You are on page 1of 21

Giáo trình CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

CHƯƠNG 2
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ

3. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh các tranh chấp quốc tế
3.1 Sự hình thành nguyên tắc
Nguyên tắc này là hệ quả pháp lý tất yếu của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực,
bởi nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực sẽ không có giá trị pháp ý ràng buộc các chủ thể luật
quốc tế nếu như không có nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.
Mặc dù luật quốc tế ngay từ buổi bình minh đã không còn xa lạ với các biện pháp hòa bình giải quyết tranh
chấp như ngoại giao, đàm phán, trung gian,… nhưa chưa có những quy phạm bắt buộc các quốc gia phải giải quyết
tranh chấp chỉ bằng phương pháp hòa bình mà không bằng vũ lực. Trong hệ thống Công ước Lahaye 1899 và 1907
có Công ước về hòa bình giải quyết xung đột quốc tế, tuy nhiên, Công ước cũng chỉ kêu gọi các quốc gia “với khả
năng có thể thì ngăn ngừa việc dùng vũ lực” và “sử dụng tối đa các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng
vũ khí”.
Hiệp ước Paris năm 1928 về khước từ chiến tranh đã tuyên bố cấm chiến tranh xâm ược và nêu rõ trách
nhiệm cảu các quốc gia chỉ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình. Điều 2 của Hiệp ước đã khẳng định
các bên “công nhận rằng việc điều chỉnh hoặc giải quyết mọi tranh chấp, xung đột phát sinh với bất kỳ tính chất và
nguyên nhân nào chỉ có thể tiến hành bằng các phương pháp hòa bình”. Trước khi có Hiệp ước Paris 1928, các biện
pháp hòa bình chỉ là một trong những khả năng để giải quyết tranh chấp quốc tế. Sau khi Hiệp ước ra đời, việc giải
quyết mọi tranh chấp hay bất đồng chỉ được thực hiện thông qua các biện pháp hòa bình.

Nguyên tắc này được chính thức thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế lần đầu tiên trong Hiến
chương Liên hợp quốc: “Tất cả các Thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình,
theo cách không làm nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế, và công lý” (khoản 3 Điều 2 Hiến chương), đồng
thời, tại Điều 33, Hiến chương cũng đã xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế:
“1. Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến
hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm
phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực,
hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình.

1. Hội đồng Bảo an, nếu thấy cần thiết, sẽ yêu cầu các đương sự giải quyết tranh chấp của họ bằng các
biện pháp nói trên.”

Nội dung của nguyên tắc này một lần nữa được khẳng định và quy định cụ thể trong Tuyên bố ngày
24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc và nhiều văn kiện pháp lý khác như Định ước Henxinki 1975, Tuyên
bố Madrite về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế năm 1982, Hiến chương của tổ chức các quốc gia châu Mỹ
Latinh,…
3.2 Nội dung nguyên tắc
3.2.1 Tranh chấp quốc tế và tình thế
Để hiểu nội dung của nguyên tắc, trước hết ta cần nắm rõ khái niệm “tranh chấp quốc tế”. Hiện nay chưa có
định nghĩa chính xác được thừa nhận rộng rãi về tranh chấp quốc tế, tuy nhiên, đa số các tác giả đều cho rằng tranh
chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ thể luaatjq uốc tế và những bất đồng về các vấn đề cơ bản của
quan hệ quốc tế cũng như các ý kiến khác nhau trong việc giải thích điều ước quốc tế.
“Tình thế” là một khái niệm rộng hơn nhưng lại được xác định ít hơn so với “tranh chấp”. Thông thường,
khái niệm “tranh chấp mang tính chất pháp lý nhiều hơn, còn khái niệm “tình thế” thường thiên về chính trị hơn. Vì
vậy, Tòa án quốc tế có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp chứ không giải quyết tình thế. Việc xác định vấn đề
nào đó có là tranh chấp hay tình thế thuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an. Trong thực tiễn haotj động cua mình,
Hội đồng bảo an không đưa ra các tiêu chí cụ thể mà vấn đề chỉ được xem xét trong hoàn cảnh cụ thể. Trong hoạt
động của mình, Hội đồng bảo an đã ra nhiều nghị quyết về vá tình thế có thể đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế như
nghị quyết về tình hình Nam Phi năm 1960, về tình hình Nam Tư cũ năm 1993, 1994,…
Tóm tại, sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp và tình thế là mọi tranh chấp đều có các bên chủ thể luật quốc
tế tham gia, còn trong mọi tình thế không phải bao giờ cũng có sự tham gia của các bên chủ thể. Hai khái niệm này
có sự gắn bó và tác động qua lại bởi mọi tranh chấp hay tình thế kéo dài đều có thể đe dọa việc duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế. và đôi khi tình thế có thể gây ra tranh chấp quốc tế.
3.2.2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc
Theo tinh thần của Tuyên bố ngày 24/10/1970, nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế bao gồm
các nội dung cơ bản sau:
- Tất cả các quốc gia sẽ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, không
phương hại đến hòa bình, an ninh, và công lý quốc tế. Các biện pháp hòa bình có thể là đàm phán, trung gian, hòa
giải, trọng tài hoặc tòa án…

- Trong trường hợp không đạt được một giải pháp để giải quyết tranh chấp với các biện pháp
nêu trên, các bên có nghĩa vụ tiếp tục tìm kiếm những biện pháp hòa bình khác để giải quyết tranh chấp mà các bên
đã thỏa thuận.

- Các quốc gia trong tranh chấp có nghĩa vụ từ bỏ bất kỳ hành vi nào có thể làm trầm trọng thêm
tình hình hiện tại và gây nguy hiểm cho việc giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới, có nghĩa vụ hành động phù hợp
với những mục đích và nguyên tắc của Liên hợp quốc

- Các tranh chấp quốc tế được giải quyết trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia và
phù hợp và tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp

- Không có điều nào nói trên có ảnh hưởng hoặc phương hại đến những điều khoản có thể áp
dụng của Hiến chương, đặc biệt là những điều khoản liên quan đến việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, đàm phán trực tiếp là biện pháp tốt nhất để giải quyết nhanh chóng tranh chấp quốc tế,
bảo đảm quyền bình đẳng của các bên và dễ đi đến thỏa thuận nhượng bộ lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của quá
trình hội nhập khu vực và quốc tế trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế cũng quan tâm đến các biện pháp
thông qua tổ chức để giải quyết tranh chấp quốc tế như EU, ASEAN,… và Liên hợp quốc.

CHƯƠNG 19
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ
1. Khái niệm tranh chấp quốc tế
Trong quá trình cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh để phát triển của các quốc gia, việc các tranh chấp phát
sinh, tồn tại giữa họ là điều tất yếu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, khi các mối quan hệ hợp tác lệ thuộc giữa các
quốc gia ngày càng trở lên phổ biến, sâu sắc thì nguy cơ phát sinh các tranh chấp giữa họ cũng ngày càng trở lên
thường trực. Tính chất và quy mô của các tranh chấp do vậy cũng phức tạp và rộng lớn hơn.
Xét một cách khái quát nhất, tranh chấp quốc tế được hiểu là một trạng thái hay tình huống quốc tế mà trong
đó các chủ thể tham gia có sự bất đồng, mâu thuẫn với nhau về quan điểm, có những đòi hỏi quyền lợi trái ngược
nhau.
Trong thực tiễn, một số thuật ngữ có thể được dùng thay thế cho thuật ngữ tranh chấp quốc tế, chẳng hạn
thuật ngữ tranh cãi quốc tế; bất đồng quốc tế; mâu thuẫn quốc tế; xung đột quốc tế. Trong các trường hợp đầu, các
thuật ngữ được sử dụng ít thông dụng và ít tính pháp lý hơn. Trong trường hợp sau cùng, xung đột quốc tế cũng
được hiểu là một tình huống tranh chấp quốc tế nhưng có tính chất vũ trang.
Tính chất quốc tế của một tranh chấp quốc tế thể hiện ở việc các bên tham gia tranh chấp là những quốc gia,
hoặc các thể khác của Luật quốc tế. Việc giải quyết các tranh chấp này phải dựa trên pháp luật quốc tế (Công pháp
quốc tế), theo một cơ chế hay bởi một cơ quan tài phán có tính chất quốc tế. Điều này cho phép phân biệt khái niệm
tranh chấp quốc tế sử dụng trong Luật quốc tế với khái niệm tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dân sự.
Những tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dân sự là những tranh chấp giữa các bên là cá nhân, pháp nhân
mang quốc tịch của các quốc gia khác nhau. Việc giải quyết chúng về nguyên tắc phải áp dụng các quy định của
pháp luật quốc gia và trước các cơ quan tài phán của quốc gia.
Trong trường hợp rất cá biệt, có thể tồn tại những tranh chấp giữa quốc gia với các cá nhân, pháp nhân của
quốc gia khác và được giải quyết theo một cơ chế thực sự mang tính chất quốc tế. Ví dụ về trường hợp này là tranh
chấp giữa quốc gia với nhà đầu tư của quốc gia khác, được giải quyết tại Trung tâm quốc tế về giải quyết các tranh
chấp đầu tư (ICSID) trên cơ sở Công ước Washington ngày 18 tháng 3 năm 1965. Theo quy định của Công ước
Washington, Trung tâm ICSID có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên cơ sở sự thoả thuận giữa các bên là quốc
gia tiếp nhận đầu tư và
nhà đầu tư của nước thành viên khác của Công ước. Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp do các bên lựa
chọn, hoặc pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và Luật quốc tế. Đây có thể được coi là một dạng tranh chấp quốc tế
“hỗn hợp” và không được bao hàm trong khái niệm tranh chấp quốc tế trong Luật quốc tế.
