You are on page 1of 11

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


------------

TIỂU LUẬN KẾT THÚC


HỌC PHẦN
MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Đề bài: Phân tích ưu điểm, hạn chế của biện pháp giải quyết
tranh chấp quốc tế thông qua đàm phán trực tiếp và liên hệ thực
tiễn áp dụng biện pháp này trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà
Việt Nam là một bên.

Họ và tên : NGUYỄN THỊ HƯƠNG TRÀ


MSSV : 441453
LỚP : N02 – TL2

Hà Nội, 2022
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 3

NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................................... 3

1. Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế.................................. 3

2. Biện pháp đàm phán trực tiếp ........................................................................... 4

II. ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ CỦA BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

QUỐC TẾ THÔNG QUA ĐÀM PHÁN TRỰC TIẾP ........................................... 5

1. Ưu điểm ................................................................................................................ 5

2. Nhược điểm ......................................................................................................... 6

III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐÀM PHÁN TRỰC TIẾP TRONG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM LÀ MỘT BÊN ...... 7

1. Hoàn cảnh diễn ra đàm phán ............................................................................ 7

2. Nội dung của đàm phán ..................................................................................... 8

3. Ưu điểm, hạn chế của việc áp dụng biện pháp đàm phán trực tiếp trong

tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Vịnh Bắc Bộ ............................ 9

