You are on page 1of 17

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN:


NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ

TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:

HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU DO NGƯỜI KHÔNG CÓ ĐẦY ĐỦ NĂNG


LỰC HÀNH VI DÂN SỰ XÁC LẬP, THỰC HIỆN

Người thực hiện : Lê Đỗ Xuân Trường

Lớp : CLCQTL44A

Mã số sinh viên : 1953401020270

Chuyên ngành : Quản trị - Luật

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


2

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................................4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự................................................................................................................5
1.2. Điều kiện về chủ thể của hợp đồng dân sự có hiệu lực......................................................................6
CHƯƠNG II: HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU DO NGƯỜI KHÔNG CÓ ĐẦY ĐỦ NĂNG LỰC
HÀNH VI DÂN SỰ XÁC LẬP, THỰC HIỆN
2.1. Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.....................................................7
2.2. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
theo quy định của Bộ luật dân sự và theo quy định của một số luật chuyên ngành..................................7
2.3. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu do người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực
hiện............................................................................................................................................................ 8
2.3.1. Người mất năng lực hành vi dân sự......................................................................................8
2.3.2. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự...........................................................................9
2.3.3. Người có khó khăn trong làm chủ nhận thức, làm chủ hành vi..........................................10
2.4. Các trường hợp đặc biệt được Bộ luật dân sự quy định...................................................................10
2.5. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu.................................................................................11
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU HIỆN NAY
3.1. Thực trạng hợp đồng dân sự vô hiệu................................................................................................13
3.1.1. Nguyên nhân.......................................................................................................................14
3.1.2. Kiến nghị giải pháp.............................................................................................................14
KẾT LUẬN............................................................................................................................................ 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................17
3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Xã hội ngày càng phát triển, giao dịch trao đổi nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng được
thực hiện với số lượng rất lớn và ngày càng gia tăng. Mỗi ngày trôi qua lại có vô số hợp đồng dân sự
được ký kết, có thể chỉ là những hợp đồng đơn giản thường nhật như: mua sắm quần áo; gửi giữ xe đạp,
xe máy; vay mượn;… cho đến những hợp đồng lớn, phức tạp hơn như: hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất; hợp đồng mang thai hộ; các loại hợp đồng qua fax, thư điện tử,… từ đó có thể thấy nhu
cầu về giao kết hợp đồng dân sự đang trở thành vấn đề cấp thiết, phong phú về hình thức, đa dạng về
đối tượng.

Giao kết nhiều nhưng liệu các hợp đồng này có giá trị pháp lý? Có được đảm bảo thi hành theo
đúng quy định của pháp luật? Thực tế hiện này, bên cạnh số lượng lớn hợp đồng dân sự phù hợp với
quy định của pháp luật vẫn đang tồn tại nhiều hợp đồng dân sự vô hiệu, tình trạng hợp đồng dân sự bị
vô hiệu do người tham gia giao kết hợp đồng không có đủ năng lực hành vi dân sự dẫn tới làm vô hiệu
hợp đồng đang là một vấn đề bức xúc được nhiều người quan tâm, việc hợp đồng dân sự không có giá
trị pháp lý là điều không ai muốn khi tham gia giao kết, xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích cá nhân,
lợi ích xã hội.

Vì thực trạng trên, việc lựa chọn đề tài “Hợp đồng dân sự vô hiệu do người không có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện” là vô cùng cần thiết và đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu
khoa học về hợp đồng dân sự trong giai đoạn hiện nay. Bài viết sẽ đi vào phân tích hợp đồng dân sự vô
hiệu do người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện, từ đó nêu lên thực trạng
hiện nay, đồng thời nghiên cứu nguyên nhân cũng như kiến nghị giải pháp phù hợp nhằm khắc phục
tình trạng này, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể, góp phần hoàn thiện hơn nữa các
quy định pháp luật.

2. Đối tượng nghiên cứu:

Người viết thực hiện chuyên đề về “Hợp đồng dân sự vô hiệu do người không có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện”, việc nghiên cứu sẽ trọng tâm đi vào đối tượng là hợp đồng dân
sự vô hiệu do người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện trên cơ sở quy định
của Bộ luật dân sự 2015.

Theo quy định tại điều 385 Bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng trong đó bao gồm hợp đồng dân
sự: là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp
đồng dân sự được xác định là có hiệu lực khi tuân thủ các điều kiện được quy định tại Điều 117 gồm:
4

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập;

- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội;

- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp
luật có quy định.

