You are on page 1of 21

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM


MÔN: Luật Tố tụng Hành chính

Chủ đề: “Phân tích và đánh giá tính hợp lý của các quy định
pháp luật hiện hành về hoạt động đối thoại trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính”

Thành viên nhóm:

Tháng 10 /2022

1
MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................3

B. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................4


1. Các khái niệm liên quan...............................................................................4
1.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính......................................4
1.2. Đối thoại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính.......4
2. Các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động đối thoại trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính.................................................6
2.1. Phạm vi đối thoại.............................................................................................. 6
2.2. Nguyên tắc tiến hành đối thoại.................................................................8
2.3. Thành phần đối thoại..................................................................................... 9
2.4. Thủ tục đối thoại............................................................................................ 10
2.5. Biên bản đối thoại......................................................................................... 12
2.6. Xử lý kết quả đối thoại................................................................................ 13
3. Đánh giá tính hợp lý của hoạt động đối thoại trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử vụ án hành chính..................................................................15

C. PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................18


Danh mục tài liệu tham khảo:.........................................................................19
BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM..........................................................................20

2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Do tính đặc thù của lĩnh vực hành chính với quan hệ một bên là cơ quan
hành chính Nhà nước thi hành quyền lực hành chính công và một bên là cá
nhân, cơ quan, tổ chức chịu sự điều hành quản lý, nên Luật tố tụng hành chính
không quy định nguyên tắc hòa giải như khi giải quyết các vụ việc dân sự. Khi
giải quyết vụ án hành chính Tòa án thực hiện thủ tục đối thoại để tạo điều kiện
cho các đương sự gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với nhau, để hiểu biết nhau hơn, làm
rõ được những nguyên nhân của những khác biệt trong nhận thức, những sai sót,
hạn chế trong công tác quản lý Nhà nước. Cũng thông qua đây người khởi kiện
có thể hiểu rõ hơn về những quy định pháp luật liên quan đến việc khởi kiện, từ
đó các bên có thể đi đến những quan điểm đồng nhất, làm giảm hoặc giải quyết
được mâu thuẫn, xung đột, có thể tự giải quyết với nhau, người khởi kiện có thể
rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện, người bị kiện có thể sửa đổi hoặc
hủy bỏ quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án
hành chính. Qua đó giúp quá trình giải quyết vụ án hành chính được nhanh
chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí và công sức, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động xét xử. Để làm rõ hơn về vấn đề này nhóm chúng em đã lựa chọn
đề tài: “Phân tích và đánh giá tính hợp lý của các quy định pháp luật hiện
hành về hoạt động đối thoại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính”.
Trong thời gian ngắn, phạm vi chủ đề rộng và kiến thức của các cá nhân
trong nhóm còn hạn hẹp nên bài viết không thể tránh khỏi những sai sót, kính
mong nhận được sự quan tâm, góp ý, giảng giải từ các giảng viên để chúng em
có thêm nhiều kinh nghiệm để hoàn thiện chủ đề này hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

3
B. PHẦN NỘI DUNG

1. Các khái niệm liên quan

1.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính


Chuẩn bị xét xử vụ án hành chính chủ yếu là công việc của Toà án trong việc
xem xét đưa vụ án ra xét xử, bao gồm các hoạt động như điều tra, xác minh, thu thập
chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị các văn bản tố tụng... Đây một giai đoạn tố tụng
hành chính quan trọng, được tính từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi xét xử vụ án tại
phiên toà. Trong giai đoạn này, Toà án sẽ xem xét, xác minh vụ việc để có cơ sở quyết
định có hay không việc đưa vụ án ra xét xử tại phiên toà.

1.2. Đối thoại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính

Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “đối thoại” được hiểu theo hai nghĩa:

- Đối thoại là việc nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người với nhau: đối
thoại chỉ được hiểu là những cuộc trao đổi miệng thông thường của hai hay
nhiều người với nhau mà không bắt buộc về một chủ đề nhất định
- Đối thoại là việc bàn bạc, thương lượng trực tiếp giữa hai hay nhiều bên với
nhau để giải quyết các vấn đề tranh chấp. “Đối thoại” hiểu theo nghĩa này
chính là một trong các thủ tục trong giải quyết vụ án hành chính.

