You are on page 1of 29

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

ĐỀ BÀI:
Giải quyết một số vấn đề lý luận về quyền khiếu nại, khởi kiện vụ án
hành chính, khiếu nại hành chính: Phân biệt sự khác nhau giữa
khiếu nại với khiếu kiện hành chính; Mối quan hệ giữa khiếu nại với
khiếu kiện hành chính

GV: ThS. Đỗ Kim Hoàng


Nhóm thực hiện: Nhóm 1

Hà Nội – 2023

1
MỤC LỤC

Contents
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC ĐỐI THOẠI......................................................................4
1.1. Sự cần thiết...........................................................................................................................4
1.2. Khái niệm.............................................................................................................................4
1.3. Mục đích..............................................................................................................................5
1.4. Ý nghĩa.................................................................................................................................5
1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết các khiếu kiện hành chính thông
qua đối thoại...............................................................................................................................5
1.6. Đặc điểm..............................................................................................................................6
1.7. Phân biệt giữa đối thoại và hòa giải.......................................................................................6
II. ĐỐI THOẠI TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH......................................................................8
2.1. Khái niệm.............................................................................................................................8
2.2. Mục đích..............................................................................................................................8
2.4. Nguyên tắc............................................................................................................................8
2.5. Những vụ án hành chính không thể tiến hành đối thoại được................................................9
2.6. Trình tự thủ tục..................................................................................................................10
2.7. Ưu điểm..............................................................................................................................11
2.8. Nhược điểm........................................................................................................................12
III. ĐỐI THOẠI TẠI TÒA ÁN.....................................................................................................14
3.1. Khái niệm...........................................................................................................................14
3.2. Mục đích............................................................................................................................14
3.3. Nguyên tắc..........................................................................................................................14
3.4. Trình tự thủ tục..................................................................................................................16
3.5. Ưu điểm:............................................................................................................................17
3.6. Nhược điểm:.......................................................................................................................21
3.7. Về điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên:..................................................................................22
3.8. Về quyền và nghĩa vụ của Hòa giải viên:.............................................................................23
3.9. Về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu:...........................................................24
3.10. Phương thức hòa giải, đối thoại tại Tòa án:.......................................................................24
3.11. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành:......25

2
3.12. Đề nghị, kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành
tại Tòa án:................................................................................................................................25
3.13. Việc thi hành quyết định:..................................................................................................26
3.14. Về kiểm sát hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án:.........................................................26
IV. ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐỐI THOẠI..............................................27
4.1. Về tuyên truyền, phổ biến Luật...........................................................................................27
4.2. Về tuyển chọn, bổ nhiệm và bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ Hòa giải viên............................27
4.3. Về việc tiến hành hòa giải, đối thoại....................................................................................28
4.4. Về việc hướng dẫn thi hành Luật........................................................................................28
4.5. Về cơ sở vật chất.................................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................30

3
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC ĐỐI THOẠI

1.1. Sự cần thiết.


Khi đời sống ngày càng phát triển, con người phải thường xuyên tham gia vào các
mối quan hệ xã hội đa dạng và phong phú trong nhiều lĩnh vực. Các mâu thuẫn, tranh
chấp trong đời sống xã hội từ đó cũng phát sinh nhiều hơn. Khi ấy, với mục đích duy trì
trật tự xã hội, đối thoại là phương thức hữu hiệu, vô cùng quan trọng để giúp các bên
trong một mối quan hệ ngồi lại với nhau, cùng thương thảo, bàn bạc với mong muốn tìm
được tiếng nói chung, đi đến thống nhất phương án giải quyết một vấn đề nào đó đã phát
sinh nhằm đảm bảo hài hòa về lợi ích.

1.2. Khái niệm.


Về mặt ngữ nghĩa "đối" có nghĩa biểu hiện sự tương tác đối diện giữa hai hay nhiều
bên, "thoại" là lời nói được phát ra. Hiểu một cách đơn giản theo nghĩa của từ thì "đối
thoại" là việc hai hay nhiều bên đối diện tương tác, trao đổi thông tin qua lại bằng lời nói,
có thể không liên quan gì đến công việc.

Ngoài ra, Đại từ điển tiếng Việt cũng có cách dịch nghĩa thứ hai của từ “đối thoại” là:
“Bàn bạc, thương lượng trực tiếp giữa hai hay nhiều bên với nhau để giải quyết các vấn
đề tranh chấp.” Ở nghĩa này thì "đối thoại" lại là bàn bạc, thương lượng giữa hai hay
nhiều bên với nhau và gắn với các vấn đề tranh chấp. "Bên", ở đây có thể là người hoặc
nhóm người có một hoặc một số quan điểm giống nhau, còn tranh chấp chính là những
mâu thuẫn, bất hoà về quyền, lợi ích kinh tế và các lợi ích khác giữa các chủ thể tham gia
quan hệ nhưng chưa được giải quyết ổn thoả. Hay nói cách khác, theo nghĩa thứ hai này
thì “đối thoại” chính là một trong những phương pháp giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đây
cũng là cách hiểu của “đối thoại” hay công tác đối thoại trong việc giải quyết các khiếu
kiện hành chính.

Như vậy trong giải quyết các khiếu kiện hành chính, đối thoại có thể hiểu là việc gặp
gỡ, trao đổi thông tin bằng nhiều hình thức khác nhau giữa các bên trong đó bao gồm chủ

4
thể chịu sự quản lý hành chính nhà nước, chủ thể quản lý hành chính nhà nước, chủ
thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và những chủ thể khác có liên quan trong
quá trình giải quyết tranh chấp để các bên hiểu rõ và thống nhất xác định sự thật khách
quan của vụ việc tranh chấp, chính là sự kết hợp giữa các biện pháp hòa giải, đối chất,
chất vấn để đi đến mục đích cuối cùng là tìm ra một biện pháp giải quyết vụ việc vừa có
tình, vừa có lý trên cơ sở chính sách pháp luật và được các bên ủng hộ

1.3. Mục đích.


Tạo cơ hội cho các bên cùng nhau thống nhất một giải pháp chung nhằm giải
quyết sự việc tranh chấp. Giải pháp chung ở đây được hiểu là cách giải quyết sự việc
tranh chấp hành chính mà được cả hai bên trong tranh chấp thống nhất thực hiện, ví dụ
như hai bên cùng nhau thống nhất việc chủ thể khiếu kiện sẽ rút đơn khiếu kiện kèm
theo việc chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải hủy bỏ các quyết định hành
chính của mình. Tuy nhiên, giải pháp chung mà các bên cùng thống nhất thực hiện này
phải đảm bảo điều kiện không trái với các quy định pháp luật và các chính sách quản lý
hành chính nhà nước.