Hợp đồng dân sự bị coi là vô hiệu khi vi phạm các điều kiện nói trên. Ngoài ra hợp đồng dân sự
còn bị coi là vô hiệu khi do người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.

3. Phương pháp nghiên cứu:

Vì là chuyên đề nghiên cứu luật, để nội dung chính xác, trích dẫn được chi tiết, phản ánh trung
thực, người viết đã áp dụng và kết hợp hài hòa một số phương pháp cơ bản sau:

- Phương pháp lịch sử: được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu các quan niệm, học thuyết về hợp
đồng dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu ở Việt Nam.

- Phương pháp liệt kê: Từ các ghi nhận nói trên, người thực hiện đã liệt kê các dạng tranh chấp,
đưa ra tiêu chí phân loại các loại hợp đồng vô hiệu cơ bản đang tồn tại, liệt kê các trường hợp hợp đồng
vô hiệu,…

- Phương pháp so sánh: người viết sử dụng phương này nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật
hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây,… nhằm làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
5

Chương I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự

Hợp đồng là một khái niệm đã tồn tại từ rất lâu và chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử hình
thành loài người, dưới nhiều hình thái, nhiều tên gọi khác nhau. Đó có thể là sự trao đổi, những bản
giao kèo, thỏa thuận hay khế ước. Từ thời nguyên thủy, loài người đã biết trao đổi hàng lấy hàng. Đến
khoảng 1200 – 800 năm trước Công nguyên, người Trung Quốc bắt đầu sử dụng những vỏ sò như một
loại tiền tệ để trao đổi hàng hóa. Từ những trao đổi hàng hóa hữu hình đơn giản phát triển thành những
thỏa thuận phức tạp hơn như những giao kèo bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ nhất định hay để
trao đổi những hàng hóa được hình thành trong tương lai. Với bề dày lịch sử lâu đời, việc đưa ra một
định nghĩa duy nhất để miêu tả hợp đồng không phải dễ dàng, ở mỗi giai đoạn lịch sử, tại mỗi quốc gia,
khu vực khác nhau đều có những định nghĩa hợp đồng riêng.

Các nước trong hệ thống pháp luật Châu Âu – Lục địa (Civil Law) đều có quan niệm về hợp
đồng tương tự với luật La Mã là bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa hai hay
nhiều người, đối tượng của hợp đồng phải có hai bên trở lên. Một hợp đồng có hiệu lực phải là một hợp
đồng có thể thực hiện được, còn hợp đồng mà không thực hiện được thì coi như không tồn tại tức là
hợp đồng vô hiệu. Còn ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (common law), điểm khác biệt
chính là phải có sự bù trừ nghĩa vụ. Sự bù trừ ở đây được hiểu là một giá trị nào đó (có thể là tiền, dịch
vụ hoặc một công việc phải thực hiện) mà mỗi bên nhận được và trao đi hoặc từ bỏ theo thỏa thuận.
Nếu thiếu sự bù trừ nghĩa là một trong hai bên không có nghĩa vụ, do vậy hợp đồng sẽ không tồn tại.

Đối với pháp luật Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng cũng chịu ảnh hưởng của Luật dân sự
La Mã và thành tựu của hệ thống pháp luật Civil Law. Theo điều 388 Bộ luật Dân sự 2005:

“ Điều 388. Khái niệm hợp đồng dân sự

Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.”

Đến với Bộ luật dân sự 2015 vẫn giữ nguyên tinh thần của quy định năm 2005 nhưng đã không
còn gọi là “hợp đồng dân sự” mà thay bằng “Hợp đồng” điều này phù hợp và mang tính khái quát hơn
khi định nghĩa hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Sự thay đổi này là điểm mới quan trọng, đáng chú ý không những về mặt
6

kỹ thuật lập pháp và còn làm tăng tính khả thi, minh bạch trong thực tiễn áp dụng, mở rộng phạm vi
điều chỉnh.

“Điều 385. Khái niệm hợp đồng

Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự.”

1.2. Điều kiện về chủ thể của hợp đồng dân sự có hiệu lực
Chủ thể của giao dịch là những người tham gia giao dịch, là cá nhân và pháp nhân và các chủ thể
khác. Cá nhân tham gia giao dịch phải là người đã thành niên, người không bị mất năng lực hành vi dân
sự, không phải là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, không phải là người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì có quyền xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh
từ quan hệ giao dịch do mình xác lập. Những giao dịch dân sự do những người này xác lập có hiệu lực
pháp luật.

