế. Ví dụ:
tranh chấp giữa Ixrael với các nước Ảrập về các vùng lãnh thổ mà Ixrael chiếm
đóng.Tranh chấp quốc tế thông thường là tranh chấp không dẫn đến nguy cơ đe
dọa hòa bình và an ninh quốc tế.
- Căn cứ vào tính chất của vụ tranh chấp, tranh chấp được phân loại thành
tranh chấp có tính chất chính trị và tranh chấp có tính chất pháp lý. Tranh chấp
có tính chất chính trị, như tranh chấp về lãnh thổ, biên giới, về chủ quyền đối
với dân cư, về lợi ích giữa các bên tranh chấp có tính chất chính trị thường liên
quan đến đòi hỏi trái ngược nhau phải thay đổi các quy định hiện hành gắn liền
với lợi ích của hai bên. Đây là loại tranh chấp nguy hiểm nhất, nguy cơ dẫn đến
xung đột vũ trang, đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế rất cao. Tranh chấp mang
tính pháp lý là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế về việc giải
thích điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, về sự vi phạm cam kết quốc tế cũng
như bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết, về thẩm quyền bảo hộ công dân…
- Căn cứ vào nội dung vụ tranh chấp có tranh chấp về thương mại, môi
trường, tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế, tranh chấp
lãnh thổ và biên giới quốc gia…
- Căn cứ vào quyền năng chủ thể luật quốc tế của các bên tranh chấp, có
tranh chấp giữa các quốc gia, giữa các tổ chức quốc tế liên chính phủ hoặc các
chủ thể khác của luật quốc tế.
Việc phân loại tranh chấp cũng chỉ có tính chất tương đối, bởi lẽ trên thực
tế có nhiều trường hợp một tranh chấp phát sinh vừa có tính chất pháp lý vừa
có tính chất chính trị hoặc tranh chấp phát sinh là tranh chấp vừa có nội dung
về kinh tế thương mại, vừa có nội dung về bảo hộ công dân.... Luật quốc tế
không qui định cụ thể về cách thức, nguyên tắc phân loại các tranh chấp quốc
tế, chính vì vậy trong thực tiễn và lý luận, các chủ thể luật quốc tế còn sử dụng
các tiêu chí khác như căn cứ vào thời gian tồn tại tranh chấp quốc tế; quá trình
diễn biến phức tạp hay đơn giản của vụ tranh chấp, hay dựa vào quy định của
hiến chương liên hợp quốc có thể phân loại tranh chấp thành tranh chấp định
danh và tranh chấp thông thường
1.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế (lưu ý)
Luật quốc tế là một hệ thống pháp luật có những đặc trưng khác biệt về
chủ thể, đối tượng điều chỉnh, quá trình lập pháp và cơ chế cưỡng chế so với
luật quốc gia. Các đặc trưng này đã tác động và ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình
xây dựng và thực hiện luật quốc tế, theo đó tác động đến chế định giải quyết
tranh chấp quốc tế nói chung, cũng như thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc
tế nói riêng. Vì vậy, xuất phát từ bản chất pháp lý của luật quốc tế là sự thỏa
thuận, vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế cũng có những điểm
khác biệt so với thẩm quyền giải quyết của luật quốc gia. Dựa trên cơ sở thực
tiễn và lý luận đã được tổng kết của khoa học luật quốc tế, thì thẩm quyền giải
quyết tranh chấp quốc tế thuộc về các chủ thể pháp lý sau đây:
- Các chủ thể là các bên trong tranh chấp.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các bên tranh chấp thường trực tiếp
đứng ra giải quyết tranh chấp quốc tế phát sinh giữa họ và thường đạt kết quả
cao, nhất là đối với các tranh chấp song phương. Trong trường hợp nếu các bên
hữu quan không yêu cầu, không xác định chủ thể khác đứng ra giải quyết thì
không một tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế nào, hay tồ chức quốc tế bất kì có
thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp đó.
- Các cơ quan tài phán quốc tế
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp còn được các bên liên quan trao cho
các cơ quan tài phán quốc tế.
Theo khoa học luật quốc tế, cơ quan tài phán quốc tế là những cơ quan
hình thành trên cơ sở thỏa thuận hoặc thừa nhận của các chủ thể Luật quốc tế
nhằm thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự, thủ tục tư pháp các tranh
chấp nảy sinh giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau.Cơ quan tài phán quốc tế
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp bao gồm tòa án quốc tế và trọng tài quốc
tế:
+ Tòa án quốc tế
Tòa án quốc tế là thuật ngữ pháp lý quốc tế chung để chỉ cơ quan xét xử
và giải quyết các loại hình tranh chấp quốc tế thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật quốc tế (Công pháp quốc tế). Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có nhiều
loại tòa án quốc tế khác nhau, có tòa án quốc tế là một trong các cơ quan chính
của tổ chức quốc tế liên chính phủ như tòa án công lý quốc tế của Liên hợp
quốc đóng trụ sở tại Lahaye (Hà Lan), hay tòa án của Liên minh châu Âu có trụ
sở tại Brucxen (Bỉ). Đồng thời còn xuất hiện các tòa án quốc tế được thành lập
và hoạt động dựa trên cơ sở các quốc gia kí kết một điều ước quốc tế hữu quan,
ví dụ Tòa án luật biển quốc tế được hình thành theo các qui định có liên quan
của Công ước Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 4. Về nguyên tắc, các tòa án
quốc tế khác nhau sẽ có cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, chức năng và phạm vi giải
quyết tranh chấp quốc tế không giống nhau, các vấn đề pháp lý này đều được
qui định trong các bản Qui chế của chính tòa án quốc tế đó.
+Trọng tài quốc tế:
Trọng tài quốc tế là cơ quan tài phán quốc tế có mục đích giải quyết tranh
chấp giữa các chủ thể luật quốc tế bởi các quan tòa do các bên tham gia tranh
chấp lựa chọn dựa trên cơ sở tôn trọng luật quốc tế. Tuân thủ cơ chế giải quyết
theo con đường trọng tài phải dựa trên sự đồng ý chấp thuận của các bên tranh
chấp. Sự đồng ý này có thể được thể hiện sau đó (expost) khi tranh chấp đã xảy
ra hoặc có thể thỏa thuận từ trước tức là các bên thỏa thuận ghi nhận trong các
điều ước quốc tế cụ thể chuyên biệt hoặc các điều khoản chuyên biệt trong điều
ước quốc tế hợp tác giữa họ với nhau, được gọi là điều khoản trọng tài. Nội
dung của các điều ước quốc tế chuyên biệt thường được các bên xác định đối
tượng tranh chấp, nguyên tắc và thủ tục xét xử, cơ cấu của tòa trọng tài, trách
nhiệm của các bên trong việc thông qua và thực hiện các phán quyết của trọng
tài.Cần phân biệt trọng tài quốc tế đang được đề cập ở đây với trọng tài thương

4
Xem phụ lục VI công ước 1982 về quy chế của tòa án quốc tế luật biển
mại quốc tế, như Trọng tài thương mại quốc tế Xingapo, Tôkiô, Paris… là cơ
quan giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia vào quan
hệ thương mại quốc tế. Về nguyên tác, chủ thể của tranh chấp thương mại quốc
tế là các thể nhân, pháp nhân là chủ yếu, ngoại lệ có thể là quốc gia - chủ thể
đặc biệt trong tranh chấp thương mại quốc tế
- Các cơ quan của tồ chức quốc tế liên chính phủ.
Trong cơ cấu tổ chức của các tổ chức quốc tế liên chính phủ toàn cầu,
cũng như khu vực, ngoài những cơ quan chuyên môn có chức năng giải quyết
tranh chấp quốc tế, như Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc, tòa án của
Liên minh châu Âu hay cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) của WTO… còn
có các cơ quan chức năng khác, mặc dù có thẩm quyền chủ yếu trong các lĩnh
vực hoạt động khác của tổ chức quốc tế, nhưng trong quá trình hoạt động của
mình vẫn có các hoạt động liên quan đến giải quyết tranh chấp quốc tế. Ví dụ:
Hội đồng bảo an của Liên hợp quốc ngoài chức năng chủ yếu là duy trì hòa
bình và ninh quốc tế vẫn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quốc tế nếu
tranh chấp đó có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế; hoặc hội nghị bộ
trưởng kinh tế ASEAN (AEM), hội nghị kinh tế cấp cao (SEOM) trong tổ chức
quốc tế ASEAN cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế.
1.4. Nguồn luật của chế định giải quyết tranh chấp quốc tế
Giải quyết tranh chấp quốc tế là một định chế trong hệ thống luật quốc tế,
vì thế nguồn luật của nó được xác định không có gì khác so với nguồn của luật
quốc tế nói chung. Trước hết, nguồn quan trọng nhất là điều ước quốc tế liên
quan tới giải quyết tranh chấp quốc tế, trong đó cần phải kể đến các điều ước
quốc tế sau đây:
- Công ước về giải quyết hòa bình các xung đột quốc tế được thông qua tại
hội nghị La hay lần thứ nhất vào năm 1899 và được bổ sung vào năm 1907 tại
Hội nghị Lahay lần thứ hai. Đây là công ước quốc tế đa phương toàn cầu đầu
tiên về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.
- Tuyên bố chung về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế được Hội
quốc liên thông qua ngày 26 tháng 9 năm 1928, sau đó được Liên hợp quốc
chấp nhận bằng một nghị quyết của Đại hội đồng ngày 28 tháng 4 năm 1949
(có bổ sung và chỉnh lý).
- Hiến chương Liên hợp quốc có vai trò đặc biệt trong việc giải quyết tranh
chấp quốc tế, đã ghi nhận nhiều điều khoản quan trọng liên quan tới việc giải
quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế5. Nhằm mục đích phát triển mở rộng các
điều khoản này, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua một số các nghị
quyết và tuyên bố về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, trong đó có
Tuyên bố Manila năm 1982 về vấn đề này.
- Trong số các điều ước quốc tế khu vực về giải quyết hòa bình các tranh
chấp quốc tế, cần phải kể đến Hiệp ước Liên Mĩ về giải quyết hòa bình các
tranh chấp năm 1948 (còn được gọi tên là Hiến chương Bôgôta); Công ước
châu Âu về giải quyết hòa bình các tranh chấp được Hội đồng châu Âu thông
qua vào năm 1957, Công ước về hòa giải và trọng tài trong khuôn khổ tổ chức
an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE) năm 1992. Ngoài ra cũng cần ghi nhận
Hiến chương của các tồ chức quốc tế khu vực như: liên đoàn các nước Ảrập,
Liên minh châu Phi, Tổ chức các nước châu Mĩ; và gần đây nhất là Hiến
chương của tổ chức quốc tế ASEAN6 cũng chứa đựng các điều khoản qui định
việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.
- Các điều ước quốc tế đa phương toàn cầu điều chỉnh sự hợp tác quốc tế
giữa các chủ thể luật quốc tế trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, cũng
chứa đựng các điều khoản giải quyết tranh chấp quốc tế, xây dựng nên các cơ
chế giải quyết khác nhau. Ví dụ: Công ước về trách nhiệm quốc tế đối với thiệt
hại phát sinh do phương tiện vũ trụ gây ra năm 1972, công ước luật biển
19827và nhiều điều ước quốc tế khác, bao gồm cả các điều ước quốc tế song
phương.
Ngoài ra, trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các quốc gia đôi khi còn thỏa
thuận kí kết các điều ước quốc tế song phương chuyên môn dành riêng cho việc
giải quyết tranh chấp quốc tế phát sinh giữa họ, ví dụ Hiệp định trọng tài – hòa
giải.
1.5. Vai trò của Luật quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế
(quan trọng)
Vai trò và giá trị to lớn của Luật quốc tế nói chung đã được đề cập ở
chương I. Ngoài những vai trò và giá trị chung này, Luật quốc tế cũng có vai
trò quan trọng và cần thiết trong giải quyết tranh chấp quốc tế, được thể hiện ở
những vấn đề sau đây:

5
Xem chương VI của hiến chương LHQ từ điều 33 đến điều 38
6
Xem hiến chương ASEAN 2007 có hiệu lực ngày 15/12/2008, quy định chương VIII từ điều 22 đến điều 28
7
Xem phụ lục V, VI, VII, VIII công ước về luậtbiển 1982, quy định về cách thức giải quyết tranh chấp bằng tòa
án quốc tế và trọng tài quốc tế về luật biển
- Luật quốc tế là công cụ xác định nghĩa vụ pháp lý quốc tế giải quyết hòa
bình các tranh chấp quốc tế cho các chủ thể. Nghĩa vụ pháp lý quốc tế này,
được xác định trong hai nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là: nguyên tắc giải
quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế và nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa
dùng vũ lực. Các chủ thể Luật quốc tế phải triệt để tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản của Luật quốc tế đặc biệt hai nguyên tắc cơ bản nêu trên sẽ hạn chế đáng kể
các tranh chấp quốc tế phát sinh và đảm bảo giải quyết nhanh chóng, có hiệu
quả các tranh chấp quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển
hợp tác quốc tế.
- Luật quốc tế đảm bảo quyền tự do của các bên tranh chấp lựa chọn
những biện pháp hòa bình thích hợp để giải quyết tranh chấp quốc tế. Xuất
phát từ sự tôn trọng chủ quyền quốc gia, Luật quốc tế đã thừa nhận quyền tự do
của các quốc gia cũng như các chủ thể khác trong việc lựa chọn các biện pháp
hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế giữa họ, miễn sao việc lựa chọn được
các bên coi là thích hợp và có hiệu quả.
- Luật quốc tế đã xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế. Hệ thống các biện pháp hòa bình này được thể hiện trong
Hiến chương Liên hợp quốc, vì vậy các thành viên liên hợp quốc với tư cách là
các bên tham gia tranh chấp cần thỏa thuận lựa chọn để giải quyết. Các biện
pháp hòa bình bao gồm: đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa
án, các cơ quan của tổ chức quốc tế hay các hiệp định khu vực hoặc bằng các
biện pháp hòa bình khác do các bên lựa chọn.
1.6. Ý nghĩa của giải quyết tranh chấp quốc tế (quan trọng)
Tranh chấp phát sinh trong đời sống giữa các chủ thể quốc tế là điều
không thể tránh khỏi. Pháp luật quốc tế không thể loại trừ hoàn toàn tình trạng
này ra khỏi quan hệ quốc tế, mà chỉ ngăn chặn, hạn chế thấp nhất các tranh
chấp phát sinh. Bên cạnh đó, pháp luật quốc tế góp phần giải quyết tích cực và
có hiệu quả các tranh chấp đang tồn tại.
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, có thể
khẳng định việc giải quyết tranh chấp quốc tế có hiệu quả, sẽ đem lại những ý
nghĩa to lớn sau đây:
- Giải quyết tranh chấp quốc tế góp phần bảo về quyền và lợi ích hợp pháp
cho các bên tranh chấp, nhất là những tranh chấp mà một bên ở vị thế yếu hơn.
Qua đó bảo đảm sự ổn định trật tự pháp lý quốc tế và trật tự quan hệ hợp tác
quốc tế
- Giải quyết tranh chấp quốc tế sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc thực
thi và tuân thủ luật quốc tế. Thông thường các vụ tranh chấp phát sinh chủ yếu
từ các hành vi vi phạm luật quốc tế, trong đó hành vi sử dụng vũ lực và đe dọa
sử dụng vũ lực là nguy hiểm nhất. Với việc giải quyết hòa bình các tranh chấp
quốc tế đã đảm bảo cho các bên hữu quan có hành vi xử sự phù hợp theo luật
định, chấm dứt hành vi xâm phạm. Qua đó góp phần khôi phục quan hệ hợp tác
quốc tế, cao hơn là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế trong trường hợp các
tranh chấp kéo dài, có khả năng đe dọa hòa bình- an ninh quốc tế.
- Việc giải quyết tốt đẹp các tranh chấp quốc tế sẽ góp phần nâng cấp chất
lượng các qui phạm hiện hành của luật quốc tế và xây dựng nên các qui phạm
mới của Luật quốc tế theo quan điểm dân chủ và tiến bộ, phù hợp với xu thế
chung của nhân loại. Ví dụ: Trong vụ tranh chấp giữa Anh – Nauy về ngư
trường ở Biển Bắc. Tòa án công lý quốc tế đã xem xét và giải quyết vụ kiện
này. Trong phán quyết của mình, Tòa án công lý quốc tế đã khẳng định phương
pháp đường cơ sở thẳng mà Nauy sử dụng không có gì trái với Luật quốc tế.
Hiểu theo nghĩa này, phương pháp đường cơ sở thẳng của Nauy hoàn toàn được
chấp nhận dưới góc độ luật quốc tế. Cùng với thời gian và dựa trên phán quyết
này, nhiều quốc gia đã sử dụng phương pháp đường cơ sở thẳng của Nauy để
xác định vùng biển của mình. Từ thực tiển quốc tế đó, sau này phương pháp
đường cơ sở thẳng đã được ghi nhận trong luật biển quốc tế, trở thành qui phạm
mới dân chủ và tiến bộ, đảm bảo sự bình đẳng trong luật quốc tế của ngành luật
biển – một trong các ngành luật truyền thống của luật quốc tế.
1.7. Các đảm bảo ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế
Trong thực tiễn đời sống quốc tế, hiện tượng tranh chấp quốc tế là đương
nhiên, không thể tránh khỏi. Điều cần làm của cộng đồng quốc tế là ngăn chặn
tối đa sự phát sinh các tranh chấp quốc tế trong quan hệ quốc tế, đồng thời giải
quyết có hiệu quả các tranh chấp đã xuất hiện, qua đó đảm bảo sự ổn định của
trật tự xã hội quốc tế. Với mục đích đó, cộng đồng quốc tế nói chung và các
chủ thể tranh chấp nói riêng cần tuân thủ những điều kiện sau đây:
- Thực thi, tuân thủ nghiêm chỉnh có thiện chí các nguyên tắc và qui phạm
luật quốc tế.
- Kí kết các điều ước quốc tế chuyên môn hoặc điều khoản đặc biệt về giải
quyết tranh chấp quốc tế:.
Từ góc độ nghiên cứu, các điều ước quốc tế hay các điều khoản về vấn đề
này thường qui định các vấn đề cơ bản quan trọng sau đây:
+ Thành lập cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và quy định các
biện pháp giải quyết cụ thể, ví dụ: điều 11, mục 3 phụ lục V Công ước Luật
biển 1982 chứa đựng nội dung này8.
+ Cam kết chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án công lý
quốc tế của Liên hợp quốc. Qui định này được ghi nhận trong một loạt các điều
ước quốc tế khác nhau.
+ Xác lập nghĩa vụ phải sử dụng một số các biện pháp giải quyết hòa bình
cụ thể. Ví dụ: khoản 3 điều 24 Hiến chương ASEAN9
- Tự nguyện thực hiện các phán quyết giải quyết tranh chấp:
Giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ có ý nghĩa và giá trị đích thực, nếu các
quyết định giải quyết tranh chấp được các bên tự nguyện thực thi và tuân thủ
theo đúng tình thần của nguyên tắc Pacta Sunt Servanda của luật quốc tế. Luật
quốc tế không có bộ máy cưỡng chế tập trung, thường trực (như quân đội, cảnh
sát, tòa án, đội thi hành án…) , vì vậy để các quyết định của các cơ quan tài
phán quốc tế đã tuyên được thi hành thì đòi hỏi thiện chí rất lớn của bên thua
kiện. Các điều ước quốc tế thường quy định lộ trình thực hiện các phán quyết
trước hết dựa vào ý thức tự nguyện của bên thua kiện. Trong trường hợp sự tự
nguyện không được thực hiện thì Luật quốc tế cho phép bên thắng kiện hoặc cơ
quan quốc tế có thẩm quyền (do các nước thành viên thỏa thuận ấn định) sử
dụng các biện pháp chế tài phù hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên kia. Ví dụ: Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh
chấp năm 2004 quy định, SEOM sẽ giám sát việc thực hiện các kết luận và
khuyến nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm đã được
SEOM thông qua10. Nếu hết thời hạn đền bù sau sáu mươi ngày hay thời hạn
được các bên tranh chấp nhất trí, bên thắng kiện có thể đề nghị SEOM cho
8
Điều 11 mục 3, phụ lục V Công ước Luật biển 1982: 1. Theo đúng Mục 3 của phần XV bất kỳ bên nào trong
một vụ tranh chấp có thể đưa ra hòa giải theo thủ tục đã trù định ở mục này, có thể bắt đầu thủ tục bằng một bản
thông báo gửi cho bên kia trong vụ tranh chấp
2. Bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, khi đã nhận được
thông báo đã được trù định ở khoản 1, thì bắt buộc phải chấp nhận thủ tục hòa giải
9
Khoản 3 điều 24 Hiến chương ASEAN: nếu không có quy định cụ thể khác, các tranh chấp liên quan đến việc
giải thích hoặc áp dụng các hiệp định kinh tế ASEAN sẽ được giải quyết theo nghị định thư ASEAN về tăng
cường cơ chế giải quyết tranh chấp.
10
Khoản 6 điều 15
phép tạm ngưng những ưu đãi hoặc nghĩa vụ khác đối với nước thua kiện 11.
Hoặc Hiến chương Liên hợp quốc quy định: mỗi thành viên Liên hợp quốc phải
cam kết tuân thủ các phán quyết của Tòa án công lý quốc tế vể vụ tranh chấp
mà họ tham gia. Trong trường hợp không tự nguyện thực thi các phán quyết
này, theo yêu cầu của bên kia Hội đồng bảo an Liên hợp quốc có quyền kiến
nghị hoặc quyết định sử dụng những biện pháp cần thiết để đảm bảo phán quyết
được chấp hành12.
2. Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. (quan trọng)
2.1. Khái niệm và phân loại các biện pháp hòa bình.
Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là một trong bảy nguyên tắc cơ
bản của Luật quốc tế hiện đại. Nội dung của nguyên tắc này đã được nghiên
cứu ở chương 1. Theo đó, khi phát sinh tranh chấp, các quốc gia không được sử
dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực mà phải dùng các biện pháp hòa bình để
giải quyết tranh chấp. Đây là nghĩa vụ pháp lý quốc tế bắt buộc của các quốc
gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Căn cứ vào Điều 33 của Hiến chương
Liên hợp quốc và nội dung cơ bản của nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh
chấp quốc tế có thể định nghĩa các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp
quốc tế như sau:
Các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là các phương
tiện,cách thức,thủ tục mà các chủ thể của pháp luật quốc tế có nghĩa vụ phải
dùng để giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên cơ sở nguyên tắc hòa bình
giải quyết tranh chấp quốc tế để duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, phát triển
quan hệ hòa bình, hợp tác giữa các nước 13
Tương tự như mục đích phân loại tranh chấp quốc tế, các biện pháp hòa
bình giải quyết tranh chấp quốc tế cũng dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau:
Căn cứ vào giá trị pháp lý của các quyết định giải quyết tranh chấp, các
biện pháp hòa bình được phân loại thành: Các biện pháp đưa ra phán quyết có
hiệu lực bắt buộc đối với các bên hữu quan như tòa án quốc tế và trọng tài quốc
tế và các biện pháp không đưa đến việc giải quyết tranh chấp có hiệu lực ràng
buộc đối với các bên hữu quan như: điều tra, trung gian, hòa giải
Căn cứ vào mức độ quan hệ để giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các
bên, có biện pháp giải quyết trực tiếp như đàm phán và biện pháp giải quyết
11
Khoản 2 điều 16
12
Điều 94 Hiến chương Liên hợp quốc
13
Giáo trình Luật quốc tế trường ĐH Luật Hà Nội 1994)
gián tiếp, tức thông qua sự trợ giúp của bên thứ ba, ví dụ: điều tra, trung gian,
hòa giải, trọng tài, tòa án.
Căn cứ và thẩm quyền giải quyết tranh chấp, các biện pháp hòa bình chia
thành ba nhóm:
+ Nhóm 1: Các biện pháp mang tính ngoại giao, gồm: đàm phán, trung
gian, điều tra và hòa giải. Biện pháp đàm phán chỉ liên quan đến các bên tham
gia tranh chấp. Các biện pháp ngoại giao còn lại có sự tham gia (ở mức độ khác
nhau) của bên thứ ba vào quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế, nhưng có đặc
điểm chung là bên thứ ba không có quyền đưa ra quyết định giải quyết có hiệu
lực đối với các bên tranh chấp.
+ Nhóm 2: Là các biện pháp tư pháp giải quyết tranh chấp quốc tế, gồm:
trọng tài quốc tế và tòa án quốc tế. Các biện pháp này cũng có sự tham gia của
bên thứ ba, nhưng khác với bên thứ ba ở nhóm 1, bên thứ ba ở nhóm này, có
quyền đưa ra các quyết định có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp phải chấp
hành nghiêm chỉnh.
+ Nhóm 3: Các biện pháp được quy định về trình tự giải quyết tranh chấp
trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế hoặc thỏa thuận khu vực. Ví dụ: Công ước
Châu Âu năm 1957 về giải quyết hòa bình các tranh chấp; nghị định thư
ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004…
2.2. Các biện pháp hòa bình cụ thể
2.2.1. Đàm phán (lưu ý)
Đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế là sự tiếp xúc trực tiếp giữa các
chủ thể luật quốc tế phát sinh tranh chấp để tìm ra cách thức giải quyết tranh
chấp đó một cách hiệu quả, trong khuôn khổ các thông lệ được thừa nhận. Mặt
khác, đàm phán không chỉ là biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế mà đàm
phán còn thường được tiến hành nhằm mục đích trao đổi quan điểm, ý kiến
giữa các quốc gia về các vấn đề không nhất thiết có tính tranh chấp, như trao
đổi thông tin, thỏa thuận chính sách hay kí điều ước quốc tế. Ví dụ: ngày 7
tháng 7 năm 2009 Tổng thống Nga Dmity Medvedev và tổng thống Mĩ Obama
đã kí một thỏa thuận về “nhận thức chung” sau thời gian căng thẳng giữa hai
nước về “chạy đua vũ trang”.
Theo qui định tại điều 33 khoản 1 Hiến chương Liên hợp quốc, đàm phán
được xếp ở vị trí đầu tiên trong số các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh
chấp quốc tế. Vì vậy, cũng cần phân biệt giữa đàm phán giải quyết tranh chấp
quốc tế được ghi nhận tại điều 33 khỏan 1 với đàm phán để kí kết điều ước
quốc tế. Sự khác biệt giữa hai khái niệm này là về mục đích, tính chất, giá trị
pháp lý.
Đàm phán là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp có từ lâu
trong quan hệ quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, đây cũng là biện pháp cơ bản,
hữu hiệu và thông dụng nhất để giải quyết tranh chấp quốc tế. So với các biện
pháp giải quyết tranh chấp khác, đàm phán trực tiếp có nhiều ưu điểm:
- Thông qua đàm phán, các bên tranh chấp có cơ hội trực tiếp trình bày quan
điểm của mình và xem xét ý chí, quan điểm của bên đối thoại, qua đó tăng
cường sự hiểu biết nhau hơn, xây dựng lòng tin, giảm bớt những nghi kị,
tránh được những căng thẳng, bất đồng có nguy cơ phát triển thành những
xung đột dẫn đến sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.
- Loại bỏ khả năng tham gia của bên thứ ba vào vụ tranh chấp.
- Đàm phán còn giúp các bên chủ động và tiết kiệm thời gian, giảm tối đa
chi phí tốn kém.
- Đàm phán không chỉ giải quyết được tranh chấp mà còn góp phần củng cố
và thúc đẩy quan hệ giữa các bên hữu quan.
- Các thế lực bên ngoài khó có thể gây áp lực và can thiệp vào quá trình giải
quyết tranh chấp...
Có thể nói đàm phán trực tiếp là biện pháp linh hoạt và có hiệu quả hơn
cả để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Trong hầu hết các điều ước quốc tế,
song phương cũng như đa phương, khi đề cập tới các biện pháp hòa bình giải
quyết tranh chấp quốc tế thì biện pháp đàm phán trực tiếp thường được đặt lên
hàng đầu. Khoản 1 Điều 22, Hiến chương của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) quy định: “Các quốc gia thành viên sẽ nỗ lực giải quyết một
cách hòa bình và kịp thời tất cả các tranh chấp thông qua đối thoại, tham vấn
và thương lượng”.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, biện pháp đàm phán trực tiếp cũng có một
số hạn chế như: vì không có sự tham gia của một bên trung lập, do đó khó có
thể dung hòa lợi ích các bên khi tranh chấp ngày càng gạy gắt; các bên liên
quan có thể đặt ra một số điều kiện nhất định trước khi ngồi vào đàm phán và
điều này có thể làm chậm trễ quá trình giải quyết tranh chấp... Chính vì vậy,
trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các chủ thể Luật Quốc tế có thể áp dụng kết
hợp biện pháp đàm phán với một hoặc một số biện pháp hòa bình khác để giải
quyết tranh chấp. Khi đó, đàm phán có thể là bước đầu tiên trong quá trình giải
quyết tranh chấp (trong đàm phán các bên có thể thỏa thuận áp dụng biện pháp
hòa bình khác để giải quyết tranh chấp như môi giới, trung gian, hòa giải...) và
đôi khi đàm phán cũng có thể là kết quả của việc áp dụng các biện pháp hòa
bình khác. Ví dụ: Năm 1974, giữa Anh và Ailen phát sinh tranh chấp về đánh
bắt cá. Tranh chấp được hai bên đưa ra trước Tòa án Công lý quốc tế của Liên
hợp quốc. Trong phán quyết của minh, Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp
quốc đã yêu cầu các bên phải đàm phán để giải quyết hợp tình họp lý tranh
chấp bất đồng.
Kết quả của quá trình đàm phán có thể là sự thỏa thuận nhất trí giữa các bên
để giải quyết dứt điểm tranh chấp. Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ quốc tế
cũng có khi kết thúc đàm phán nhưng các bên không đạt được bất kỳ thỏa thuận
nào. Khi đó các bên có trách nhiệm phải kiềm chế không tiến hành những hành
động làm phức tạp thêm tranh chấp hoặc gây ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh
quốc tế; đồng thời thiện chí và nỗ lực áp dụng các biện pháp hòa bình khác để
giải quyết tranh chấp.