2. Phân loại tranh chấp quốc tế
Tuỳ thuộc vào tiêu chỉ được sử dụng, tranh chấp quốc tế có thể được phân thành nhiều loại khác nhau. Việc
phân loại có ý nghĩa quan trọng trong xác định cơ chế, thủ tục thích hợp để giải quyết các tranh chấp quốc tế .
Nếu căn cứ vào tư cách các chủ thể của tranh chấp, có tranh chấp giữa các quốc gia và tranh chấp giữa các
quốc gia với các chủ thể khác của Luật quốc tế, hoặc tranh chấp giữa các chủ thể khác của Luật quốc tế với nhau.
Trên thực tế, các tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia luôn chiếm tuyệt đại đa số các tranh chấp quốc tế nói chung.
Các quy định của Luật quốc tế về giải quyết tranh chấp cũng chủ yếu liên quan đến loại tranh chấp này.
Nếu căn cứ vào số lượng các chủ thể tham gia tranh chấp, có thể phân biệt các tranh chấp song phương với
các tranh chấp có sự tham gia của nhiều bên. Sụ phân loại này có ý nghĩa trong việc lực chọn phương thức giải
quyết tranh chấp và việc áp dụng các quy định thủ tục, tố tụng trong giải quyết tranh chấp.
Nếu căn cứ vào tính chất của tranh chấp, có thể phân biệt các tranh chấp chính trị với các tranh chấp pháp
lý. Tranh chấp chính trị là tranh chấp giữa các chủ thể về những lợi ích phi pháp lý mà những đòi hỏi, lập luận của
các bên không dựa trên các tiêu chí pháp lý. Tranh chấp pháp lý là tranh chấp giữa các chủ thể về việc xác định sự
tồn tại, giải thích hay áp dụng một quy định pháp luật. Việc phân biệt hai loại tranh chấp này trong nhiều trường hợp
chỉ mang tính tương đối: một tranh chấp chính trị cũng có thể chứa đựng những yếu tố pháp lý nhất định; mọi tranh
chấp pháp lý quốc tế đều được đặt trong một bối cảnh chính trị nhất định. Tuy nhiên sự phân biệt này là cần thiết
khi về nguyên tắc chỉ những tranh chấp pháp lý mới có thể được giải quyết bằng con đường xét xử tư pháp.
Nếu căn cứ vào đối tượng tranh chấp, tranh chấp quốc tế có thể được phân loại thành nhiều dạng khác nhau:
tranh chấp về biên giới, lãnh thổ; tranh chấp về kinh tế, thương mại; tranh chấp về xác định trách nhiệm pháp lý
quốc tế...
Cuối cùng, nếu căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tranh chấp, có thể phân biệt các tranh chấp
quốc tế thông thường với các tranh chấp quốc tế mà sự
xuất hiện hay kéo dài có thể ảnh hưởng đến hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Luật quốc tế hiện đại, việc
giải quyết các tranh chấp mà sự xuất hiện hay kéo dài có thể gây tổn hại đến hoà bình và an ninh quốc tế phải tuân
thủ những nguyên tắc, quy định nhất định liên quan đến nghĩa vụ gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế của các quốc
gia.
3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình
Xuất phát từ những đặc trưng của Luật quốc tế hiện đại, việc giải quyết các tranh chấp quốc tế trước hết và
chủ yếu thuộc về thẩm quyền của chính các chủ thể của Luật quốc tế, trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện. Luật
quốc tế không có những quy định có tính chất bắt buộc đối với các quốc gia trong việc lựa chọn phương thức, thủ
tục hay cách thức cụ thể để giải quyết một tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên, khi tồn tại một tranh chấp, các quốc gia có
liên quan có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp đó bằng biện pháp hoà bình.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình là một nguyên tắc cơ bản, có tính chất
mệnh lệnh (jus cogens) của Luật quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này được hình thành và là hệ quả tất yếu từ nguyên
tắc cấm dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Điều 1 Công ước Lahaye năm 1907 về giải quyết các tranh chấp quốc tế quy định: “Để hạn chế tối đa có
thể việc sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các quốc gia, các nước ký kết Công ước thoả thuận sử dụng mọi nỗ lực
để đảm bảo giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế”
Kể từ khi Hiến chương Liên hợp quốc ra đời, Luật quốc tế chuyển từ quy định hạn chế dùng vũ lực sang
quy định cấm sử dụng vũ lực. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực trở thành một nguyên tắc có tính chất mệnh lệnh của
Luật quốc tế. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình từ đó cũng được ghi nhận là một trong
những nguyên tắc cơ bản Luật quốc tế.
Cụ thể, nguyên tắc các quốc gia giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình hiện nay được
quy định tại khoản 3 điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc, được cụ thể hoá tại chương VI của Hiến chương về
giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế. Nội dung của nguyên tắc sau đó được khẳng định và cụ thể hoá trong
Tuyên bố ngày 24 tháng 10 năm 1974 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
điều chỉnh các quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia. Tuyên bố nêu rõ: “Mọi quốc gia có nghĩa vụ giải
quyết các tranh chấp
quốc tế giữa họ với các quốc gia khác thông qua các biện pháp hoà bình, theo cách mà hoà bình và an ninh
quốc tế cũng như công lý không bị đe doạ”.
Trên phương diện lý thuyết, có rất nhiều các biện pháp khác nhau để giải quyết một cách hoà bình một tranh
chấp quốc tế. Có thể phân các biện pháp này thành nhiều loại khác nhau, trên những tiêu chí khác nhau: Biện pháp
đàm phán, thương lượng trực tiếp giữa các bên tranh chấp với các biện pháp có sự tham gia của bên thứ ba; Các
biện pháp sử dụng cơ chế đàm phán, ngoại giao với các biện pháp sử dụng cơ chế xét xử bằng trọng tài, toà án.
Ngoài ra, các tranh chấp quốc tế cũng có thể được giải quyết thông qua cơ chế của một tổ chức quốc tế. Cơ chế này
có thể kết hợp đồng thời nhiều loại biện pháp nêu trên.
Trên phương diện thực tiễn, việc lựa chọn biện pháp nào để giải quyết một tranh chấp cụ thể hoặc phụ thuộc
vào sự lựa chọn của các bên tham gia tranh chấp, căn cứ bối cảnh, tính chất của từng tranh chấp, hoặc phụ thuộc
vào sự thoả thuận, cam kết đã có trước đó của họ.
Như vậy, để đồng thời đảm bảo tính khái quát và cụ thể ở mức độ cần thiết trong xem xét các biện pháp hoà
bình giải quyết tranh chấp quốc tế, chương này đề cập đến ba nhóm các biện pháp cơ bản: Nhóm thứ nhất bao gồm
các biện pháp mang tính ngoại giao, phi tư pháp; Nhóm thứ hai bao gồm các biện pháp xét xử của trọng tài hay toà
án; Nhóm thứ ba bao gồm các biện pháp thông qua cơ chế của tổ chức quốc tế.
II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ BẰNG CÁC BIỆN PHÁP NGOẠI
GIAO
1. Đàm phán trực tiếp
Đàm phán trực tiếp là biện pháp cổ điển nhất nhưng cũng phổ biến nhất trong giải quyết các tranh chấp
quốc tế. Ưu điểm của biện pháp này hiển nhiên thể hiện ở tính trực tiếp của nó. Thông qua đàm phán, các quan
điểm, lập trường cũng như yêu sách cụ thể của mỗi bên được thể hiện rõ nhất, trực tiếp nhất. Đàm phán trực tiếp
cũng có ưu điểm là hạn chế được ảnh hưởng, tác động của bên thứ ba vào quan hệ tranh chấp.
Pháp luật quốc tế không có quy định cụ thể về thủ tục, cách thức đàm phán giải quyết tranh chấp. Quyết
định về các vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên, tuỳ thuộc vào bối cảnh của từng tranh chấp cụ
thể. Tuy nhiên, để sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, chẳng hạn biện pháp xét xử, thì đàm phán có
thể được coi là một giai đoạn bắt buộc. Trong trường hợp đàm phán là một giai đoạn bắt
buộc để giải quyết tranh chấp, nghĩa vụ đàm phán không đồng nghĩa với nghĩa vụ phải đạt đến một kết quả
nhất định. Tiêu chí quyết định để đánh giá việc thực hiện nghĩa vụ đàm phán chỉ là thái độ thiện chí của mối bên.
Kết quả của đàm phán sau khi được cơ quan có thẩm quyền của mỗi bên xác nhận, chấp nhận sẽ có giá trị
pháp lý ràng buộc đối với các bên.
2. Môi giới
Môi giới được hiểu là biện pháp mà thông qua đó một bên thứ ba đối với quan hệ tranh chấp dựa trên những
ảnh hưởng, uy tín của mình giúp các bên tranh chấp tiếp xúc, gặp gỡ để tìm các giải pháp cho quan hệ tranh chấp.
Biện pháp môi giới có nguồn gốc tập quán và được pháp điển hoá trong các Công ước Lahaye năm 1899 và 1907 về
giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Biện pháp môi giới là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại giao, có sự
tham gia của bên thứ ba nhưng ở mức độ hạn chế nhất. Vai trò của bên môi giới chỉ giới hạn ở việc tác động, tạo
điều kiện cho các bên tranh chấp ngồi lại cùng nhau, hoặc lần đầu hoặc sau một thời gian gián đoạn để giải quyết
tranh chấp. Bên môi giới có thể là một quốc gia, một tổ chức quốc tế, nhưng thông thường là một nhân vật chính trị,
ngoại giao có uy tín, có vị trí trung lập trong quan hệ với các bên tranh chấp.