Như vậy, đối thoại trong giải quyết vụ án hành chính có thể hiểu là việc gặp gỡ,
trao đổi thông tin bằng nhiều hình thức khác nhau với thành phần bao gồm Thẩm phán
chủ trì phiên họp, thư ký phiên họp ghi biên bản, đương sự hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự và những chủ thể khác có liên quan trong quá trình giải quyết tranh
chấp để các bên hiểu rõ và thống nhất xác định sự thật khách quan của vụ án hành
chính, biết được quan điểm của nhau về vụ việc và cùng tìm ra một giải pháp để giải
quyết vụ án đó.

       Đối thoại trong giải quyết vụ án hành chính có những đặc điểm sau:

- Bản chất của đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính là việc các
bên trong quan hệ tranh chấp hành chính gặp gỡ, trao đổi thông tin sự việc
để cùng nhau tìm ra một giải pháp chung nhằm giải quyết tranh chấp hành
4
chính, từ đó củng cố và đảm bảo sự ổn định về mặt chính trị trong nhân dân,
đảm bảo tính công khai dân chủ trong quản lý xã hội.
- Đối thoại là một hoạt động bắt buộc trong quy trình giải quyết vụ án hành
chính.

Trong việc giải quyết các vụ án hành chính, đối thoại được coi là một hoạt
động hay thủ tục mang tỉnh chất bắt buộc mà các chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ
án hành chính sẽ có nghĩa vụ phải tiến hành giữa các bên tranh chấp. Tuy nhiên điều
này không có nghĩa trong mọi trường hợp đều bắt buộc tổ chức đối thoại; sẽ có những
ngoại lệ mà việc tổ chức đối thoại không thể tiến hành được hoặc không cần thiết phải
tiến hành, lúc này chủ thể có thẩm quyền có quyền không tổ chức đối thoại.

- Mục đích của đối thoại: tạo cơ hội cho các bên cùng nhau thống nhất một
giải pháp chung nhằm giải quyết vụ án tranh chấp.

Giải pháp chung ở đây được hiểu là cách giải quyết vụ án tranh chấp hành
chính mà được cả hai bên trong tranh chấp thống nhất thực hiện. Tuy nhiên, giải pháp
chung mà các bên cùng thống nhất thực hiện này phải đảm bảo điều kiện không trái
với các quy định pháp luật và các chính sách quản lý hành chính nhà nước. Đây là một
đặc trưng cơ bản của đối thoại nhằm phân biệt đối thoại với các hoạt động khác trong
quy trình giải quyết tranh chấp hành chính như đối chất hay việc tranh luận tại phiên
tòa.

- Đối thoại trong giải quyết vụ án hành chính phải được tiến hành theo các
quy định của pháp Luật Tổ tung hành chính.

Các quy định pháp luật này bao gồm các trường hợp tổ chức đổi thoại, thành
phần tham gia đối thoại, quy trình tiến hành đối thoại cũng như kết quả của đối thoại
đều phải được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Bởi lẽ, đối thoại được coi
là một hoạt động mang tính chất pháp lý và được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật. Khi tiến hành đối thoại, chủ thể có thẩm quyền tổ
chức đối thoại phải thực hiện việc thông báo tới những bên tham gia đối thoại theo quy
định của pháp luật, tiến hành các bước đối thoại và việc xử lý kết quả đối thoại cũng
phải tuân theo các quy định pháp luật.

5
2. Các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động đối thoại trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử vụ án hành chính
2.1. Phạm vi đối thoại

Theo Điều 20 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về nguyên tắc trong tố tụng
hành chính quy định “Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận
lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật
này”. Mặc dù đối thoại được quy định như một nguyên tắc trong tố tụng. song không
phải trong trường hợp nào Tòa án cũng có trách nhiệm tiến hành đổi thoại, bởi lẽ có
những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại khi giải quyết.

Khoản 1 Điều 134 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về nguyên tắc đối thoại
có quy định “trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành đối thoại để các
đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến
hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút
gọn được quy định tại các điều 135, 198 và 246 của Luật này”.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, đối với những vụ án không tiến hành
đối thoại được, Điều 135 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định bao gồm 3
trường hợp sau:

“1. Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt;

2. Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đảng,

3. Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại”.