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 11


MỞ ĐẦU
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật
Quốc tế, có rất nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ mà quyền và lợi ích của các chủ thể
đan xen lẫn nhau như lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh, quốc phòng,…
Khi thiết lập và thực hiện các quan hệ diễn ra giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau
thì tranh chấp, bất đồng giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi. Ngày nay, cùng
với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác giữa các quốc gia ngày càng mở rộng và phát triển, đồng
hành với đó là những nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến những tranh chấp quốc tế
ngày càng gia tăng. Vấn đề đặt ra là làm sao để bảo đảm được lợi ích của các bên tranh
chấp nói riêng mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh quốc tế nói chung, điều
này đòi hỏi các quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế.
Việc nghiên cứu và áp dụng Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc là cách cần thiết để
đưa ra biện pháp tối ưu nhất cho các tranh chấp quốc tế mà Việt Nam đang là một bên,
đặc biệt là trong giai đoạn căng thẳng trên biển Đông như hiện nay. Dưới góc độ tìm
hiểu và làm rõ hơn về các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, em chọn đề
tài: “Phân tích ưu điểm, hạn chế của biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế thông
qua đàm phán trực tiếp và liên hệ thực tiễn áp dụng biện pháp này trong giải quyết
tranh chấp quốc tế mà Việt Nam là một bên” để nghiên cứu.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp
quốc tế gắn liền với nguyên tắc cấm dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ
quốc tế và hệ quả tất yếu của nguyên tắc này.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Hiến chương Liên hợp quốc (Khoản 3 Điều
2) đã ghi nhận hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là nguyên tắc bắt buộc chung đối
với tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế, theo đó, tất cả các nước thành viên của
Liên hợp quốc phải có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp
hòa bình. Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định cụ thể về các biện pháp hòa bình
mà các thành viên Liên hợp quốc với tư cách là bên tham gia vào tranh chấp quốc tế cần
lựa chọn để giải quyết. Theo Điều 33 Hiến chương thì “các bên tham gia tranh chấp
quốc tế trước tiên phải cố gắng giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như: đàm
phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, thông qua các cơ quan hay tổ chức
quốc tế khu vực hoặc bằng những biện pháp hòa bình khác do các bên lựa chọn”. Thực
tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là phương pháp thường xuyên được các quốc gia
sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đồng.
2. Biện pháp đàm phán trực tiếp
Đàm phán là sự thỏa thuận, nhân nhượng về mặt lợi ích giữa các chủ thể. Hoạt
động đàm phán phải được tiến hành dựa trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng hòa thuận, đồng
thời tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, tuân thủ các quy định trong pháp
luật quốc gia về thẩm quyền tham gia đàm phán.
Việc thỏa thuận lựa chọn các phương thức thích hợp để giải quyết các vấn đề
tranh chấp là một trong những cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Phương
thức giải quyết tranh chấp trực tiếp được thực hiện thông qua việc đàm phán trực tiếp
giữa các bên tranh chấp. Tuy nhiên, Hiến chương Liên hợp quốc không quy định cụ thể
về định nghĩa, nguyên tắc, nội dung, cách thức thực hiện, trình tự, thủ tục giải quyết
tranh chấp bằng đàm phán, thương lượng.
Đàm phán đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp quốc
tế. Trong số các biện pháp giải quyết tranh chấp, đàm phán được áp dụng rât phổ biến.
Ví dụ: các quộc đàm phán giữa Indonesia và Philipines tại khu vực chồng lấn vùng đặc
quyền kinh tế giữa hai nước ở Minadao và biển Clebes. Đàm phán trực tiếp thường được
hiểu là sự trao đổi có tính chất đề xuất, thương lượng, bàn bạc theo hình thức song
phương, đa phương về các vấn đề nảy sinh tranh chấp diễn ra giữa các bên liên quan,
trong khuôn khổ một hội nghị hoặc các cuộc gặp song phương. Ví dụ như hội nghị đa
phương đàm phán 6 bên về khủng hoảng hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên (gồm Mỹ, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, Triều Tiên).
Đàm phám có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác,