3. Trung gian
Trung gian cũng là một biện pháp giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba được ghi nhận trong
Công ước Lahaye năm 1899 và 1907. Hiện nay, biện pháp này được đề cập đến trong điều 33 Hiến chương Liên
hợp quốc, cũng như trong hầu hết các văn kiện quốc tế quan trọng khác có liên quan đến giải quyết tranh chấp quốc
tế.
Về mặt bản chất, không có sự khác biệt giữa biện pháp môi giới và biện pháp trung gian: cả hai biện pháp
đều thể hiện sự tham gia của bên thứ ba với mục đích giúp đỡ, tạo điều kiện cho các bên tranh chấp đi đến thoả
thuận, và đều phải thoả mãn điều kiện về vai trò trung lập, không áp đặt của bên thứ ba. Sự khác biệt duy nhất giữa
hai biện pháp này là mức độ tham gia của bên thứ ba: vai trò của bên môi giới chỉ dừng lại ở việc giúp các bên tranh
chấp ngồi lại cùng nhau trong khi vai trò của bên trung gian còn tiếp tục kéo dài trong cả quá trình giải quyết tranh
chấp. Trong thực tiễn, nếu hoàn thành tốt việc giúp các bên tranh chấp gặp gỡ hoặc quay lại đàm phán
thì rất có thể bên môi giới lại được các bên tranh chấp đề nghị tiếp tục tham gia quá trình giải quyết tranh
chấp với tư cách bên trung gian.
Bên trung gian có vai trò trong việc truyền đạt thông tin, quan điểm của các bên tranh chấp với nhau, đưa
ra những sáng kiến, kiến nghị giúp các bên thu hẹp khoảng cách tranh chấp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, ý
kiến của bên trung gian không có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Trong quá trình đóng vai trò trung
gian, bên trung gian có nghĩa vụ hành xử trên nguyên tắc trung thực, trung lập. Mặt khác, bên trung gian cũng có
nghĩa vụ bảo mật các thông tin có được khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên
tranh chấp.
4. Uỷ ban điều tra
Uỷ ban điều tra cũng là một hình thức tham gia của bên thứ ba vào quá trình giải quyết một tranh chấp quốc
tế. Biện pháp này có nguồn gốc tập quán, được pháp điển hoá trong Công ước Lahaye năm 1907 và hiện nay được
ghi nhận trong điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc cũng như trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng
khác.
Uỷ ban điều tra không có vai trò trực tiếp trong việc tìm kiếm các giải pháp cho cuộc trách chấp, mà chỉ giới
hạn ở việc tìm kiếm, xác định những sự kiện, tình huống khách quan là nguyên nhân hay bối cảnh của tranh chấp.
Việc thành lập uỷ ban điều tra không phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong một tranh chấp. Trong trường
hợp các bên tranh chấp cho rằng việc thành lập một uỷ ban điều tra là cần thiết thì họ sẽ ký kết một thoả thuận,
trong đó xác định rõ cách thức thành lập, thành phần của uỷ ban, các sự việc cần điều tra, cũng như thời hạn và giới
hạn điều tra.
Các kết quả làm việc của Uỷ ban điều tra được thể hiện trong một báo cáo gửi cho các bên tranh chấp và
không có giá trị ràng buộc đối với các bên.
5. Uỷ ban hoà giải
Việc sử dụng uỷ ban hoà giải để giải quyết tranh chấp quốc tế là một thực tiễn lâu đời trong quan hệ quốc
tế. Biện pháp này được ghi nhận trong Lahaye năm 1907, tại điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc và trong nhiều
điều ước quốc tế đa phương, song phương giữa các quốc gia.
Trong số các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao có sự tham gia của bên thứ ba
thì biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua uỷ ban hoà giải có tính thể chế nhiều nhất, thể hiện vai trò của bên thứ
ba rõ nét nhất. Nhiệm vụ của uỷ ban hoà giải là xem xét toàn bộ các khía cạnh của vụ tranh chấp, bao gồm
cả các khía cạnh thực tiễn và khía cạnh pháp lý, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp có tính khuyến nghị đối với
vụ tranh chấp cho các bên. Việc sử dụng uỷ ban hoà giải để giải quyết tranh chấp không phải là một nghĩa vụ bắt
buộc đối với các bên tranh chấp, trừ trường hợp các bên đã có thoả thuận trước như vậy. Uỷ ban hoà giải có thể là
một cơ quan thường trực được thành lập trước đó và được các bên chấp nhận, hoặc là một uỷ ban có tính chất vụ
việc (ad-hoc) được các bên thành lập khi tranh chấp đã phát sinh.
Về cơ chế hoạt động, uỷ ban hoà giải có những điểm tương đồng với một cơ quan xét xử, chẳng hạn đảm
bảo sự đối chất, tranh tụng giữa các bên, xem xét vụ tranh chấp cả dưới góc độ sự kiện và góc độ pháp lý. Tuy
nhiên, điểm đặc trưng cơ bản để uỷ ban hoà giải không phải là một cơ quan xét xử là tính chất không ràng buộc của
kết luận của nó. Giải pháp mà uỷ ban kiến nghị đối với vụ tranh chấp không có giá trị bắt buộc đối với các bên.
III. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP, XÉT
XỬ
Khác với các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại giao, các biện pháp giải quyết tranh
chấp bằng con đường xét xử luôn đem lại kết quả là một phán quyết của cơ quan xét xử có giá trị pháp lý ràng buộc
đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, cũng giống như trường hợp các biện pháp ngoại giao, việc sử dụng trọng tài
hay toà án để giải quyết tranh chấp quốc tế cũng đòi hỏi phải có sự thoả thuận, chấp nhận của tất cả các bên tranh
chấp.
Sự ra đời nhanh tróng của nhiều thiết chế trọng tài, toà án quốc tế trong vài thập niên trở lại đây được nhiều
học giả trong lĩnh vực pháp luật quốc tế gọi là xu hướng “tư pháp hoá” quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Điều này một mặt cho thấy niềm tin, nhu cầu của các quốc gia đối với các thiết chế xét xử quốc tế ngày một tăng
lên, mặt khác cũng cho thấy các tranh chấp quốc tế ngày càng được giải quyết nhiều hơn trên cơ sở những tiêu chí
pháp lý và thông qua những thủ tục ngày càng được thể chế hoá chặt chẽ hơn.
Việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương thức xét xử trọng tài được thực hiện qua hai hình thức cơ
bản là trọng tài quốc tế vụ việc và trọng tài quốc tế thường trực. Trong phần này chỉ nghiên cứu những vấn đề chung
nhất của phương thức trọng tài quốc tế nói chung, có đề cập đến hai thiết chế trọng tài thường trực là Toà trọng tài
quốc tế thường trực Lahaye được thành lập trên cơ sở các Công ước Lahaye năm 1899
và 1907 và Trọng tài Luật biển được thành lập trên cơ sở Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
Hiện nay, tồn tại một số lượng khá lớn các toà án quốc tế giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia. Đó có
thể là những toà án có thẩm quyền chung, giải quyết tất cả các tranh chấp quốc tế có tính chất pháp lý như trường
hợp Toà án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc, hay những toà án chuyên ngành, giải quyết những tranh chấp quốc
tế trong một lĩnh vực nhất định như Toà án Luật biển quốc tế được thành lập trên cơ sở Công ước Luật biển năm
1982. Đó cũng có thể là những tòa án mang tính chất khu vực mà thẩm quyền được giới hạn trong một, hoặc một số
lĩnh vực hợp tác của các quốc gia khu vực như trường hợp các toà án về nhân quyền ở châu Âu, châu Mỹ. Hoặc đặc
biệt hơn, là trường hợp Toà án công lý châu Âu vừa mang những đặc điểm của một toà án quốc tế khu vực, vừa
mang những đặc điểm của một toà án quốc gia. Phần này của giáo trình sẽ tập trung nghiên cứu hai toà án điển hình
là Toà án công lý quốc tế của Liên hợp quốc và Toà án công lý châu Âu.
Ngoài ra, đã hoặc đang còn tại một số các thiết chế toà án quốc tế khác như Toà án New Remberg, Toà án
Tokyo xét xử các tội phạm chiến tranh sau đại chiến thế giới thứ II; Toà án hình sự xét xử các tội phạm xảy ra tại
Nam Tư cũ; Toà án hình sự xét xử các tội phạm xảy ra tại Rwuanda; và Toà án hình sự quốc tế Roma. Đây là
những toà án được thành lập trên cơ sở Luật quốc tế, hoạt động theo những cơ chế thực sự mang tinh chất quốc tế.
Tuy nhiên, vì chúng chỉ có chức năng xét xử hình sự những hành vi tội phạm của các cá nhân, không có chức năng
giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia nên chúng sẽ không được đề cập đến trong phần này.
1. Trọng tài quốc tế
a. Khái niệm và lịch sử của trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế là một thiết chế giải quyết tranh chấp quốc tế mà thẩm quyền được xác lập trên cơ sở thoả
thuận, thông qua thủ tục xét xử để đưa ra một phán quyết có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp.
Việc sử dụng trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp quốc tế có lịch sử lâu đời trong quan hệ quốc tế.
Thực tiễn trọng tài được ghi nhận ngay từ thời kỳ cổ đại, và tiếp tục phát triển trong thời kỳ trung cổ, trước khi có
sự ra đời của mô hình nhà nước hiện đại. Trong các thời kỳ này chỉ tồn tại hình thức trọng tài quốc tế vụ việc, nhằm
giải quyết những tranh chấp cụ thể.