2.2.2. Trung gian và hòa giải


Đây là những biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế có sự
tham gia của bên thứ ba. Trong thực tiễn quan hệ giải quyết tranh chấp, Bên thứ
ba có thể là một quốc gia, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, hay các cá nhân
có uy tín quốc tế, hoặc cơ quan quốc tế được thành lập. Thông thường bên thứ
ba là bên khách quan trong vụ tranh chấp và có quan hệ hữu nghị với cả hai bên
tranh chấp, được các bên tranh chấp yêu cầu. Ngoài ra, bên thứ ba có thể tự
mình đưa ra yêu cầu đóng vai trò trung gian, hòa giải.
Cơ sở pháp lý của biện pháp trung gian và hòa giải được ghi nhận trong
nhiều điều ước quốc tế như: Công ước Lahay 1907, Khoản 1 Điều 33 của Hiến
chương Liên hợp quốc, Công ước về Luật biển1982.
Biện pháp trung gian,bên thứ ba tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham
gia tranh chấp xúc tiến các hoạt động đàm phán, đưa ra các lời khuyên hoặc chỉ
dẫn cho các bên trong vụ tranh chấp, nhằm mục đích giúp đỡ các bên đạt được
thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Như vậy, trong vai trò trung gian, bên thứ ba
có nhiệm vụ làm dịu sự căng thẳng cũng như trung hòa các đòi hỏi, mâu thuẫn
nhau giữa các bên tranh chấp.
Trong thời gian gần đây, xu hướng sử dụng biện pháp trung gian không
còn theo qui định truyền thống của công ước Lahay 1907, bên thứ ba đóng vai
trò trung gian không chỉ là các quốc gia mà có thể là các cá nhân nổi tiếng trên
thế giới. Ví dụ: vai trò trung gian của Tổng thư kí Liên hợp quốc U Than trong
vấn đề tên lửa Liên Xô (cũ) ở Cuba, kết quả là Liên Xô chấp nhân rút tên lửa ra
khỏi Cuba và Mĩ cam kết rút tên lửa của Mĩ ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ, hay: trong
cuộc xung đột vũ trang giữa Nga – Gzuzia đầu tháng 8 năm 2008, tổng thống
Pháp Nicolas Senkozy với tư cách là chủ tịch luân phiên của liên minh châu Âu
đã đóng vai trò trung gian, tạo điều kiện cho tổng thống Nga Dmity Medvedev
và tổng thống Gzuzia Mikhail Saakassvili gặp gỡ và đạt được sự nhất trí về
“một kế hoạch hòa bình”. Bên cạnh đó, vai trò trung gian có thể được các tổ
chức quốc tế và cơ quan quốc tế đảm nhiệm trong quá trình giải quyết tranh
chấp. Hiệu quả hoạt động của các chủ thể pháp lý này đã được đánh giá cao
trong dư luận quốc tế.
Khi nghiên cứu về biện pháp trung gian, cần liên hệ với biện pháp môi
giới. Biện pháp môi giới không được đề cập trong ĐIều 33 Hiến chương Liên
hợp quốc, nhưng theo khoa học Luật quốc tế, môi giới là biện pháp giải quyết
hòa bình tranh chấp quốc tế, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba. Nhiệm vụ
của bên môi giới là dàn xếp, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp gặp
nhau, đàm phán trực tiếp. Khi các bên tiến tới đàm phán trực tiếp với nhau thì
vai trò của bên môi giới sẽ chấm dứt.
Nguyên tắc, cách thức, vai trò của trung gian và môi giới về cơ bản là
giống nhau. Sự khác nhau chủ yếu giữa hai biện pháp này là mức độ tham gia
vào quá trình đàm phán của các bên tranh chấp. Trung gian tham gia sâu hơn
vào quá trình giải quyết tranh chấp, như cùng tham gia đàm phán với các bên
tranh chấp, đưa ra những lời khuyên, chỉ dẫn cho các bên tranh chấp. Mặc dù
vậy, trên thực tế việc phân biệt trung gian và môi giới không phải lúc nào cũng
dễ dàng. Lúc đầu, bên thứ ba có thể tạo điều kiện cho các bên tranh chấp thực
hiện các cuộc đàm phán trực tiếp (xuất hiện biện pháp môi giới), nhưng sau đó
bên thứ ba có thể tham gia vào quá trình đàm phán (đã chuyển sang vai trò của
bên trung gian). Ví dụ: Liên Xô (cũ) đã từng đóng vai trò môi giới làm dịu căng
thẳng giữa Pakixtan và Ấn Độ trong cuộc xung đột vũ trang giữa hai quốc gia.
Khi hai nhà lãnh đạo của hai nước gặp nhau để đàm phán, họ đã đề nghị Liên
Xô (cũ) tiếp tục với vai trò trung gian. Với vai trò trung gian của Liên Xô (cũ)
và sự tích cực giải quyết tranh chấp của Pakixtan và Ấn Độ đã dẫn đến kí kết
Hiệp định Tasken 1966 giải quyết tốt đẹp tranh chấp về biên giới vùng đất
Casomia
Từ góc độ pháp lý quốc tế, các đề nghị, khuyến cáo của cơ quan trung gian
liên quan đến vụ tranh chấp không có giá trị pháp lý ràng buộc. Các đề nghị
khuyến cáo này chỉ có thể là cơ sở cho các cuộc đàm phán và thỏa thuận giữa
các bên tranh chấp
Biện pháp hòa giải: cùng với biện pháp trung gian, các Công ước Lahay
1899 và 1907 còn qui định biện pháp hòa giải, mặc dù hai công ước này không
tách biệt giữa hai biện pháp hòa bình này và coi trung gian, hòa giải là một biện
pháp hòa bình. Song, theo tinh thần của Khoản 1 Điều 33 và thực tiễn giải
quyết tranh chấp quốc tế gần đây có xu hướng tách biệt trung gian, hòa giải là
hai biện pháp độc lập.
Nhiệm vụ của Ủy ban hòa giải là làm sáng tỏ và xác định những yếu tố
tạo nên tranh chấp, có quyền thu nhận thông tin theo con đường điều tra hoặc
bằng các cách thức khác. Khi tiến hành công việc hòa giải, Ủy ban hòa giải có
nhiệm vụ làm trung hòa các bên tham gia tranh chấp, ủy ban hòa giải có quyền
đề đạt những giải pháp, phương thức giải quyết tranh chấp, có quyền dự thảo
nghị quyết và đưa ra kết luận giải quyết tranh chấp. Như vậy, trong hoạt động
hòa giải bao gồm cả hoạt động điều tra và trung gian. Từ góc độ nghiên cứu,
một số học giả luật quốc tế cho rằng biện pháp hòa giải là biện pháp có tính
chất không hoàn toàn là ngoại giao và cũng không hẳn là biện pháp tư pháp
(tòa án).
Cũng như biện pháp trung gian, quyết định và kết luận của Ủy ban hòa
giải chỉ có tính khuyến nghị, không có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp và
chỉ tạo cơ sở thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp. Như vậy, việc từ chối
không làm theo các khuyến nghị của Ủy ban hòa giải không được coi là hành vi
vi phạm pháp luật hay hành vi không thân thiện trong đời sống quốc tế
Ủy ban hòa giải có thể là ủy ban thường trực hoặc ad hoc. Thành phần
của Ủy ban hòa giải gồm số lẻ các thành viên được lựa chọn với tư cách là cá
nhân trong đó có thể bao gồm thành viên là công dân của các bên tranh chấp
hoặc chỉ bao gồm công dân của nước thứ ba do các bên tranh chấp thỏa thuận
lựa chọn
Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, có khá nhiều các Điều ước quốc tế
quy định việc hòa giải như một phương thức mà các nước thành viên có thể sử
dụng mỗi khi có tranh chấp. Ví dụ: Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển
198214, Công ước Vienna 1969 về Luật Điều ước quốc tế15
Sự khác biệt giữa các biện pháp môi giới, trung gian, hòa giải là vai trò
và mức độ tham gia của bên thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp. Với
vai trò môi giới, bên thứ ba cố gắng dàn xếp, thuyết phục các bên tranh chấp
ngồi vào bàn đàm phán hoặc áp dụng biện pháp hòa bình nào đó để giải quyết
tranh chấp. Khi các bên tranh chấp đã ngồi vào bàn đàm phán hoặc đã lựa
chọn được biện pháp giải quyết tranh chấp thì vai trò môi giới sẽ chấm dứt.
Bên môi giới sẽ không cùng tham dự đàm phản với các bên tranh chấp và
cũng không đề xuất các giải pháp để giải quyết tranh chấp. Có thể lấy một số
ví dụ về vai trò của bên thứ ba với tư cách môi giới như vai trò của Tổng
thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt trong chiến tranh Nga - Nhật năm 1904 -
1905; vai trò của Liên Xô trong dàn xếp tranh chấp Casơmia giữa Án độ và
Pakistan năm 1966; hay vai trò của Pháp trong việc khuyến khích Hoa Kỳ và
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngồi vào đàm phán tại Paris năm 1968 - 1973 để
giải quyết vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại miền nam Việt
Nam.
Ví dụ: Năm 1904 - 1905 xảy ra chiến tranh Nga - Nhật. Để dàn xếp mâu
thuẫn này, Tổng thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt đã đứng ra kêu gọi các
bên ngồi vào bàn đàm phán. Quá trình đàm phán Nga - Nhật đã diễn ra tại
Portsmouth, New Hampshire (Hoa Kỳ) và kết thúc bằng việc ký Hiệp ước
Portsmouth năm 1905. Việc ký kết Hiệp ước Portsmouth đã đánh đấu sự kết
thúc của cuộc chiến tranh Nga - Nhật và với những nỗ lực trong vai trò môi
giới của mình, Tổng thống Theodore Roosevelt đã được nhận Giải Nobel hòa
bình năm 1906.
So sánh với môi giới, vai trò của bên thứ ba trong biện pháp trung gian
chủ động và tích cực hơn. Vai trò của bên trung gian không chỉ dừng lại ở việc
dàn xếp các bên tranh chấp gặp gỡ mà còn cùng tham gia vào quá trình đàm
phán với các bên tranh chấp, dung hòa quan điểm của các bên nhằm làm cho
các bên xích lại gần nhau hơn. Có thê thấy rõ vai trò trung gian của Hoa Kỳ

14
Điều 1 đến điều 8 phụ lục V của công ước 1982về luật biển
15
Khỏan b điều 66 và phụ lục Công ước Vienna 1969 về luật điều ước quốc tế.
trong việc ký kềt Hiệp ước Trại David năm 1978 nhằm dàn xếp tranh chấp
giữa Israel và Ai Cập; vai trò trung gian của hai quốc gia Mali và Ethiopia
trong việc dàn xếp tranh chấp biên giới lãnh thổ giữa Algeria và Marốc năm
1963 - 1964; hay vai trò của Tổng thư ký Liên hợp quốc trong cuộc khủng
hoảng vùng Vịnh Caribê năm 1962 giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.
Ví dụ: Trong cuộc khủng hoảng vùng Vịnh Caribê năm 1962 giữa Hoa Kỳ
và Liên Xô, Liên Xô đã đề nghị Tổng thư ký Liên hợp quốc Ư Thant đóng vai
trò trung gian. Hoa Kỳ và Liên Xô đã trao đổi công hàm, cử đại diện đàm phán
trực tiếp với sự tham gia của Tổng thư ký Liên hợp quốc. Sau đó, các bên đã
đạt được thỏa thuận và khủng hoảng được giải quyết.
Cũng giống như bên trung gian, bên thứ ba đóng vai trò là hòa giải cỏ thể
tham gia vào quá trình đàm phán để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, với phạm
vi quvền hạn và nghĩa vụ rộng hơn, bên hòa giải có thể tham gia vào toàn bộ
quá trình đàm phán từ đầu cho đến khi kết thúc, thậm chí có thể giữ vị trí chủ
tọa phiên đàm phán. Bên hòa giải cũng thường đề xuất những sáng kiến cụ thể
nhằm giải quyết từng phần hoặc toàn bộ tranh chấp (điều này không có ở bên
thứ ba giữ vai trò trung gian).
Ví dụ: Năm 1977, xảy ra tranh chấp giữa ba quốc gia Kenya, Uganda và
Tanzania liên quan đến việc phân chia tài sản và nghĩa vụ pháp lý của Cộng
đồng Đông Phi (tổ chức quốc tế được thành lập năm 1967 với 5 quốc gia thành
viên là Kenya, Uganda, Tanzania, Rwanda, Burundi và tan rã năm 1977). Với
sự trợ giúp của Ngân hàng thế giới và Chương trình phát triển của Liên hợp
quốc, ba quốc gia đã thỏa thuận chọn nhà ngoại giao Thụy Sĩ Victor Umbricht
với tư cách nhà hòa giải tranh chấp.
Hiện nay, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, sự phân biệt giữa
biện pháp môi giới, trung gian và hòa giải là không rõ ràng bởi các biện pháp
này đang có xu hướng được áp dụng kết hợp. Bên thứ ba đóng vai trò môi giới
nhưng có thể tham gia vào quá trình đàm phán nếu được sự thỏa thuận của các
bên tranh chấp; hoặc vai trò của bên trung gian có thể được tăng cường phụ
thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp hoặc tình hình giải quyết tranh chấp
thực tế.
Ví dụ: Vai trò của Algeria trong việc dàn xếp vụ khủng hoảng con tin giữa
Hoa Kỳ và Iran năm 1980. Ban đầu Algeria chỉ có ý định tham gia dàn xếp
tranh chấp với vai trò môi giới. Với sự trợ giúp của Algeria, các bên đã ngồi
vào bàn đàm phán và sau đó được sự đồng ý của các bên, Algeria cũng tham
gia trực tiếp vào quá trình đàm phán. Kết quả là tháng 1 năm 1981, Hoa Kỳ,
Iran và Algeria đã cùng ký Hiệp ước Algiers để dàn xếp cuộc khủng hoảng
trong đó có cả thỏa thuận về việc thành lập Trọng tài Quốc tế để xem xét vụ
việc.

2.2.3. Điều tra


Hoạt động điều tra được coi là biện pháp giải quyết hòa bình các tranh
chấp quốc tế và thường được thực hiện thông qua ủy ban điều tra.
Nhiệm vụ của Ủy ban điều tra là xác định các sự kiện còn gây tranh cãi,
không có cách hiểu thống nhất giữa các bên tham gia tranh chấp nhằm mục
đích làm sáng tỏ thực trạng vụ tranh chấp. Như vậy, hoạt động điều tra thực
chất không giải quyết được tranh chấp quốc tế mà chỉ làm sáng tỏ các sự kiện
hoặc hành động dẫn đến tranh chấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán
giữa các bên tranh chấp.
Ủy ban điều tra có hai loại: Ủy ban lâm thời (ad hoc) và Ủy ban thường
trực. Thực tiễn giải quyết tranh chấp cho thấy đã có nhiều Uỷ ban điều tra được
thành lập dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, như thỏa thuận giữa
Anh và Nga 1904 về thành lập Ủy ban điều tra vụ thuyền đánh cá của Anh bị
bắn, hay thỏa thuận giữa Anh và Đan Mạch năm 1961 về thành lập Ủy ban điều
tra vụ Hải quân Đan Mạch đã bắn tàu đánh cá của Anh.
Thành phần, thời hạn và thẩm quyền của Ủy ban, về nguyên tắc do các
bên liên quan thỏa thuận quy định. Vì vậy, thành viên của Ủy ban điều tra có
thể chỉ là công dân của các bên tranh chấp nhưng họ không đại diện cho quốc
gia mình, có thể cả công dân của nước trung lập, có thể chỉ có công dân của
nước trung lập được các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn. Ví dụ về Ủy ban
điều tra trong thực tiễn giải quyết tranh chấp: trong thời kì chiến tranh Nga-
Nhật 1904, một thuyền đánh cá của Anh bị bắn, hai ngư dân của Anh bị chết,
một số người khác trên thuyền bị thương nặng, Anh cho rằng quân Nga đã gây
thiệt hại đó. Giữa Anh và Nga xảy ra tranh chấp. Anh và Nga thỏa thuận lập
một Ủy ban điều tra gồm có đại diện Nga, Anh, Pháp, Mỹ và Áo. Ủy ban đã
tiến hành điều tra, tìm ra nguyên nhân, hoàn cảnh và thủ phạm gây hại. Ủy ban
đi đến kết luận là quân Nga đã bắn vào thuyền đánh cá của Anh. Từ kết luận
này Nga đã chấp nhận bồi thường thiệt hại cho Anh16.Hay, năm 1990, theo đề
xuất của tổng thư kí liên hợp quốc, hội nghị quốc tế Paris đã chấp thuận cử phải
đoàn điều tra tình hình Campuchia từ ngày 9 đến ngày 14/8/1990.
Nhằm giúp ủy ban điều tra triển khai hoạt động của mình, các bên tranh
chấp có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, hồ sơ có liên quan; tạo mọi điều kiện thuận
lợi để ủy ban điều tra khảo sát thực tế, làm rõ và đánh giá khách quan vụ việc.
Ủy ban điều tra thường kết thúc khi thông qua được báo cáo (kết luận) điều tra.
Báo cáo của Ủy ban điều tra được thông qua với đa số phiếu. Báo cáo hay kết
luận của ban đìêu tra không có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp. Các bên
tranh chấp có toàn quyền chấp nhận hay bác bỏ toàn bộ hay một phần báo cáo
của Ủy ban điều tra17
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, ủy ban điều tra đã được thành lập để giải
quyết nhiều tranh chấp quốc tế trên cơ sở thỏa thuận của các bên tranh chấp
như ủy ban điều tra được thành lập năm 1904 để dàn xếp tranh chấp giữa Nga
và Anh (vụ Dogger Bank); hay ủy ban điều tra dàn xếp tranh chấp giữa Anh và
Đan Mạch năm 1962 liên quan đến việc tàu thuyền của Anh đánh bắt cá trái
phép trong vùng biển Đan Mạch (vụ Red Crusader)...
Ví dụ: Vụ Dogger Bank, trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật năm 1904 -
1905, hạm đội Bantic của Nga khi đang trên đường tới vùng biển Thái Bình
Dương để giao chiến với Nhật Bản, đã gặp tàu đánh cá của Anh. Vì lầm tưởng
đó là hành động khiêu khích của tàu Nhật Bản, hạm đội Bantic đã nổ súng vào
tàu của Anh. Để dàn xếp vụ việc, các bên đã thỏa thuận thành lập một ủy ban
điều tra bao gồm 5 thành viên trong đó có 4 sĩ quan hải quân của Anh, Nga,
Hoa Kỳ và Pháp; thành viên thứ 5 do 4 sĩ quan đã được chỉ định thỏa thuận lựa
chọn là người Áo. Ủy ban được giao nhiệm vụ không chỉ là xác minh sự kiện
thực tế mà còn điều tra trách nhiệm và mức độ lỗi của các bên. Dựa trên báo
cáo của ủy ban đưa ra, Nga đã chấp nhận bồi thường 65.000 bảng cho Anh để
đổi lại Anh rút đề nghị ban đầu là Nga phải có biện pháp trừng phạt viên sĩ
quan chỉ huy hạm đội Bantic.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các chủ thể của Luật Quốc tế còn có thể
thỏa thuận thành lập các ủy ban tìm hiểu tình hình (Commission of fact-
linding) với chức năng tương tự như ủy ban điều tra. Việc thành lập ủy ban tìm

