You are on page 1of 17

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài


Thi hành án dân sự giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy nhà
nước nói chung và trong hoạt động tư pháp nói riêng, đây là giai đoạn cuối cùng
của giai đoạn tố tụng. Một bản án, quyết định của Toà án khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự. Trong những
năm qua Chính Phủ và cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp đã xây dựng
công tác Thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đã đưa ra
nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này. Vì
vây, đến nay pháp laautj về Thi hành án đân sự đã không ngừng được xây dựng,
sửa dổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện. Luật Thi hành án dân sự năm 2008
sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã tạo được hành lang pháp lý đảm bảo cho công tác
Thi hành án dân sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Từ đó nhiều bản án, quyết
định phức tạp kéo dài được giải quyết dứt điểm góp phần ổn định tình hình an
ninh chính trị trật tự an toàn xã hội của địa phương, tạo tiền đề cho sự phát triển
kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó Công tác Thi hành án dân sự hiện vẫn
còn nhiều bất cấp, hạn chế như số lượng án vẫn còn tồn đọng lớn, sự quan tâm
phối hợp các các cơ quan, các ngành, cá nhân đối với công tác thi hành án dân
sự chưa cao, một số cán bộ, công chức chưa làm hết trách nhiệm…với những lý
do trên đây chính là lý do tôi chọn “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự”. làm đề tài sáng kiến nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Chi cục THADS quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng
2. Mục đích của đề án
Từ những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn địa phương, trên cơ sở
phân tích thực trạng một cách sâu sắc, mục đích nghiên cứu của đề án là đề ra
các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng thời gian đến nhằm bảo đảm
1
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong công tác thi hành án dân sự, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi của đề án
3.1.Đối tượng nghiên cứu đề án
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Cục Thi hành án dân sự thành phố
Đà Nẵng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán, cán bộ Cục Thi hành án dân sự thành
phố Đà Nẵng giai đoạn 2017-2022.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề án
Đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn được thực hiện trên các khía cạnh sau:
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Cục Thi hành án dân sự
thành phố Đà Nẵng hiện nay và thời gian tới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nhằm không ngừng phát triển nguồn nhân lực đảm bảo số lượng, chất lượng,
thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với phát triển ngành Thi hành án
dân sự trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ đề ra.
- Công tác thi hành án dân sự là một nhiệm vụ nhằm đảm bảo cho các bản
án, quyết định của Toà án có hiệu lực được thực thi một cách nghiêm minh; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức
xã hội, góp phần tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ nghiêm kỷ cương
pháp luật. Do vậy,nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chứcđáp ứng quá
trình phát triển ngành là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn, có tầm quan trọng trong
thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
- Đây là tài liệu để làm cơ sở cho lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự thành
phố Đà Nẵngtổ chức thực hiện phát triển nguồn nhân lực ngày một cách có hiệu
quả.
5. Kết cấu của đề án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung đề án cụ thể như sau
1. Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của đề án

2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của đề án
3. Tổ chức thực hiện đề án
4. Dự kiến kết quả đạt được đề án

PHẦN NỘI DUNG


I. Thực trạng của Công tác Thi hành án tại Chi cục THADS quận Hải
Châu
1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội quận Hải Châu
Quận Hải Châu là một quận trung tâm, nằm sát trục giao thông Bắc Nam
và cửa ngõ ra Biển Đông. Với một hệ thống hạ tầng giao thông phát triển mạnh,
đồng thời, là trung tâm hành chính, thương mại, dịch vụ của thành phố, tập
trung đông dân cư và các cơ quan, văn phòng của hầu hết các doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố, quận Hải Châu có một tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát
triển của thành phố Đà Nẵng về tất cả mọi mặt. Địa giới hành chính, quận Hải
Châu 2.059 ha diện tích tự nhiên và 198.829 người với 13 phường trực thuộc.
Với lợi thế là quận trung tâm của thành phố nên hoạt động thương mại dịch vụ
trên địa bàn quận Hải Châu đã phát triển nhanh, với sự tham gia cảu nhiều thành
phần kinh tế làm cho thị trường thêm đa dạng, phong phú hàng hoá lưu thông
nhanh về số lượng và chủng loại đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất
của xã hội, phát triển kinh doanh đa dạng, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức
kinh doanh văn minh, hiện đại và một số loại hình dịch vụ mới như các dịch vụ
kinh tế tài chính – tín dụng, khoa học công nghệ, dịch vụ công cộng… từng
bước thể hiện trung tâm cung ứng các dịch vụ tài chính cho kinh tế thành phố.
Nhìn chung tình hình kinh tế xã hội của Quận Hải Châu trong những năm qua
đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu tổng quát đã đề ra, đã có sự chuyển mình
nhanh chóng xứng đáng là vị trí trung tâm thành phố Đà Nẵng. Kinh tế tăng
trưởng nhanh, đô thị được chỉnh trang, nguồn lực phát triển, nếp sống của người