1.4. Ý nghĩa.
Đối thoại là một cách thức giải quyết tranh chấp thân thiện dựa trên sự đồng thuận
theo nguyên tắc chia sẻ, cảm thông, có ý nghĩa hàn gắn những mâu thuẫn, rạn nứt, ngăn
ngừa các tranh chấp trong tương lai, tạo sự đồng thuận, đoàn kết, góp phần bảo đảm an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết các khiếu kiện hành
chính thông qua đối thoại.
Trước kia, việc giải quyết các khiếu kiện hành chính sẽ trải qua thủ tục đối thoại trong
tố tụng hành chính mà hiện nay được quy định tại Điều 20 Luật Tố tụng hành chính
2015: Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương
sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật này. Hoạt động đối

5
thoại giữa người khởi kiện và bên bị kiện là thủ tục bắt buộc trước khi mở phiên Tòa xét
xử vụ án hành chính.

Sau đó, khi Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được Quốc hội thông qua vào ngày
16/06/2020 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 thì việc giải quyết các khiếu
kiện hành chính sẽ được thực hiện qua một công tác đối thoại nữa trước khi Tòa thụ lý vụ
án là đối thoại tại Tòa án.

1.6. Đặc điểm.


Không phải mọi trường hợp đều bắt buộc tổ chức đối thoại; sẽ có những ngoại lệ mà
việc tổ chức đối thoại không thể tiến hành được hoặc không cần thiết phải tiến hành, lúc
này chủ thể có thẩm quyền có quyền không tổ chức đối thoại.

Đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính phải được tiến hành theo các quy
định của pháp luật. Các quy định pháp luật này bao gồm các trường hợp tổ chức đối
thoại, thành phần tham gia đối thoại, quy trình tiến hành đối thoại cũng như kết quả của
đối thoại đều phải được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật.

1.7. Phân biệt giữa đối thoại và hòa giải.


Đối thoại và hòa giải là các phương thức được sử dụng trong tố tụng nhằm tìm kiếm
sự đồng thuận trước khi giải quyết tranh chấp. Phân biệt giữa hòa giải và đối thoại như
sau:

Đối thoại tại Tòa án là hoạt động đối thoại do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa
án thụ lý vụ án hành chính, nhằm hỗ trợ các bên tham gia đối thoại thống nhất giải quyết
khiếu kiện hành chính theo quy định của Luật.

Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án
thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc
dân sự theo quy định của Luật.

6
Như vậy, điểm khác khi sử dụng phương pháp đối thoại hay hòa giả là đối với vụ án
hành chính thì tiến hành theo cách thức đối thoại, đối với vụ việc dân sự thì tiến hành
theo cách thức hòa giải.

7
II. ĐỐI THOẠI TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

2.1. Khái niệm.


Theo khoản 1 Điều 134 Luật Tố tụng hành chính 2015, đối thoại trong tố tụng hành
chính là hoạt động đối thoại do Tòa án tiến hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

2.2. Mục đích.


Theo khoản 1 Điều 134 Luật Tố tụng hành chính 2015, thủ tục đối thoại được tiến
hành để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án.

2.4. Nguyên tắc.


Theo khoản 2 Điều 134 Luật Tố tụng hành chính 2015, thủ tục đối thoại trong tố
tụng phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:

Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự: Thời gian, địa điểm và
nội dung đối thoại được thông báo trước cho đương sự và các chủ thể có liên quan, trong
quá trình đối thoại các bên đều được quyền đưa ra ý kiến của mình để đánh giá về tính
hợp pháp của đối tượng khiếu kiện, Thẩm phán trên cơ sở lắng nghe ý kiến của các bên
để từ đó có hướng xử lý tiếp theo đối với vụ án hành chính đang giải quyết.

Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái
với ý chí của họ: Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng của thủ tục đối thoại.
Vì bản chất của thủ tục đối thoại là nhằm tạo ra sự thống nhất giữa các bên đương sự đối
với vụ án hành chính mà Tòa án đang giải quyết nên kết quả của đối thoại phải thể hiện ý
chí tự quyết của các bên tham gia đối thoại. Do đó, trong quá trình tổ chức đối thoại,
Thẩm phán chỉ hướng dẫn, giúp đỡ các bên đương sự có nhận thức đúng đắn về tính hợp
pháp của đối tượng đang tranh chấp để họ lựa chọn một hành động phù hợp với ý chí của
mình. Các đương sự khi tham gia đối thoại không một ai được quyền ép buộc, đe dọa hay
cản trở các đương sự phải thực hiện một việc trái với ý chí của họ.

Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật,

8
trái đạo đức xã hội: Nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán tiến hành đối thoại phải nắm
vững quy định của pháp luật; trước hết, là cần nắm vững các quy định của pháp luật tố
tụng hành chính về trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hành chính, sau đó cần nắm
vững quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến khiếu kiện hành chính đang giải
quyết để Thẩm phán có thể phân tích cho các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn
bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và quyết
định việc giải quyết vụ án. Bên cạnh việc nắm rõ quy định của pháp luật, Thẩm phán cần
phải có sự hiểu biết nhất định về quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán nhằm ngăn chặn
các bên có những thỏa thuận trái với đạo đức xã hội.

2.5. Những vụ án hành chính không thể tiến hành đối thoại được.
Theo Điều 135 Luật Tố tụng hành chính 2015, những vụ án hành chính không thể
tiến hành đối thoại được là:

Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng.

Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại.