16
Giáo trình luật quốc tế 1995-học viện quan hệ quốc tế, sdd tr7
17
Điều 35 Công ước Lahay 1907
hiểu tình hình được đề cập trong Nghị quyết 2329 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc ngày 18/12/1967, Nghị định thư bổ sung số 1 năm 1977 của Công ước
Giơnevơ năm 1949.
- Paraguay năm 1929 về biên giới lãnh thổ; tranh chấp biên giới giữa Thái Lan
và Pháp năm 1947 liên quan đến phần lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông
Dương; hay tranh chấp về xác định ranh giới thềm lục địa giữa Iceland và
Nauy năm 1981...
Tóm lại, giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba là những biện pháp
quan trọng trong hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, tạo điều kiện để các
bên nhanh chóng giải quyết tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Luật Quốc tế. Tuy nhiên, dù với vai trò nào môi giới, trung gian, hòa giải hay
tham gia vào ủy ban điều tra, ủy ban hòa giải, sự tham gia của bên thứ ba cũng
chỉ mang tính chất hỗ trợ cho quá trình giải quyết tranh chấp. Sự thành công
của quá trình giải quyết tranh chấp phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí, sự tích
cực và ý chí của chính các bên tranh chấp chứ không phải của bên thứ ba.
2.2.4. Giải quyết tranh chấp thông qua tòa án quốc tế
Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận áp dụng biện pháp giải quyết tranh
chấp thông qua các cơ quan tài phán quốc tế như Tòa án Quốc tế, Trọng tài
Quốc tế hoặc cơ quan tài phán được thành lập trong khuôn khổ các tổ chức
quốc tế. Thông thường các biện pháp này sẽ được áp dụng khi mà các nỗ lực
giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, thương lượng không thu được kết
quả mà các bên mong muốn.
Giải quyết tranh chấp quốc tế theo trình tự thủ tục tố tụng của tòa án
thường trực quốc tế được coi là một trong các biện pháp hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế. Cùng với trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế được coi là cơ
quan tài phán quốc tế. Tòa án thường trực quốc tế là một định chế tương đối
mới mẻ. Tòa án thường trực quốc tế đầu tiên có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp giữa các quốc gia thuộc về tòa án Công lý Trung Mỹ, được năm
quốc gia ở vùng Trung Mỹ thành lập năm 1908.
Tòa án quốc tế đầu tiên có tầm ảnh hưởng và ý nghĩa toàn cầu là Toà án
công lý quốc tế thường trực của Hội quốc Liên, có các chức năng cơ bản: giải
thích điều ước quốc tế, giải quyết các tranh chấp quốc tế và đưa ra các kết luận
tư vấn. Sau đại chiến thế giới lần thứ II, tòa án này được thay thế bằng tòa án
Công lý quốc tế của Liên hợp quốc. Hiện tại, tòa án công lý quốc tế của Liên
Hiệp Quốc là cơ quan tư pháp có quyền lực và ảnh hưởng toàn cầu. Xuất phát
từ vị trí, vai trò và ảnh hưởng của cơ quan xét xử này, mục 3 của chương này sẽ
tìm hiểu chuyên sâu về tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc.
Khi nghiên cứu về tòa án quốc tế, ngoài việc phân biệtgiữa tòa án quốc tế
với tư cách là một trong những cơ quan chính của một tổ chức quốc tế, có chức
năng chủ yếu là giải quyết tranh chấp quốc tế, với các tòa án quốc tế được
thành lập, họat động dựa trên cơ sở một điều ước quốc tế 18, cũng cần phân biệt
với các tòa án hình sự quốc tế đang tồn tại và hoạt động, như tòa án quân sự
quốc tế Nurumbe19, tòa án quân sự quốc tế Tokyo20, tòa án hình sự quốc tế
Ruanda21, tòa án hình sự quốc tế về Nam Tư (cũ) 22, tòa án hình sự quốc tế về
Campuchia23 gần đây nhất là tòa án ICC- một dạng tòa án hình sự quốc tế, mới
được thành lập và đi vào hoạt động từ 1/7/2003, có trụ sở cũng tại Lahaye24.
Những loại tòa án này không phải là loại tòa án quốc tế thuộc đối tượng nghiên
cứu của bài này. Các tòa án hình sự quốc tế không có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các quốc gia. Chúng chỉ có thẩm quyền xét
xử và trừng phạt các tội phạm quốc tế (Tội ác quốc tế) như tội diệt chủng, tội ác
chiến tranh, tội ác chống nhân loại .v.v… do các cá nhân thực hiện, bất kể cá
nhân đó là ai, giữ cương vị nào trong bộ máy nhà nước.
Như phần trên đã trình bày, tòa án quốc tế chỉ có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp giữa các quốc gia khi các nước này chấp thuận thẩm quyền xét xử
của tòa án quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tiễn đời sống quốc tế còn tồn tại và
hoạt động loại hình tòa án quốc tế có tính chất đặc thù, đó là Tòa án của Liên
minh Châu Âu (Trước kia là tòa án của cộng đồng kiểm tra Tây Âu). Việc giải
quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các nước thành viên EU không chỉ
18
Xem thêm mục 1.3 của chương này
19
Tòa án quân sự quốc tế Nurumbe được thành lập trên cơ sở Hiệp ước LuânĐôn ngày 8/8/1945 về truy lã và
trừng trị các tội phạm chiến tranh của khối trục phát xít Châu Âu. Liên xô (cũ), Mỹ, Anh và Pháp là các bên ký
kết điều ước quốc tế này, còn 19 quốc gia khác là các bên gia nhập
20
Tòa án quân sự quốc tế Tokyo (còn được gọi là Tòa án quân sự quốc tế VIễn đông, được thành lập theo thỏa
ước năm 1946 giữa các nước: Liên xô (cũ), Mỹ, Anh và Pháp, Trung Quốc, Canada, Australia, Hà Lan , Ấn độ
và Philipin.
21
Tòa án hình sự quốc tế về Ruanda, do Hội đồng bảo an LHQ thành lập năm 1993 để xét xử các hành vi tội
phạm diệt chủng chống lại lòai người thực hiện trong cuộc vũ trang nội chiến, thẩm quyền của tòa phát sinh từ
ngày 01/01/1994 và kết thúc tháng 31/12/1994
22
Tòa án hình sự quốc tế về Nam tư cũ, do Hội đồng bảo an Liên hợp quốc thành lập để xét xử các tên tội phạm
diệt chủng tại Nam tư, thẩm quyền của tòa phát sinh hiệu lực từ ngày 01/01/1991 cho đến ngày Hội đồng bảo an
tuyên bố xác định và an ninh đã được phục hồi tại Nam tư cũ.
23
Tòa án quốc tế về Campuchia được thành lập vào cuối năm 2006 để xét xử những tên phạm tội diệt chủng
Khơme đỏ tại Campuchia
24
Tòa án hình sự quốc tế Lahay được thành lập trên cơ sở của quy chế Romma (Italia) ký ngày 17/7/1998,Tòa
án có trụ sở tại Lahay chính thức họat động ngày 01/7/2003, tòa có thẩm quyền tài phán đối với các tội phạm
diệt chủng, tội phạm chống lòai người, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược.
là chức năng cơ bản duy nhất của tòa án này, mà nó còn có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp phát sinh giữa các cơ quan của EU, giữa các thể nhân và
pháp nhân của các nước thành viên với các cơ quan của EU, theo đó, cho thấy
thẩm quyền của tòa EU không chỉ là thẩm quyền của một tòa án quốc tế nói
chung mà còn có chức năng của tòa án hành chính và tòa Hiến pháp. Như vậy,
tòa án của EU có thẩm quyền giải quyết tranh chấp rất rộng và đối tượng của
tranh chấp cũng rất đa dạng. Có thể nói đây là đặc thù của EU – một tổ chức
quốc tế “siêu quốc gia” duy nhất trên thế giới cho đến thời điểm hiện nay.
Như vậy, về phạm vi giải quyết tranh chấp của các tòa án quốc tế khác
nhau cũng khác nhau. Mặc dù vậy, các tòa án quốc tế cũng có những đặc điểm
chung, dựa vào những dấu hiệu này để phân biệt với trọng tài quốc tế- một
trong những loại hình thuộc cơ quan tài phán quốc tế. Cụ thể:
Mỗi tòa án quốc tế đều hoạt động theo quy chế riêng.
Thành phần xét xử của tòa án quốc tế là cố định, nghĩa là các bên không
có quyền lựa chọn thẩm phán
Các quy tắc, thủ tục tố tụng của tòa án, các bên tranh chấp không có
quyền thay đổi
Phán quyết của mọi tòa án quốc tế đều có giá trị chung thẩm và bắt buộc
các bên liên quan phải triệt để tuân thủ.
Cơ chế đảm bảo thi hành phán quyết của tòa án quốc tế rất nghiêm ngặt
và có hiệu quả, bởi theo quy chế của tòa hoặc theo Hiến chương của các tổ
chức quốc tế, phán quyết của tòa thường được bảo đảm thi hành thông qua
thẩm quyền của các cơ quan của tổ chức quốc tế. Ví dụ, Hiến chương Liên hợp
quốc đã trao thẩm quyền cho Hội đồng bảo an có quyền đưa ra những nghị
quyết về những biện pháp cần áp dụng đối với quốc gia không thực hiên nghĩa
vụ theo phán quyết của tòa án nhằm đảm bảo cho phán quyết của tòa được chấp
hành nghiêm chỉnh25
Từ góc độ Luật quốc tế và thực tiễn xét xử của các tòa án quốc tế cho
thấy, ngoài chức năng chủ yếu là giải quyết tranh chấp quốc tế và đưa ra các
kết luận tư vấn pháp lý trong các vụ việc cụ thể, hoạt động của tòa án quốc tế
còn có thể góp phần giải thích và củng cố hoàn thiện các quy phạm luật quốc
tế. Đồng thời hiệu quả hoạt động của tòa là rất lớn. Cụ thể: Trong khuôn khổ
hoạt động của tòa án quốc tế, tranh chấp quốc tế có thể được giải quyết triệt để;