Những cá nhân chưa thành niên, cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, cá nhân có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi hoặc cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì do người đại
diện của người đó xác lập.

Tuy nhiên, Bộ luật dân sự cũng quy định một số trường hợp cá biệt khi xác lập giao dịch dân sự
thì giao dịch đó không bị xác định là vô hiệu. Ví dụ như trường hợp giao dịch dân sự của người chưa đủ
sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó
hay giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau
khi khôi phục năng lực hành vi dân sự,…
7

Chương II
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU DO NGƯỜI KHÔNG CÓ ĐẦY ĐỦ NĂNG LỰC HÀNH VI
DÂN SỰ XÁC LẬP, THỰC HIỆN
2.1. Hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ luật dân sự 2015:
Giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 116 Bộ luật dân sự 2015 được định nghĩa là “hợp đồng
hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” có
thể thấy giao dịch dân sự có thể là hợp đồng cũng có thể là hành vi pháp lý. Hiện nay, phần lớn các nhà
lập pháp không đưa ra khái niệm chi tiết về giao dịch dân sự, họ chủ yếu dựa vào quy định của các tiêu
chí để xác định giao dịch dân sự này có vô hiệu hay không. Pháp luật hợp đồng trên thế giới từ thời La
Mã đến nay thường không có quy định rõ ràng về hợp đồng vô hiệu mà đa số đều dựa vào các dấu hiệu
pháp lý hoặc các lý thuyết trong khoa học pháp luật. Ví dụ như quy định tại Điều 113 Bộ luật dân sự và
thương mại Thái Lan quy định: “Một hành vi pháp lý bị vô hiệu nếu mục tiêu của nó rõ ràng bị pháp
luật ngăn cấm hoặc không thể thực hiện được, hoặc trái với trật tự công cộng hoặc trái với đạo đức”
Theo pháp luật Việt Nam, một hợp đồng được xem là vô hiệu sẽ căn cứ theo Điều 122 Bộ luật dân sự
2015, dẫn chiếu tới Điều 117 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ngoài ra, Bộ luật
dân sự còn có quy định khác về các trường hợp cụ thể khiến hợp đồng bị vô hiệu như vi phạm các quy
định về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền dân sự (Điều 2 Bộ luật dân sự 2015), các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 3 Bộ luật dân sự 2015), tự bảo vệ quyền dân sự (Điều 12
Bộ luật dân sự 2015),… Có thể thấy, dựa vào việc hợp đồng được xác lập có tuân thủ các quy tắc được
luật định là có hiệu lực hay không từ đó việc kết luận vô hiệu hợp đồng sẽ được tiến hành. Hiệu lực của
hợp đồng bị các nhà làm luật phủ nhận khi không đáp ứng hoặc vi phạm các điều kiện được quy định
và coi như hợp đồng đó chưa từng tồn tại hay theo cách nói khác thì việc hợp đồng bị vô hiệu không
phát sinh một hiệu lực nào và không phát sinh hậu quả pháp lý về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự theo mong muốn của các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng.

2.2. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực
hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và theo quy định của một số luật chuyên ngành
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì; “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng
của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.” Để xác định khả năng tham gia giao dịch dân sự.
pháp luật nước ta căn cứ vào độ tuổi cá nhân, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên; người
chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Năng lực hành vi dân sự của người thành niên là năng lực
hành vi đầy đủ, trừ trường hợp pháp luật quy định người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
8

khăn trong làm chủ nhận thức, làm chủ hành vi, người có năng lực hành vi dân sự hạn chế, người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người được pháp luật cho phép tự do giao kết dân sự theo quy định
của pháp luật, không bị hạn chế. Người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng lực hành
vi dân sự hạn chế. Tính hạn chế năng lực hành vi dân sự thể hiện ở chỗ những cá nhân đó khi xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ, nếu không
có sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ thì giao dịch đó vô hiệu. Trừ giao dịch nhỏ nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Điều này có nghĩa tùy theo từng loại hay
nhóm quan hệ dân sự mà người chưa thành niên có thể tự do hoặc buộc phải thông qua đại diện để
tham gia giao dịch. Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch của họ
phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Có nghĩa là họ không thể tự mình tham gia
vào bất kỳ một giao dịch dân sự nào. Một quy định ngoại lệ của Bộ luật dân sự 2015: “ Người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân
sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”. Quy dịnh này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
của nước ta hiện nay và phù hợp với quy định của Luật lao động: “Người lao động là người từ đủ 15
tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý,
điều hành của người sử dụng lao động.”