chẳng hạn, đàm phán có thể chỉ là giai đoạn khởi đầu của một phương thức giải quyết
tranh chấp khác hoặc đàm phán có thể là hệ quả của việc áp dụng các phương thức giải
quyết tranh chấp khác. Biện pháp đàm phán có thể được các bên sử dụng vào bất kỳ giai
đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp.
II. ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ CỦA BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC
TẾ THÔNG QUA ĐÀM PHÁN TRỰC TIẾP
1. Ưu điểm
Có thể khẳng định, đàm phán là một biện pháp hòa bình nhằm giải quyết tranh
chấp quốc tế được áp dụng từ lâu đời, phổ biến, hiệu quả và linh hoạt nhất.
Thứ nhất, dễ áp dụng. Đám phán trực tiếp là sự tiếp xúc trực tiếp không có sự
xuất hiện của bên thứ ba nên các bên có quyền tự do ý chí, không phải chịu sự ràng buộc
hay áp bức của bên thứ ba, kể cả tổ chức quốc tế. Đàm phán trực tiếp là biện pháp giải
quyết tranh chấp được lựa chọn sử dụng phổ biến nhất bởi tính linh động, các bên tranh
chấp có thể tiến hành đàm phán giải quyết mâu thuẫn bằng cách gặp gỡ trực tiếp, đưa ra
quan điểm lập trường của mình để từ đó giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, biện pháp này
Luật quốc tế không quy định quy tắc bắt buộc trong vấn đề đàm phán giữa các bên. Theo
tinh thần của Điều 15 Công ước về việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia
có bờ biển liền kề hoặc đối diện nhau thì cơ chế đàm phán trực tiếp vẫn được coi trọng
để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Cơ chế này tiếp tục được đề cao khi các quốc
gia tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại Điều 74 và Điều 83
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Thứ hai, trong đàm phán trực tiếp, các bên có thể thể hiện ý chí và nguyện vọng
của mình một cách chính xác, độc lập nên khi đạt được thảo thuận thì các bên sẽ thực
hiện mang tính tự nguyện cao hơn so với các biện pháp khác như giải quyết thông qua
cơ quan tài phán quốc tế (Tòa án công lý quốc tế,…). Ngoài ra, thông qua đàm phán, các
bên không chỉ giải quyết được các tranh chấp mà còn có thể góp phần củng cố mối quan
hệ, tình đoàn kết lâu dài giữa các bên có liên quan.
Thứ ba, đàm phán trực tiếp giúp các bên chủ động quyết định thời gian, địa điểm,
không bị hạn chế về không gian và thời gian, phương pháp giải quyết tranh chấp. Đmà
phán trực tiếp chỉ có sự tham gia trực tiếp của các bên nên có thể tiến hành bất cứ lúc
nào mà không bị hạn chế về thời gian, loại bỏ được sự nghi ngờ, sự bất đồng về ý chí
của các bên khi không ngồi cùng một bàn đàm phán. Ưu điểm này sẽ góp phần tiết kiệm
thời gian, chi phí, tạo sự chủ động, thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết.
Thứ tư, đàm phán trực tiếp là sự lựa chọn hợp lý hiệu quả đối với những nước có
vị thế quốc tế không cao, khả năng tham gia tranh tụng quốc tế yếu,… không thể giải
quyết tranh chấp bằng các biện pháp như sử dụng cơ quan tài phán, thông qua tổ chức
quốc tế.
2. Nhược điểm
Thứ nhất, biện pháp đàm phán trực tiếp chỉ có sự tham gia của các bên, không
có sự tham gia của bên trung lập nên khó dung hòa lợi ích của các bên, các bên có thể
đưa ra những yêu sách vô lý cản trở quá trình đàm phán, làm cho tranh chấp ngày càng
gay gắt. Trong nhiều trường hợp các quốc gia tỏ thái độ không hợp tác ngay từ khi bắt
đầu đàm phán. Các bên liên quan thậm chí đặt ra một số điều kiện trước khi ngồi vào
bàn đàm phán và điều này có thể làm chậm quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, đàm phán trực tiếp thường chỉ có thể giải quyết được các tranh chấp có
tính mở, đơn giản, còn các tranh chấp phức tạp thì biện pháp này thể hiện ra không hiệu
quả tốt vì các tranh chấp có thể liên quan đến nhiều bên, nhiều vấn đề đòi hỏi sự phối
hợp, điều tra. Ví dụ như hội nghị giữa Malaysia và Singapore về đảo có đèn biển, sau
đó Tòa án công lý quốc tế đã quyết định hòn đảo thuộc về Singapore.
Thứ ba, đàm phán trực tiếp được tiến hành bởi các bên trên cơ sở tôn trọng Luật
quốc tế nhưng kết quả đàm phán lại không được bảo đảm thực hiện bằng bất kỳ cơ chế
nào. Sự vi phạm phán quyết của Tòa án quốc tế bị coi là hành vi vi phạm Luật quốc tế
còn việc vi phạm các nội dung đàm phán chỉ bị coi là sự thiếu thiện chí, thiếu tôn trọng
quốc gia. Việc tuân thủ kết quả đàm phán phần lớn phụ thuộc vào thiện chí của các bên,
tuy nhiên nhiều nước vẫn nghiêng về lợi ích quốc gia hơn khi phải đứng trước lựa chọn
giữa lợi ích và uy tín, làm mất đi tính hiệu quả của đàm phán trực tiếp.
Thứ tư, trong biện pháp đàm phán trực tiếp thì bên yếu thế hơn về vị thế quốc tế,