Đối với hai trường hợp người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt
và đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng được Luật
TTHC năm 2015 quy định thuộc trường hợp vụ án không tiến hành đối thoại được là
điều hợp lí. Bởi lẽ, bản chất của thủ tục đối thoại là giữa các đương sự phải gặp gỡ
nhau cùng trực tiếp thảo luận các vấn đề phát sinh trong tranh chấp hành chính, do
vậy, nếu một hoặc các bên vắng mặt vì lí do khách quan lẫn chủ quan thì Tòa án không
thể tiến hành đối thoại được. Đối với trường hợp các bên đương sự thống nhất đề nghị

6
không tiến hành đối thoại thì Tòa án cũng tôn trọng ý chí và quyền tự định đoạt của
các bên trong vụ án hành chính.
Bên cạnh đó, Luật TTHC năm 2015 quy định Điều 198 đối với những vụ án
khiếu kiện về danh sách cử tri, thì không phải tổ chức đối thoại là phù hợp vì xuất phát
từ yêu cầu giải quyết khiếu kiện này phải được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp
thời; bởi lẽ mục đích chính của người khởi kiện đối với vụ việc này là để có tên trong
danh sách cử tri hoặc tên phải được ghi đúng trong danh sách cử tri, nếu như việc giải
quyết vụ án hành chính trải qua thủ tục đối thoại sẽ kéo dài thêm thời gian giải quyết
vụ án hành chính có thể dẫn đến trường hợp sau khi Tòa án xét xử xong tuyên chấp
nhận yêu cầu của người khởi kiện cũng không còn ý nghĩa vì hoạt động bầu cử đã qua
đi.

Trừ các trường hợp nếu trên thì trong quá trình giải quyết vụ án hành chính,
Tòa án phải có trách nhiệm tiến hành đối thoại. Có thể thấy việc pháp luật về tố tụng
hành chính dành riêng một điều luật quy định về các trường hợp không tiến hành đối
thoại được là một sự phát triển của hệ thống pháp luật về đối thoại. So với các quy
định về đối thoại trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010, việc quy định theo phương
pháp loại trừ về phạm vi đối thoại cho thấy vai trò của đối thoại trong tố tụng hành
chính và quan điểm luôn đảm bảo và ưu tiên hoạt động này của các nhà lập pháp trong
việc giải quyết vụ án hành chính.

2.2. Nguyên tắc tiến hành đối thoại

Các nguyên tắc tiến hành đối thoại được Luật Tố tụng hành chính năm 2015
quy định tại khoản 2 Điều 134 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

- Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự;

Khi tiến hành đối thoại phải bảo đảm nguyên tắc công khai, dân chủ, tôn trọng
ý kiến của đương sự, thể hiện qua việc thời gian, địa điểm và nội dung đối thoại được
thông báo trước cho dương sự và các chủ thể có liên quan, trong quá trình đối thoại
các bên đều có quyền được đưa ra các quan điểm của mình, đánh giá về tính hợp pháp

7
của đối tượng khiếu kiện. Thẩm phản trên cơ sở lắng nghe ý kiến của các bên để từ đó
có hướng xử lý tiếp theo đối với vụ án hành chính đang giải quyết.

- Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính
trái với ý chí của họ;

Nguyên tắc không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án
hành chính trái với ý chí của họ là một trong những nguyên tắc rất quan trọng của thủ
tục đối thoại. Xuất phát từ bản chất của đối thoại nhằm tạo ra sự thống nhất giữa các
bên đương sự đối với vụ án hành chính mà Tòa án đang giải quyết nên kết quả của đối
thoại phải thể hiện ý chí tự quyết của các bên tham gia đối thoại. Do đó, trong quá
trình tổ chức đối thoại, Thẩm phán chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, giúp đỡ các
bên đương sự có nhận thức đúng đắn về tính hợp pháp của đối tượng đang tranh chấp
để họ lựa chọn một hành động phù hợp với mong muốn của mình. Các đương sự khi
tham gia đối thoại không một ai được quyền ép buộc, đe dọa hay cản trở các đương sự
phải thực hiện một việc trái với ý chí của họ, thực hiện nguyên tắc này sẽ nhằm tạo
điều kiện để các bên được tự chủ đưa ra những quan điểm, đề nghị riêng của mình mà
không phải chịu tác động bên ngoài trong quá trình đối thoại.

- Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái
pháp luật, trái đạo đức xã hội

Nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán tiến hành đối thoại phải có nền tảng kiến
thức pháp luật sâu sắc trên nhiều lĩnh vực; trước hết, là các quy định của pháp Luật Tố
tụng hành chính về trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hành chính, tiếp đó cần
nắm vững quy định của pháp luật hành chính liên quan trực tiếp đến khiếu kiện hành
chính đang giải quyết để Thẩm phán có thể phân tích cho các đương sự nhận thức
đúng về nội dung văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ
có sự lựa chọn và quyết định việc giải quyết vụ án. Bên cạnh việc nắm rõ quy định của
pháp luật, Thẩm phán cũng cần phải có sự hiểu biết nhất định về các quy phạm đạo
đức, phong tục tập quán ở địa phương nhằm ngăn chặn các bên có những thỏa thuận
trái với đạo đức xã hội. Do vậy, các bên đối thoại cần dựa trên những quy định của
pháp luật để đánh giá khách quan về yêu cầu của mỗi bên, về tính hợp pháp của đối
tượng khởi kiện. Mặt khác, nguyên tắc này đòi hỏi các bên đương sự tham gia đối

8
thoại ngoài việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của mình còn phải tôn trọng
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích Nhà nước. Vì vậy mà mọi thỏa thuận
thông qua đối thoại có nội dung trái pháp luật và đạo đức xã hội đều không được thừa
nhận.