2.3. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu do người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác
lập, thực hiện
Căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cũng như khả năng thực hiện nghĩa vụ và
chịu trách nhiệm của mỗi cá nhân, pháp luật nước ta chia làm 3 trường hợp: người mất năng lực hành vi
dân sự (điều 22), người có khó khăn trong làm chủ nhận thức, hành vi (điều 22) và người có năng lực
hành vi dân sự hạn chế.

2.3.1. Người mất năng lực hành vi dân sự


Về việc mất năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định như sau: “một người do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi
không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó
hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.” (khoản 1 Điều 22). “Giao dịch dân sự của
9

người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện” (khoản 2
Điều 22). Ngoài việc quy định “bị bệnh tâm thần” là cơ sở xác định một người mất khả năng nhận thức
hành vi của mình, để phù hợp với diễn biến phức tạp trong thực tế, Bộ luật dân sự còn dự liệu khả năng
“mắc bệnh khác”. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc xác định loại bệnh nào được liệt kê vào diện “mắc
các bệnh khác” là rất phức tạp, hiện nay chưa có một hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Qua nghiên cứu
và thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự, có thể thấy rằng “mắc các bệnh khác” có thể dược hiểu một
cách khái quát là các bệnh loại trừ các bệnh liên quan đến tâm thần, đang mắc bệnh mà bệnh này hạn
chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người đó. Ví dụ, bệnh viêm màng não, già yếu lũ lẫn,
không hiểu và làm chủ được hành vi của mình... Những người này khi tham gia giao dịch dân sự sẽ gây
hại đến quyền, lợi ích bình thường của chính cá nhân người đó hay người khác. Vì vậy người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến tòa để yêu cầu Toà án tuyên bố họ bị mất năng lực hành vi dân sự. Khi đã
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì mọi hành vi đối với giao dịch dân sự của người mất năng lực
hành vi dân sự phải có người giám hộ. Việc cử người giám hộ sẽ tuân theo quy định của pháp luật.
(Trần Trung Trực (1997) Một số vấn đề giao dịch dân sự và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sư vô
hiệu. Luận văn thạc sĩ luật học. Trường đại học luật Hà Nội). Ví dụ đối với người lớn tuổi, không nhận
thức được một cách bình thường hành vi của mình, bị đãng trí và lú lẫn. Nếu họ vị kẻ xấu lợi dụng, xúi
giục để xác lập giao dịch dân sự dẫn đến quyền lợi của họ hoặc gia đình họ bị thiệt thòi (như ký bán
nhà, hay lập di trúc sai ý chí...) thì toà án cần tuyên bố giao dịch này vô hiệu và giải quyết hậu quả giao
dịch dân sự vô hiệu này theo quy định pháp luật.

2.3.2. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự


Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.” (khoản 1 Điều 24) Người có quyền, lợi ích liên quan (thành viên
trong gia đình) hoặc cơ quan, tổ chức (trong trường hợp bảo vệ phụ nữ, trẻ vị thành niên trước hành vi
phát tán của người chồng, người cha...) có đơn yêu cầu Toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân
sự của họ với mục đích bảo vệ tài sản, bảo vệ quyền lợi cho thành viên khác của gia đình. Khi nhận
được đơn của những người này, Toà án phải xác minh thực tế có đúng như đơn đã trình bày hay không,
trên cơ sở đó Toà án quyết định tuyên bố người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Các giao dịch dân
sự có liên quan đến người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ bị coi là là vô hiệu, trừ trường hợp
những giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như: ăn, mặc, quà, bánh, học hành...
10

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể được Toà án tuyên bố hủy bỏ tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi dân sự nếu trên thực tế không có căn cứ để hạn chế năng lực hành vi dân sự của họ.