25
Điều 94 Hiến chương Liên hợp quốc
phán quyết do tòa án quốc tế đưa ra thường đảm bảo được tính công bằng và
khách quan; các phán quyết của tòa án quốc tế thường được các bên tôn trọng
và tuân thủ nghiêm chỉnh.
Để tìm hiểu chuyên sâu các loại tòa án quốc tế cụ thể có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp quốc tế sẽ được nghiên cứu ở chương 2.
2.2.5. Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài quốc tế
Giống như tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế không có thẩm quyền đương
nhiên giải quyết tranh chấp quốc tế, tức là thẩm quyền của tòa trọng tài là thẩm
quyền tùy nghi, phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp và sự thỏa thuận đó
phải được ghi nhận trong điều uốc quốc tế chuyên môn hoặc điều khoản trọng
tài. Trong điều ước quốc tế còn xác định cụ thể trình tự, thủ tục xét xử, nguồn
luật sử dụng trong xét xử, cũng như thủ tục và giá trị phán quyết của tòa trọng
tài.
Dưới góc độ lịch sử, so với tòa án quốc tế, trọng tài là biện pháp giải
quyết tranh chấp đã được biết từ lâu. Hình thức này đã xuất hiện vào thời kỳ Hi
Lạp cổ đại, sau đó vào thời kỳ Trung đại, khi Giáo hoàng đóng vai trò trọng tài.
Sự phát triển mạnh mẽ của tòa trọng tài là vào thế kỷ XIX. Năm 1899, tại Hội
nghị hòa bình La hay đã pháp điển hóa luật về trọng tài quốc tế. Đồng thời,
cộng đồng quốc tế đã có sự cố gắng định chế hóa cơ chế trọng tài, bằng cách
thành lập Tòa trọng tài thường trực. Hội nghị hòa bình La hay năm 1907 đã mở
rộng luật về trọng tài, theo đó, trọng tài quốc tế có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia với thành phần là các trọng tài viên do
các bên tranh chấp lựa chọn, dựa trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Về việc phân loại tòa trọng tài, khoa học luật quốc tế sử dụng nhiều tiêu
chí khác nhau để phân loại. Cụ thể:
- Căn cứ vào tính chất hoạt động, trọng tài quốc tế gồm có: trọng tài
thường trực (trọng tài theo quy chế) và tòa trọng tài lâm thời (ad hoc). Tòa
trọng tài thường trực là trọng tài hoạt động thường xuyên, liên tục, có trụ sở, có
danh sách trọng tài viên, có quy chế hoạt động và thủ tục tố tụng. Ví dụ: tòa
trọng tài thường trực Lahaye, được thành lập theo hai Công ước Lahaye 1989
và 190726. Tòa trọng tài vụ việc được thành lập chỉ để giải quyết một vụ tranh
chấp cụ thể và sẽ chấm dứt hoạt động khi vụ tranh chấp được giải quyết. Thực
26
Mặc dù tòa trọng tài thường trực Lahaye có trụ sở tại Lahaye nhưng các trọng tài viên không hoạt động
thường xuyên, tòa chỉ có một danh sách trọng tài viên mà các bên có quyền lựa chọn để hình thành một thành
phần cơ cấu xét xử
tiễn giải quyết tranh chấp hiện nay cho thấy, nếu lựa chọn phương thức trọng
tài, các bên tranh chấp thường thỏa thuận thành lập trọng tài ad hoc.
- Căn cứ vào thành phần (số lượng trọng tài viên), Tòa trọng tài
được chia làm tòa trọng tài đơn nhất (chỉ có một trọng tài viên) và trọng tài tập
thể (bao gồm từ ba trọng tài viên trở nên).
- Căn cứ vào thẩm quyền giải quyết, tòa trọng tài được chia thành:
trọng tài có thẩm quyền chung (có chức năng giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong các lãnh vực khác nhau của đời sống quốc tế, như tòa trọng tài
thường trực La hay được thành lập theo Công ước 1899 và 1907), và tòa trọng
tài chuyên môn (chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong một hoặc một số
lĩnh vực của đời sống quốc tế, như tòa trọng tài quốc tế về luật biển, được thành
lập theo Công ước luật biển 1982)27.
Thành phần của tòa trọng tài do các bên thỏa thuận quy định, có thể chỉ
bao gồm một trọng tài viên hoặc nhiều trọng tài viên (hội đồng trọng tài). Số
lượng trọng tài viên luôn là số lẻ, để đảm bảo phán quyết của tòa trọng tài được
thông qua dễ dàng theo nguyên tắc đa số phiếu. Trong trường hợp tòa trọng tài
được thành lập với một trọng tài viên duy nhất thì người này phải là công dân
có uy tín của nước thứ ba. Nếu là Hội đồng trọng tài, thì mỗi bên tranh chấp có
quyền chỉ định một số lượng trọng tài viên bằng nhau là công dân nước mình
hoặc nước thứ ba. Các trọng tài viên được chỉ định sẽ thỏa thuận lựa chọn trọng
tài viên khác làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Về nguyên tắc, chủ tịch hội đồng
trọng tài bắt buộc phải là công dân của nước thứ ba. Nếu các bên hữu quan
không lựa chọn được, hoặc trong trường hợp các bên không muốn chỉ định
trọng tài viên của mình vì một lí do nào đó, họ có thể yêu cầu chánh án tòa án
công lý quốc tế hoặc tổng thư ký Liên hợp quốc chỉ định.
Về luật được áp dụng để giải quyết các tranh chấp quốc tế là luật quốc tế
bao gồm điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có liên quan trực tiếp đến vụ tranh
chấp. Ngoài ra, các bên có thể tự do thỏa thuận lựa chọn luật quốc gia, nguyên
tắc pháp luật chung hay quy định chuyên môn nào đó để Tòa trọng tài sử dụng
khi giải quyết tranh chấp giữa họ. Ví dụ: trong vụ tranh chấp Trail Smelter năm
1941 liên quan đến nhà máy luyện kim của Canada gây ô nhiễm cho vùng lãnh
thổ Mỹ(tiểu bang Washington). Hai Bên tranh chấp (Mỹ và Canada) đã thống
nhất lựa chọn luật Hoa Kỳ để giải quyết vụ tranh chấp28.
27
Xem phụ lục VII và VIII của Công ước 1982 về luật biển
28
Tạp chí khoa học pháp lý ĐH Luật tp Hồ Chí Minh, số 4- 2001 t.35
Thủ tục tố tụng, trình tự phiên tòa trọng tài, về nguyên tắc do các bên
tranh chấp ấn định. Thông thường, trình tự phiên tòa trọng tài bao gồm hai giai
đoạn: thứ nhất là thủ tục viết và sau đó là thủ tục nói. Sau khi các đại diện hoặc
cố vấn của các bên đưa ra tất cả các lời giải thích, chứng cứ chứng minh bảo vệ
quan điểm, yêu cầu của họ trong vụ tranh chấp, chủ tịch tòa trọng tài sẽ tuyên
bố kết thúc phần tranh tụng và sau đó tòa sẽ tiến hành nghị án, cuộc thảo luận
nghị án là kín và bí mật. Quyết định của tòa trọng tài sẽ được thông qua theo
nguyên tắc nhất trí hoặc đa số phiếu.
Phán quyết trọng tài thường được thông qua tại buổi thảo luận nghị án
bằng đa số phiếu và sẽ được tuyên đọc trước tòa với sự có mặt của đại diện và
cố vấn pháp lý của các bên tranh chấp. Phán quyết phải có phần chứng minh
lập luận của Tòa trọng tài. Về nguyên tắc, phán quyết của tòa trọng tài có giá trị
chung thẩm và hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên. Phán quyết của tòa
trọng tài không được khiếu nại, nhưng có thể được xem xét lại trong trường
hợp xuất hiện các tình tiết và sự kiện ảnh hưởng, tác động quan trọng có tính
quyết định đến phán quyết, mà trước đó tòa trọng tài chưa được biết đến. Trong
trường hợp các bên có quan điểm, yêu cầu khác nhau về việc giải thích và thi
hành phán quyết thì chính tòa trọng tài với thành phần xét xử sẽ xem xét và giải
thích.
Trong mối quan hệ so sánh, tòa trọng tài có nhiều điểm chung với tòa án
thường trực, như về nguyên tắc việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài hay tòa
án quốc tế được thực hiện dựa trên cơ sở luật quốc tế, đồng thời phán quyết
trọng tài cũng như phán quyết tòa án quốc tế đều có giá trị chung thẩm và hiệu
lực bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành, không có quyền kháng án. Tuy
nhiên giữa biện pháp trọng tài và tòa án vẫn có sự khác biệt, cụ thể:
- Thứ nhất, về thành phần xét xử: theo tòa trọng tài các bên có quyền lựa
chọn trọng tài viên, còn thành phần xét xử của tòa án quốc tế là cố định, các
bên không có quyền lựa chọn thẩm phán
- Thứ hai, về thủ tục tố tụng xét xử theo con đường trọng tài, các bên có
quyền thỏa thuận qui định thủ tục tố tụng, vì vậy thủ tục tố tụng trọng tài đơn
giản hơn, linh hoạt và mềm dẻo hơn, qua đó tiết kiệm thời gian và chi phí, rút
ngắn quá trình thông qua phán quyết. Còn thủ tục tố tụng tòa án là cố định, đã
được qui định cụ thể từ trước trong quy chế của tòa
- Thứ ba, về mức độ bảo mật trình tự tố tụng trong từng vụ việc. Giải
quyết tranh chấp tại trọng tài, nếu được các bên yêu cầu sẽ được giữ kín, đảm
bảo cho các bên liên quan giữ được bí mật quốc gia, bí quyết kinh doanh, quy
trình kỹ thuật… và qua đó, góp phần bảo vệ danh dự, uy tín của các bên tranh
chấp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp theo tòa án quốc tế phải đảm bảo
nguyên tắc xét xử công khai
- Thứ tư, về thể loại tranh chấp quốc tế được giải quyết: tòa trọng tài
không những giải quyết tranh chấp pháp lý mà còn giải quyết tranh chấp chính
trị, vì vậy, phán quyết của tòa trọng tài có thể không mang tính đối nghịch như
phán quyết của tòa án quốc tế, do đó, sau khi có phán quyết của trọng tài, các
bên vẫn có thể tiếp tục giữ được mối quan hệ với nhau kể cả lĩnh vực vừa xảy
ra tranh chấp. Còn tòa án quốc tế chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý.
- Thứ năm, về khả năng kiểm soát hoạt động tố tụng của các bên tranh
chấp. Trình tự trọng tài do các bên tự qui định, vì thế khả năng kiểm soát hoạt
động trọng tài của các bên rộng hơn. Còn trình tự của tòa án các bên không có
quyền này.
Từ góc độ thực tiễn quốc tế, tương lai rộng mở của giải quyết tranh chấp
bằng biện pháp trọng tài là vô cùng to lớn và là thực tiễn hiển nhiên. Khẳng
định này đã được thể hiện qua các qui định của Công ước về hòa giải và trọng
tài trong khuôn khổ của tổ chức hợp tác và anh ninh châu Âu, được thông qua
tại Stockhôm 1992.
2.3. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các quốc gia thành
viên. Căn cứ vào các điều ước quốc tế thành lập các tổ chức quốc tế, thì mỗi tổ
chức quốc tế đều có thẩm quyền và chức năng giải quyết hòa bình các tranh
chấp quốc tế.Tuy nhiên các bên tranh chấp và cũng là thành viên của tổ chức
quốc tế không chỉ tìm đến những cơ chế giải quyết được ấn định trong khuôn
khổ của tổ chức quốc tế mà họ là thành viên, mà còn có quyền lựa chọn những
biện pháp giải quyết hòa bình khác. Vấn đề này thường được quy định trong
các điều ước quốc tế của tổ chức đó. Ví dụ, điều 28 Hiến chương ASEAN năm
200729, khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc30.
Thông thường các tranh chấp liên quan trong khuôn khổ tổ chức quốc tế
được giải quyết theo các cơ chế đã được qui định trong Qui chế tổ chức quốc
tế. Việc nâng cao vai trò của tổ chức quốc tế trong đời sống quốc tế và việc gia
tăng số lượng các tổ chức quốc tế đã mang lại những sự thay đổi nhất định
trong hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các
quốc gia. Mỗi tổ chức quốc tế đều có đặc thù riêng biệt, vì vậy cơ chế giải
quyết tranh chấp của chúng cũng thể hiện sự riêng biệt này. Đặc biệt có ý nghĩa
quan trọng trong lĩnh vực này là cơ chế giải quyết tranh chấp của Liên hợp
quốc. Đây là tổ chức quốc tế có vai trò và vị trí hàng đầu trong hệ thống các tổ
chức quốc tế, có ảnh hưởng và tác động quan trọng đến đời sống quốc tế. Tiếp
đến, là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng tác động mạnh mẽ đến quan
hệ hợp tác đến kinh tế đa phương toàn cầu.Việc nghiên cứu cơ chế giải quyết
tranh chấp quốc tế của bộ máy liên hợp quốc và tổ chức thương mại thế giới
(WTO) mà Việt Nam là thành viên là điều hết sức cần thiết. Toàn bộ vấn đề
này, sẽ được tìm hiểu ở chương 2. Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu ở mức độ
khái quát về cơ chế giải quyết tranh chấp của một số tổ chức quốc tế có tính
chuyên môn hoặc khu vực.
2.3.1. Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ tổ chức chuyên môn Liên
hợp quốc:
Các tổ chức quốc tế chuyên môn của LHQ, như FAO, ICAO, IMO,
ILO, WHO,... cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp Quốc tế. Trong quy
chế của các Tồ chức quốc tế này, cũng như các công ước được ký kết trong
khuôn khổ hoạt động của mình, đều ghi nhận các biện pháp hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế, như đàm phán trực tiếp giữa các quốc gia thành viên, biện
pháp trọng tài quốc tế và tòa án công lý quốc tế cùa Liên hợp quốc. Các tranh
chấp phát sinh trong khuôn khổ các Tổ chức quốc tế chuyên môn của Liên hợp
quốc thường là các tranh chấp liên quan đến thẩm quyền của các Tổ chức quốc
tế trong việc giải thích và áp dụng các Qui chế và điều ước quốc tế của tổ chức.
Nhìn chung, các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên tổ chức quốc
29
Điều 28 Hiến chương ASEAN: trừ khi có quy định khác trong hiến chương này, các quốc gia thành viên có
quyền viện dẫn những hình thức giải quyết tranh chấp hòa bình được quy định tại 33 khỏan 1 của Hiến chương
LHQ hoặc các văn bản Luật QT khác mà các quốc gia thành viên ASEAN
30
Khỏan 3 điều 2 Hiến chương LHQ ghi nhận: tất cả các thành viên LHQ giải quyết những tranh chấp quốc tế
của họ bằng các biện pháp hòa bình
tế thường được giải quyết trong khuôn khổ của chính tổ chức quốc tế và dựa
vào cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức quốc tế. Ví dụ: điều 84,85,86 của
công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế 1944, qui định về trình tự
giải quyết tranh chấp quốc tế liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công
ước và các phụ lục của công ước31.
Hiện nay, số lượng tổ chức quốc tế chuyên môn của liên hợp quốc bao
gồm 17 tổ chức quốc tế, đây là các tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành
lập trên cơ sở một điều ước quốc tế đa phương, còn được gọi là Điều lệ của tổ
chức quốc tế. Phạm vi thẩm quyền của mỗi tổ chức quốc tế chuyên môn được
qui định trong điều lệ của tổ chức quốc tế đó, trong Hiến chương Liên hợp quốc
và trong hiệp định song phương giữa Liên hợp quốc và tổ chức quốc tế chuyên
môn do Hội đồng kinh tế – xã hội của Liên hợp quốc thay mặt cho tổ chức quốc
tế toàn cầu này kí kết. Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của từng tổ chức
quốc tế chuyên môn nói trên sẽ khác nhau, phụ thuộc vào phạm vi hoạt động
của từng tổ chức. Trong phạm vi chương này, không đề cập tới cơ chế giải
quyết tranh chấp quốc tế của tất cả các tổ chức quốc tế chuyên môn. Việc
nghiên cứu này sẽ để học viên tự quyết định theo nhu cầu nghiên cứu của mình.
2.3.2. Giải quyết tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ Tồ chức quốc tế khu
vực
Theo khoản 1 điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc, giải quyết tranh chấp
bằng phương thức này được coi là một trong những biện pháp hòa bình giải
quyết tranh chấp quốc tế. Quy chế pháp lý của các Tổ chức quốc tế khu vực đều
quy định về trình tự, thủ tục và các biện pháp giải quyết hòa bình các tranh
chấp quốc tế phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức quốc tế. Việc
giải quyết được tiến hành theo những phương thức này có thể được khởi xướng
theo kiến nghị của quốc gia thành viên tham gia tranh chấp, hoặc theo sáng
kiến của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, hay theo các quy định hiện hành được
ghi nhận trong Quy chế của Tổ chức quốc tế khu vực.

31
Điều 84 công ước Chicago giải quyết tranh chấp nếu có sự bất đồng giữa 2 hoặc nhiều Quốc gia ký kết về
việc giải thích áp dụng Công ước này và các phụ lục của công ước mà không thể giải quyết bằng thương lượng,
thì hội đồng phải quyết định theo thỉnh cầu của bất kỳ quốc gia hữu quan nào. Không một thành viên nào của
hội đồng mà là 1 bên tranh chấp được biểu quyết khi hội đồng xem xét cuộc tranh chấp. Phụ thuộc vào điều 85
mọi quốc gia ký kết có thể kháng cáo quyết định của hội đồng trọng tài đặc trách được thành lập theo sự thỏa
thuận với các bên khác trong cuộc tranh chấp hoặc kháng cáo lên toà án công lý quốc tế thường trực. Kháng cáo
như vậy phải được thông báo cho Hội đồng trong vòng 60 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo quyết định Hội
đồng
Việc nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN mà Việt Nam
là thành viên của tổ chức quốc tế khu vực này là điều rất thiết thực, sẽ được tìm
hiểu chuyên sâu ở chương 2. Trong phần này , chúng ta chỉ đề cập khái quát tới
các cơ chế giải quyết tranh chấp của: Liên đoàn các nước Ả Rập, Liên minh
châu Phi ( AU), Tổ chức các nước châu Mĩ, và cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG).
Theo Hiến chương của các nước Ả Rập trong cơ cấu tổ chức của Liên
đoàn, thì Hội đồng Liên đoàn có thể thực hiện vai trò trung gian, hòa giải hoặc
thậm chí cả chức năng trọng tài. Trong việc giải quyết các vấn đề của thế giới
Ả Rập trách nhiệm quan trọng nhất thuộc về Hội nghị thường kì các nguyên thủ
quốc gia các nước thành viên Liên đoàn Ảrập.
Trong Hiến chương của Tồ chức thống nhất châu Phi (hiện hay là Liên
minh châu Phi – AU ) có qui định: việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc
tế cần phải được tiến hành bằng các biện pháp giải quyết hòa bình như: đàm
phán, trung gian, hòa giải và trọng tài. Trong cơ cầu tồ chức của AU, cơ quan
có quyền lực tối cao đưa ra các quyết định giải quyết các vấn đề của châu lục
đen, đặc biệt là giải quyết tranh chấp về lãnh thổ và biên giới quốc gia là Hội
nghị các nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ. Cơ quan tối cao
này cùng với Hội đồng các bộ trưởng, các quốc gia châu Phi đã thông qua được
các nghị quyết về giải quyết tranh chấp biển giữa Xômali và Kênia, giữa
Xômali với Êtiôpia, giữa Angiêri và Marốc, cùng nhiều tranh chấp quốc tế khác
phát sinh giữa các quốc gia thành viên AU, trong đó kiến nghị các quốc gia
thành viên cần tiến hành đàm phán trực tiếp với nhau nhằm mục đích giải quyết
các tranh chấp và đưa ra các phương thức giải quyết cụ thể. Bên cạnh các cơ
quan nêu trên của AU có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, trong cơ cấu tổ
chức của AU còn có Ủy ban thường trực về trung gian, hòa giải và trọng tài.
Thành phần và chức năng của cơ quan này được qui định trong nghị định thư –
một phần của Hiến chương. Trong trường hợp các bên tranh chấp đồng ý
chuyển giao cho Ủy ban giải quyết theo thủ tục trọng tài, thì phán quyết của Ủy
ban đưa ra có hiệu lực bắt buộc đối với các Bên tham gia vụ tranh chấp.
Trên thực tế, các nước thành viên Tổ chức thống nhất châu Phi thường
không muốn giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp tư pháp như tòa án
hay trọng tài mà thường cố gắng giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp
mềm dẻo hơn như đàm phán, trung gian hay hòa giải.
Ví dụ: Trong vụ tranh chấp biên giới lãnh thổ giữa Algeria và Marốc năm
1963, Tổ chức thống nhất châu Phi đã thông qua Nghị quyết thành lập ủy ban
đặc biệt bao gồm đại diện của 7 quốc gia châu Phi đứng ra đóng vai trò trung
gian hòa giải tranh chấp. Các ủy ban tương tự cũng đã được Tổ chức thống
nhất châu Phi thành lập để giải quyết tranh chấp Somali- Ethiopian, hay tranh
chấp Tây Sahara năm 1978.
Trong Hiến chương của Tổ chức các nước châu Mĩ và Hiệp ước Bôgôta
năm 1948 có qui định trình tự thủ tục chi tiết tiến hành các hoạt động trung
gian hòa giải, điều tra… Các điều ước quốc tế này qui định: Hội đồng thường
trực, Hội đồng tham vấn các bộ trưởng ngoại giao châu Mĩ – các cơ quan chính
của tổ chức các nước châu Mĩ, có một phạm vi thẩm quyền rộng lớn trong quá
trình giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các quốc gia
thành viên, ví dụ như cho phép Hội đồng thường trực có quyền thành lập tòa
trọng tài mà không có sự tham gia của bên tranh chấp. Năm 1970, các thành
viên của Tổ chức các nước châu Mỹ đã thỏa thuận thành lập ủy ban liên Mỹ về
hòa bình giải quyết tranh chấp với tư cách là cơ quan trực thuộc Hội đồng
thường trực. Trong thực tế, Hội đồng thường trực và ủy ban liên Mỹ có vai trò
ngày càng tăng trong việc giải quyết các tranh chấp biên giới lãnh thổ giữa các
nước thành viên.
Ví dụ: Để giải quyết tranh chấp biên giới giữa Costa Rica và Nicaragua
năm 1985, Hội đồng thường trực đã thành lập ủy ban điều tra. Sau khi nghe báo
cáo của ủy ban điều tra về vấn đề tranh chấp, Hội đồng thường trực đã thông
qua Nghị quyết yêu cầu các bên đàm phán để giải quyết tranh chấp.
Đối với tổ chức Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), đây là tổ chức
quốc tế khu vực mới được thành lập sau sự đổ vỡ của Liên xô (cũ), vào cuối thế
kỉ XX đã thành lập tòa án kinh tế. Theo các qui định hiện hành của Hiến
chương SNG, cơ quan tư pháp này có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong quá trình các quốc gia thực thi và tuân thủ các cam kết quốc tế,
cũng như các tranh chấp khác được xác định theo thỏa thuận của các quốc gia
này. Tòa kinh tế có quyền giải thích các điều ước quốc tế và các văn kiện khác
của Cộng đồng các quốc gia độc lập về các vấn đề kinh tế. Đoàn chủ tịch là cơ
quan tập thể cao nhất của tòa kinh tế, có quyền xem xét các khiếu nại đối với
phán quyết của tòa án kinh tế cũng như có quyền xem xét và đưa ra các kiến
nghị cho các quốc gia thành viên nghiên cứu về loại bỏ xung đột trong luật
pháp của các nước thành viên. Phán quyết của Đoàn chủ tịch là chung thẩm và
có hiệu lực thực hiện.