2.3. Thành phần đối thoại

Khoản 1 Điều 137 Luật TTHC năm 2015 quy định thành phần tham gia phiên
họp gồm có: Thẩm phán chủ trì phiên họp; thư ký phiên họp ghi biên bản; đương sự
hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự (nếu có); người phiên dịch (nếu có). Đây là những chủ thể phải có mặt
tại phiên họp đối thoại. Đối với đương sự hoặc người đại diện của đương sự thì chỉ cần
một trong hai có mặt. Trường hợp vụ án hành chính có người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp thì họ có quyền đến tham dự phiên đối thoại, người phiên dịch bắt buộc phải
có mặt tại phiên họp đối thoại nếu như trong vụ án hành chính có đương sự là người
nước ngoài, dân tộc thiểu số hoặc đương sự bị khuyết tật nghe, khuyết tật nói, khuyết
tật nhìn theo quy định tại Điều 21 Luật TTHC năm 2015. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều
137 Luật TTHC năm 2015 thì trường hợp cần thiết, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia phiên họp. Đây là những cá nhân, cơ
quan và tổ chức có thể không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng được
Thẩm phán mời đến phiên họp để hỗ trợ Thẩm phán, các bên đương sự trong việc
thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án ví dụ như người làm chứng, người giám
định…

Việc xử lý trong trường hợp có người vắng mặt tại phiên họp đối thoại cũng
được Luật TTHC năm 2015 quy định rất rõ tại khoản 3 Điều 137. Theo đó, trong vụ án
có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý
tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa
vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có
mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ
án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp và thông báo bằng văn bản việc hoãn phiên
họp, mở lại phiên họp cho các đương sự.

9
2.4. Thủ tục đối thoại

Trước khi tổ chức đối thoại. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải
có trách nhiệm thông báo về phiên họp đối thoại. Mục đích của việc thông báo về
phiên họp đối thoại là nhằm giúp cho đương sự, người đại diện và người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ biết được thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối
thoại để đến tham dự phiên họp. Ngoài ra, thông qua việc thông báo này giúp các bên
đương sự có thời gian chuẩn bị trước để có thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt
nhất. Do đó, tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định thông báo về phiên họp
đối thoại cùng một điều luật với thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ tại Điều 136.

Điều 136 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định thông báo về phiên
họp đối thoại cùng một điều luật với thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ, cụ thể như sau:

“1. Trước khi tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và đối thoại giữa các đương sự, Thẩm phán phải thông báo cho các đương
sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp.

2. Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy định
tại Điều 135 của Luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chủng cử mà không tiến hành việc đối thoại"

Trách nhiệm thông báo về phiên họp thuộc về Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án, đồng thời là chủ thể tiến hành đối thoại. Nội dung thông báo bao gồm thời
gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại. Trên cơ sở thông báo của Thẩm
phán, người được thông báo đến tham dự phiên họp để nêu ý kiến của mình về vụ án
mà Tòa án đang thụ lý giải quyết. Ngoài ra, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cũng
đã nêu rõ đối với vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được thì chỉ tiến hành
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chúng cứ.

10
Sau khi thông báo cho các bên tham gia phiên họp đối thoại biết, Thẩm phán
sẽ tiến hành phiên họp đối thoại theo trình tự được quy định tại khoản 4 Điều 138 Luật
Tố tụng hành chính năm 2015, theo đó Thẩm phán tiến hành thủ tục đối thoại như sau:

- Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có liên đến
việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyển, nghĩa vụ của mình quan
phân tích hậu quả pháp lý của việc đối thoại để họ tự nguyện thống nhất với
nhau về việc giải quyết vụ án;
- Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ để bảo
vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện về hướng giải
quyết vụ án (nếu có);
- Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện, những
căn cứ ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính để khởi
kiện và đề xuất hướng giải quyết vụ án (nếu có);
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và đề xuất
ý kiến giải quyết phần liên quan đến họ (nếu có);
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người khác tham
gia phiên họp đối thoại (nếu có) phát biểu ý kiến:

Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu dương sự nếu văn bản quy phạm
pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp pháp của quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của
văn bản đó. Thẩm phân có thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung
văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và
quyết định việc giải quyết vụ án;

- Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những
vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên
đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất. Cuối
cùng, Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và
những vấn đề chưa thống nhất.