khả năng đàm phán ngoại giao có thể phải chịu thiệt và điều này sẽ không xảy ra nếu áp
dụng biện pháp giải quyết tranh chấp khác. Thông thường, các nước mạnh sẽ lợi dụng
vị thế quốc tế của mình để buộc bên còn lại chịu sự nhún nhường nhất định như trong
vấn đề đàm phán Biển Đông giữa Trung Quốc và các quốc gia khác, bao gồm cả Việt
Nam. Tuy vậy, cũng phải khẳng định đây là vấn đề liên quan đến nghệ thuật đàm phán
chứ không phải là sự vi phạm Luật quốc tế.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐÀM PHÁN TRỰC TIẾP TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM LÀ MỘT BÊN
Biện pháp đàm phán trực tiếp là một biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế lâu đời, được áp dụng phổ biến và hiệu quả nhất, là cơ hội, điều kiện thuận lợi
nhất để các bên tranh chấp trực tiếp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về
vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết. Chính vì thế mà
từ lâu đến nay, biện pháp đàm phán trực tiếp vẫn còn được áp dụng để giải quyết tranh
chấp giữa các quốc gia. Việt Nam cũng là một quốc gia thường xuyên áp dụng biện pháp
này trong hầu hết các tranh chấp mà Việt Nam là một bên, đặc biệt là trong các tranh
chấp trên biển Đông. Biển Đông đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt kinh tế, quân sự,
chính trị,.. Các nước ven biển, nhất là các cường quốc đều có xu hướng “tiến ra biển”,
dẫn đến nhiều tranh chấp. Một trong những tranh chấp mà Việt Nam là một bên chính là
tranh chấp trên biển giữa nước ta và Trung Quốc, cụ thể là về phân định Vịnh Bắc Bộ.
1. Hoàn cảnh diễn ra đàm phán
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có chung đường biên giới trên
bộ và biên giới trên biển. Lịch sử quan hệ giữa hai quốc gia để lại 3 vấn đề liên quan đến
biên giới lãnh thổ cần phải giải quyết: xác định đường biên giới trên đất liền; phân định
Vịnh Bắc Bộ và tranh chấp trên biển Đông. Vào năm 2000, hai nước đã hoàn tất quá
trình đàm phán và ký kết hai hiệp định liên quan đến phân định khu vực Vịnh Bắc Bộ.
Đối với Vịnh Bắc Bộ là một trong những vịnh lớn của thế giới, đây là một vịnh
nửa kín, do bờ biển và đảo của hai nước Việt Nam và Trung Quốc bao bọc. Vịnh có vị
trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam là Trung Quốc cả về an ninh – quốc phòng
và lợi ích kinh tế. Chính vì vậy, cả hai quốc gia đều rất coi trọng việc quản lý, sử dụng
và khai thác vịnh trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và an ninh – quốc phòng của
quốc gia.
2. Nội dung của đàm phán
Để có thể giải quyết được những tranh chấp đang diễn ra ở Vịnh Bắc Bộ, tạo điều
kiện cho các quốc gia thực hiện chủ quyền và quyền chủ quyền của mình trong Vịnh,
Việt Nam và Trung Quốc cần phải tiến hành các cuộc đàm phán nhằm phân định ranh
giới trên biển hoặc tiến hành các hoạt động hợp tác đa phương nhằm khai thác chung
những vùng còn chưa phân định được.
Sau khi họp 10 vòng nhóm vông tác về Vịnh Bắc Bộ và 6 vòng tổ chuyên gia về
Vịnh bắc Bộ, , trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế, thực tiễn quốc tế và yếu tố
công bằng về lợi ích của các bên, hai bên đã đi đến ký kết một điều ước quốc tế song
phương về phân định Vịnh Bắc Bộ. Hiệp định này được ký kết ngày 25/12/2000 và được
phê chuẩn vào ngày 30/06/2004, bao gồm 11 điều. Theo đó, Việt Nam được hưởng
53,23% diện tích vịnh, phía Trung Quốc được hưởng 46,77% diện tích vịnh. Hai bên
cam kết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích và thực hiện Hiệp định sẽ được giải
quyết một cách hòa bình thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị.
Liên quan đến Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn một vấn đề cần
phải giải quyết đó là việc phân định khu vực chồng lấn thềm lục địa và đặc quyền kinh
tế bên ngoài cửa vịnh. Vì nhiều yếu tố khác nhau và phía Trung Quốc không muốn công
nhận hiệu lực toàn phần các đảo này cho phía Việt Nam nên đến nay, vấn đề phân định
khu vực ngoài cửa Vịnh vẫn chưa được hai bên giải quyết dứt điểm.
Có thể nhận thấy rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng có
chung cả đường biên giới đất liền và đường biên giới trên biển. Tuy chưa thể giải quyết
triệt để các tranh chấp, nhưng với những kết quả đạt được đối với việc hoạch định biên
giới đất liền và việc phân định được khu vực Vịnh Bắc Bộ đã thể hiện những nỗ lực,
thiện chí của cả hai bên trong việc giải quyết từng phần một bài toán khó. Theo đó, trên
cơ sở các quy định của Pháp luật quốc tế và các thỏa thuận có liên quan, Việt Nam và