3
dân đô thị ngày càng có những tiến bộ mới, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện, quốc phòng, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững.
2.Thực trạng tổ chức triển khai Luật thi hành án dân sự và các văn bản
hướng dẫn thi hành khi tổ chức thi hành án.
2.1 Ưu điểm
Luật thi hành án dân sự đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản đẩm bảo cho
công tác thi hành án dân sự hiệu quả cao hơn. Với hình thức văn bản pháp luật
chuyên ngành cùng hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành được ban hành tương đối đầy đủ, các quy phạm pháp luật điều chỉnh cơ
bản đầy đủ các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự, từ tổ chức bộ máy,
trình tự thủ tục thi hành án, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức hữu
quan trong công tác thi hành án dân sự, kiểm sát, giám sát hoạt động thi hành án
dân sự…Hầu hết các quy định trong Luật thi hành án dân sự và các văn bản
hướng dẫn thi hành thống nhất, phù hopwj với văn bản pháp luật chung và các
văn bản pháp luật chuyên ngành khác.
Hệ thống tổ chức thi hành án được thành lập phù hợp với các yêu cầu của
thực tiễn và tính chất đặc thù của hoạt động thi hành án. Đảm bảo cơ chế vận
hành có hiệu quả, thông suốt, gắn chặt với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ,
chính quyền địa phương và sự phối hợp có hiệu quả của các ban ngành trên địa
bàn quận, nhất là Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, cơ quan Công an và
các cơ quan chuyên môn khác.Chức danh chấp hành viên được bổ nhiệm không
thời hạn trên cơ sở kết quả thi tuyển với 03 ngạch Chấp hành viên sơ cấp, Chấp
hành viên trung cấp, Chấp hành viên cao cấp khẳng định vị trí của Chấp hành
viên… góp phần quyết định đến hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự.

Luật thi hành án quy định đầy đủ, cụ thể trình tự thủ tục từ khâu nhận bản
án, ra quyết định thi hành án, phân công chấp hành viên tổ chức thi hành, xác
minh, cưỡng chế, định giá, bán đấu giá, giao tài sản bán đấu giá thành…khắc
phục được tình trạng không chuyển hoặc chuyển chậm bản án, quyết định cho

4
cơ quan thi hành, những vi phạm trong quá trình tổ chức thi hành án. Ngoài ra
còn quy định một số trường hợp cụ thể để giải quyết khó khăn vướng mắc
trong quá trình tổ chức thi hành án. Từ việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể của các cơ quan tổ chức trong thi hành án dân sự, các cơ quan tổ chức đã
chủ động phối hợp, ban hành nhiều quy chế phối hợp trong thi hành án, Kho bạc
nhà nước, ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã thực hiện kịp thời hơn yêu cầu
của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.nHận thức và ý thức chấp hành
pháp luật về thi hành án dân sự của cá nhân, tổ chức được nâng lên. Nhiều
người phải thi hành án tự nguyện thi hành án.

2.2. Hạn chế, bất cập

Tuy nhiên, việc thi hành Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn
thi hành còn nhiều hạn chế như:

2.2.1.Về quy định chung

Tại Điều 3 và Điều 7b Luật THADS quy định về người có quyền và nghĩa
vụ liên quan chưa phản ánh hết những chuyển biến về quyền và nghĩa vụ của họ
trong giai đoạn thi hành án và xác định địa vị pháp lý của họ trong việc tham gia
thực hiện các quyền và nghĩa vụ khi tổ chức thi hành án. Ví dụ, một người thế
chấp tài sản của mình cho người khác vay tiền, khi ra Tòa thì họ là người có
quyền và nghĩa vụ liên quan, người phải thi hành án là người vay tiền, là bị đơn
trong vụ kiện và là người phải thi hành án. Khi thi hành án, người phải thi hành
án không thực hiện nghĩa vụ thì phải kê biên, xử lý tài sản của người có quyền
và nghĩa vụ liên quan, khi đó họ là người phải thi hành án hay vẫn là người có
quyền và nghĩa vụ liên quan trong khi họ là đối tượng bị cưỡng chế chứ không
phải là người phải thi hành án ghi trong quyết định thi hành án. Nếu xác định họ
là người có quyền và nghĩa vụ liên quan thì họ không có địa vị pháp lý tham gia
vào hoạt động định giá tài sản kê biên, định giá lại tài sản kê biên, giao tài sản
để thi hành án và bán tài sản kê biên quy định tại Điều 98, Điều 99, Điều 100 và
Điều 101 Luật THADS vì các điều luật này chỉ quy định đương sự (người được

5
và người phải thi hành án) mới có quyền và nghĩa và nghĩa vụ tham gia các hoạt
động này trong khi họ là người có tài sản bị kê biên, xử lý.