Những điều ước quốc tế quan trọng sớm nhất đề cập đến hình thức trọng tài quốc tế thường trực là các Công
ước quốc tế Lahaye năm 1899 và 1907 về giải quyết các tranh chấp quốc tế. Trên cơ sở hai công ước này đã hình
thành lên Toà trọng tài quốc tế Lahaye. Vào năm 1953, Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đã xây dựng
một văn kiện bao gồm các quy định mẫu về thủ tục trọng tài giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia. Các
quy định mẫu này đề cập đến việc thành lập hội đồng trọng tài, xác định thẩm quyền của trọng tài, thủ tục trọng tài
và hiệu lực pháp quyết của trọng tài. Tuy nhiên, các quy định này chỉ có giá trị tham khảo đối với các quốc gia.
b. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế
Thẩm quyền của trọng tài quốc tế xuất phát từ sự thoả thuận của các bên tranh chấp. Thoả thuận này có thể
nằm trong một điều ước quốc tế được ký kết từ trước giữa các quốc gia, quy định tranh chấp hoặc các tranh chấp
phát sinh giữa họ sẽ được giải quyết bằng trọng tài. Thoả thuận về trọng tài cũng có thể là một văn bản được ký kết
riêng biệt giữa các bên về việc đem một tranh chấp cụ thể đã phát sinh ra giải quyết bằng trọng tài.
Việc ký kết thoả thuận trọng tài phải tôn trọng sự bình đẳng và tự nguyện của các bên. Gía trị pháp lý của
thoả thuận trọng tài được xem xét giống như khi xem xét giá trị pháp lý của một điều ước quốc tế. Trong trường hợp
có tranh chấp về giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài hay thẩm quyền của trọng tài thì chính trọng tài là người có
quyền giải quyết.
Thông thường, trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý, tức là những tranh chấp về sự tồn tại, giải
thích hay áp dụng một quy định pháp luật. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng trọng tài có thể được các bên
yêu cầu giải quyết một tranh chấp chính trị. Trong trường hợp như vậy, để giải quyết tranh chấp, trọng tài có thể dựa
trên nguyên tắc công bằng (ex aequo et bono).
c. Cách thức tổ chức của trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế có hai hình thức tổ chức là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Trong trường hợp
trọng tài vụ việc, việc lựa chọn trọng tài viên, thành lập hội đồng trọng tài, xác định các quy định tố tụng trọng tài
hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Trong trường hợp trọng tài thường trực, các vấn đề này được
quy định trước trong điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.
Thiết chế trọng tài quốc tế thường trực tiêu biểu nhất là Toà trọng tài thường trực có trụ sở tại Lahaye, được
thành lập và hoạt động trên cơ sở Công ước Lahaye năm 1899 và Công ước Lahaye I năm 1907. Tuy nhiên, cũng
cần lưu ý rằng tính thường trực của Toà trọng tài Lahaye không thực sự đúng như tên gọi của nó. Toà trọng tài
Lahaye không hề có một cơ quan xét xử thường trực nào mà thay vào đó là một danh sách các trọng tài viên được
chỉ định bởi các quốc gia là thành viên của các công ước Lahaye 1899 và 1907. Cơ quan thường trực duy nhất của
Toà trọng tài Lahaye là Văn phòng quốc tế đóng vai trò là cơ quan thư ký, tác nghiệp của Toà. Mỗi khi có tranh
chấp chuyển đến, việc thành lập hội đồng trọng tài tại Toà trọng tài thường trực Lahaye cũng gặp những khó khăn
tương tự như trường hợp thành lập hội đồng trọng tài vụ việc.
Một thiết chế trọng tài quốc tế thường trực khác là Toà trọng tài quốc tế về Luật biển. Toà trọng tài quốc tế
về Luật biển là một trong những cơ quan trọng tài, toà án có thể được các nước thành viên Công ước Luật biển năm
1982 lựa chọn làm cơ quan giải quyết tranh chấp. Toà trọng tài Luật biển có thẩm quyền bắt buộc trong nhiều
trường hợp theo quy định tại điều 287 của Công ước Luật biển: khi các bên tranh chấp vào thời điểm chấp nhận
Công ước đã lựa chọn Toà là cơ quan giải quyết tranh chấp; khi các bên tranh chấp, hoặc một bên tranh chấp đã
không lựa chọn cơ quan tài phán nào được nên tại điều 287; khi các bên tranh chấp có sự lựa chọn khác nhau về cơ
quan giải quyết tranh chấp. So với các cơ quan giải quyết tranh chấp khác như Toà án Công lý quốc tế, Toà án Luật
biển, và Toà trọng tài đặc biệt, rõ ràng Công ước Luật biển ưu tiên việc xác định thẩm quyền cho Toà trọng tài hơn.
Ngoài các quy định của bản thân Công ước, Toà trọng tài còn được quy định bởi Phụ lục VII của Công ước. Cũng
như trường hợp của Toà trọng tài thường trực Lahaye, Toà trọng tài quốc tế về Luật biển không thực sự là một thiết
chế thường trực. Thay vào đó là một danh sách các trọng tài viên do các quốc gia thành viên đăng ký với Tổng tư ký
Liên hơp quốc. Khi có vụ tranh chấp, các bên lựa chọn các trọng tài trong số danh sách trên để lập hội đồng trọng
tài. Trong trường hợp có khăn về việc chọn trọng tài viên giữa các bên tranh chấp, Phụ lục VII quy định sự can thiệp
của Chánh toà án quốc tế về Luật biển. Toà trọng tài Luật biển cũng không có cơ quan thư ký thường trực. Cuối
cùng, Toà cũng không có bản nội quy, quy tắc tố tụng riêng. Quy tắc tố tụng do chính các trọng tài viên tham gia
hội đồng trọng tài thoả thuận xây dựng cho từng vụ việc.
Toà án bao gồm 15 thẩm phán độc lập, được bầu bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc trên cơ sở kiến nghị của
Hội đồng bảo an, với nhiệm kỳ 9 năm có thể tái nhiệm. Việc bầu thẩm phán được tiến hành ba năm một lần nhằm
thay đổi 1/3 thành phần của Toà án. Thành phần của Toà án đảm bảo không có quá 1 thẩm phán có cùng quốc tịch
của một nước.
Theo quy định tại điều 31 Quy chế của Toà án, nếu trong vụ xét xử mà một hoặc cả hai bên tranh chấp
không có thẩm phán mang quốc tịch của nước mình trong thành phần của Toà án thì bên đó, hoặc mỗi bên có quyền
lựa chọn một người để tham gia vụ xét xử với tư cách thẩm phán “ad hoc”. Các thẩm phán của Toà án bầu ra Chánh
toà và Phó Chánh toà. Các thẩm phán được lựa chọn trên cơ sở phẩm chất và uy tín cá nhân, hoạt động độc lập,
không nhân danh bất kỳ quốc gia hay tổ chức nào ngoài Toà án.
Toà án có ban thư ký đứng đầu là Chánh thư ký. Ban thư ký của toà có trách nhiệm thực hiện các hoạt động
có tính hành chính, tác nghiệp tư pháp của Toà.
d. Thẩm quyền của Toà án
Theo quy định của Hiến chương và của Quy chế của Toà án, Toà án Công lý quốc tế có hai chức năng
chính, theo đó giới hạn thẩm quyền của toà án được quy định khác nhau. Hai chức năng này là: chức năng xét xử và
chức năng đưa ra các kết luận tư vấn pháp luật.
 Thẩm quyền trong thực hiện chức năng xét xử của Toà án
Việc xác định thẩm quyền của Toà án trong lĩnh vực xét xử là rất phức tạp, tuân thủ một số quy tắc cơ bản
sau:
- Toà án chỉ xét xử các tranh chấp pháp lý. Theo quy định tại khoản 2 điều 36 Quy chế của Toà án, các
tranh chấp này có đối tượng là:
+ Việc giải thích một điều ước quốc tế
+ Bất kỳ vấn đề nào của Luật quốc tế
+ Sự tồn tại của bất kỳ sự kiện nào, nếu được xác định, tạo nên sự vi phạm một nghĩa vụ quốc tế
+ Tính chất hoặc phạm vi bồi hoàn do vi phạm một nghĩa vụ quốc tế.
- Toà án chỉ xét xử các tranh chấp giữa các quốc gia. Đặc điểm này cho phép phân biệt Toà án
với các thiết chế xét xử hình sự quốc tế đối với các cá nhân (Toà án Tokyo, Newremberg xét xử các tội phạm chiến
tranh sau đại chiến thế giới thứ hai; Toà án đặc biệt xét xử các tội phạm ở Nam tư cũ; Toà án đặc biệt xét xử các tội
phạm
ở Uranda; Toà án hình sự quốc tế Rôm). Thẩm quyền của Toà án trước hết được mở cho các quốc gia là
Thành viên của Liên hợp quốc. Những quốc gia không là thành viên của Liên hợp quốc cũng có thể sử dụng Toà án
nếu chấp nhận Quy chế của Toà án với những điều kiện do Hội đồng bảo an của Liên hợp quốc quy định.
- Toà án chỉ xét xử các tranh chấp do các quốc gia tự nguyện chuyển đến. Theo quy định của
Hiến chương, cũng như của Quy chế, Toà án không phải là cơ quan xét xử bắt buộc. Để toà án có thẩm quyền đối
với một vụ tranh chấp, phải có sự thoả thuận của các bên. Sự chấp nhận thẩm quyền của Toà án có thể được thực
hiện thông qua một thoả thuận chấp nhận thẩm quyền của Toà án cho một vụ việc cụ thể, hoặc chứa đựng trong một
điều ước quốc tế có sẵn giữa các bên. Các quốc gia cũng có thể chấp nhận thẩm quyền của Toà án qua tuyên bố đơn
phương vào bất kỳ thời điểm nào (điều 36 Quy chế Toà án).