Trung Quốc nên tiếp tục chủ động đẩy mạnh hơn nữa các cuộc đàm phán trực tiếp nhằm
tìm kiếm những giải pháp thích hợp, công bằng cho vấn đề biển Đông trong tương lai.
3. Ưu điểm, hạn chế của việc áp dụng biện pháp đàm phán trực tiếp trong tranh
chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Vịnh Bắc Bộ
3.1. Ưu điểm
Xét về phương diện pháp lý, việc sử dụng biện pháp đàm phán trực tiếp để giải
quyết tranh chấp trên là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và nghĩa vụ hòa bình
giải quyết tranh chấp. Mặt khác, xét về bản chất của biện pháp đàm phán trực tiếp, vì là
một biện pháp ưu tiền trong các biện pháp về hòa bình giải quyết tranh chấp, tự nguyện
và thỏa thuận ý chí được đề cao, do vậy, đối với tranh chấp ở Vịnh Bắc Bộ, khi các yêu
sáhc các bên đưa ra đều mâu thuẫn đối lập với nhau thì việc ngồi vào bàn đàm phán tiến
hành trao đổi quan điểm, đi tới sự đồng thuận về giải quyết tranh chấp luôn được đặt ra
hàng đầu. Mặt khác, trong biện pháp đàm phán trực tiếp, ý chí mỗi bên không bị chi phối
bởi bên thứ ba. Do đó, kết quả đàm phán hoàn toàn thỏa mãn ý chí của các bên.
Xét thấy rằng, trong khoảng thời gian tới, biện pháp đàm phán có khả năng xây
dựng lại những cuộc đối thoại trực tiếp nhằm tìm kiếm những quan điểm tương đồng về
đường lối giải quyết tranh chấp. Biện pháp này đối với tất cả các bên trong quan hệ tranh
chấp được tiếp nhận rộng rãi nếu được đề cập tới. Đó là vì, đối với quan hệ Trung Quốc,
từ trước đến nay đều chỉ chấp nhận những cuộc đàm phán song phương để giải quyết,
không tiếp nhận đàm phán đa phương.
3.2. Hạn chế
Với Trung Quốc, chỉ có đàm phán trực tiếp thì khó đem lại một biện pháp thành
công. Và như vậy, tất cả mọi yêu sách của Việt nam luôn đối kháng yêu sách của Trung
Quốc do đối lập về lợi ích. Đối với một nước lớn như Trung Quốc, việc kiên quyết và
tạo thế đứng vững chắc là một đối sách thông minh để kìm hãm hành vi gây hấn và sẵn
sàng bảo vệ lợi ích quốc gia.
Những nơi có tranh chấp đa phương như quần đảo Trường Sa thì cần phải đàm
phán nhiều bên còn như quần đảo Hoàng Sa là vấn đề của riêng hai nước Việt Nam và
Trung Quốc lại khác. Nhiều tuyên bố của Trung Quốc đã đóng sập cánh cửa “con đường
song phương”, ví dụ như tuyên bố Hoàng Sa dứt khoát là của Trung Quốc, không phải
là vấn đề có thể đưa ra đàm phán.
KẾT LUẬN
Do bối cảnh kinh tế ,chính trị văn hóa xã hội ở mỗi nước mỗi khu vực có sự khác
nhau nên trong quan hệ quốc tế thường phát sinh những bất đồng và mâu thuẫn. Việc sử
dụng phương thức giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán trực tiếp đã đảm bảo cho
các nguyên tắc của luật quốc tế được thi hành, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể
của luật quốc tế. Việc sử dụng phương thức đàm phán trực tiếp không chỉ yêu cầu thái
độ tôn trọng chủ quyền của nhau giữa các chủ thể mà còn thể hiện sự tôn trọng công lý
lẽ phải trên thế giới. Thực tiễn áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng đàm
phán trực tiếp đã cho thấy những ưu điểm vượt trội của phương thức này, tuy nhiên cũng
có những điểm còn hạn chế vẫn còn tồn tại. Hiện tại và tương lai trong quan hệ quốc tế,
biện pháp đàm phán trực tiếp sẽ luôn là biện pháp mà các quốc gia “chọn mặt gửi vàng”
để giải quyết các tranh chấp quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an nhân
dân;
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Biển quốc tế, Nxb Tư pháp;
3. Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa về phân định Lãnh hải, vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục
địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25 tháng 12 năm 2000.
4. Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường (2009), Cơ chế giải quyết tranh chấp trên
biển theo Công ước Luật Biển 1982, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Bá Diến (2015), Tranh chấp Biển Đông và các phương thức giải quyết
hòa bình tranh chấp quốc tế trong Luật quốc tế hiện đại, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, Luật học, tập 31, số 3.
6. Tiến sĩ Vũ Cao Phan (2011), Học giả Vũ Cao Phan trả lời truyền hình Trung
Quốc về tranh chấp biển Đông, Cổng thông tin Đảng bộ tỉnh Bình Thuận.
7. Lê Thị Huyền, PGS.TS Nguyễn Bá Diến hướng dẫn, Giải quyết tranh chấp giữa
Việt Nam với các nước trên Biển Đông dưới góc độ Luật Quốc tế, Luận văn thạc
sĩ luật học.
8. Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Pháp luật Quốc tế, Nguyễn Thị Thuận chủ
nhiệm đề tài, Một số cơ chế giải quyết tranh chấp trong Luật Quốc tế, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở;

You might also like