Lưu ý :
1. Cơ chế giải quyết tranh chấp tại LHQ
1.1. Tòa án công lý quốc tế LHQ (Tòa án quốc tế LHQ)
1.1.1. Khái niệm về tòa án công lý quốc tế LHQ
Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc (sau đây gọi tắt là Tòa án quốc tế)
là cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc, hoạt động trên cơ sở qui chế của
mình, Tòa án quốc tế là cơ quan chính của LHQ, còn qui chế Tòa án quốc tế là
một bộ phận không thể tách rời của Hiến chương LHQ32.
Tiền thân của Tòa án quốc tế chính là Tòa án công lý quốc tế thường trực
(còn gọi là pháp viện thường trực) bên cạnh tổ chức quốc tế Hội quốc liên, tuy
nhiên Tòa án công lý quốc tế thường trực không phải là cơ quan của Hội quốc
liên, Tòa án này hoạt động dựa trên cơ sở qui chế hoàn toàn độc lập. Hội quốc
liên cũng như Tòa án công lý quốc tế thường trực ra đời sau đại chiến I (1922)
và chấm dứt hoạt động trước đại chiến II.
Thành viên Liên hợp quốc đương nhiên là thành viên của Qui chế tòa án
quốc tế, nhưng các quốc gia không phải thành viên của LHQ cũng có thể là
thành viên của Qui chế tòa án quốc tế, ví dụ như Thụy Sĩ, Nhật Bản, Nauru khi
chưa là thành viên LHQ vẫn được thừa nhận là thành viên của qui chế tòa án
quốc tế, vẫn được tham gia vào việc bầu cử thẩm phán của tòa, vẫn có quyền
thưa kiện tại tòa hoặc các quyền khác theo qui định của qui chế tòa hoặc các
nghị quyết liên quan của Đại hội đồng.
Tòa án có trụ sở chính tại thành phố Lahay (Hà Lan), ngoài ra, tòa cũng
có thể tiến hành các phiên xử ngoài Lahay, khi tòa xét thấy cần thiết33.
Ngôn ngữ chính của tòa án quốc tế là tiếng anh và tiếng pháp. Ngoài ra,
tòa cũng có thể cho phép các bên theo yêu cầu của họ sử dụng ngôn ngữ thứ ba
ngoài tiếng anh và tiếng pháp34.
Nguồn luật áp dụng của Tòa án quốc tế là nguồn được qui định trong điều
38 qui chế của Tòa án quốc tế, bao gồm DUQT và TQQT và các nguyên tắc
chung của luật.
1.1.2. Chức năng của Tòa án công lý quốc tế (quan trọng)
a. Cơ sở pháp lý xác định chức năng và hoạt động của Tòa án quốc tế
32
: Điều 92 Hiến chương Liên hợp quốc: Các văn bản pháp luật về Công pháp quốc tế và văn bản pháp luật Việt
Nam có liên quan. Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2010, tr.46
33
: Đ22 qui chế Tòa án quốc tế LHQ
34
: Đ39 qui chế Tòa án quốc tế LHQ
- Hiến chương LHQ35
- Qui chế của Tòa án công lý quốc tế
- Nội qui của tòa, theo điều 30 qui chế của tòa, Tòa án quốc tế có quyền
xây dựng nội qui qui định nguyên tắc thực hiện chức năng, các nguyên tắc thủ
tục xét xử của tòa36.
b. Thẩm quyền chính của tòa án quốc tế Liên hiệp quốc
Theo điều 36 qui chế TAQT, tòa có thẩm quyền giải quyết tất cả các
tranh chấp mà các bên đưa ra, cũng như các vấn đề được qui định riêng biệt
trong Hiến chương LHQ hoặc trong các Điều ước quốc tế có hiệu lực. Cụ thể,
tòa án quốc tế có 2 thẩm quyền như sau:
Thứ nhất là: giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia, phù
hợp với qui chế của mình. Tòa án không chỉ giới hạn thẩm quyền xét xử giữa
các quốc gia thành viên LHQ37. Các quốc gia không phải là thành viên LHQ có
thể tham dự vào quá trình giải quyết tranh chấp tại tòa với tư cách bên nguyên
đơn, bên bị đơn hoặc bên liên quan với điều kiện đáp ứng các đòi hỏi, yêu cầu
do ĐHĐ đưa ra trong từng vụ cụ thể dựa trên cơ sở khuyến nghị của HĐBA 38.
Tòa án Công lý có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia nhưng
thẩm quyền này không phải đương nhiên mà phải dựa trên sự đồng ý rõ ràng
của các bên tranh chấp.
- Thứ hai là: Ngoài chức năng giải quyết tranh chấp quốc tế, Tòa án
Công lý quốc tế còn thực thi một chức năng quan trọng khác là đưa ra các kết
luận tư vấn. Tòa án Công lý quốc tế thực hiện chức năng đưa ra kết luận tư vấn
khi Đại hội đồng hay Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc yêu cầu, liên quan đến
những vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan này.
Tất cả các cơ quan khác của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn cũng
được hỏi ý kiến tư vấn của tòa trong trường hợp được Đại hội đồng Liên hợp
quốc cho phép. Riêng đối với ĐHĐ và HĐBA có thể yêu cầu tòa kết luận tư
vấn về bất cứ vấn đề pháp lý liên quan39. Các quốc gia không có quyền yêu cầu
tòa đưa ra kết luận tư vấn về các tranh chấp của mình. Các ý kiến tư vấn của
tòa chỉ mang tính chất khuyến nghị.
Tóm lại, trên đây là những thẩm quyền chủ yếu của TAQT và đồng thời
là chức năng của cơ quan tài phán quốc tế này, các chức năng này gắn liền với

35
: Chương XIV qui định về Tòa án quốc tế của Hiến chương LHQ
36
: Ngày 6/5/1946, nội qui của tòa án quốc tế đã được thông qua. Năm 1972, tòa đã thông qua việc sửa đổi một
phần nội qui. Ngày 14/4/1978, tòa thông qua sửa đổi nội qui lần hai, nhằm cải tổ thủ tục tranh tụng trước tòa
37
: Đ34.1 qui chế TAQT LHQ
38
: Đ93.2 Hiến chương LHQ
39
: Đ96 Hiến chương LHQ
mục đích thành lập của tòa là giải quyết tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các
quốc gia trên cơ sở luật quốc tế.
c. Các phương thức chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
TAQT liên hợp quốc.
Như trên đã đề cập, chỉ có các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia mới
thuộc phạm vi thẩm quyền xét xử của TAQT với điều kiện các bên tranh chấp
này đồng ý chấp nhận thẩm quyền tài phán của tòa. TAQT không có thẩm
quyền xét xử các vụ tranh chấp phát sinh giữa các thể nhân, pháp nhân, trừ
trường hợp quốc gia đồng ý chấp nhận là nguyên đơn trước tòa để bảo vệ quyền
lợi cho thể nhân và pháp nhân nước mình. Theo đó, tranh chấp như vậy được
coi là một tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia liên quan (vụ công ty dầu khí
Anh – Iran, Nottebon, Barcelona Traction)40.
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia của Luật quốc tế,
Tòa án quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên giải quyết tranh chấp giữa
các quốc gia. Do vậy, thẩm quyền xét xử của TAQT hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí của các quốc gia tham gia tranh chấp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
TAQT được xác lập theo sự chấp thuận của các bên liên quan. Chấp thuận này
có thể là thỏa thuận trước (trước khi có tranh chấp xảy ra) hoặc thỏa thuận sau
(sau khi có tranh chấp xảy ra). Căn cứ vào điều 36 của qui chế tòa, sự chấp nhận
thẩm quyền của tòa được thể hiện theo ba phương thức sau :
- Chấp nhận thẩm quyền của tòa án quốc tế theo từng vụ việc (được gọi là
thỏa thuận thỉnh cầu). Đây là phương thức chấp nhận sau, tức là khi có tranh
chấp đã xảy ra, các quốc gia tranh chấp sẽ ký một thỏa thuận, được gọi là thỏa
thuận thỉnh cầu, đề nghị tòa giải quyết tranh chấp giữa họ. Trong thỏa thuận
này, các quốc gia nêu rõ đối tượng tranh chấp, những vấn đề cần giải quyết,
phạm vi thẩm quyền của tòa... Nếu chỉ có một bên yêu cầu tòa giải quyết
nhưng phía bên kia không chấp nhận thì tòa sẽ không có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đó. Hình thức này đã được các quốc gia tranh chấp áp dụng rộng rãi
như vụ Các đảo Minquiers vả Ecréchous giữa Pháp và Anh năm 1953 41, vụ
thềm lục địa Biển Bắc giữa Cộng hòa liên bang Đức/ Đan Mạch, Cộng hòa liên
bang Đức/ Hà Lan42. Ví dụ: Trong vụ Thềm lục địa Biển Bắc năm 1969, để giải
quyết tranh chấp về phân định thềm lục địa giữa Đức - Đan Mạch - Hà Lan, hai
thỏa thuận đã được ký kết giữa Đức - Đan Mạch và giữa Đức - Hà Lan nhằm
chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý quốc tế.
Chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án trong các ĐƯQT. Ở phương
40
:…
41
: Nguyễn Hồng Thao, Tòa án công lý quốc tế, Sdd, tr.234
42
: Nguyễn Hồng Thao, Tòa án công lý quốc tế, Sdd, tr.267
thức này, trong các điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương hợp tác
nhiều lĩnh vực khác nhau, các quốc gia đã dự liệu trong các điều khoản đặc biệt
là khi có tranh chấp xảy ra về việc giải thích và thực hiện điều ước quốc tế, một
bên có thể đưa tranh chấp ra tòa án quốc tế Liên hợp quốc. Do đó, sau này khi
có tranh chấp xảy ra, chỉ cần một bên (nguyên đơn) gửi đơn đến tòa, tòa sẽ có
thẩm quyền giải quyết. Ví dụ như vụ nhân viên ngoại giao và lãnh sự Mỹ tại
Têhêran, Mỹ kiện Iran dựa trên Nghị định thư về thủ tục giải quyết bắt buộc
các tranh chấp trước TAQT mà cả hai nước đã ký và phê chuẩn. Ví dụ: Theo
Điều 287, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, một quốc gia
được quyền tự do lựa chọn một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước: Tòa án
Quốc tế về Luật Biển, Tòa án Công lý quốc tế, Tòa trọng tài Quốc tế....
Chấp nhận trước thẩm quyền của tòa án bằng một tuyên bố đơn phương. Theo
phương thức này, khi cả hai quốc gia tranh chấp đều có tuyên bố đơn phương
chấp nhận trước thẩm quyền của tòa và các tuyên bố này đồng thời có cùng
phạm vi hiệu lực đối với một tranh chấp thì tòa có thẩm quyền xét xử tranh
chấp đó43. Các quốc gia có toàn quyền trong việc thể hiện ý chí của mình bằng
tuyên bố đơn phương vào bất cứ thời điểm nào, với những nội dung hoặc
những điều kiện gì để chấp nhận thẩm quyền xét xử của tòa. Thủ tục đăng ký
các tuyên bố đơn phương này được thực hiện bằng cách gửi cho tổng thư ký
Liên hợp quốc, tổng thư ký sẽ làm nhiệm vụ lưu chiểu 44. Ví dụ: Trong vụ tranh
chấp Nicaragoa kiện Mỹ về các hoạt động quân sự và bán quân sự mà Mỹ thực
hiện tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa năm 1984, thẩm quyền của Tòa án
Công lý quốc tế đã được xác lập thông qua hai tuyên bố đơn phương là Tuyên
bố của Mỹ ngày 14/8/1946 chấp nhận thẩm quyền của tòa và Tuyên bố của
Nicaragoa năm 1929 về chấp nhận thẩm quyền của Pháp viện thường trực quốc
tế (cơ quan tài phán trong khuôn khổ Hội quốc liên - tổ chức tiền thân của Liên
hợp quốc. Theo Điều 36, Quy chế Tòa án Công lý quốc tế, những quốc gia nào
chấp nhận thẳm quyền của Pháp viện thường trực quốc tế thì có thể được coi
như chấp nhận thẩm quyền của Tòa án Công lý quốc tế).
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của Tòa án công lý quốc tế
a. Các thẩm phán của Tòa án quốc tế
43
: Đ36.2, qui chế TAQT Liên hợp quốc
44
: Đ36.4, qui chế TAQT Liên hợp quốc
Tòa án có cơ cấu là một hội đồng các thẩm phán, độc lập, được lựa chọn
không căn cứ vào quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tốt,
đáp ứng các yêu cầu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định chức vụ xét xử cao nhất,
hoặc là những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế 45. Tòa án quốc tế
gồm 15 thẩm phán và số thẩm phán cần thiết để tiến hành xét xử là 9. Trong số
15 thẩm phán, không thể có hai thành viên cùng quốc tịch, được bầu chọn theo
một trình tự thủ tục do luật qui định. Thành phần Hội đồng thẩm phán phải đảm
bảo được tính đại diện, tính công bằng giữa các hệ thống pháp luật cơ bản trên
thế giới, giữa các khu vực địa lý cũng như giữa các hình thái văn hóa chủ yếu
trên thể giới46. Qui định này nhằm mục đích đảm bảo cho các quyết định của
tòa có hiệu lực cao và thu hút đông đảo các nước khác nhau trên thế giới áp
dụng biện pháp giải quyết tranh chấp giữa họ bằng con đường tòa án quốc tế
LHQ. Qui định này dựa trên tiêu chuẩn chính trị.
Các thẩm phán có nhiệm kỳ 9 năm và có thể được bầu lại. Các thẩm phán
do ĐHĐ và Hội đồng bảo an bầu ra. Bầu cử được tiến hành ba năm một lần
nhằm thay đổi một phần ba (5 thẩm phán) thành phần của tòa. Sau khi trúng cử,
15 thẩm phán sẽ tiến hành bỏ phiếu kín để bầu ra Chánh án và Phó chánh án có
nhiệm kỳ 3 năm và có thể được bầu lại. Qui chế của tòa án ghi nhận, thẩm phán
TAQT làm việc độc lập, không đại diện cho quốc gia mà họ mang quốc tịch, chỉ
đại diện cho công lý quốc tế. Trong thời gian là thẩm phán, họ không đảm
nhiệm chức trách hành chính, chính trị hoặc nghề nghiệp nào47. Tính độc lập của
thẩm phán còn thể hiện về mặt vất chất, như các khoản lương, phụ cấp, thù lao
do ĐHĐ ấn định48. Trong khi thực hiện chức năng của mình, các thẩm phán của
tòa được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao49. Qui định này nhằm mục
đích đảm bảo cho các thẩm phán không bị lệ thuộc, chi phối bởi bất cứ chính
phủ nước nào, họ phải toàn tâm toàn ý phục vụ cho tòa.
b. Thẩm phán ad hoc của tòa
Xuất phát từ điều 31 qui chế TAQT, một hoặc các bên tranh chấp có thể
đề cử các thẩm phán ad hoc (vụ việc) nếu xét thấy trong thành phần xét xử của
tòa không có thẩm phán nào mang quốc tịch nước mình. Với qui định này,
mong muốn cân bằng tình thế trước tòa giữa các bên tranh chấp, tuân thủ
nguyên tắc các bên bình đẳng trước tòa, đồng thời cũng phát huy ưu thế phương
thức trọng tài. Khi lựa chọn các thẩm phán ad hoc, cũng phải dựa trên tiêu
chuẩn của điều 2 qui chế tòa dành cho lựa chọn các thẩm phán thường trực.
Cũng cần phải lưu ý rằng, các thẩm phán ad hoc không có nghĩa vụ phải bỏ
phiếu để bảo vệ quyền lợi cho bên tranh chấp nào đã lựa chọn họ. Vị thế của các
thẩm phán ad hoc ngang bằng với các thẩm phán thường trực trong quá trình xét
xử.
45
: Đ2, qui chế TAQT Liên hợp quốc
46
: Đ9 qui chế TAQT Liên hơp quốc
47
: Điều 16 – qui chế TAQT LHQ
48
: Điều 32 – qui chế TAQT LHQ
49
: Điều 19 – qui chế TAQT LHQ
c. Các phụ thẩm của TAQT
Tòa có thể tự quyết hoặc theo yêu cầu của các bên tranh chấp đưa ra
trước khi kết thúc thủ tục viết, các phụ thẩm được đề cử tham gia vào thành
phần xét xử của tòa. Họ là những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực kỹ thuật
liên quan đến vụ tranh chấp. Với qui định này, tòa tranh thủ những ý kiến đóng
góp của các phụ thẩm, vì vậy, các phụ thẩm không có quyền biểu quyết50.
d. Thư ký tòa
Thư ký Tòa do Tòa đề cử51. Ban thư ký của TAQT là một Ban thường
trực và chỉ phụ thuộc vào tòa. Khác với Ban thư ký của LHQ (một trong sáu cơ
quan chính của LHQ). Ban thư ký của Tòa là một cơ quan hành chính cho một
Cơ quan tài phán và đồng thời là một cơ quan chính của LHQ (đó là Tòa), do
vậy tính chất của Ban thư ký tòa cũng có những dấu hiệu đặc thù: Hoạt động
của Ban thư ký tòa mang tính chất tư pháp, hành chính, tài chính và ngoại giao.
Nhân viên của ban thư ký được hưởng chế độ ưu đãi và miễn trừ ngoại giao như
nhân viên LHQ.
Lương của thư ký tòa do ĐHĐ ấn định theo đề xuất của Tòa án và cũng
được hưởng miễn mọi khoản thuế theo tinh thần khoản 8 điều 32 của qui chế
TAQT. Ban thư ký gồm chánh thư ký, phó chánh thư ký và các nhân viên.
Chánh thư ký và phó chánh thư ký do Tòa bầu theo phương thức bỏ phiếu kín
với nhiệm kỳ 7 năm.
e. Các Tòa rút gọn của TAQT LHQ
Như đã trình bày, TAQT tiến hành xét xử bởi Hội đồng toàn thể. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ hoạt động của mình, TAQT còn có loại hình gọi là Tòa
rút gọn được thành lập để giải quyết từng vụ việc cụ thể của Tòa. Thành phần
của tòa rút gọn là các thẩm phán được các bên tranh chấp có thể tham dự vào
quá trình bầu chọn thành phần xét xử của Tòa rút gọn. Theo điều 28 của qui chế
TAQT, cho phép Tòa rút gọn có thể được điều hành và thực hiện nhiệm vụ xét
xử ở ngoài Lahay, được thực hiện chức năng của mình theo lẽ công bằng và
chân lý, ngôn ngữ sử dụng do các bên tranh chấp lựa chọn. Các phán quyết của
Tòa rút gọn được coi như phán quyết của Tòa toàn thể. Căn cứ vào điều 26 và
29 qui chế TAQT, có 3 loại tòa rút gọn có thể được thành lập theo ý chí của Tòa
hoặc theo yêu cầu của các bên tranh chấp, cụ thể:
- Tòa rút gọn thành phần (tòa ad hoc), ở trường hợp này, thành phần của
tòa rút gọn do tòa án qui định dựa trên sự nhất trí của các bên 52. Thực tế cho
thấy, các bên thường thỏa thuận thành phần của tòa là 5 thẩm phán. Một số vụ
tranh chấp đã được Tòa áp dụng thông qua hình thức này là vụ Vịnh Maine