2.3.3. Người có khó khăn trong làm chủ nhận thức, làm chủ hành vi
Theo quy định tại Điều 23 Bộ luật dân sự, có thể thấy đặc điểm của người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi phải là người thành niên nhưng do tình trạng sức khỏe hoặc tinh thần dẫn
đến khả năng nhận thức của họ cũng sẽ bị hạn chế. Những người có khó khăn trong việc nhận thức, làm
chủ hành vi sẽ gặp khó khăn trong việc thể hiện ra bên ngoài ý chí đích thực của mình so với những
người có năng lực nhận thức bình thường. Điều này có nghĩa là khi tham gia vào các giao dịch dân sự
với những người không bị các khiếm khuyết, nhược điểm về thể chất dẫn đến hạn chế trong khả năng
nhận thức bình thường rõ ràng có sự bất cân xứng giữa các bên chủ thể. Phần thiệt thòi, nếu có trong
những trường hợp này thường nghiêng về phía những người có khiếm khuyết về thể chất dẫn đến hạn
chế về năng lực nhận thức. Với quy định này, quyền và lợi ích hợp pháp của người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi được bảo vệ một cách triệt để. Những người này được xem là những người
“yếu thế” khi tham gia xác lập các giao dịch dân sự. Bản thân những người này vẫn có khả năng để
nhận thức và làm chủ hành vi ở một mức độ hạn chế, do đó, không thể dùng quy định về mất năng lực
hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự để áp dụng cho họ. Bên cạnh đó, không hạn chế
khả năng giao lưu dân sự của họ mà vẫn tạo ra sự linh hoạt nhất định khi thực hiện giao dịch nhằm đáp
ứng các nhu cầu thiết yếu của người đó. Bởi lẽ, họ vẫn có thể tự mình xác lập thực hiện các giao dịch
dân sự nhất định. Ngoài ra, vì sự giới hạn trong khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của những đối
tượng này, nên một số giao dịch phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người đó.

2.4. Các trường hợp đặc biệt được Bộ luật dân sự quy định
Đối với các chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã khi tham gia các giao dịch
họ phải có đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền thực hiện. Những người đại diện này khi
tham gia giao dịch cũng sẽ bị một số hạn chế năng lực hành vi như những trường hợp quy định đối với
cá nhân nêu trên. Ngoài ra sự hạn chế này còn quy định ở một số văn bản pháp luật khác, ví dụ như luật
doanh nghiệp Việt Nam hạn chế quyền kinh doanh một số người như: cán bộ, công chức, viên chức
theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc... sẽ không có
quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam (khoản 2 Điều18 Luật doanh nghiệp 2014)

Đối người nước ngoài làm ăn, sinh sống, sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam khi xác
lập, thực hiện, giao dịch dân sự Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của họ
11

được xác định theo pháp luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, họ có quyền hành xử
như công dân Việt Nam theo chế độ đãi ngộ công dân. (Điều 674 Bộ luật dân sự 2015)

Trường hợp hợp đồng vô hiệu do người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự,
nguyên tắc chung được ghi nhận cả ở trong Bộ luật dân sự 2005 (Điều 130) và Bộ luật dân sự 2015
(khoản 1 Điều 125) là khi hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu
nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc
đồng ý.

Tuy nhiên, về đường lối giải quyết, Bộ luật dân sự 2005 lựa chọn cách tiếp cận khá “lạ” về vấn
đề này theo hướng, chỉ cần người đại diện có yêu cầu thì tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không
có bất kỳ ngoại lệ nào trên phương diện lợi ích và ý chí của người được đại diện (chủ thể xác lập hợp
đồng trên thực tế). Điều đó dường như nhà làm luật xác định chủ thể được bảo vệ là người đại diện chứ
không phải là người được đại diện, điều đó vô hình chung đã làm “biến tướng” trường hợp vô hiệu này
thành tương đối với người đại diện (ý chí của họ quyết định) và tuyệt đối với người được đại diện - chủ
thể xác lập hợp đồng trên thực tế (vô hiệu mặc nhiên không phụ thuộc ý chí và lợi ích của họ mà phụ
thuộc vào yêu cầu của người đại diện).

Ngược với cách tiếp cận trên, Bộ luật dân sự năm 2015 giải quyết trường hợp vô hiệu này trên
cơ sở bảo vệ người được đại diện, tôn trọng lợi ích tư, ý chí của họ. Theo đó, khi người đại diện có yêu
cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng thì Tòa án xem xét và vẫn có thể công nhận hợp đồng có hiệu lực nếu
hợp đồng đáp ứng được nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực
hành vi dân sự hoặc hợp đồng chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện hợp đồng với họ. Ngoài ra,
hợp đồng vẫn có hiệu lực nếu được người xác lập hợp đồng thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên
hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự. (khoản 2 Điều 125).