- Khi có tranh chấp giữa các bên về việc xác định thẩm quyền của Toà án, chính Toà án là cơ
quan có quyền quyết định.
- Khi xét xử, Toà án tuân thủ các quy định của Luật quốc tế. Điều 38 khoản 1 của Quy chế của
Toà án liệt kê các loại nguồn mà Toà án sử dụng. Điều khoản này đã trở thành nổi tiếng, khi thường xuyên được
viện dẫn là điều khoản liệt kê các loại nguồn của Luật quốc tế nói chung. Trường hợp nếu có sự thoả thuận của các
bên, Toà án cũng có thể xét xử theo nguyên tắc công bằng (ex aequo et bono).
 Thẩm quyền của Toà án khi thực hiện chức năng tư vấn pháp luật
Theo quy định của Điều 96 Hiến chương Liên hợp quốc và các quy định tại chương IV, từ điều 65 đến điều
68 Quy chế của Toà án, Toà án có thẩm quyền đưa ra các ý kiến tư vấn pháp lý. Việc thực hiện thẩm quyền này của
toà án được phân biệt thành hai trường hợp:
Thứ nhất, Đại hội đồng và Hội đồng bảo an của Liên hợp quốc có quyền tự mình yêu cầu ý kiến tư vấn của
Toà án. Trong trường hợp này, Toà án có quyền tư vấn về tất cả các vấn đề của Luật quốc tế.
Thư hai, các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế chuyên môn của Liên hợp quốc được yêu
cầu ý kiến tư vấn của Toà án nếu có sự cho phép của Đại hội đồng. Trong trường hợp này, yêu cầu tư vấn chỉ được
giới hạn trong phạm vi các vấn đề pháp lý thuộc lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức chuyên môn đó.
e. Quy tắc tố tụng của Toà án
Thủ tục tố tụng của Toà án được quy định rất chặt chẽ, thể hiện trong Quy chế (chương 3) và Nội quy của
Toà án.
Toà án đặt trụ sở tại Lahaye (Hà Lan). Tuy nhiên, Toà án có thể tổ chức phiên xét xử tại địa điểm khác, nếu
xét thấy cần thiết. Thông thường, Toà án xét xử theo phiên họp toàn thể, bao gồm sự tham dự của tất cả các thẩm
phán và trong trường hợp đặc biệt còn bao gồm cả thẩm phán Ad-hoc. Toà án cũng có thể thành lập các Toà đặc
biệt, hoặc xét xử với số lượng thẩm phán hạn chế là 9, 5 hoặc 3 thẩm phán. Các quuyết định của Toà án được thông
qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp có sự ngang bằng số phiếu của các thẩm phán, lá phiếu của Chánh án
hoặc người thay thế Chánh án có giá trị quyết định.
Việc giải quyết một vụ việc trước Toà được tiến hành qua hai giai đoạn tố tụng: giai đoạn tố tụng viết và
giai đoạn tranh tụng trước toà. Giai đoạn tố tụng viết được thực hiện thông qua việc các bên trao đổi cho nhau và
gửi cho Toà đơn kiện, bản biện hộ và bản phản biện, trong đó trình bày các yêu cầu, lý lẽ và phản bác của mỗi bên.
Được gửi kèm theo các văn bản này thông thường là một khối lượng lớn các tài liệu, chứng cứ của mỗi bên. Giai
đoạn tranh tụng trước toà được thực hiện thông qua việc trình bày của các luật sư, tư vấn, chuyên gia và nhân chứng
của mỗi bên. Các phiên tranh tụng được diễn ra công khai, trừ trường hợp Toà án có quyết định khác.
Trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp, Toà án có quyền hạn quyết định khá lớn liên quan đến các vấn đề
tố tụng như: quyết định về thời hạn mà mối bên phải tuân thủ; quyết định biện pháp điều tra hay yêu cầu ý kiến
chuyên gia, nhân chứng; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xem xét cho phép một nước không phải
là bên tranh chấp tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách là bên thứ ba...
f. Phán quyết của Toà án
Quyết định của Toà án chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên trong vụ tranh chấp và có hiệu lực chung
thẩm (điều 59, 60 Quy chế). Quy chế của Toà án cho phép các bên có quyền yêu cầu Toà án giải thích lại những
điểm chưa rõ trong phán quyết, hoặc sửa lại phán quyết đối với những lỗi kỹ thuật, tính toán. Về nguyên tắc, chính
các quốc gia là những chủ thể đảm bảo thực hiện phán quyết của Toà án. Việc một quốc gia từ chối thi hành phán
quyết có hiệu lực của Toà án được coi là một hành vi vi phạm cam kết quốc tế và làm phát sinh trách nhiệm pháp lý
quốc tế của quốc gia. Đặc biệt, theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, trong trường hợp một bên không thi
hành, bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng bảo an xem xét, quyết định đưa ra những
Thủ tục tố tụng của Toà án được quy định rất chặt chẽ, thể hiện trong Quy chế (chương 3) và Nội quy của
Toà án.
Toà án đặt trụ sở tại Lahaye (Hà Lan). Tuy nhiên, Toà án có thể tổ chức phiên xét xử tại địa điểm khác, nếu
xét thấy cần thiết. Thông thường, Toà án xét xử theo phiên họp toàn thể, bao gồm sự tham dự của tất cả các thẩm
phán và trong trường hợp đặc biệt còn bao gồm cả thẩm phán Ad-hoc. Toà án cũng có thể thành lập các Toà đặc
biệt, hoặc xét xử với số lượng thẩm phán hạn chế là 9, 5 hoặc 3 thẩm phán. Các quuyết định của Toà án được thông
qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp có sự ngang bằng số phiếu của các thẩm phán, lá phiếu của Chánh án
hoặc người thay thế Chánh án có giá trị quyết định.
Việc giải quyết một vụ việc trước Toà được tiến hành qua hai giai đoạn tố tụng: giai đoạn tố tụng viết và
giai đoạn tranh tụng trước toà. Giai đoạn tố tụng viết được thực hiện thông qua việc các bên trao đổi cho nhau và
gửi cho Toà đơn kiện, bản biện hộ và bản phản biện, trong đó trình bày các yêu cầu, lý lẽ và phản bác của mỗi bên.
Được gửi kèm theo các văn bản này thông thường là một khối lượng lớn các tài liệu, chứng cứ của mỗi bên. Giai
đoạn tranh tụng trước toà được thực hiện thông qua việc trình bày của các luật sư, tư vấn, chuyên gia và nhân chứng
của mỗi bên. Các phiên tranh tụng được diễn ra công khai, trừ trường hợp Toà án có quyết định khác.
Trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp, Toà án có quyền hạn quyết định khá lớn liên quan đến các vấn đề
tố tụng như: quyết định về thời hạn mà mối bên phải tuân thủ; quyết định biện pháp điều tra hay yêu cầu ý kiến
chuyên gia, nhân chứng; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xem xét cho phép một nước không phải
là bên tranh chấp tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách là bên thứ ba...
g. Phán quyết của Toà án
Quyết định của Toà án chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên trong vụ tranh chấp và có hiệu lực chung
thẩm (điều 59, 60 Quy chế). Quy chế của Toà án cho phép các bên có quyền yêu cầu Toà án giải thích lại những
điểm chưa rõ trong phán quyết, hoặc sửa lại phán quyết đối với những lỗi kỹ thuật, tính toán. Về nguyên tắc, chính
các quốc gia là những chủ thể đảm bảo thực hiện phán quyết của Toà án. Việc một quốc gia từ chối thi hành phán
quyết có hiệu lực của Toà án được coi là một hành vi vi phạm cam kết quốc tế và làm phát sinh trách nhiệm pháp lý
quốc tế của quốc gia. Đặc biệt, theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, trong trường hợp một bên không thi
hành, bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng bảo an xem xét, quyết định đưa ra những
Thủ tục tố tụng của Toà án được quy định rất chặt chẽ, thể hiện trong Quy chế (chương 3) và Nội quy của
Toà án.
Toà án đặt trụ sở tại Lahaye (Hà Lan). Tuy nhiên, Toà án có thể tổ chức phiên xét xử tại địa điểm khác, nếu
xét thấy cần thiết. Thông thường, Toà án xét xử theo phiên họp toàn thể, bao gồm sự tham dự của tất cả các thẩm
phán và trong trường hợp đặc biệt còn bao gồm cả thẩm phán Ad-hoc. Toà án cũng có thể thành lập các Toà đặc
biệt, hoặc xét xử với số lượng thẩm phán hạn chế là 9, 5 hoặc 3 thẩm phán. Các quuyết định của Toà án được thông
qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp có sự ngang bằng số phiếu của các thẩm phán, lá phiếu của Chánh án
hoặc người thay thế Chánh án có giá trị quyết định.
Việc giải quyết một vụ việc trước Toà được tiến hành qua hai giai đoạn tố tụng: giai đoạn tố tụng viết và
giai đoạn tranh tụng trước toà. Giai đoạn tố tụng viết được thực hiện thông qua việc các bên trao đổi cho nhau và
gửi cho Toà đơn kiện, bản biện hộ và bản phản biện, trong đó trình bày các yêu cầu, lý lẽ và phản bác của mỗi bên.
Được gửi kèm theo các văn bản này thông thường là một khối lượng lớn các tài liệu, chứng cứ của mỗi bên. Giai
đoạn tranh tụng trước toà được thực hiện thông qua việc trình bày của các luật sư, tư vấn, chuyên gia và nhân chứng
của mỗi bên. Các phiên tranh tụng được diễn ra công khai, trừ trường hợp Toà án có quyết định khác.
Trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp, Toà án có quyền hạn quyết định khá lớn liên quan đến các vấn đề
tố tụng như: quyết định về thời hạn mà mối bên phải tuân thủ; quyết định biện pháp điều tra hay yêu cầu ý kiến
chuyên gia, nhân chứng; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xem xét cho phép một nước không phải
là bên tranh chấp tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách là bên thứ ba...
h. Phán quyết của Toà án
Quyết định của Toà án chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên trong vụ tranh chấp và có hiệu lực chung
thẩm (điều 59, 60 Quy chế). Quy chế của Toà án cho phép các bên có quyền yêu cầu Toà án giải thích lại những
điểm chưa rõ trong phán quyết, hoặc sửa lại phán quyết đối với những lỗi kỹ thuật, tính toán. Về nguyên tắc, chính
các quốc gia là những chủ thể đảm bảo thực hiện phán quyết của Toà án. Việc một quốc gia từ chối thi hành phán
quyết có hiệu lực của Toà án được coi là một hành vi vi phạm cam kết quốc tế và làm phát sinh trách nhiệm pháp lý
quốc tế của quốc gia. Đặc biệt, theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, trong trường hợp một bên không thi
hành, bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng bảo an xem xét, quyết định đưa ra những
khuyến nghị hoặc các biện pháp thích hợp để buộc thi hành quyết định đó. Điều 94 của Hiến chương quy
định:
“1. Mỗi thành viên Liên hợp quốc cam kết tuân theo phán quyết của Toà án công lý quốc tế trong mọi vụ
việc mà thành viên ấy là đương sự.
2. Nếu một bên đương sự trong một vụ tranh chấp không thi hành những nghĩa vụ mà họ phải chấp hành
theo phán quyết của Toà án thì bên kia có thể khiếu nại với Hội đồng bảo an. Hội đồng bảo an nếu xét thấy cần
thiết có thể kiến nghị hoặc quyết định những biện pháp cần thiết để làm cho phán quyết này được thi hành".
Phán quyết của Toà án chỉ có giá trị đối với vụ việc được giải quyết và chỉ có hiệu lực đối với các bên tranh
chấp. Nói cách khác, các án lệ của Toà án không tạo ra những quy định pháp luật quốc tế mới ràng buộc đối với bản
thân Toà án cũng như các quốc gia. Tuy nhiên, án lệ và thực tiễn xét xử của Toà án đóng vai trò qua trọng trong
việc giải thích, làm sáng tỏ các quy định pháp luật quốc tế hiện thời và trong nhiều trường hợp góp phần quan trọng
vào việc hình thành lên những quy định pháp luật quốc tế mới. Thực tế, Toà án thường trung thành với các án lệ của
mình và các quốc gia cũng coi những án lệ của Toà án là nguồn quan trọng trong hành xử quốc tế và tranh tụng
trước Toà.
2. Toà án công lý châu Âu
Toà án công lý châu Âu, hay còn gọi là Toà án công lý của các Cộng đồng châu Âu là một thiết chế tài
phán quốc tế đặc thù. Toà án công lý châu âu được thành lập trên cơ sở Hiệp ước Roma năm 1952 về thành lập
Cộng đồng than và thép châu Âu, sau đó quy chế của Toà án được khẳng định lại trong hai Hiệp ước Paris năm
1957 về thành lập Cộng đồng châu Âu về năng lượng nguyên tử và Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC). Từ năm
1992, với việc ký kết Hiệp ước Masstricht và sự ra đời của Liên minh châu Âu, Toà án trở thành một trong các thiết
chế chính, đảm nhiệm chức năng xét xử của Liên minh châu Âu.
Hiện toà án có trụ sở tại Luxembourg, có thẩm quyền bắt buộc đối với 27 nước thành viên của Liên minh
châu Âu. Toà án công lý châu Âu là một thiết chế tư pháp đặc biệt, vừa mang những đặc điểm của một toà án quốc
tế, vừa mang những đặc điểm của một toà án quốc gia liên bang. Toà án được tổ chức và hoạt động dựa trên quy
định của các Hiệp ước thành lập, sửa đổi và mở rộng các Cộng đồng và Liên minh châu Âu. Toà án cũng có các quy
chế tố tụng riêng.
Toà án công lý châu Âu có ba chức năng chính: Đảm báo tính hợp pháp của các văn bản pháp luật của các
cơ quan của Liên minh châu Âu; Đảm bảo sự tuân thủ pháp luật cộng đồng châu Âu từ phía các nước thành viên;
Giải thích pháp luật cộng đồng châu Âu theo yêu cầu của các Toà án các quốc gia thành viên.
Toà án công lý châu Âu bao gồm 3 thiết chế xét xử là Toà công lý, Toà sơ thẩm và Toà hành chính công. Tổ
chức, thành phần, thẩm quyền và trình tự tố tụng của Toà án được quy định cụ thể cho mỗi toà này.
a. Toà công lý
Toà công lý bao gồm 27 thẩm phán và 8 phụ thẩm, được bổ nhiệm trên cơ sở thoản thuận giữa các quốc gia
thành viên với nhiệm kỳ 6 năm có thể tái nhiệm. Các thẩm phán và phụ thẩm được lựa chọn theo phẩm chất, uy tín
cá nhân và hoạt động hoàn toàn độc lập. Các thẩm phán của Toà công lý tự bầu một Chánh án có nhiệm kỳ 3 năm
có thể tái nhiệm. Chánh án đứng đầu Ban lục sự (thư ký), đảm nhiệm các công việc hành chính, tác nghiệp của Toà.
Toà công lý có thể xét xử theo phiên họp toàn thể, hoặc theo hội đồng xét xử với 13, 5 hoặc 3 thẩm phán.
Thẩm quyền và quy tắc tố tụng áp dụng cho Toà công lý được quy định cho từng loại hình tố tụng trước Toà.
- Tố tụng giải thích pháp luật châu Âu (tham vấn tiền xét xử): Theo thủ tục tố tụng này, trước
hoặc trong khi giải quyết một vụ tranh chấp, nếu toà án của một nước thành viên gặp phải một quy định của Luật
cộng đồng châu Âu mà nội dung, giá trị hiệu lực có tranh cãi thì có nghĩa vụ phải tham vấn Toà công lý châu Âu. Ý
kiến của Toà công lý được thể hiện trong một bản án, hay một quyết định của Toà công lý và có giá trị ràng buộc
đối với tất cả các cơ quan xét xử của các quốc gia thành viên. Thực tế, thông qua thủ tục này Toà công lý châu Âu
đã đóng góp một phần rất lớn vào sự phát triển, áp dụng thống nhất Luật cộng đồng châu Âu tại các nước thành
viên. Qua thủ tục này, trong nhiều trường hợp Toà công lý có vai trò như một toà án quốc gia liên bang.
- Tố tụng kiện tuyên bố vi phạm nghĩa vụ của quốc gia thành viên: Thủ tục này cho phép Uỷ ban
châu Âu hoặc một nước thành viên bất kỳ khởi kiện ra Toà công lý một nước thành viên đã vi phạm một nghĩa vụ
theo Luật cộng đồng châu Âu, sau khi đã có thủ tục cảnh báo của Uỷ ban châu Âu. Thông qua thủ tục này, Toà công
lý châu Âu đảm bảo sự tuân thủ pháp luật cộng đồng châu Âu từ phía các nước thành viên. Trong trường hợp bản
án của Toà công lý tuyên bố nước thành viên có hành vi vi
phạm pháp luật châu Âu, nước thành viên có nghĩa vụ phải thực hiện các biện pháp cần thiết để tuân thủ bán
án của Toà. Trong trường hợp không tuân thủ, quốc gia có thể bị tái khởi kiện ra Toà. Nếu sự không tuân thủ được
Toà xác nhận, Toà sẽ quy định một khoản phạt đối với quốc gia bị kiện. Như vậy, qua thủ tục này Toà công lý châu
Âu hành xử như một toà án siêu quốc gia.
- Thủ tục kiện huỷ bỏ các văn bản pháp luật của các cơ quan của Liên minh châu Âu: Trong quá
trình hoạt động, các cơ quan của Liên minh châu Âu là Hội đồng châu Âu, Uỷ ban châu Âu và Nghị viện châu Âu
có quyền các văn bản pháp luật như Nghị định, Chỉ thị, Quyết định, tuỳ từng trường hợp có giá trị áp dụng trực tiếp,
bắt buộc đối với các nước thành viên, cá nhân, pháp nhân của các nước thành viên. Thủ tục này cho phép một nước
thành viên, hoặc một cơ quan của Liên minh châu Âu khởi kiện yêu cầu Toà công lý tuyên huỷ bỏ văn bản pháp luật
của một cơ quan của Liên minh châu Âu vì trái pháp luật cộng đồng châu Âu. Qua thủ tục tố tụng này, Toà công lý
châu Âu đóng vai trò đồng thời như một toà án hiến pháp và toà án hành chính của quốc gia.
- Thủ tục kiện tuyên bố hành vi không thực hiện nghĩa vụ của một cơ quan của Liên minh châu
Âu: Thủ tục này cho phép một quốc gia thành viên hoặc một cơ quan của Liên minh châu Âu khởi kiện một cơ quan
của Liên minh vì đã không hành động trái với pháp luật cộng đồng châu Âu. Về bản chất, thủ tục này là một dạng
của thủ tục kiện huỷ bỏ văn bản pháp luật (trong trường hợp này là hành vi không hành động) của một cơ quan của
Liên minh châu Âu.