Đối với hai trường hợp người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt và đương
sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng được Luật TTHC năm 2015
quy định thuộc trường hợp vụ án không tiến hành đối thoại được là điều hợp lý. Bởi lẽ,
bản chất của thủ tục đối thoại là giữa các đương sự phải gặp gỡ nhau cùng trực tiếp thảo
luận các vấn đề phát sinh trong tranh chấp hành chính, do vậy, nếu một hoặc các bên
vắng mặt vì lý do khách quan lẫn chủ quan thì Tòa án không thể tiến hành đối thoại được.
Đối với trường hợp các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại thì
Tòa án cũng tôn trọng ý chí và quyền tự định đoạt của các bên trong vụ án hành chính.

9
Những vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, Luật TTHC năm 2015 quy định không
phải tổ chức đối thoại là phù hợp vì xuất phát từ yêu cầu giải quyết khiếu kiện này phải
được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời; bởi lẽ mục đích chính của người khởi
kiện đối với vụ việc này là để có tên trong danh sách cử tri hoặc tên phải được ghi đúng
trong danh sách cử tri, nếu như việc giải quyết vụ án hành chính trải qua thủ tục đối thoại
sẽ kéo dài thêm thời gian giải quyết vụ án hành chính có thể dẫn đến trường hợp sau khi
Tòa án xét xử xong tuyên chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện cũng không còn ý
nghĩa vì hoạt động bầu cử đã qua đi.

Thủ tục xét xử rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 Luật Tố tụng
hành chính 2015 thì không cần phải thực hiện thủ tục đối thoại vì thủ tục rút gọn trong tố
tụng hành chính là thủ tục giải quyết vụ án hành chính nhằm rút ngắn về thời gian và thủ
tục so với thủ tục giải quyết vụ án hành chính thông thường nên nếu thực hiện thủ tục đối
thoại đối với các vụ việc được quy định tại các điều luật trên sẽ không bảo đảm tính chất
của thủ tục xét xử rút gọn.

2.6. Trình tự thủ tục.


Được quy định tại khoản 4 Điều 138 Luật Tố tụng hành chính 2015, sau khi tiến hành
xong việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán tiến hành thủ tục
đối thoại như sau:

Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến
việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả
pháp lý của việc đối thoại để họ tự nguyện thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án;

Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ để bảo vệ yêu
cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện về hướng giải quyết vụ án (nếu
có);

Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện, những căn cứ
ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện và đề xuất

10
hướng giải quyết vụ án (nếu có);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và đề xuất ý kiến
giải quyết phần liên quan đến họ (nếu có);

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người khác tham gia
phiên họp đối thoại (nếu có) phát biểu ý kiến;

Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự nêu văn bản quy phạm pháp luật,
văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khởi kiện, đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của văn bản đó.
Thẩm phán có thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và quyết định việc
giải quyết vụ án;

Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn
đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự
trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;

Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và những vấn đề
chưa thống nhất.

2.7. Ưu điểm.
Pháp luật Việt Nam giải quyết mọi việc theo lý nhưng cũng dựa trên tình. Quá trình phát
triển đất nước cũng như kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đối thoại đóng vai trò đặc biệt
quan trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Với phương thức đồng thuận cảm
thông, đối thoại trong tố tụng hành chính là một bức phá mang tính kế thừa và phát huy
truyền thống văn hóa, pháp lý tốt đẹp của dân tộc.

Đối thoại trong tố tụng hành chính nhằm giúp các bên đương sự hiểu rõ hơn về nội dung
vụ án, từ đó có quyết định phù hợp.

11
Qua đối thoại, tùy thuộc vào ý chí của đương sự mà Tòa án sẽ có cách xử lý khác nhau.

Đối thoại góp phần giúp vụ việc được giải quyết triệt để, hiệu quả và nhanh hơn, không
phải trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm theo quy định của các luật tố
tụng; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước.

Đối thoại đã trở thành một lựa chọn, một giải pháp căn cơ, giúp giải quyết nhanh khối
lượng công việc ngày càng nặng nề, trong bối cảnh hàng năm các tranh chấp, khiếu kiện
không ngừng tăng lên cả về số lượng và tính chất phức tạp.

2.8. Nhược điểm.


Chứng cứ do các bên đương sự cung cấp trong tâm thế thắng thua thường không đầy đủ,
còn che giấu, thậm chí ngụy tạo: phía người bị kiện thường không cung cấp kịp thời tài
liệu, chứng cứ theo quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Tòa án. Sự thiếu
sự hợp tác của người bị kiện gây ra những khó khăn cho việc tổ chức phiên họp kiểm tra
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại.

Đối thoại trong tố tụng không linh hoạt về thời gian, địa điểm, phương pháp tiến hành:

Thứ nhất, các bên không có quyền lựa chọn Thẩm phán giải quyết cho vụ việc của mình:
Chánh án Tòa án sẽ là người ra quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án theo
nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên.

Thứ hai, các bên không có quyền lựa chọn thời gian, địa điểm, hình thức đối thoại: Trong
tố tụng, phiên đối thoại sẽ được tổ chức tại trụ sở Tòa án hoặc có thể ngoài trụ sở Tòa án
nhưng phải đảm bảo tính trang nghiêm và hình thức phòng xử án theo quy định dẫn đến
địa điểm tổ chức phiên đối thoại sẽ do Tòa án quyết định.

Thẩm phán tiến hành phiên đối thoại phải chấp hành quy định của pháp luật và quy tắc
đạo đức nên không được phép đưa ra lời khuyên, phương án giải quyết nghiêng về một
bên.

12
Thời gian công sức dành cho công tác đối thoại hạn chế.

Các khiếu kiện hành chính thường vắng mặt người có trách nhiệm: Đặc thù chủ thể bị
kiện chủ yếu là các cơ quan tổ chức, nên việc tham gia tố tụng phải là người đứng đầu cơ
quan, tổ chức hoặc chỉ ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện theo quy định tại khoản
2, 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015, trong khi những người này luôn phải chịu áp
lực lớn trong công việc quản lý hành chính nhà nước, do đó trong quá trình giải quyết vụ
án, hầu hết những người bị kiện không tham gia.

Đối thoại thành ở cơ sở phần lớn là những va chạm, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân
cư, không phải là các tranh chấp, khiếu kiện đến mức phải giải quyết bằng quá trình tố
tụng. Chính vì vậy, số lượng các vụ việc Tòa án các cấp phải thụ lý tăng lên rất nhanh với
quy mô lớn và tính chất phức tạp.