So với Luật TTHC năm 2010 thì với những quy định mới và cụ thể hơn về đối
thoại trong Luật TTHC năm 2015 sẽ tạo cơ chế hòa giải giữa các bên, kết quả đối thoại

11
được coi là một trong các căn cứ để giải quyết vụ án, hạn chế việc phải mở phiên tòa
đồng thời đảm bảo tính hiệu quả của cơ chế đối thoại trong thực tiễn khi giải quyết các
vụ án hành chính. Tính hiệu quả của cơ chế này được thể hiện ở chỗ, xuất phát từ mối
quan hệ hành chính không ngang bằng giữa một bên chỉ đạo, điều hành và bên kia là
chấp hành, nhưng khi ra tòa, thông qua thủ tục đối thoại đã tạo điều kiện bình đẳng để
các bên đương sự gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với nhau.
2.5. Biên bản đối thoại

Theo khoản 2 Điều 139 Luật TTHC năm 2015 thì biên bản đối thoại phải có
các nội dung sau: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên họp; địa điểm tiến hành phiên
họp; thành phần tham gia phiên họp; ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; nội dung đã
được đương sự thống nhất, không thống nhất. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc
điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký phiên họp ghi biên
bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia phiên họp có quyền
được xem biên bản phiên họp ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa
đổi, bổ sung vào biên bản phiên họp và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.

Như vậy, Luật TTHC năm 2015 có quy định cụ thể về biên bản đối thoại,
trong đó đáng chú ý là biên bản đối thoại phải có nội dung đã được đương sự thống
nhất, không thống nhất. Trên cơ sở ghi nhận ý kiến của các bên đương sự trong quá
trình đối thoại, các nội dung mà đương sự đã thống nhất được với nhau cũng như nội
dung mà các bên chưa thống nhất được để làm cơ sở cho Thẩm phán tiến hành đối
thoại có hướng xử lý tiếp theo của việc giải quyết vụ án hành chính là tiếp tục xét xử
hay đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.

2.6. Xử lý kết quả đối thoại


Đây là một nội dung bổ sung mới quan trọng trong Luật tố tụng hành
chính năm 2015 nhằm đảm bảo có hiệu quả, hiệu lực của thủ tục đối thoại. Kết
quả đối thoại có thể theo nhiều chiều hướng khác nhau, điều đó sẽ ảnh hưởng đến
hướng giải quyết của vụ án.

Điều 140 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã quy định chi tiết về xử lý kết
quả đối thoại. Theo đó có ba trường hợp có thể xảy ra:

12
- Các bên đương sự vẫn giữ yêu cầu của mình trong quá trình đối thoại;
- Người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện
- Người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi
kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết
rút đơn khởi kiện.

Tùy vào từng trường hợp mà Tòa án có cách xử lý khác nhau, cụ thể:

Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện vẫn giữ yêu cầu khởi kiện,
người bị kiện giữ nguyên quyết định, hành vi bị khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu thì Thẩm phán tiến hành các
thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Đối với trường hợp này trong quá trình đối thoại
thì người khởi kiện vẫn giữ quan điểm cho rằng khiếu kiện bị khởi kiện là trái với quy
định của pháp luật trong khi đó người bị kiện vẫn bảo lưu quan điểm cho rằng khiếu
kiện do mình ban hành hoặc thực hiện là hợp pháp. Trường hợp này giữa các bên
đương sự đã không thể thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính nền
Thảm phản phải tiến hành thủ tục để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa.

Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện thì
Thẩm phân lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện, ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện và người khởi kiện
được quyền khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Đây là trường hợp đem
phương hành động của người khởi kiện mà không cần có sự thống nhất với người bị
kiện, vì trong quá trình đối thoại người khởi kiện nhận thức được các quyết định hành
chính, hành vi hành chính cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện là dùng với
quy định của pháp luật nên họ đã tự nguyện rút đơn khởi kiện, họ đã tự xác định nếu
tiếp tục theo đuổi vụ kiện cũng không đạt được kết quả như mong muốn lại mất thêm
thời gian, công sức và tiền bạc.

Trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế,
hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và
người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Tòa án lập biên bản về việc cam kết của
đương sự trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho
Tòa án quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành

13
chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện.
Hết thời hạn này mà một trong các bên đương sự không thực hiện cam kết của mình
thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án.

Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi
kiện thì Tòa án phải thông báo cho các đương sự khác biệt. Trong thời hạn 07 ngày kể
từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không có ý kiến phản đối
thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải
quyết vụ án và gửi ngay cho dương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định này có
hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị
nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của
Tòa án có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Đối với trường hợp này,
thông qua đối thoại người bị kiện đã nhận thức được khiếu kiện do mình ban hành
hoặc thực hiện là không đúng với quy định của pháp luật nên đã cam kết sửa đổi, hủy
bỏ, bổ sung hoặc thay thế, trong đó đối với người khởi kiện mặc dù vụ án hành chính
chưa được giải quyết bằng phán quyết của Tòa án nhưng mục đích tham gia tố tụng đã
đạt được nên cam kết rút đơn khởi kiện để sớm chấm dứt việc giải quyết vụ án hành
chính. Trên cơ sở các bên tham gia đối thoại đạt được sự đồng thuận trong việc giải
quyết tranh chấp đang phát sinh nên các bên đương sự trong vụ án đều phải thực hiện
những hành vi pháp lý nhất định mà các bên đã thỏa thuận.

3. Đánh giá tính hợp lý của hoạt động đối thoại trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử vụ án hành chính

Đối thoại được coi là một thủ tục có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hành chính. Thủ tục đối thoại mặc dù đã được quy định từ Luật tố tụng
hành chính năm 2010 nhưng mới chỉ dành duy nhất một điều (Điều 12) để quy định về
thủ tục đối thoại nên thực tiễn thực hiện thủ tục này gặp rất nhiều khó khăn và vướng
mắc. Đến Luật tố tụng hành chính được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ
10 ngày 25/11/2015 (sau đây gọi tắt là Luật TTHC năm 2015) đã có nhiều sửa đổi bổ
sung quan trọng về thủ tục này, đáng chú ý là Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã
dành riêng Chương X để quy định về thủ tục đối thoại cùng với thủ tục chuẩn bị xét
xử, trong đó đã bổ sung thêm nhiều vấn đề mới trong đối thoại như nguyên tắc tiến

14
hành đối thoại, thông báo phiên họp đối thoại, thành phần phiên họp đối thoại, biên
bản đối thoại, xử lý kết quả đối thoại.. Điều này chứng tỏ, hoạt động đối thoại trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ngày càng được coi trọng, có vai
trò không nhỏ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

Việc quy định bổ sung, cụ thể của pháp luật hiện hành về đối thoại trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là vô cùng hợp lý, không chỉ phù hợp với thực tiễn
khách quan của xã hội, có tính khả thi cao mà còn bảo đảm được lợi ích của Nhà nước
cũng như nguyện vọng, lợi ích của người dân. Xuất phát từ mối quan hệ không bình
đẳng về ý chí giữa một bên có quyền chỉ đạo, điều hành với một bên có nghĩa vụ chấp
hành trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, có thể nói đối thoại là một hoạt
động pháp lý nhằm thu hẹp sự bất bình đẳng này trong giải quyết tranh chấp hành
chính, bảo đảm việc giải quyết tranh chấp diễn ra dân chủ và hợp tình hợp lý.

- Việc thực hiện thủ tục đối thoại giúp các bên tranh chấp có thể nhận thức đúng
đắn về các quy định của pháp luật liên quan đến nội dung tranh chấp, từ đó có
thể thống nhất với nhau về một phương án chung giải quyết vụ án hành chính.

Với hoạt động đối thoại, các bên có thể thu thập và củng cố những thông tin có
giá trị chứng cử, từ đó xác định sự thật của vụ việc tranh chấp như: Nguyên nhân, điều
kiện phát sinh vụ việc, ai đúng ai sai, những điểm bất cập của pháp luật, tính đúng đắn
trong công tác quản lý và trong việc thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước liên quan đến nội dung khiếu kiện của các cá nhân, cơ quan đoàn thể; thông qua
đối thoại, các bên mới có thể trao đổi với nhau bằng việc đưa ra các tài liệu, viện dẫn
các quy định của pháp luật, bằng lý lẽ lập luận của mình. Thông qua đối thoại, chủ thể
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, chủ thể có khiếu kiện và các chủ thể khác có liên
quan hiểu được tình huống thực tế của chủ thể có thẩm quyền quản lý hành chính dẫn
đến việc có quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Đồng thời, chủ
thể có khiếu kiện và người có quyền, lợi ích liên quan hiểu được các quy định pháp
luật liên quan đến tình huống thực tế đó và quá trình áp dụng pháp luật của cơ quan
hành chính hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính. Từ đó để bên đối
tượng quản lý có thể nhận thức, hiểu hơn về các quy định của pháp luật, có thể thay
đổi quan điểm về quan hệ tranh chấp để rút yêu cầu khiếu nại hay khởi kiện hoặc hủy
bỏ, điều chỉnh quyết định hành chính, khắc phục hậu quả của hành vi hành chính đã
15
thực hiện. Có thể nói, mục đích cuối cùng của đối thoại nhằm chấm dứt những mâu
thuẫn, xung đột về quyền và lợi ích tồn tại trong tranh chấp hành chính mà không cần
phải xem xét vụ án, mở phiên toà xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, cũng giúp người có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đưa ra những kết luận, quyết định giải quyết tranh chấp
một cách khách quan, kịp thời và thỏa đáng.