- Thủ tục phúc thẩm: Toà công lý châu Âu có quyền xét xử phúc thẩm các bản án của Toà sơ
thẩm châu Âu. Trong trường hợp Toà công lý cho rằng Toà phúc thẩm ra bản án trái pháp luật, Toà tuyên huỷ bản
án và tuỳ từng trường hợp trực tiếp giải quyết vụ việc bằng bản án hoặc gửi trả lại Toà sơ thẩm để xét xử lại. Qua
thủ tục này, Toà công lý châu Âu đóng vai trò như một toà phúc thẩm, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử trong
pháp luật quốc gia.
b. Toà sơ thẩm châu Âu
Toà sơ thẩm châu Âu được thành lập vào năm 1988 nhằm giảm tải công việc cho Toà công lý châu Âu đồng
thời đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật cộng đồng châu Âu. Toà sơ thẩm có 27 thẩm phán, được bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 6 năm có thể tái nhiệm bởi một thoả thuận chung giữa các quốc gia thành viên. Các thẩm phán
bầu một Chánh toà có nhiệm kỳ 3 năm và một Lục sự có nhiệm kỳ 6 năm.
Tiêu chí bổ nhiệm, quy chế của các thẩm phán ở Toà sơ thẩm được quy định tương tự như đối với thẩm
phán ở Toà công lý.
Toà sơ thẩm xét xử theo các hội đồng có 3 hoặc 5 hoặc 13 thẩm phán. Trong một số trường hợp Toà có thể
xét xử bằng phiên họp toàn thể hoặc bởi duy nhất một thẩm phán. Toà sơ thẩm có thẩm quyền xét xử theo các thủ
tục tố tụng sau:
- Các vụ kiện huỷ bỏ văn bản pháp luật, hoặc kiện tuyên bố hành vi không thực hiện nghĩa vụ do
các cá nhân là thể nhân, pháp nhân đối với các cơ quan của Liên minh châu Âu, nếu các cá nhân đó chứng minh
được mình bị liên quan trực tiếp bởi các văn bản, hành vi đó. Qua thủ tục này, Toà sơ thẩm đóng vai trò như một toà
hành chính cấp sơ thẩm của quốc gia.
- Các vụ kiện do các nước thành viên khởi kiện Uỷ ban châu Âu, Hội đồng châu Âu vì vi phạm
pháp luật châu Âu, đối với một số loại vụ việc
- Các vụ kiện liên có tính chất dân sự như kiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ các
hành vi của các cơ quan, nhân viên của Liên minh châu Âu; kiện tranh chấp về hợp đồng được ký kết bởi các cơ
quan của Liên minh châu Âu; các vụ kiện về nhãn mác cộng đồng châu Âu. Trong những trường hợp này, Toà sơ
thẩm mang những đặc điểm của một toà dân sự trong hệ thống toà án tư pháp của quốc gia.
Các phán quyết của toà sơ thẩm có thể bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm tại Toà công lý trong thời hạn 2
tháng kể từ ngày tuyên án.
c. Toà hành chính công châu Âu
Toà hành chính công châu Âu được thành lập năm 2004. Toà bao gồm 6 thẩm phán được bổ nhiệm bởi Hội
đồng của Liên minh châu Âu. Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hành chính, lao động giữa các cơ
quan của Liên minh châu Âu với các nhân viên. Trong trường hợp này, Toà hành chính công đóng vai trò như một
cơ quan tư pháp nội bộ của một tổ chức quốc tế, thực hiện chức năng của một toà hành chính-lao động trong hệ
thống cơ quan toà án tư pháp của quốc gia.
Các phán quyết của Toà hành chính công có thể bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm tại Toà sơ thẩm trong
thời hạn 2 tháng kể từ ngày tuyên án.
IV. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRONG KHUÂN KHỔ CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
Một trong những chức năng cơ bản của hầu hết các tổ chức quốc tế là điều hoà, giải quyết các tranh chấp
các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên trong lĩnh vực các hoạt động mà tổ chức quốc tế phụ trách. Đối với
một số tổ chức quốc tế, chẳng
hạn như Liên hợp quốc, có thành lập riêng một cơ quan toà án để xét xử các tranh chấp. Tuy nhiên, tại bản
thân Liên hợp quốc, cũng như tại đại đa số các tổ chức quốc tế toàn cầu và khu vực khác luôn tồn tại những cơ chế
đặc thù để điều hoà, giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên. Các cơ chế này về nguyên tắc chỉ có
hiệu lực áp dụng đối với các quốc gia thành viên. Chúng có thể thuần tuý là những biện pháp ngoại giao, mang tính
thể chế nội bộ đan xen giữa các biện pháp ngoại giao với biện pháp xét xử (như trường hợp của Cơ chế giải quyết
tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới WTO). Tuy nhiên, trong mọi trường hợp chúng cũng phải tuân theo
những nguyên tắc cơ bản crong lĩnh vực giải quyết tranh chấp quốc tế, được thể hiện cụ thể trong các quy đinh của
Hiến chương Liên hợp quốc.
Trong phần này sẽ xem xét các quy định về giải quyết tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ Tổ chức thương
mại thế giới - một tổ chức quốc tế toàn cầu có quy mô, tầm ảnh hưởng quan trọng nhất trong quan hệ kinh tế,
thương mại quốc tế, và cơ chế giải quyết tranh chấp tại ASEAN với tư cách là một tổ chức quốc tế khu vực.
1. Cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới
a. Khái quát
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1995 trên cơ sở kết quả vòng đàm
phán đa phương Uruguay về thương mại quốc tế (1986- 1993). Trên nhiều phương diện, WTO có tiền thân là GATT
- Hiệp định chung về thuế quan và thương mại được ký kết vào năm 1948 và chấm dứt hiệu lực vào ngày 31 tháng
12 năm 1994. Sau 47 năm hình thành và phát triển, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước của
GATT đã đạt được những kết quả nhất định, song ngày càng thể hiện những hạn chế, thậm chí bất lực trong việc
điều hoà, giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa các nước thành viên.
Tại vòng đàm phán Uruguay, cùng với việc quyết định thành lập WTO, ký kết nhiều các hiệp định đa
phương mới về thương mại, các nước đã ký kết Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU)
trong WTO. Thoả thuận DSU tạo thành một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên
của WTO.
Hiện nay, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một trong những cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế
được sử dụng nhiều nhất, được đánh giá là thành công và có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực giải quyết các tranh
chấp giữa các quốc gia.
b. Mục tiêu, nguyên tắc của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhằm tới hai mục tiêu: Tạo môi trường pháp lý minh bạch cho hoạt
động thương mại quốc tế; Đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các nước thành viên trên cơ sở pháp
luật quốc tế và các luật lệ của WTO.
Để đạt được những mục tiêu này, DSU quy định một số nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp như
sau:
- Các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, đảm bảo sự cân bằng về quyền và
nghĩa vụ giữa các thành viên,
- Các tranh chấp được giải quyết dựa trên luật lệ của WTO, tôn trọng các nguyên tắc của Công
pháp quốc tế
- Thủ tục tham vấn song phương giữa các bên tranh chấp là bắt buộc, dù không được coi là một
thủ tục tố tụng. Các thành viên phải thực hiện thủ tục này một cách thiện chí và hợp tác.
- Sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là bắt buộc, nhằm loại bỏ các biện pháp thương
mại đơn phương. Các biện pháp trả đũa thương mại chỉ được coi là biện pháp cuối cùng khi được cho phép bởi Cơ
quan giải quyết tranh chấp.
c. Cơ quan giải quyết tranh chấp
Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) là Đại hội đồng của WTO khi nhóm họp nhằm giải quyết
tranh chấp. Thành phần Đại hội đồng WTO bao gồm đại diện ở cấp đại sứ của tất cả các nước thành viên. DSB là cơ
quan duy nhất có quyền thành lập Nhóm chuyên gia, thông qua báo cáo của Nhóm chuyên gia, báo cáo của Cơ quan
phúc thẩm. DSB cũng là cơ quan có thẩm quyền giám sát việc thực hiện các báo cáo giải quyết tranh chấp, có thẩm
quyền cho phép việc thực hiện biện pháp trả đũa thương mại.
Nếu nhìn vào thẩm quyền của Cơ quan giải quyết tranh chấp DSB, có thể nhận định cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO thiên về một cơ chế mang tính chất chính trị, ngoại giao.
d. Nhóm chuyên gia
Nhóm chuyên gia được thành lập bởi DSB cho từng vụ tranh chấp và tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm
vụ. Nhóm chuyên gia có 3 hoặc 5 thành viên, là những cá nhân có uy tín, trình độ chuyên môn trong lĩnh vực tranh
chấp, được lựa chọn theo tiêu chí cá nhân và hoạt động độc lập.
Nhóm chuyên gia có nhiệm vụ xem xét, đánh giá khách quan các vấn đề tranh chấp cả trên bình diện sự
kiện và pháp lý. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Nhóm chuyên gia có quyền thu thập thông tin từ mọi nguồn,
có quyền yêu cầu ý kiến chuyên gia, trưng cầu giám định về các vấn đề kỹ thuật.
Các kết luận, kiến nghị của Nhóm chuyên gia được thể hiện trong một báo cáo đệ trình lên DSB. Các thời
hạn tố tụng trong quá trình làm việc của Nhóm chuyên gia được DSU quy định khá chặt chẽ. Thời gian để Nhóm
chuyên gia hoàn thành báo cáo và gửi lên DSB là không quá 6 tháng, trừ trường hợp đặc biệt. Sau 60 ngày nếu báo
cáo của Nhóm chuyên gia sẽ tự động trở thành quyết định có hiệu lực của DSB trừ trường hợp các thành viên của
DSB bác bỏ báo cáo theo nguyên tắc đồng thuận (consensus) hoặc trường hợp một bên tranh chấp có yêu cầu phúc
thẩm tại Cơ quan phúc thẩm.
e. Cơ quan phúc thẩm
Cơ quan phúc thẩm (AB) là một cơ quan thường trực được thành lập mới từ Vòng đàm phán Uruguay. AB
có 7 thành viên do DSB bổ nhiệm trên cơ sở uy tín, trình độ và kinh nghiệm cá nhân, hoạt động độc lập. Khi có đề
nghị phúc thẩm một báo cáo của Nhóm chuyên gia, AB nhóm họp với 3 thành viên để phúc thẩm báo cáo. Thời hạn
xem xét phúc thẩm tối đa là 90 ngày.