13
III. ĐỐI THOẠI TẠI TÒA ÁN
Trước những nhược điểm, hạn chế còn tồn tại ở phương thức đối thoại trong tố tụng, bắt
buộc phải có những giải pháp căn cơ thúc đẩy nhanh và hiệu quả việc giải quyết đơn của
nhân dân, giảm áp lực cho Tòa án. Hòa giải, đối thoại tại Tòa án trở thành một chế định
ưu việt, đem đến quy trình mới, cách thức mới đáp ứng được đòi hỏi trước nhất của tình
hình và lâu dài của tiến trình cải cách tư pháp.

3.1. Khái niệm.


Theo khoản 3 Điều 2 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, đối thoại tại Tòa án là hoạt
động đối thoại do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

3.2. Mục đích.


Theo khoản 3 Điều 2 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, công tác đối thoại được
tiến hành nhằm hỗ trợ các bên tham gia đối thoại thống nhất giải quyết khiếu kiện hành
chính

3.3. Nguyên tắc.


Theo Điều 3 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, việc đối thoại phải được tiến hành
theo các nguyên tắc sau đây:

Các bên tham gia đối thoại (sau đây gọi là các bên) phải tự nguyện đối thoại: Điều này
đảm bảo rằng các bên tham gia vào quá trình hòa giải và đối thoại là tự nguyện tham gia.
Không có sự ép buộc từ bất kỳ bên nào để đạt được thỏa thuận hoặc thống nhất mà không
phù hợp với ý chí của các bên.

Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận, thống nhất của các bên; không được ép buộc các bên
thỏa thuận, thống nhất trái với ý chí của họ: Nguyên tắc này nhấn mạnh việc tôn trọng
thỏa thuận và thống nhất mà các bên đạt được. Không có sự ép buộc hoặc áp đặt thỏa
thuận trái với ý muốn của các bên tham gia.

14
Bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên: Nguyên tắc này bảo đảm rằng các
bên tham gia có quyền và nghĩa vụ tương đương trong quá trình hòa giải và đối thoại.
Điều này đảm bảo rằng không có bên nào bị thiệt hại hoặc bị thiên vị trong quá trình này.

Nội dung thống nhất đối thoại không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác,
không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác

Các thông tin liên quan đến vụ việc đối thoại phải được giữ bí mật theo quy định tại Điều
4 của Luật này: Điều này đảm bảo tính riêng tư và sự tin tưởng trong quá trình này và
đồng thời bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia.

Phương thức đối thoại được tiến hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm
của mỗi loại vụ việc: Điều này đảm bảo rằng quá trình hòa giải và đối thoại được điều
chỉnh và thiết kế để phù hợp với các yêu cầu cụ thể của tranh chấp.

Hòa giải viên tiến hành đối thoại độc lập và tuân theo pháp luật: Điều này đảm bảo tính
khách quan và công bằng trong quá trình hòa giải và đối thoại, và bảo đảm rằng quyết
định được đưa ra dựa trên cơ sở pháp lý.

Tiếng nói và chữ viết dùng trong đối thoại là tiếng Việt. Người tham gia, đối thoại có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình; trường hợp này họ có thể tự bố trí hoặc
đề nghị Hòa giải viên bố trí phiên dịch cho mình: Điều này đảm bảo rằng mọi bên có thể
hiểu và được tham gia đầy đủ trong quá trình hòa giải và đối thoại.

Người tham gia đối thoại là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn có quyền
dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp này phải có
người biết ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật để dịch lại và họ cũng
được coi là người phiên dịch.

Bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trong đối thoại:
Điều này đảm bảo rằng không có sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính và bảo vệ quyền

15
của trẻ em trong quá trình này.

Những nguyên tắc này được thiết lập nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch và hiệu
quả trong quá trình hòa giải và đối thoại tại Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết các tranh chấp và xây dựng các thỏa thuận đáng tin cậy.

Những vụ án hành chính không thể tiến hành đối thoại được:

Theo Điều 19 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, những vụ án hành chính không
thể tiến hành đối thoại được là:

Yêu cầu đòi bồi thường do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.

Vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã
được mời tham gia đối thoại hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan hoặc không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính
đáng.

Một bên vợ hoặc chồng trong tranh chấp ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Một trong các bên đề nghị không tiến hành đối thoại.

Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.

Trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

3.4. Trình tự thủ tục.


Hòa giải viên sẽ tiến hành thủ tục đối thoại theo quy định tại Điều 26 Luật Hòa giải, đối
thoại tại Tòa án 2020:

Hòa giải viên giới thiệu thành phần tham gia phiên đối thoại; trình bày nội dung cần đối

16
thoại; diễn biến quá trình chuẩn bị đối thoại; phổ biến quy định của pháp luật có liên quan
đến việc giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính, phân tích hậu quả pháp lý của
việc đối thoại thành.

Người khởi kiện, người yêu cầu hoặc người đại diện của họ trình bày nội dung yêu cầu,
khởi kiện; đề xuất quan điểm về những vấn đề cần đối thoại và hướng giải quyết tranh
chấp, khiếu kiện.

Người bị kiện hoặc người đại diện của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của
người khởi kiện, người yêu cầu; đề xuất quan điểm về những vấn đề cần đối thoại; hướng
giải quyết tranh chấp, khiếu kiện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của họ trình bày ý kiến của
mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện; đề xuất quan
điểm về những vấn đề cần đối thoại; hướng giải quyết tranh chấp, khiếu kiện.

Người được mời tham gia đối thoại phát biểu ý kiến.

Hòa giải viên thực hiện nhiệm vụ quy định tại Điều 23 của Luật này để hỗ trợ các bên
trao đổi ý kiến, trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ và đi đến thỏa thuận, thống
nhất việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện.

Hòa giải viên tóm tắt những vấn đề các bên đã thỏa thuận, thống nhất hoặc chưa thỏa
thuận, thống nhất.