- Thủ tục đối thoại xét trong toàn bộ quá trình tố tụng đóng vai trò rất lớn góp
phần làm vụ án hành chính được giải quyết một cách nhanh chóng, không phải
trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, tiết kiệm được
thời gian, chi phí và công sức, nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử.
- Đối thoại giúp đảm bảo tính khả thi của các quyết định hành chính, hành vi
hành chính.

Đảm bảo tính khả thi của quyết định hành chính được hiểu là đảm bảo quyết
định hành chính có khả năng thực hiện hiệu quả trên thực tế. Thông qua đối thoại, các
bên có liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp hành chính sẽ dễ dàng hơn nhằm
đạt được sự đồng thuận khi các bên tranh chấp cùng nhìn nhận về nội dung vấn đề
tranh chấp trong bối cảnh bình đẳng và cởi mở hơn. Trên cơ sở đó, các quyết định
hành chính, hành vi hành chính sẽ có tính khả thi và hiệu quả thi hành cao hơn do
được đưa ra dựa trên sự thống nhất giữa các bên có liên quan sau khi đã có cơ hội bày
tỏ đầy đủ quan điểm, nguyện vọng của mình về vụ việc tranh chấp. Kết quả đối thoại
cũng sẽ là căn cứ quan trọng giúp các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền thực thi
một cách nhanh chóng và có hiệu quả các quyết định hành chính, hành vi hành chính
của mình do bản thân chủ thể là đối tượng quản lý hành chính hay chính bản thân chủ
thể ban hành hay thực thi đã hiểu đúng về tình huống phát sinh tranh chấp và chuẩn bị
tâm lý sẵn sàng trong việc thực hiện các quyết định hành chính hoặc tuân thủ các hành
vi hành chính này.

- Đối thoại giúp giảm tình trạng khiếu kiện kéo dài, hình thành nên các “điểm
nóng” trong hoạt động quản lý nhà nước

Đối thoại sẽ giúp tăng cường sự gắn kết và hiểu biết lẫn nhau giữa chủ thể có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp hành chính và các bên tranh chấp. Đồng thời việc tổ
chức đối thoại một cách cởi mở cũng sẽ giúp chủ thể có khiếu kiện tin tưởng vào tỉnh

16
khách quan, công tâm và dũng dẫn trong quá trình giải quyết tranh chấp của chủ thể có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp hành chính, đặc biệt là từ cấp cơ sở và ở ngay những
giai đoạn đầu tiên của quá trình giải quyết. Chỉnh điều này sẽ giúp giảm tình trạng
khiếu nại vượt cấp hay kháng cáo lên các cấp cao hơn do sự thiếu tin tưởng vào người
có thẩm quyền giải quyết lần đầu hoặc hạn chế tình trạng tụ tập đông người nhằm gây
sức ép với cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết. Đối thoại cũng chính là cơ
hội để chỉnh các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hành chính thực
hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật để cá nhân, tổ chức và người dân nói chung
nắm bắt và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, đặc biệt là các quy định về quy trình,
trình tự, thủ tục liên quan đến việc thực hiện quyền khiếu nại, khiếu kiện của mình như
quy định về tiếp công dân, tiếp nhận, thụ lý và giải quyết khiếu kiện.

- Đối với hoạt động quản lý nhà nước, thông qua thủ tục đối thoại, đây là một
trong những cơ hội giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị kiện bảo vệ tính hợp pháp
của các quyết định hành chính, hành vi hành chính đã ban hành hoặc sửa chữa
những thiếu sót, sai lầm đối với các khiếu kiện hành chính đã ban hành, củng cố
lòng tin người dân trong hoạt động quản lý nhà nước.