2.5. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu


Giao dịch dân sự vô hiệu sẽ có những hậu quả pháp lý nhất định do pháp luật quy định. Việc xác
định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu căn cứ vào mức độ vi phạm một trong các điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ngoài ra, yếu tố lỗi của chủ thể cũng có ảnh hưởng rất lớn tới việc xác
12

định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Về nguyên tắc chung, cả Bộ luật dân sự 2005 (Điều
137) và Bộ luật dân sự 2015 (Điều 131) đều ghi nhận hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập; khi giao dịch dân
sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; bên có lỗi
gây thiệt hại thì phải bồi thường. Điểm khác cơ bản trong hậu quả của hủy bỏ hợp đồng so với hậu quả
của hợp đồng vô hiệu được Bộ luật dân sự 2015 ghi nhận là: “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng
không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa
thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp” (khoản 1 Điều 427).

Bộ luật dân sự 2015 đã có những quy định trong xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu vừa mang
tính bao quát hơn, vừa mềm dẻo, phù hợp với thực tế hơn, giảm thiểu những tổn thất lợi ích hợp pháp,
chính đáng về vật chất, nhân thân và công bằng hơn cho các bên trong hợp đồng vô hiệu, trong đó:

- Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả;

- Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó;

- Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định.
13

CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU HIỆN NAY
3.1. Thực trạng hợp đồng dân sự vô hiệu
Qua thực tiễn thi hành Bộ luật dân sự, các qui định pháp luật về quan hệ hợp đồng dân sự cho
thấy các qui định pháp luật dân sự nước ta, nhìn chung có tiến bộ, tương đối hoàn thiện và đầy đủ, điều
chỉnh hầu hết các vấn đề cơ bản trong quan hệ về dân sự, kỷ thuật lập pháp có tiếp thu những tinh hoa
lập pháp qua các thời kỳ, nội dung phù hợp với đặc thù kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, đặc thù
dân tộc.

Song các qui định về quan hệ hợp đồng dân sự cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập
bởi xã hội đa dạng, năng động, phức tạp luôn vận động và phát triển, đời sống đi lên, trình độ dân trí
nâng cao, hơn nữa chịu áp lực lớn trong quá trình hội nhập Quốc tế, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.

Kết quả của những tồn tại trên dẫn đến một thực trạng các hợp đồng dân sự vô hiệu rất đáng kể,
xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể, ảnh hưởng mạnh mẽ đến
sự ổn định, phát triển kinh tế, xã hội, nguy hại đến pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Như vậy bên cạnh số lượng các hợp đồng dân sư có hiệu lực thi hành đem lại lợi ích chính đáng
cho các bên, thì con số các hợp đồng dân sự vô hiệu cũng không phải nhỏ, vấn đề ở đây là những giao
kết vô hiệu đó không được các cơ quan thẩm quyền quản lý, đa số vẫn được thực hiện trong thực tế.

Bàn về thực trạng hợp đồng dân sự vô hiệu, có thể nhận thấy hiện nay hợp đồng dân sự vô hiệu
vì người không đủ năng lực hành vi dân sự xác lập được Bộ luật dân sự 2015 bổ sung quy định về
Người có khó khăn trong nhận thức tại Khoản 1 Điều 23. Tuy nhiên thực tiễn xét xử lại cho thấy bất
cập, đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì xác định rất khó vì người đó là
người không nhận thức và làm chủ hành vi của mình nhưng lại không thuộc trường hợp mất năng lực
hành vi dân sự, quy định không cụ thể như vậy rất khó có thể phân biệt những trường hợp nào là trường
hợp mất năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, căn cứ để
xác định đối với cả hai trường hợp trên là dựa vào kết luận giám định pháp y về tâm thần. Tuy nhiên, có
ý kiến cho rằng người đã thành niên ở trong tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự là những người liệt toàn
thân nhưng trí óc vẫn còn nhận thức được, người khiếm thính, khiếm thị hoặc không có khả năng nói
được, tuy nhiên những người thuộc trường hợp trên họ không phải là người mất năng lực hành vi dân
sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự và cũng không phải là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi. Bởi vì, nếu hiểu theo quy định trên thì những người này là người có vấn đề về sức khỏe tâm
14

thần. Sự thiếu rõ ràng này gây ra sự lúng túng trong thực tiễn xét xử, thiếu nhất quán trong việc thực thi
pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan.

3.1.1. Nguyên nhân


Nguyên nhân khách quan:

Do kỷ thuật lập pháp của chúng ta còn chưa hoàn thiện, mặc dù đã có sự tham khảo pháp luật
các nước, được sự giúp đỡ của chuyên gia các nước phát triển như Nhật, Pháp... Song các văn bản pháp
luật vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau; kết quả, các qui định pháp luật chưa bao quát toàn diện tất
cả các lĩnh vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội, chưa có sự giải thích chính thức, việc áp dụng không
thống nhất.