3.5. Ưu điểm:
Tiết kiệm công sức và thời gian cho các bên: Phương thức đối thoại trước thụ lý được
tiến hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi loại vụ việc được ghi
nhận là một nguyên tắc đối thoại tại Tòa án. Sự linh hoạt trong thủ tục giúp tiết kiệm
công sức và thời gian cho các bên, thể hiện ở những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, các bên có quyền lựa chọn Hòa giải viên cho vụ việc của mình: Các bên có

17
quyền lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án có thẩm quyền
giải quyết khiếu kiện hành chính; trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện thì có thể lựa chọn Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp huyện
khác trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án nhân dân cấp tỉnh (điểm c khoản 1
Điều 8 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020). Quyền lựa chọn Hòa giải viên đã tăng
thêm sự chủ động và sự tin tưởng vào Hòa giải viên của các bên tham gia đối thoại, làm
tăng cơ hội đối thoại thành.

Thứ hai, các bên có thể chủ động sắp xếp thời gian, địa điểm, hình thức đối thoại phù
hợp: Với phương thức đối thoại trước thụ lý, Hòa giải viên có thể gặp gỡ các bên trong
giờ hành chính hoặc ngoài giờ hành chính, tại trụ sở hoặc ngoài trụ sở Tòa án phù hợp
với hoàn cảnh, nhu cầu của các bên khoản 2 Điều 22 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
2020). Phiên đối thoại có thể được thực hiện bằng hình thức trực tiếp hoặc hình thức phù
hợp khác theo đề nghị của các bên (khoản 3 Điều 22 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
2020). Riêng phiên họp ghi nhận kết quả đối thoại thì tổ chức tại trụ sở Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc, có sự tham gia của Thẩm phán (khoản 2 Điều 27, khoản 1 Điều
28 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020).

Thứ ba, đối thoại được tiến hành nhanh chóng và dành quyền chủ động cho các bên:
Theo quy định tại Điều 20 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, thời gian từ lúc
Tòa án nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến lúc chỉ định Hòa giải viên là khoảng 15
ngày. Thời hạn đối thoại là 20 ngày kể từ ngày Hòa giải viên được chỉ định; đối với vụ
việc phức tạp, thời hạn này có thể được kéo dài nhưng không quá 30 ngày; các bên có thể
thống nhất kéo dài thời hạn đối thoại, nhưng không quá 02 tháng. Như vậy, tổng thời gian
giải quyết trung bình của một vụ việc thông qua đối thoại là khoảng 1,5 tháng. Việc kéo
dài thời gian chỉ trong trường hợp các bên tham gia đối thoại thống nhất yêu cầu. Các bên
cũng có quyền chấm dứt việc đối thoại vào bất cứ lúc nào (điểm a khoản 1 Điều 8 Luật
Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020). Ngoài ra, thời gian nhận, giải quyết đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu theo quy định của Luật này không tính vào thời hiệu khởi kiện, thời hạn xử
lý đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính nếu vụ việc

18
được giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng (khoản 9 Điều 16 Luật Hòa giải,
đối thoại tại Tòa án 2020). Ngược lại, trong tố tụng, thời hạn giải quyết trung bình đối với
một vụ án dân sự, hành chính là khoảng 07 tháng (từ khi Tòa án nhận đơn đến khi ban
hành bản án sơ thẩm), nếu vụ việc được xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm thì
thời gian giải quyết vụ án còn dài hơn nữa. Như vậy, chỉ so sánh với riêng thủ tục xét xử
sơ thẩm trong tố tụng thì đối thoại tại Tòa án đã tiết kiệm được gần 80% thời gian cho các
bên.

Tiết kiệm chi phí: Nhà nước khuyến khích đối thoại nên rất tiết kiệm chi phí cho các bên.
Chi phí đối thoại tại Tòa án do ngân sách nhà nước bảo đảm, trừ các trường hợp sau đây
(Điều 9 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020):

Chi phí tổ chức đối thoại đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch.
Mức thu cho việc chi thù lao của Hòa giải viên và chi phí hành chính phục vụ việc đối
thoại giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch tại Tòa án là
2.000.000 đồng/1 vụ việc (khoản 1 Điều 4 Nghị định 16/2021/NĐ-CP).

Các chi phí khác, bao gồm: chi phí khi các bên thống nhất lựa chọn địa điểm đối thoại
ngoài trụ sở Tòa án; Chi phí khi Hòa giải viên xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến vụ
việc dân sự, khiếu kiện hành chính mà tài sản đó nằm ngoài phạm vi địa giới hành chính
của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết có trụ sở; Chi phí phiên dịch tiếng nước
ngoài. Các chi phí này phát sinh trong một số ít trường hợp theo thực tế và lựa chọn của
các bên.

Như vậy, trong phần lớn các vụ việc được tiến hành đối thoại tại Tòa án, các bên không
phải chịu chi phí thủ tục. Mặt khác, việc tiết kiệm thời gian, công sức cũng là tiết kiệm
chi phí cho các bên tham gia đối thoại.

Bảo mật thông tin cho các bên: Về nguyên tắc, các thông tin trong đối thoại được bảo
mật: Hòa giải viên, các bên, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác được mời tham gia đối thoại
không được tiết lộ thông tin mà mình biết được trong quá trình đối thoại, trừ khi có sự

19
đồng ý của các bên. Trong quá trình đối thoại không được ghi âm, ghi hình, ghi biên bản
đối thoại. Việc lập biên bản chỉ được thực hiện để ghi nhận kết quả đối thoại theo quy
định của Luật này. Hòa giải viên, các bên chỉ được ghi chép để phục vụ cho việc đối
thoại và phải bảo mật nội dung đã ghi chép (khoản 2 Điều 4 Luật Hòa giải, đối thoại
2020). Nguyên tắc bảo mật thông tin xuất phát từ bản chất của đối thoại là dành quyền tự
quyết, tự định đoạt việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện cho các bên tham gia đối thoại.
Hòa giải viên đóng vai trò trợ giúp cho các bên như phân tích tính hiệu quả, khả thi của
từng phương án, giải pháp giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính; hỗ trợ các
bên đạt được sự thỏa thuận, thống nhất. Cũng từ sự bảo mật thông tin giúp các bên có thể
cởi mở, bày tỏ tất cả những tâm tư, nguyện vọng để cảm thông, chia sẻ với nhau. Đây là
chìa khóa cho đối thoại thành và là ưu việt lớn của đối thoại tại Tòa án so với phương
thức giải quyết công khai theo tố tụng hành chính.