50
: K2 Đ30 – qui chế TAQT LHQ
51
: K2 Đ21 – qui chế TAQT LHQ
52
: K2 Đ26 qui chế TAQT LHQ
(Canada/Mỹ) năm 1982; vụ tranh chấp biên giới Buốc Kinaphasô /Muli năm
198553.
- Tòa đặc biệt, ở hình thức này, theo khoản 1 điều 26 qui chế của tòa qui
định, nếu thấy cần thiết Tòa có thể thành lập tòa đặc biệt gồm 3 thẩm phán hoặc
nhiều hơn phụ thuộc vào ý chí của Tòa, nhằm phân tích từng vụ việc nhất đinh
như vụ việc về lao động, quá cảnh và liên lạc quốc tế.
- Tòa rút gọn trình tự tố tụng, theo hình thức này, hàng năm tòa án lập ra
Tòa rút gọn, có thành phần gồm 5 thẩm phán (Chánh án, phó chánh án và 3
thẩm phán khác của Tòa toàn thể). Tòa này xem xét và giải quyết các vụ việc
theo trình tự xét xử sơ bộ nhằm mục đích thúc đẩy việc giải quyết các vụ việc54.
Với những qui định liên quan đến Tòa rút gọn kể trên, thể hiện rằng, Tòa
rút gọn là một loại tòa trọng tài do các bên tranh chấp lựa chọn. Đây là loại cơ
quan tài phán kết hợp được những thế mạnh của cơ quan tài phán thường trực
với thể thức xét xử trọng tài làm tăng thêm vai trò của Tòa án. Qua thức tiễn xét
xử của tòa rút gọn đã góp phần nâng cao và củng cố niềm tin của các quốc gia
đối với Tòa án quốc tế liên hiệp quốc, xứng đáng với tên gọi của tòa: “Tòa án
công lý quốc tế”
1.1.4. Thủ tục giải quyết tranh chấp tại TAQT LHQ
Thủ tục tố tụng của TAQT được qui định rõ ràng và ấn định từ trước
trong qui chế của tòa. Theo qui định tại điều 43 Qui chế tòa, thủ tục tố tụng của
TAQT LHQ gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau: Thủ tục viết và thủ tục nói.
a. Thủ tục viết
Đây là thủ tục đầu tiên trong toàn bộ quá trình xét xử giải quyết tranh
chấp tại Tòa án quốc tế. Ở giai đoạn này bao gồm các vấn đề : nộp đơn kiện ;
nộp cho Tòa Bản bị vong lục và phản bị vong lục.
Thứ nhất là: nộp đơn kiện. Theo qui định tại điều 40 Qui chế tòa, các vụ
việc được khởi kiện ở Tòa án, tùy theo từng trường hợp cụ thể, bằng thông báo
thỏa thuận thỉnh cầu hoặc bằng đơn kiện gửi cho thư ký tòa án. Như vậy, các
bên có thể đồng thuận đưa vụ việc tranh chấp của họ ra trước tòa án bằng con
đường thỏa thuận thỉnh cầu, trong trường hợp này không có bên nguyên đơn
hoặc bên bị đơn, cả hai bên tranh chấp có vị thế pháp lý như nhau trước Tòa án
quốc tế. Trường hợp thứ hai, một bên đưa tranh chấp ra trước tòa bằng một đơn
khởi kiện dựa trên cơ sở phía bên kia chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Tòa án quốc tế, trong trường hợp này xuất hiện bên nguyên đơn và bên
bị đơn trước tòa án. Trong cả hai trường hợp phải nêu rõ đối tượng tranh chấp
và các bên tranh chấp. Thông thường, thỏa thuận thỉnh cầu và đơn khởi kiện đều
phải do đại diện được cử giao dịch ký tên. Sau đó, chuyển cho Chánh thư ký tòa
bằng đường công văn ngoại giao hoặc do đại sứ của các bên liên quan trao tận
53
: Nguyễn Hồng Thao, Tòa án công lý quốc tế, sđd, tr.52
54
: Điều 29 – qui chế TAQT LHQ
tay. Thư ký tòa sẽ chuyển đơn ngay lập tức cho phía bên kia và tất cả các nước
thành viên Qui chế của Tòa55. Mục đích của việc thông báo này để bên bị đơn
biết rõ đồng thời giúp bên thứ ba có thể có quyền lợi liên quan sẽ xem xét quyết
định rằng họ có nên xin tòa cho can dự hay không.
Thứ hai là: nộp cho Tòa Bản bị vong lục và phản bị vong lục. Ở bước
này, các bên phải chú ý sao cho nộp bản bị vong lục và phản bị vong lục đúng
qui định về thời gian. Trong qui chế của tòa, không qui định thời gian nộp các
Bản bị vong lục và phản bị vong lục là bao nhiêu ngày, vì vậy, tùy từng trường
hợp mà tòa ấn định thời gian. Nội dung các bản bị vong lục và phản bị vong lục
phải trình bày rõ, chi tiết các điểm về sự kiện và pháp lý (Điều 44, nội qui của
Tòa). Ngoài ra, các bên phải nộp tất cả các giấy tờ và tài liệu liên quan làm cơ
sở. Mọi giấy tờ của các bên nộp cho Tòa thì đồng thời cũng phải chuyển cho
bên kia bằng văn bản sao có chứng thực56. Về trình tự nộp các Bản bị vong lục
và phản bị vong lục trong qui chế tòa không qui định, thông thường, nếu tranh
chấp được đưa ra trước tòa bằng con đường đơn kiện của nguyên đơn, Tòa ấn
định thời gian bên nguyên gửi bị vong lục và sau đó là bên bị gửi phản bị vong
lục. Trong trường hợp tranh chấp được đưa ra trước Tòa bằng thỏa thuận thỉnh
cầu, các bên sẽ thỏa thuận trong bản thỏa thuận thỉnh cầu đó số lượng và thời
gian nộp các bị vong lục và phản bị vong lục. Các bên có thể thỏa thuận mỗi
bên nộp một bị vong lục, sau đó là một phản bị vong lục. Ví dụ, trong vụ tranh
chấp biên giới. Buốc kinô phasô/ Mali, mỗi bên nộp một Bi vong lục và một
Phản bị vong lục57. Trường hợp tòa thấy trong các Bản bị vong lục và Phản bị
vong lục chưa rõ ràng, tòa có quyền yêu cầu các bên nộp bổ sung Bản phân
tích58. Cần lưu ý, ở bước này các bên phải cố gắng thu thập tài liệu chứng cứ
cho thật đầy đủ gửi cho Tòa, bởi khi bắt đầu thủ tục nói, các chứng cứ chỉ được
chấp nhận khi phía bên kia đồng ý59.
Thủ tục viết thường bao gồm 2 bước như trên. Tuy nhiên, trong quá trình
xét xử của Tòa, cũng nảy sinh những ngoại lệ làm thay đổi quá trình xét xử
thông thường của Tòa như: Bên bị đơn đưa ra lý lẽ bác bỏ thẩm quyền của Tòa,
bên bị đơn có thể vắng mặt, bên thứ ba xin được tham dự khi nhận thấy quyền
lợi của họ liên quan đến phán quyết của Tòa, các bên yêu cầu tòa đưa ra các
biện pháp bảo đảm tạm thời, hợp nhất các vụ kiện. Với những trường hợp ngoại
lệ này, tòa phải thực hiện một số thủ tục cần thiết như : Tòa áp dụng các biện
pháp cần thiết để xác định thẩm quyền xét xử của mình. Việc xác định này do
chính tòa xem xét và quyết định; Tòa áp dụng những biện pháp bảo đảm tạm
thời để bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên, phải có thông báo ngay cho các
bên và Hội đồng bảo an. Thủ tục viết được coi như kết thúc sau khi Bị vong lục
của bên nguyên đã được chấp nhận và thời gian dành cho bên bị đơn gửi Phản
55
: Điều 40 – qui chế TAQT LHQ
56
: K3 và K4 Đ43 – qui chế TAQT LHQ
57
: Nguyễn Hồng Thao, Tòa án công lý quốc tế, sđd, tr.52
58
: Điều 40 – qui chế TAQT LHQ
59
: Điều 52 – qui chế TAQT LHQ
bị vong lục đã kết thúc. Trong trường hợp này, tòa xét thấy một bên không trình
diện trước tòa hoặc không đưa ra lý lẽ của mình, theo yêu cầu của bên còn lại,
tòa sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo: Thủ tục nó60.
b. Thủ tục nói:
Thủ tục nói được hiểu là quá trình tranh tụng của các bên tranh chấp được
phép tiến hành trước tòa và dưới sự điều hành của Hội đồng xét xử. Tranh tụng
được tiến hành dưới sự chủ trì của Chánh án hoặc Phó chánh án 61. Tranh tụng
được tiến hành công khai, nếu như không có quyết định khác của Tòa án hoặc
không có yêu cầu của các bên62. Mỗi phát biểu, trình bày quan điểm, ý kiến về
nội dung vụ việc của mỗi bên tại phiên họp công khai cần phải được thể hiện rõ
ràng, cụ thể và chính xác, chỉ ra các điểm bắt đồng giữa hai bên, bởi lẽ tất cả các
lập luận và các sự kiện đã được các bên phân tích trong các Bản bị vong lục và
phản bị bị vong lục ngay từ giai đoạn viết rồi, để tiết kiệm thời gian các bên
không nhất thiết nhắc lại tất cả những sự kiện và lập luận đó ở giai đoạn nói
nữa.
Sau khi các đại diện của các bên đã trình bày ý kiến tranh tụng của mình,
các tư vấn và luật sư trình bày xong các lý lẽ của mình về vụ án, Chánh án của
tòa sẽ tuyên bố chấm dứt tranh tụng và chuyển sang phần nghị án, việc nghị án
của Tòa được tiến hành thông qua các phiên họp không công khai và được giữ
bí mật63. Vụ kiện được quyết định bằng phán quyết của Tòa án với đa số phiếu
của các thẩm phán có mặt. Trường hợp số phiếu ngang nhau, thì lá phiếu của
Chánh án hoặc người thay thế chánh án sẽ có tính quyết định64.
Phán quyết của Tòa án sẽ được Chánh án tuyên đọc công khai tại tòa và
tất cả các thẩm phán tham gia bỏ phiếu phải có mặt. Theo điều 60 của Qui chế
tòa, phán quyết của Tòa có giá trị chung thẩm và không được kháng cáo. Đây là
một trong những đặc thù của Tòa án công lý quốc tế so với một số phương thức
trọng tài quốc tế cũng như phương thức tài phán của các tổ chức quốc tế như
WTO, ASEAN có hai cấp xét xử. Ngoài ra, điều 60 của qui chế tòa còn ghi
nhận, trong trường hợp có sự bất đồng về việc giải thích phán quyết của tòa,
theo yêu cầu của bất kỳ bên nào, chính Tòa sẽ có thẩm quyền giải thích. Phán
quyết của tòa chỉ có giá trị đối với các bên tranh chấp và chỉ trong vụ án đó 65.
Trừ trường hợp, nếu bên thứ ba được tòa cho can dự vì : Liên quan đến quyền
lợi có tính pháp lý của họ66 hoặc Họ xin can dự vì liên quan đến việc giải thích
điều ước quốc tế mà họ cũng là thành viên của ĐƯQT 67, thì phán quyết của tòa
còn có giá trị ràng buộc đối với bên thứ ba này.
60
: K1 Đ53 – qui chế TAQT LHQ
61
: Điều 45 – qui chế TAQT LHQ
62
: Điều 46 – qui chế TAQT LHQ
63
: Điều 54 – qui chế TAQT LHQ
64
: Điều 55 – qui chế TAQT LHQ
65
: Điều 59 – qui chế TAQT LHQ
66
: Điều 62 – qui chế TAQT LHQ
67
: Điều 63 – qui chế TAQT LHQ
Cũng theo điều 60 của Qui chế tòa, phán quyết của Tòa chỉ có giá trị
trong vụ án đó. Điều đó khẳng định, phán quyết của Tòa án công lý quốc tế
không được coi là nguồn của LQT, không tạo thành tiền lệ bắt buộc áp dụng
cho các trường hợp khác. Bởi, xuất phát từ bản chất của luật quốc tế là sự thỏa
thuận, phán quyết của tòa là ý chí của Hội đồng xét xử dựa trên luật pháp quốc
tế, chứ không dựa trên ý chí của các bên tranh chấp. Qui định tại điều 60 hoàn
toàn phù hợp với điều 38 của Qui chế tòa. Mặc dù vậy, trên thực tế, tòa luôn cố
gắng bảo đảm sự hài hòa giữa những phán quyết trước đó với các phán quyết có
sau. Các quốc gia có thể áp dụng những nguyên tắc mà tòa đưa ra trong vụ ngư
trường Nauy, liên quan đến phương pháp đường cơ sở thẳng áp dụng trong phân
định lãnh hải để lý giải cho lập luận của họ liên quan đến vụ tranh chấp tương
tự. Nguyên tắc đường cơ sở thẳng thể hiện trong phán quyết của Tòa, đã trở
thành các tiêu chuẩn mới của LQT, thể hiện trong Điều 7 Công ước luật biển
198268.
Trong trường hợp phát hiện ra các sự kiện pháp lý mà tòa đã không biết
đến trong quá trình xét xử, đồng thời các sự kiện này có ảnh hưởng, tác động
đến quyết định của Tòa, thì bất kỳ bên nào cũng có quyền yêu cầu Tòa sửa đổi
lại phán quyết. Yêu cầu sửa đổi phải đưa ra trong thời hạn chậm nhất là 6 tháng
sau khi phát hiện ra sự kiện mới và trong vòng 10 năm kể từ ngày phán quyết
được công bố công khai.
1.1.5. Trình tự tố tụng đưa ra kết luận tư vấn của TAQT
Như đã trình bày ở mục 1.1.2. Tòa án quốc tế có hai chức năng chính:
chức năng giải quyết tranh chấp quốc tế và đưa ra kết luận tư vấn. Theo qui định
tại điều 68 Qui chế TAQT, trong khi thực hiện chức năng tư vấn của mình, Tòa
án có thể dựa vào những qui định được áp dụng trong thủ tục giải quyết tranh
chấp, nếu Tòa công nhận là chúng có thể áp dụng được. Điều này cho thấy trình
tự tố tụng đưa ra kết luận tư vấn về cơ bản tương tự như trình tự giải quyết tranh
chấp, gồm 2 thủ tục chính: thủ tục viết và thủ tục nói. Quá trình xác lập nội
dung kết luận tư vấn cũng giống như quá trình Tòa nghị án giải quyết tranh
chấp quốc tế. Vì vậy, ở phần này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số đặc thù: Chủ
thể và điều kiện được tòa án đưa ra kết luận tư vấn; Giá trị của kết luận tư vấn.
- Chủ thể và điều kiện được tòa đưa ra kết luận tư vấn
Theo qui định tại khoản 1 điều 65 của Qui chế tòa và điều 96 của Hiến
chương LHQ, chủ thể có thẩm quyền yêu cầu Tòa kết luận tư vấn chỉ có ĐHĐ
và HĐBA yêu cầu Tòa cho kết luận tư vấn về mọi vấn đề có liên quan. Ngoài
ra, 17 tổ chức chuyên môn của LHQ69 và các cơ quan khác của LHQ, như Hội
68
: K1 Đ7 Công ước luật biển 1982 qui định: Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi
đảo nằm sát ngay dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử
dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
69
: Võ Anh Tuấn – Hệ thống Liên hợp quốc, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, Tr. 158 – 218: Có 17 tổ chức
chuyên môn, đó là: Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức lương thực và nông nghiệp (FAO), Tổ chức văn
hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF),
Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO), Liên hiệp bưu chính thế giới (UPU), Liên minh viễn thông
đồng kinh tế – xã hội, Hội đồng quản thác cũng có quyền đưa ra yêu cầu kết
luận tư vấn nhưng chỉ trong phạm vi hoạt động của mình và phải được ĐHĐ
cho phép. Như vậy, nếu như quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền tranh tụng
trước tòa để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa họ, thì chủ thể có quyền
yêu cầu tòa đưa ra kết luận tư vấn chỉ gồm có ĐHĐ, HĐBA; các cơ quan khác
của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế chuyên môn. Quốc gia và các tổ chức
quốc tế liên chính phủ khác như ASEAN, EU không có quyền này. Tại sao Tòa
lại hạn chế thẩm quyền này đối với các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác và