Hơn thế ngày nay, thế giới ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày một tiến bộ, hiện đại,
nền kinh tế thị trường vận động, phát triển phức tạp, nhu cầu trong giao lưu dân sự ngày càng xuất hiện
các quan hệ xã hội mới, phức tạp hơn, chính đáng và phù hợp với đạo đức xã hội; Nhưng pháp luật
chưa có sự tiên liệu, nên không có qui phạm điều chỉnh kịp thời, dẫn đến các hợp đồng dân sự có nội
dung, hoặc hình thức mà đó chưa phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật hợp đồng dân sự, dẫn đến
những tranh chấp loại này chưa có hướng dẫn giải quyết, không có cơ sở pháp lý để thực hiện.

Nguyên nhân chủ quan

Mặc dù pháp luật đối với một số lĩnh vực nhất định đã được qui định chặt chẽ, chi tiết và đầy đủ,
nhưng thực tế hợp đồng dân sự vô hiệu trong lĩnh vực này vẫn chiếm một số lượng rất đáng kể. Hoặc
do các bên chủ thể không có sự hiểu biết pháp luật, hoặc do các bên chủ thể có nhận thức tốt về pháp
luật nhưng vẫn cố tình lẫn tránh.

Do sự hạn chế của các qui định pháp luật, bất cập, nhiều mâu thuẫn, có nhiều qui định còn chung
chung, thiếu chặt chẽ; đã tạo kẽ hở cho các vi phạm pháp luật phát triển.

3.1.2. Kiến nghị giải pháp:


- Về kỹ thuật lập pháp:

Hạn chế lớn nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay là tính ổn định chưa cao, ít khả thi, các văn
bản ban hành gặp nhiều vướng mắc trong thực thi, nhanh chóng bị sửa đổi ,bổ sung, do không điều
chỉnh được các quan hệ xã hội, không phù hợp với thực tế, thậm chí có những văn bản vừa ban hành đã
phải sửa đổi bổ sung ngay. Một xã hội mà tính ổn định pháp luật không cao sẽ dẫn đến sự chắp vá pháp
luật, sự chồng chéo, mâu thuẫn của các các qui định pháp luật càng tăng, điều đó tạo khó khăn cho việc
nhận thức, tuân thủ pháp luật, ảnh hưởng lớn đến việc điều chỉnh ổn định xã hội, quản lý nhà nước.
15

Một giải pháp cần có để khắc phục vấn đề này: cơ quan lập pháp phải nắm bắt được thực trạng
xã hội, dự liệu pháp luật mang tính lâu dài, ổn định. Muốn thế, trước khi soạn thảo, ban hành văn bản
pháp luật, các cơ quan lập pháp cần:

+ Thu thập, nắm bắt, xử lý các nguồn thông tin về các mối quan hệ xã hội đang tồn tại, về sự tiến bộ,
phát triển khoa học kỹ thuật, quan điểm đạo đức nhằm xác định có những quan hệ nào đang tồn tại, xu
hướng phát triển của các quan hệ xã hội đó;

+ Tiếp thu, tập hợp các ý kiến, dư luận của xã hội về các quan hệ xã hội nói trên, để nắm bắt được phản
ứng xã hội về các quan hệ xã hội này, ảnh hưởng của các quan hệ xã hội đến đời sống, kinh tế, văn hóa
xã hội, quan điểm đạo đức về các quan hệ xã hội đó;

+ Ghi nhận các báo cáo, các phản ánh, vướng mắc của các cơ quan chuyên ngành về lĩnh vực quản lý,
về những bất cập, sai sót của pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể.

Từ đó tổng hợp tất cả những thông tin trên, đưa ra yêu cầu chi tiết, rõ ràng để soạn thảo các qui
phạm pháp luật cụ thể, tổng quát được các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, xác định điều chỉnh thế nào là
phù hợp với yêu cầu của kinh tế chính trị, phù hợp với thực tế.

Tất cả đảm bảo cho việc ban hành pháp luật mang tính chính xác, ổn định cao, khả thi, ít sửa đổi
bổ sung. Tạo nền tảng vững chắc về cơ sở pháp lý để điều chỉnh xã hội.