Hàn gắn và duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các bên: Với sự hỗ trợ của Hòa giải viên
giàu tâm huyết và năng lực, các bên có thể giãi bày những tâm tư, nguyện vọng của mình
và dần tháo gỡ các mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên, hàn gắn và duy trì mối quan hệ tốt
đẹp trong quan hệ bạn bè, đối tác… Đây là ý nghĩa rất lớn của đối thoại mà phương thức
giải quyết tranh chấp, khiếu kiện bằng con đường đối thoại trong tố tụng khó có được.
Ngay cả trong trường hợp đối thoại không thành thì thông qua đối thoại tại Tòa án, các
bên đã được Hòa giải viên giải thích quyền và nghĩa vụ, các bên đã hiểu hơn về quyền và
nghĩa vụ của mình để tham gia tố tụng một cách tích cực và hiệu quả hơn.

Kết quả đối thoại thành được Tòa án công nhận và có hiệu quả thi hành cao: Kết quả đối
thoại thành được Tòa án công nhận bằng thủ tục nhanh gọn và có giá trị thi hành như bản
án khi có yêu cầu của các bên tham gia đối thoại tại Tòa án (khoản 3 Điều 35). Các bên
không phải trả lệ phí cho thủ tục xét công nhận kết quả đối thoại thành tại Tòa án. Thực
tiễn thí điểm cho thấy, kết quả giải quyết tranh chấp bằng đối thoại thường được các bên
tự nguyện thi hành, thậm chí là thi hành ngay tại phiên đối thoại do các bên tự thỏa thuận,
thống nhất phương án giải quyết tranh chấp, khiếu kiện.

20
3.6. Nhược điểm:
Điều 16 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020 chỉ quy định trường hợp người khởi
kiện, người bị kiện có ý kiến về việc chọn đối thoại tại Tòa án và chọn Hòa giải viên mà
không quy định trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ý kiến chọn đối thoại
tại Tòa án và chọn Hòa giải viên. Trong khi đó, sự việc tranh chấp ngoài người khởi kiện,
người bị kiện thì còn có chủ thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia. Do
đó, trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có văn bản ý kiến không đồng ý
chọn đối thoại tại Tòa án và không đồng ý chọn Hòa giải viên thì Tòa án xử lý như thế
nào hiện chưa có hướng dẫn.

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không quy định trường hợp trong quá trình Hòa giải
viên tiến hành phiên đối thoại thì có người tham gia cung cấp tài liệu, chứng cứ. Vậy Hòa
giải viên lập biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ hay Thẩm phán phụ trách vụ việc phải
lập biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ. Do có vụ việc sau khi Tòa án chuyển hồ sơ
sang đối thoại và Hòa giải viên tiến hành phiên đối thoại xong chuyển trả hồ sơ lại cho
Tòa án xem xét xử lý theo quy định của pháp luật tố tụng thì phát sinh nhiều tài liệu,
chứng cứ mới (so với khi Tòa án tiếp nhận ban đầu) mà Tòa án không biết nguồn tài liệu,
chứng cứ đó là từ đâu để có cơ sở xem xét sau khi Tòa án xử lý theo tố tụng.

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không quy định về trường hợp người tham gia thay
đổi ý kiến tại phiên họp ghi nhận kết quả đối thoại hoặc trong thời gian chờ Thẩm phán
xem xét ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành thì Tòa án xử lý như thế nào.

Trường hợp biên bản ghi nhận kết quả đối thoại thành mà người tham gia yêu cầu phải
giữ bí mật thông tin về nội dung đối thoại do các bên cung cấp theo quy định tại khoản 6
Điều 30 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, thì nội dung họ yêu cầu giữ bí mật được ghi
nhận vào Biên bản ghi nhận kết quả đối thoại như thế nào? Ai là người lập biên bản về
nội dung thông tin yêu cầu giữ bí mật (Hòa giải viên hay Tòa án) và thực hiện lưu giữ
như thế nào Luật không quy định và hiện chưa có hướng dẫn để thực hiện.

Khoản 2, 3 Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định thời hạn ra quyết định

21
công nhận hoặc không công nhận kết quả đối thoại thành là hết 15 ngày, kể từ ngày Tòa
án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo do Hòa giải viên chuyển đến. Trong một số
vụ việc đơn giản thì thời hạn trên là khá lâu, dẫn đến người tham gia còn ngần ngại khi
chọn đối thoại Tòa án và chọn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả đối thoại
thành.

Trường hợp các bên tự nguyện đối thoại thành với nhau mà vượt quá so với yêu cầu khởi
kiện ban đầu thì Tòa án có ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành phần vượt so
với đơn khởi kiện không thì hiện chưa có hướng dẫn.

3.7. Về điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên:


Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 10 Luật này quy định điều kiện để được bổ
nhiệm Hòa giải viên: “Đã là Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên Viện kiểm sát, Chấp hành viên thi hành án dân sự, Thanh tra viên;
luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn khác có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực
công tác; người có hiểu biết về phong tục tập quán, có uy tín trong cộng đồng dân cư”.
Quy định này là chưa phù hợp bởi lẽ, luật sư là người có chuyên môn, hành nghề luật và
thường là người bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho đương sự nhưng khi làm Hòa giải
viên thì có phù hợp không, có khách quan hay không. Mặc khác, họ là người có chứng
chỉ hành nghề luật sư thì họ có cần phải có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải hay
không trong khi họ đang là thành viên của một đoàn luật sự hay tổ chức luật sư nào đó.
Do đó, quy định này là chưa phù hợp với thực tế. Quy định “chuyên gia, nhà chuyên môn
khác có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác” cũng là quy định chưa cụ
thể, rõ ràng. Thực tế hiện nay, đa số Hòa giải viên còn kiêm nhiệm một Hội, đoàn thể nào
đó, thậm chí có người còn đang là Hội thẩm nhân dân, Công chứng viên, …

Đối với chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải, đối thoại do cơ sở đào tạo của Tòa án
nhân dân tối cao cấp (trừ các trường hợp đã quy định) thì quy trình đào tạo, bồi dưỡng
như thế nào, thời hạn bao lâu và trong từng trường hợp hòa giải, đối thoại có phải đưa
chứng chỉ này vào trong hồ sơ như chứng nhận luật sư hay không cũng chưa được quy

22
định cụ thể.