Thẩm quyền của AB chỉ giới hạn ở xem xét vấn đề áp dụng pháp luật của Nhóm công tác trong báo cáo. AB
có quyền giữ nguyên, bác bỏ hay sửa đổi các kết luận của Nhóm công tác trong bản báo cáo. Dưới góc độ này, các
thành viên của AB đóng vai trò thực sự như những thẩm phán xét xử phúc thẩm. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
AB công bố báo cáo của mình, Cơ quan giải quyết tranh chấp DSB sẽ nhóm họp để thông qua báo cáo. Báo cáo của
AB gần như được tự động thông qua trừ trường hợp bị Cơ quan giải quyết tranh chấp bác bỏ theo nguyên tắc đồng
thuận (consensus).
d. Thực hiện quyết định của Cơ quan giải quyết tranh chấp
Quyết định của DSB có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các bên tranh chấp. DSB có thể đưa ra những
khuyến nghị cần thiết để bên thua kiện thực hiện những kết luận trong bản báo cáo giải quyết tranh chấp của Nhóm
công tác hay Cơ quan phúc thẩm đã được thông qua. Về nguyên tắc, bên thua kiện có nghĩa vu loại bỏ các biện pháp
thương mại được cho là trái với các quy định của WTO trong thời hạn “hợp lý”.
Việc thực thi quyết định của DSB và báo cáo giải quyết tranh chấp được giám sát chặt chẽ bởi DSB. Trong
trường hợp bên thua kiện không thực hiện, bên thắng kiện có thể được DSB cho phép dừng áp dụng các cam kết
thương mại hoặc thậm chí áp dụng biện pháp trả đũa thương mại. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công bằng, thoả đáng
trong việc áp dụng các biện pháp bồi thường hoặc trả đũa thương mại, Thoả thuận các quy tắc và thủ tục giải quyết
tranh chấp cho phép các bên thành lập một hội đồng trọng tài trong khuôn khổ WTO. Phán quyết của trọng tài là
quyết định cuối cùng và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.
2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN
a. Khái quát
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập trên cơ sở Tuyên bố Bangkok (Thái Lan)
ngày 8 tháng 8 năm 1967. Hiện nay ASEAN có 10 thành viên là Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia,
Philippines, Singapore, Thái Land, Việt Nam. Cơ chế tổ chức, hoạt động, lĩnh vực hợp tác của ASEAN được phát
triển, hoàn thiện từng bước qua nhiều thời kỳ.
Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ chín tại Bali tháng 10 năm 2003, các thành viên đã quyết định thành lập
Cộng đồng ASEAN. Theo Tuyên bố hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) ngày 7 tháng 10 năm 2003, Cộng đồng
ASEAN bao gồm ba thành phần: Cộng đồng an ninh ASEAN; Cộng đồng kinh tế ASEAN; Cộng đồng văn hoá – xã
hội ASEAN. Cũng tại Hội nghị thượng đỉnh này, các thành viên quyết định xây dựng Hiến chương ASEAN. Hiến
chương ASEAN được ký kết ngày 20 tháng 11 năm 2007 nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 13 tại
Singapore và có hiệu lực kể từ ngày 13 tháng 12 năm 2008, 30 ngày sau khi nước thành viên cuối cùng đệ trình văn
kiện phê chuẩn.
Sự hình thành và phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp tại của ASEAN luôn đi cùng với sự hình thành
và phát triển của ASEAN.
b. Nội dung quy dịnh giải quyết tranh chấp theo Hiến chương của ASEAN
Trước đây, các quy định về giải quyết tranh chấp của ASEAN được quy định tập trung tại:
- Hiệp ước thân thiện và hợp tác trong khu vực Đông Nam Á được ký kết tại Bali tháng 2 năm
1976.
- Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp ký tại Manila (Philippines) ngày 20 tháng
11 năm 1996. Nghị định thư này sau đó được thay thế bởi Nghị định
thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp ký tại Viêng Chăn (Lào) ngày 29 tháng 11 năm
2004.
- Trong Hiến chương ASEAN, các quy định về giải quyết tranh chấp nằm ở chương VIII (từ
điều 22 đến điều 28).
Theo quy định tại điều 24 Hiến chương, các tranh chấp không liên quan đến việc giải thích, áp dụng các văn
kiện của ASEAN giữa các thành viên được giải quyết tuân theo Hiệp ước thân thiện và hợp tác Bali năm 1976. Các
tranh chấp liên quan thuộc lĩnh vực hợp tác nào, sẽ được giải quyết theo quy định của các văn kiện ASEAN về lĩnh
vực đó. Các tranh chấp liên quan đến các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, nếu không có quy định giải quyết
tranh chấp riêng trong kiện có liên quan sẽ được giải quyết theo các quy định của Nghị định thư ASEAN về tăng
cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004.
Theo quy định tại điều 23 của Hiến chương, các nước thành viên trong một vụ tranh chấp tại bất kỳ thời
điểm nào cũng có quyền thoả thuận sử dụng biện pháp môi giới, trung gian hoặc hoà giải để giải quyết tranh chấp
trong một thời gian hạn định.
Điều 25 Hiến chương quy định việc sử một cơ chế giải quyết tranh chấp hợp lý bao gồm cả biện pháp trọng
tài để giải quyết các tranh chấp về giải thích, áp dụng các quy định của Hiến chương và của các văn kiện khác nếu
tại đó chưa được quy định.
Điều 26 Hiến chương quy định tất cả những tranh chấp không được giải quyết, dù đã áp dụng tất cả những
quy định trên của Hiến chương, sẽ được chuyển cho Hội nghị thượng đỉnh của ASEAN quyết định.
Điều 27 Hiến chương quy định Tổng thư ký ASEAN với sự hỗ trợ của Ban thư ký hoặc một cơ quan được
chỉ định của ASEAN có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thực thi các khuyến nghị, kết luận hoặc quyết định của
cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN và có trách nhiệm báo cáo tại mỗi Hội nghị thượng đỉnh ASEAN. Một
thành viên cho rằng bị ảnh hưởng từ sự không thực thi của một thành viên khác có quyền đưa vấn đề ra Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN để quyết định.
Ngoài ra, điều 28 Hiến chương còn quy định trừ trường hợp có quy định khác của Hiến chương, các nước
thành viên có quyền sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp quy định tại điều 33(1) của Hiến chương Liên hợp
quốc hoặc sử dụng bất kỳ một văn kiện quốc tế nào khác mà các nước là thành viên để giải quyết tranh chấp giữa
họ.

c. Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN theo Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải
quyết tranh chấp năm 2004
Theo điều 1Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004, các quy định của
Nghị định thư được áp dụng cho các tranh chấp phát sinh từ các văn kiện ASEAN được nêu tại Phụ lục I của Nghị
định thư. Phụ lục I nêu danh sách 46 văn kiện về hợp tác kinh tế-thương mại ASEAN được ký kết từ năm 1977 đến
năm 2004.
Theo quy định của Nghị định thư năm 2004, cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN bao gồm một số điểm
cơ bản sau:
- Cơ quan quản lý chính của cơ chế giải quyết tranh chấp là Hội nghị kinh tế các viên chức kinh
tế cao cấp (SEOM) của ASEAN. Hội nghị các viên chức kinh tế cao cấp có quyền thành lập Nhóm chuyên gia,
thông qua báo cáo của Nhóm chuyên gia và báo cáo của Cơ quan phúc thẩm, có thẩm quyền giám sát quá trình thực
thi các kết luận, khuyến nghị của các báo cáo giải quyết tranh chấp và quyết định giải quyết tranh chấp đã được
SEOM thông qua.
- Trước khi tiến hành các bước giải quyết tranh chấp chính thức, các bên tranh chấp có nghĩa vụ
tiến hành thủ tục tham vấn lẫn nhau. Và trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp sau đó, các
bên đều có quyền sử dụng biện pháp môi giới, trung gia, hoà giải. Trong quá trình trung gian, hoà giải Nhóm
chuyên gia vẫn tiến hành công việc nếu các bên không có yêu cầu khác.
- Các quy định khác về thành lập Nhóm chuyên gia, nhiệm vụ của Nhóm chuyên gia, thông qua
báo cáo của Nhóm chuyên gia, thành lập Cơ quan phúc thẩm (do Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN –AEM thành
lập), việc phúc thẩm báo cáo của Nhóm chuyên gia, thông qua báo cáo của Cơ quan phúc thẩm, các quy định liên
quan đến giám sát thực thi kết quả giải quyết tranh chấp bao gồm cả các quy định về tạm dừng thực hiện cam kết,
bồi thường thương mại...đều được quy định tương tự như các quy định của Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Như vậy, có thể nói mặc dù các quy định giải quyết tranh chấp nói chung của ASEAN trong Hiến chương
ASEAN còn chưa cụ thể, chưa tạo thành một cơ chế thống nhất, nhưng các quy định về giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực kinh tế-thương mại trong Nghị định thư năm 2004 đã tương đối rõ ràng, chặt chẽ theo mô hình giải quyết
tranh chấp của WTO.

You might also like