với các quốc gia? Hơn nữa, Tổng thư ký liên hợp quốc là người đại diện cho
LHQ, theo dõi quá trình duy trì hòa bình và an ninh quốc tế nhằm mục đích cao
cả của LHQ lại không có thẩm quyền yêu cầu tòa cho kết luận tư vấn? Những
vấn đề này cần phải được xem xét thấu đáo. Nên chăng, hãy mở rộng thẩm
quyền yêu cầu tòa cho kết luận tư vấn đối với các chủ thể này.
Cũng cần lưu ý rằng, việc yêu cầu tòa đưa ra kết luận tư vấn là quyền của
các chủ thể được xác định, tuy nhiên tòa có đưa ra kết luận tư vấn hay không
thuộc quyền quyết định của Tòa, Tòa có thể từ chối không đưa ra kết luận tư
vấn của mình khi có đầy đủ cơ sở pháp lý để từ chối. Thực tiễn cho thấy, TAQT
đã từ chối, không đưa ra kết luận tư vấn về Tính hợp pháp của việc sử dụng vũ
khí hạt nhân theo yêu cầu của tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 1986. Lý do là
yêu cầu có nội dung như vậy không thuộc lĩnh vực chuyên môn của WHO, theo
tinh thần của khoản 2 điều 96 của Hiến chương Liên hợp quốc.
- Giá trị của kết luận tư vấn. Nếu như phán quyết giải quyết tranh chấp
quốc tế của tòa án có giá trị chung thẩm và Liên hợp quốc có cơ chế đảm bảo
cho phán quyết của tòa được thực thi một cách triệt để 70, thì ngược lại, kết luận
tư vấn của TAQT không có giá trị ràng buộc đối với các chủ thể có quyền yêu
cầu tòa, nó chỉ có tính chất khuyến nghị71. Nếu vậy các chủ thể kể trên sẽ kết
thúc những xung đột, bất đồng bằng cách nào? Những bên yêu cầu kết luận tư
vấn có quyền kết thúc vấn đề bằng các biện pháp, phương tiện của riêng mình,
bởi lẽ luật quốc tế cho phép họ được quyền tự do lựa chọn và kết hợp nhiều biện
pháp hòa bình để giải quyết những bất đồng, xung đột. Đồng thời, luật quốc tế
cũng không có qui định nào cấm các chủ thể này chấp nhận hiệu lực ràng buộc
của kết luận tư vấn mà họ đã được Tòa tư vấn cho. Thực tiễn này đã được tổ
chức lương thực và nông nghiệp quốc tế – FAO chấp nhận hiệu lực của kết luận
tư vấn do TAQT đưa ra.
Tóm lại: Qua 65 năm tồn tại và phát triển, TAQT đã thể hiện rõ vai trò
của mình với tư cách là một cơ quan tư pháp của LHQ, hoạt động vì tôn chỉ của
LHQ trước hết và quan trọng nhất là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Với
123 vụ tranh chấp được tòa phân xử và 26 kết luận tư vấn đã được tòa đưa ra
(ITU), Tổ chức khí tượng thế giới (OMM – WMO), Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO), Tổ chức sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO), Quĩ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức phát triển công nghiệp liên hợp quốc
(UNIDO), Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
70
: Điều 94 – Hiến chương LHQ
71
: Điều 96 – Hiến chương LHQ
(tính đến tháng 5 năm 2011)72. Tuy số lượng không nhiều nhưng đã góp phần
quan trọng trong việc khôi phục lại trật tự pháp lý quốc tế, phát triển và hoàn
thiện luật pháp quốc tế.
1.2. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại Hội đồng bảo an (quan trọng)
Hội đồng bảo an là cơ quan hạn chế, thường trực và đặc thù của LHQ.
Hội đồng bảo an gồm 15 thành viên, trong đó 5 ủy viên thường trực được chỉ
định rõ trong hiến chương và có quyền phủ quyết (Anh, Pháp, Nga, Mỹ, Trung
Quốc) 10 ủy viên không thường trực được ĐHĐ bầu theo nhiệm kì 2 năm. Chức
năng và nhiệm vụ của HĐBA rất rộng và tập trung chủ yếu hai lĩnh vực: Giải
quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế (chương VI của Hiến chương) và duy trì
hòa bình và đấu tranh chống xâm lược (chương VII của Hiến chương). Như vậy
giải quyết tranh chấp quốc tế là một trong hai lĩnh vực chủ yếu của HĐBA.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp chấp quốc tế của HĐBA được ghi nhận tại
chương VI của Hiến chương (từ điều 33 đến điều 38). Dựa trên những qui định
của chương này, có thể khẳng định HĐBA có toàn quyền giải quyết các tranh
chấp quốc tế phát sinh trong đời sống quốc tế. Thẩm quyền này được thực hiện
theo hai loại tranh chấp: tranh chấp định danh và tranh chấp thông thường
- Tranh chấp định danh
Như đã đề cập ở mục I về phân loại tranh chấp quốc tế, tranh chấp định
danh là loại tranh chấp quốc tế mà việc kéo dài sẽ đe dọa hòa bình và an ninh
quốc tế. Dựa theo qui định của điều 34 Hiến chương LHQ, HĐBA là cơ quan
duy nhất có quyền điều tra, xem xét tranh chấp nào là tranh chấp định danh.
Đây được coi là thẩm quyền đương nhiên của HĐBA (thẩm quyền theo Hiến
chương), bên cạnh đó, HĐBA còn có thẩm quyền nghiên cứu những tranh chấp
định danh theo kiến nghị của Tổng thư ký LHQ73, của ĐHĐ74 và của một quốc
gia (hoặc các quốc gia)75. Điều cần lưu ý là không chỉ quốc gia thành viên LHQ
mới có quyền yêu cầu HĐBA hoặc ĐHĐ lưu ý tới mỗi vụ tranh chấp định danh
hoặc tình thế quốc tế như vậy, mà cả quốc gia không phải là thành viên LHQ có
thể yêu cầu HĐBA lưu ý đến bất cứ tranh chấp định danh nào mà họ là một bên
tranh chấp với điều kiện quốc gia này phải thừa nhận nghĩa vụ giải quyết hòa
bình các tranh chấp theo qui định của Hiến chương LHQ. Việc mở rộng cho
nhiều chủ thể nói trên có quyền lưu ý tới HĐBA hoặc ĐHĐ phải xem xét những
tranh chấp nguy hiểm này nhằm mục đích đảm bảo không chỉ cho các cơ quan
chức năng của Liên hợp quốc quan tâm mà cho tất cả các quốc gia luôn có ý
thức đối với cộng đồng và vị vậy cho phép họ được quyền đòi hỏi quan tâm tới
các vụ việc quốc tế cụ thể.
Sau khi điều tra và HĐBA xác định đó là tranh chấp định danh, Hội đồng
bảo an sẽ mời gọi các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp bằng một trong
72
: http://www.icj-cij.org/docket/index.php?p1=3&p2=2 (Truy cập ngày 20/10/2011)
73
: Điều 99 – Hiến chương LHQ
74
: Khoản 3 Điều 11 – Hiến chương LHQ
75
: Khoản 1 và 2 Điều 35 – Hiến chương LHQ
những phương thức nêu ở khoản 1 điều 33 Hiến chương, đó là: đàm phán, điều
tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, thông qua các tổ chức quốc tế hay các
hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác do họ tự chọn.
Quyền hạn này của HĐBA còn được mở rộng và phát triển theo điều 36 Hiến
chương, theo đó trong bất kỳ giai đoạn nào của tranh chấp định danh, thì HĐBA
có thể khuyến nghị các bên một trình tự và biện pháp giải quyết thích đáng. Bên
cạnh đó, HĐBA cũng lưu ý đến biện pháp giải quyết mà các bên tranh chấp đã
tiến hành nhằm giải quyết các tranh chấp quốc tế (khoản 2 điều 36 Hiến
chương).
Như vậy, khi thực hiện thẩm quyền này, HĐBA giữ những vai trò khác
nhau trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế thể hiện qua việc sử dụng các biện
pháp hòa bình khác nhau như: Biện pháp điều tra (điều 34), biện pháp trung
gian (khoản 2 điều 37). Khi sử dụng các biện pháp nói trên, HĐBA đưa ra các
quyết định phù hợp, trên cơ sở của Chương VI. Từ lý luận của khoa học luật
quốc tế, với vai trò là bên điều tra trung gian, hòa giải thì các quyết định của các
cơ quan này không có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp, chỉ mang
tính khuyến nghị mà thôi.
- Tranh chấp thông thường
Theo khoa học luật quốc tế, tranh chấp thông thường là loại tranh chấp
mà nếu như kéo dài thì cũng không có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh
quốc tế. Trong chương VI của Hiến chương không đề cập tới lĩnh vực tranh
chấp nào, thương mại hay môi trường, văn hóa hay nhân quyền, đó là tranh
chấp nói chung phát sinh trong đời sống quốc tế giữa các quốc gia với nhau và
không có nguy cơ đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế.
Điều 38 của Hiến chương qui định, trong bất kỳ vụ tranh chấp nào do các
bên đệ trình, thì HĐBA có thể giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế đó
bằng cách đưa ra các khuyến nghị. Cần phải nhìn nhận rằng, việc áp dụng qui
định này chỉ có thể được thực hiện với điều kiện được sự đồng ý của các bên
tranh chấp yêu cầu HĐBA. Khuyến nghị được HĐBA đưa ra trên cơ sở của điều
38 Hiến chương không có hiệu lực ràng buộc, bởi vì HĐBA tham gia giải quyết
tranh chấp với tư cách cơ quan hòa giải, với nhiệm vụ đưa ra chỉ dẫn kiến nghị
các bên nên làm gì để giải quyết hiệu quả các tranh chấp, chứ không bắt buộc
các bên phải thực hiện hành vi cụ thể nào giải quyết tranh chấp giữa họ.
Tóm lại, dựa trên cơ sở qui định tại chương VI của Hiến chương, có thể
khẳng định rằng, HĐBA có thẩm quyền rộng lớn trong việc giải quyết tranh
chấp quốc tế giữa các quốc gia: Giải quyết tranh chấp định danh và tranh chấp
thông thường với các vai trò khác nhau như điều tra, trung gian, hòa giải thể
hiện qua việc sử dụng các biện pháp hòa bình khác nhau. Trong tất cả các
trường hợp nói trên, HĐBA đưa ra các khuyến nghị phù hợp, và các khuyến
nghị này không có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp, khẳng định này
đồng thời muốn nhấn mạnh rằng: Không nên nhầm lẫn giữa các quyết định của
HĐBA đưa ra trên cơ sở của chương VI Hiến chương, chỉ mang tính khuyến
nghị (ví dụ: tháng 3/2011 HĐBA đã đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp liên
quan đến ngôi đền Presh Vihear giữa Campuchia và Thái Lan, HĐBA đã đánh
giá cao vai trò của ASEAN và khuyến nghị các bên tranh chấp đưa vụ việc cho
ASEAN giải quyết). Với quyết định của HĐBA đưa ra trên cơ sở chương VII
của Hiến chương, hành động trong trường hợp hòa bình bị đe dọa hoặc có hành
vi xâm lược, những quyết định này có giá trị pháp lý bắt buộc. Ví dụ:
06/08/1990 HĐBA ra quyết định trừng phạt Irắc, do Irắc có hành vi xâm lược
Cô Oét, phong tỏa đường hàng không và đường biển đối với Irắc mà tất cả các
quốc gia kể cả hội viên của LHQ cũng như quốc gia không phải là hội viên
LHQ đều phải triệt để chấp hành.
3.1.3. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại ĐHĐ và tổng thư ký LHQ
(tham khảo )
ĐHĐ là cơ quan quyết định chính của LHQ, bao gồm đại diện của tất cả
các quốc gia thành viên và là cơ quan toàn thể duy nhất. ĐHĐ có thẩm quyền
thảo luận tất cả các vấn đề hoặc các công việc thuộc phạm vi Hiến chương, hoặc
thuộc quyền hạn và chức năng của bất kỳ 1 cơ quan nào của LHQ được ghi
trong Hiến chương, trừ những vấn đề được qui định trong điều 12 của Hiến
chương76. Trên cơ sở tuân thủ điều 12 Hiến chương, ĐHĐ có quyền đưa ra
khuyến nghị về việc áp dụng các biện pháp thích hợp để giải quyết hòa bình
mọi tình thế nảy sinh bất kỳ từ nguồn gốc nào, mà theo sự nhận xét của ĐHĐ,
có thể làm hại đến lợi ích chung, hoặc gây tổn hại cho các quan hệ hữu nghị
giữa các nước77. Điều đó có thể khẳng định rằng ĐHĐ có thẩm quyền rất rộng
lớn và trong đó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đinh danh. Tuy nhiên, khác
với Hội đồng bảo an, quyền hạn giải quyết tranh chấp định danh của ĐHĐ là có
hạn chế, được thể hiện tại nội dung của diều 12 Hiến chương, đó là: Khi HĐBA
thực hiện những chức năng được Hiến chương này qui định đối với một vụ
tranh chấp hay một tình thế nào đó, thì ĐHĐ không được đưa ra một kiến nghị
nào về tranh chấp hay tình thế ấy, trừ khi được Hội đồng bảo an yêu cầu. Điều
này cho thấy, ĐHĐ có thể không giải quyết vụ việc tranh chấp đến tận cùng, bởi
vì đến mức độ nào đó, tranh chấp sẽ phải chuyển sang cho Hội đồng bảo an giải
quyết. Do đó, khi đề nghị LHQ quan tâm tới các vụ tranh chấp định danh hoặc
tình thế quốc tế như vậy, quốc gia hữu quan phải tự cân nhắc và phải quyết định
rằng, vụ việc đó sẽ đưa cơ quan nào xem xét, HĐBA hay là ĐHĐ.
Ngoài HĐBA và ĐHĐ có vị trí quan trọng trong cơ chế giải quyết tranh
chấp quốc tế của LHQ, thì Tổng thư ký LHQ cũng có vị thế nổi bật trong giải
quyết tranh chấp quốc tế. Tổng thư ký hoạt động với tư cách viên chức hành
chức cao nhất của LHQ tại tất cả các cuộc họp của ĐHĐ, HĐBA, HĐKT – XH
và Hội đồng quản thác78. Cũng cần nhìn nhận rằng, mặc dù Tổng thư ký tham
76
: Điều 10 Hiến chương LHQ
77
: Điều 14 Hiến chương LHQ
78
: Điều 98 Hiến chương LHQ
gia vào các cuộc họp của các cơ quan này vì lợi ích của LHQ, ông ta không
được thỉnh cầu hoặc chấp nhận những chỉ thị từ bất kỳ một chính phủ hay bất kỳ
cơ quan nào khác ngoài LHQ79. Hơn nữa, những quyết định của những cơ quan
này được thông qua bằng hình thức bỏ phiếu của các quốc gia thành viên trong
cơ quan đó, mà Tổng thư ký LHQ không được phép đại diện cho bất cứ quốc
gia nào, vì vậy ông ta không có quyền biểu quyết thông qua quyết định của
những cơ quan này. Ngoài ra, tổng thư ký còn có quyền thực hiện các chức
năng khác được các cơ quan này giao phó như được ĐHĐ và HĐBA giao phó
với vai trò trung gian, hòa giải khi giải quyết tranh chấp quốc tế. Điều 99 của
Hiến chương còn mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp định danh cho
Tổng thư ký, đó là, Tổng thư ký có thể lưu ý HĐBA về bất cứ vấn đề nào mà
theo ông ta, có thể đe dọa hòa bình và an ninh thế giới
2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của Liên minh Châu Âu – EU,
ASEAN (tham khảo)

79
: Điều 100 Hiến chương LHQ

You might also like