3.8. Về quyền và nghĩa vụ của Hòa giải viên:


Hòa giải viên có những quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 14 của Luật này, cụ thể như:

Yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung tranh chấp,
khiếu kiện; các thông tin, tài liệu liên quan khác cần thiết cho việc hòa giải, đối thoại.
Quy định này có thể thực hiện được đối với các tranh chấp của cá nhân với cá nhân
nhưng các tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức, cá nhân với cơ quan Nhà nước thì rất khó
thực hiện trên thực tế, bởi các lẽ sau: Hòa giải viên khi thực hiện nhiệm vụ thì nhân danh
gì để yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu, yêu cầu bằng con đường nào. Trình tự,
thủ tục như thế nào và người được yêu cầu phải có nghĩa vụ gì.

Xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện trước khi lập biên bản ghi
nhận kết quả hòa giải, đối thoại theo yêu cầu của một trong các bên. Đây là quy định dễ
thực hiện nhưng lại khó bởi xem xét hiện trạng nhưng không được lập biên bản, không
được ghi âm, ghi hình thì ai bảo đảm rằng tài sản này sẽ giữ nguyên hiện trạng và việc
xem xét hiện trạng này cũng không có ý nghĩa vì tại điểm đ Khoản 1 Điều 14 quy định:
“Không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của thông tin, tài liệu,
chứng cứ do các bên cung cấp”. Ngoài ra, Hòa giải viên còn có quyền được mời người có
uy tín tham gia hòa giải, đối thoại nhưng những người này là người nào, họ tham gia hòa
giải với tư cách gì, quyền và nghĩa vụ của họ ra làm sao thì chưa có quy định cụ thể, chặt
chẽ. Điều này dễ tạo ra những sai sót làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của
các bên đương sự. Hậu quả của việc này giải quyết như thế nào chưa được đề cập.

Khi tiến hành phiên hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì Hòa giải viên ấn định thời gian, địa
điểm và thông báo cho các bên, người đại diện, người phiên dịch chậm nhất là 05 ngày
trước ngày mở phiên hòa giải và việc thông báo có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc
hình thức khác phù hợp. Vậy Hòa giải viên thông báo như thế nào, có phù hợp với các
quy định khác của pháp luật về việc ra thông báo cho đương sự trong vụ, việc dân sự,

23
hành chính,… hay không.

3.9. Về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu:


Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự và Tố tụng hành chính, thông báo cho người khởi kiện, người yêu cầu biết để
lựa chọn Hòa giải viên, lập biên bản ghi nhận ý kiến của người khởi kiện, người yêu cầu
rồi phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại. Nếu người bị kiện đồng ý hòa giải
thì Hòa giải viên viên tiến hành hòa giải. Tất cả các thủ tục này không khác gì việc Tòa
án nhận đơn khởi kiện theo như quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Tố tụng hành
chính. Vậy, Tòa án tiến hành các hoạt động như ra Thông báo, lập biên bản ghi nhận ý
kiến của các bên, phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải đối thoại, chỉ định Hòa giải
viên là hoạt động tiền tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tố tụng hành
chính hay chỉ là hoạt động hành chính của Tòa án. Các hoạt động này tuân thủ nguyên tắc
gì và khi vụ việc không thể hòa giải, đối thoại thành thì các thủ tục này có được chuyển
tiếp vào hồ sợ vụ, việc khi Tòa án thụ lý hay không. Việc xem xét tính hợp pháp, hợp lý
của các thủ tục này trong vụ án, vụ việc ra sao. Mặt khác, việc thụ lý loại vụ, việc này sẽ
nằm vào mục nào trong hệ thống báo cáo, thống kê.

3.10. Phương thức hòa giải, đối thoại tại Tòa án:
Ngay trong điều luật đã thể hiện phương thức hòa giải, đối thoại tại Tòa án có nghĩa là
việc tổ chức hòa giải, đối thoại được tổ chức tại Tòa án bởi đây là phương pháp giải
quyết các tranh chấp tại Tòa án chứ không phải là phương thức giải quyết tranh chấp
ngoài Tòa án như tranh chấp thương mại. Do đó, quy định “Việc hòa giải, đối thoại có
thể được tiến hành tại trụ sở Tòa án hoặc có thể ngoài trụ sở Tòa án theo lựa chọn của các
bên” tại Khoản 2 Điều 22 của Luật này là không phù hợp. Bởi lẽ, các đương sự đã gửi
đơn đến Tòa án và lựa chọn con đường hòa giải, đối thoại thì phải được thực hiện tại Tòa
án mới đảm bảo tính khách quan, bảo mật thông tin và đặc biệt là tránh các rắc rối không
cần thiết khi tiến hành hòa giải, đối thoại ngoài Tòa án.

24
3.11. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại
thành:
Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15
ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Như vậy, ngoài biên bản
ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại thì có tài liệu kèm theo. Vậy, tài liệu này được thu
thập theo trình tự gì, có ý nghĩa như thế nào?

Khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 33 Luật này thì Thẩm phán được phân
công ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại
thành và phải gửi quyết định đó cho các bên và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày Tòa án ra quyết định và Quyết định này không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quy định này phù hợp với quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự nhưng chưa hợp lý.

3.12. Đề nghị, kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành,
đối thoại thành tại Tòa án:
Thẩm phán được phân công ra quyết định trên cơ sở các đương sự đã thỏa thuận thống
nhất với nhau về các vấn đề tranh chấp nên và quyết định này có hiệu lực pháp luật thì
quy định các bên có quyền đề nghị xem xét lại quyết định trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được hoặc biết được quyết định là không phù hợp với các quy định của Luật
này và các văn bản pháp luật khác. Bởi lẽ, thời hạn chuẩn bị để Thẩm phán ra quyết định
là 15 ngày kể từ ngày nhận được biên bản ghi nhận kết quả nên các bên đương sự chỉ có
quyền thay đổi nội dung thỏa thuận trong thời hạn này là phù hợp. Quy định này tạo điều
kiện cho các bên đương sự cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình nếu muốn.