C. PHẦN KẾT LUẬN

Như vậy, với những quy định mới và cụ thể hơn về thủ tục đối thoại trong
Luật tố tụng hành chính năm 2015, việc Tòa án khuyến khích và tạo mọi điều kiện để
các đương sự thỏa thuận với nhau trong việc giải quyết vụ án trên cơ sở pháp luật. Đối
thoại trong vụ án hành chính còn có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho
Tòa án trong quá trình tiến hành các thủ tục đối thoại giúp quá trình giải quyết vụ án
nhanh chóng, chính xác; tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức, góp phần nâng cao hiệu
quả trong công tác giải quyết xét xử các vụ án hành chính, đồng thời đối thoại cũng
giúp tăng cường sự gắn kết và hiểu biết lẫn nhau giữa những chủ thể. Thông qua đối
thoại, các bên có thể sẽ dễ dàng hơn nhằm đạt được sự đồng thuận khi các bên tranh

17
chấp cùng nhìn nhận về nội dung vấn đề tranh chấp trong bối cảnh bình đẳng và cởi
mở hơn. Đồng thời giúp các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp áp dụng luật
pháp và giải quyết đúng đắn những vụ án tranh chấp hành chính. Ngoài ra còn giúp
các cá nhân, cơ quan, tổ chức hiểu đúng về các quy định pháp luật và quá trình pháp
luật, từ đó họ sẽ dễ dàng kết nối với nhau hơn, giảm thiểu những vụ án tranh chấp
không đáng có. Bên cạnh đó, đối thoại còn giúp cho các chủ thể nhìn nhận lại hành vi,
quyết định hành chính của mình một cách khách quan nhất.

Danh mục tài liệu tham khảo:


1. Đinh Văn Minh (2019), “Bàn về đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành
chính”, Tạp chí Thanh tra số 6/2019.
2. Lê Thu Hằng (2011), “Đối thoại trong giải quyết vụ án hành chính”, Tạp
chí Nghề luật số 4/2011. 
3. Lê Việt Sơn, Vũ Thị Minh Thủy (2016), “Thủ tục đối thoại theo Luật Tố
tụng hành chính năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 08/2016.
4. Phạm Thị Hằng (2021), “Lợi ích của hòa giải, đối thoại tại Tòa án trong
tương quan so sánh với tố tụng”, Tạp chí Tòa án điện tử.
5. Tạ Hữu Huy (2021), “Chế định hòa giải, đối thoại tại Tòa án - Những
vướng mắc, bất cập trong thực tiễn”, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La.

18
6. Trần Thị Tố Thu (2012), “Đối thoại trong tố tụng hành chính”, Tạp chí
Tòa án điện tử. 
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính
Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội
8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hành chính Việt
Nam, NXB CAND, Hà Nội
9. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Tố tụng hành
chính dự thảo.

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao                         Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội                            Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM

1. Môn học: Luật Tố tụng hành chính

2. Nhóm: 5 - Lớp K8C 

3. Chủ đề: “Phân tích và đánh giá tính hợp lý của các quy định pháp luật hiện
hành về hoạt động đối thoại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính”
19
4. Danh sách thành viên nhóm: 

STT Mã sinh viên Lớp Họ và tên

1 203801010178 K8C Vũ Thu Hương ( nhóm trưởng )

2 203801010171 K8C Lê Hùng Nhật Minh

3 203801010188 K8C Hoàng Khánh Linh

4 203801010201 K8C Hoàng Thuỳ Dương

5 203801010243 K8C Lê Minh Trung

6 203801010136 K8C Nguyễn Ngọc Khánh

5. Thời điểm họp nhóm: 17h ngày 1/10/2022 và 14h ngày 3/10/2021 tại Phòng 104
Giảng đường

6. Nội dung thảo luận:

 Lên ý tưởng cho nội dung thuyết trình về vấn đề trên Powerpoint và Word
 Phân chia công việc chuẩn bị bài

7. Bảng tự đánh giá thành viên nhóm:

STT HỌ VÀ TÊN MSSV ĐIỂM SỐ GHI CHÚ

1 Vũ Thu Hương 203801010178 A

2 Lê Hùng Nhật Minh 203801010171 A

3 Hoàng Khánh Linh 203801010188 A

4 Hoàng Thuỳ Dương 203801010201 A

5 Nguyễn Ngọc Khánh 203801010136 A

6 Lê Minh Trung 203801010243 A

8. Nhận xét của giáo viên bộ môn:

20
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

21

You might also like