- Về thực tiễn xét xử:

Pháp luật ban hành là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, là cơ sở pháp lý, để hướng dẫn hành xử
của các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng dân sự, muốn vậy các bên phải có sự nhận thức, am hiểu
pháp luật, các cơ quan thực thi pháp luật phải có sự thống nhất pháp luật trên cả nước.

Bên cạnh việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành
văn bản giải thích pháp luật một cách chính thức, vì văn bản pháp luật sử dụng các thuật ngữ pháp lý,
cấu thành quy phạm pháp luật sẽ khó nhận thức, khó được tiếp thu thống nhất, khi ban hành sẽ có nhiều
cách hiểu khác nhau.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật: bằng cách tổ chức các cuộc thi hiểu biết
pháp luật, đưa pháp luật thành một môn học chính thức trong chương trình đào tạo tại nhà trường phổ
thông.

Pháp luật không chỉ ban hành để cơ quan hành pháp thực thi mà còn để các chủ thể nhận thức,
tuân thủ. Không cách nào khác để đạt được mục đích đó thì mọi người phải am hiểu pháp luật, có trình
độ nhận thức nhất định về pháp luật. Vì thế chúng ta cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật
16

sâu rộng hơn, phải có nhiều biện pháp để đưa pháp luật đến tùng người, từng nhà, từng địa phương,
vùng miền. Khi pháp luật được nhận thức, việc tuân thủ sẽ được đảm bảo.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cơ sơ lý luận và cơ sở thực tiễn về giao dịch dân sự vô hiệu do người không có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện, tác giả rút ra một số kết luận cơ bản sau:

Thứ nhất, nhìn chung pháp luật về hợp đồng dân sự thời gian qua là tương đối hoàn thiện, các
quy phạm pháp pháp luật đã điều chỉnh phần lớn các quan hệ xã hội về hợp đồng dân sự, thật sự là cơ
sở pháp lý quan trọng để nhà nước quản lý, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, hướng dẫn hành xử cho
các bên chủ thể trong việc giao kết hợp đồng dân sự.

Thứ hai, diễn biến giao dịch dân sự vô hiệu phức tạp, trên thực tế rất đa dạng và không ít trường
hợp khi các bên tham gia giao dịch thông thường chủ thể không nắm được những quy định pháp luật
mà chủ yếu giao dịch dưới dạng tự phát, dẫn đến nhiều giao dịch vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà
mặc nhiên các bên không biết, vẫn thực hiện, khi tranh chấp mới yêu cầu huỷ.

Thứ ba, để khuyến khích giao dịch dân sự phát triển và giảm bớt tình trạng giao dịch vô hiệu do
người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện như hiện nay, trong thời gian tới
chúng ta cần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật giao dịch nói chung và giao dịch dân sự nói riêng. Thêm
vào đó, các công tác hoàn thiện pháp luật cần làm tốt công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật để đảm bảo
tính thống nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật cũng như tăng cường trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác pháp luật.
17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005;
2. Bộ luật dân sự 2015;

3. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999). Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, PGS.TS Nguyễn Ngọc
Hòa (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

4. ThS. Nguyễn Như Quỳnh (2005), “Xử lý hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp;

5. Nguyễn Văn Cường (2005) - Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lí của giao
dịch dân sự vô hiệu. Luận án tiến sỹ luật học;

6. Trần Trung Trực - Một số vấn đê về giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự
vô hiệu. Luận án thạc sỹ luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội;

7. Nguyễn Minh Khuê (2001), “Một số vấn đề về giao dịch dân sự”. Tạp chí Tòa án nhân dân;

8. Báo cáo số 151/BC-BTP ngày 15/7/2013 của Bộ Tư pháp về tổng kết thi hành BLDS năm 2005;

9. Đỗ Văn Đại, “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015”, NXB. Hồng Đức, 2016;

10. Đinh Trung Tụng, Nguyễn Hồng Hải, Trần Thu Hương, “Bối cảnh xây dựng và một số nội dung
mới chủ yếu của Bộ luật dân sự năm 2015 – So sánh với Bộ luật dân sự năm 2005”. NXB Tư pháp,
2016;

11. Nguyễn Hồng Hải, “Một vài gợi mở nghiên cứu về sửa đổi BLDS của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo
“Legal reforms in asean emerging economies – a historical perspective and challenges for the future”
và Tuần giảng “Pháp luật dân sự Châu Á” tháng 10/2017 tại Đại học KoBe Nhật Bản.

You might also like