Quy định Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị xem xét lại quyết định công nhận
kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
quyết định của Tòa án. Quy định này không đảm bảo bởi là một quyết định của Tòa án
nhân danh Nhà nước ban hành một quyết định có hiệu lực thi hành ngay nhưng lại chỉ bị
kiến nghị xem xét lại là chưa đúng luật định mà cần phải quy định Viện kiểm sát có

25
quyền kháng nghị đối với quyết định này. Mặc dù, đây là quyết định trước khi Tòa án thụ
lý vụ án nhưng lại là quyết định được ban hành của Tòa án, theo trình tự, phương thức
giải quyết trong Tòa án thì phải bị xem xét, kiến nghị, kháng nghị theo luật định mới đảm
bảo.

3.13. Việc thi hành quyết định:


Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo quy định của pháp luật
về thi hành án dân sự. Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành được thi hành theo
quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Với quy định này có thể hiểu đây là quyết
định của Tòa án mà Cơ quan Thi hành án dân sự, thi hành án hành chính phải tổ chức thi
hành. Nhưng trong tất cả các nội dung có liên quan của Luật này không có quy định nào
về việc Tòa án phải gửi quyết định đó cho Cơ quan Thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính.

3.14. Về kiểm sát hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án:
Luật này không có điều luật nào nói về việc kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với
việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Viện kiểm sát nhân dân chỉ có quyền kiến nghị xem
xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. Đây là một thiếu sót
rất lớn bởi các quyết định này được thi hành trên thực tế nhưng ngay từ đầu đã không
được kiểm sát. Các quyết định này ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống nhưng lại
không được thụ lý, kiểm sát để đảm bảo tính khách quan, công bằng, đúng luật. Ngoài ra,
hiện nay khi nhận được quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành từ
Tòa án thì Viện kiểm sát cũng không biết phải mở sổ thụ lý, thống kê, báo cáo như thế
nào cho phù hợp.

26
IV. ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐỐI THOẠI

4.1. Về tuyên truyền, phổ biến Luật


Thứ nhất, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Hòa giải, đối
thoại tại Tòa án, đặc biệt là ở các địa phương ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa để mọi tầng
lớp nhân dân đều biết đến các quy định của Luật.

Thứ hai, các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện phân công Hòa giải
viên tuyên truyền để trực tiếp phổ biến, tuyên truyền về Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa
án cho người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện trong quá trình nhận và xử lý đơn
khởi kiện vụ án hành chính nhằm nâng cao hiểu biết và tin tưởng của người dân đối với
cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Thứ ba, Tòa án nhân dân tối cao cần xây dựng và thực hiện hiệu quả Đề án tăng cường
phổ biến, giáo dục pháp luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án giai đoạn 2022 - 2026.

4.2. Về tuyển chọn, bổ nhiệm và bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ Hòa giải viên
Thứ nhất, Tòa án nhân dân tối cao cần tiếp tục triển khai xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
nghiệp vụ hòa giải, đối thoại cho những cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật
và có nguyện vọng làm Hòa giải viên (để bổ nhiệm Hòa giải viên mới); đồng thời, xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên sâu cho Hòa giải viên đã được bổ nhiệm.

Thứ hai, Tòa án nhân dân tối cao cần tổ chức các khóa tập huấn, trao đổi kinh nghiệm
hòa giải, đối thoại giữa các Tòa án, học tập kinh nghiệm hòa giải, đối thoại của các nước
có hoạt động hòa giải, đối thoại hiệu quả, như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hoa Kỳ...

Các Tòa án địa phương cũng cần chủ động tuyển chọn, bổ nhiệm và bồi dưỡng, trao đổi
kinh nghiệm trong địa phương mình để đáp ứng kịp thời nhu cầu hòa giải, đối thoại của
địa phương.

Ngoài ra, cần xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin về Hòa giải viên tại Tòa án nhân dân tối
cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh để phục vụ công tác quản lý Hòa giải viên như: tái bổ

27
nhiệm, chỉ định Hòa giải viên.

4.3. Về việc tiến hành hòa giải, đối thoại


Thứ nhất, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện cần
tiếp tục nâng cao trách nhiệm trong việc chỉ đạo việc chuyển kịp thời tất cả các đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu và tài liệu kèm theo đủ điều kiện sang hòa giải, đối thoại trước khi Tòa
án thụ lý vụ việc với tinh thần giảm thiểu đến mức thấp nhất các vụ việc phải hòa giải,
đối thoại trong tố tụng.

Thứ hai, các Tòa án phấn đấu đạt chỉ tiêu hòa giải, đối thoại; phát động phong trào thi
đua về hòa giải, đối thoại tại Tòa án, gắn kết quả của phong trào thi đua này với việc bình
xét các danh hiệu thi đua theo chỉ tiêu nêu tại Chỉ thị số 02/2022/CT-CA.

4.4. Về việc hướng dẫn thi hành Luật


Tòa án nhân dân tối cao cần tiếp tục triển khai các hoạt động triển khai thi hành Luật và
hỗ trợ các Tòa án trong việc thi hành Luật, bao gồm: xây dựng Thông tư (sửa đổi, bổ
sung) của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều 10 Luật Hòa giải, đối
thoại tại Tòa án về điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên; thường xuyên xây dựng giải đáp
các vướng mắc về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; xây dựng Quy chế hòa giải, đối thoại tại
Tòa án; nghiên cứu xây dựng cuốn Sổ tay Hòa giải viên; tổ chức tập huấn, hướng dẫn sử
dụng mẫu sổ nghiệp vụ và biểu mẫu thống kê về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; xây dựng
phần mềm thống kê để theo dõi, quản lý hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án liên
thông với các phần mềm thống kê của hệ thống Tòa án nhân dân, áp dụng thống nhất
trong hệ thống Tòa án; hướng dẫn cách sắp xếp, quản lý, lưu trữ hồ sơ sau khi tiến hành
thủ tục hòa giải, đối thoại theo Luật.

4.5. Về cơ sở vật chất


Tiếp tục thực hiện hiệu quả Đề án trang bị cơ sở vật chất cho hoạt động hòa giải, đối
thoại tại Tòa án của Tòa án nhân dân tối cao để đảm bảo trang bị kịp thời về cơ sở vật
chất cho hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

29

You might also like