Tương tự, Điều 9 Luật THADS quy định về tự nguyện và cưỡng chế thi
hành án không có người có quyền và nghĩa vụ liên quan nên họ không thể và
không có tư cách tham gia các quan hệ này.
2.2.2.Về thủ tục thi hành án
2.2.2.1.Ra quyết định thi hành án
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 36 Luật THADS, không ra quyết định thi
hành án chủ động trong trường hợp bản án tuyên quy trữ hay tạm giữ tài sản của
người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án dẫn đến khoản tiền tài sản tuyên
quy trữ, tạm giữ không có quyết định thi hành án để điều chỉnh, hồ sơ chứng từ
của những khoản này chỉ có thể do kế toán quản lý, Chấp hành viên chỉ kết
chuyển thu những nghĩa vụ của người phải thi hành án. Trường hợp tài sản quy
trữ, tạm giữ lớn hơn nghĩa vụ phả trả lại cho người phải thi hành án thì không
được xác định được thủ tục trả ra sao, hình thức pháp lý như thế nào, ai là người
chịu trách nhiệm trả vì Chấp hành viên chỉ chịu trách nhiệm thi hành khoản có
trong quyết định thi hành án.
Khoản 4 Điều 1 Nghị định 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Khoản 1
Điều 6 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự ra một quyết định thi hành án chung đối với các khoản thuộc diện chủ
động …” gây ra nhiều vướng mắc trong việc thống kê, phân loại việc thi hành
án khi quyết định thi hành án có nhiều người phải thi hành án nhưng có người
đã thi hành xong, có người thi hành dỡ dang, có người chưa có điều kiện và
thuộc diện theo dõi riêng. Cùng với đó, sửa đổi Khoản 3 Điều 6 Nghị định
62/2015/NĐ-CP quy định cơ quan Thi hành án dân sự chủ động ra quyết định
thi hành án khoản “bồi thường cho doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng” là có
sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế và không phát huy được tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước, bao cấp trách nhiệm của doanh
nghiệp trong hoạt động thi hành án dân sự. Với việc chủ động ra quyết định thi
hành án trong trường hợp này, khi có kết quả thi hành án thì họ được nhận
nhưng các quyền và nghĩa vụ trong quá trình tổ chức thi hành án họ có tham
gia với tư cách là người được thi hành án hay không? Mặt khác, khi nhận được
bản án, quyết định, cơ quan Thi hành án phải xác minh xem doanh nghiệp đó có
phải do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hay không để ra quyết định chủ
động trong khi hoạt động xác minh chỉ được Chấp hành viên thực hiện sau khi
có quyết định thi hành án.
Khoản 5 Điều 1 Nghị định 33/2020NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Khoản 1
Điều 7 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định “Trường hợp trong bản án, quyết
định có một người phải thi hành án cho nhiều người và các đương sự yêu cầu
thi hành án vào cùng thời điểm thì Thủ trưởng cơ quan ra một quyết định thi
6
hành án chung cho nhiều yêu cầu” nhưng chưa cụ thể như thế nào là “cùng
thời điểm”. Ví dụ, cơ quan Thi hành án dân sự nhận được một đơn yêu cầu thi
hành án mà biết được người phải thi hành án phải thi hành cho nhiều người thì
hướng dẫn cho những người được thi hành án khác làm đơn yêu cầu thi hành án
không cùng ngày nhưng trong trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được đơn yêu cầu đầu tiên và ra một quyết định thi hành án chung thì có xem là
cùng thời điểm, có vi phạm thủ tục ra quyết định thi hành án không?
2.2.2.2.Thông báo về thi hành án
Hiện nay, quy định của pháp luật về thi hành án bắt buộc Chấp hành viên
phải thông báo quyết định về thi hành án và các quyết định về thi hành án, các
thông báo về thi hành án, giấy triệu tập và các văn bản khác có liên quan đến
việc thi hành án… cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Việc
thông báo thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra văn bản, trừ
trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi
hành án (Khoản 1, Khoản 2 Điều 39 Luật THADS). Với tình trạng số lượng các
văn bản thông báo của Chấp hành viên càng ngày tăng cao theo số lượng án,
tính chất phức tạp của vụ việc, quy định như hiện nay là đang tạo sức ép khá lớn
cho Chấp hành viên, dễ vi phạm về thủ tục, thời hạn. Mặt khác, quy định này
bảo vệ đương sự, gây khó khăn cho Chấp hành viên khi thực thi pháp luật do
đương sự cố tình trốn tránh việc thi hành án, gây khó khăn, cản trở việc thông
báo thi hành án. Chấp hành viên phải luôn áp lực trong việc thông báo đầy đủ
mọi văn bản ban hành rồi mới xử lý được.
Về hình thức thông báo: Việc thông báo thi hành án gần như vẫn thực
hiện theo phương pháp truyền thống như thông báo trực tiếp, niêm yết công
khai hoặc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó, thông
báo trực tiếp vẫn là một trong những hình thức ưu tiên sử dụng. Điều này dẫn
đến việc tống đạt các văn bản thông báo cho đương sự và người liên quan hiện
nay của Chấp hành viên rất bị động, mất nhiều thời gian, công sức mà hiệu quả
không cao.
Về thủ tục thông báo, Điều 41 Luật THADS quy định: “Trường hợp
người được thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải được
giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm
nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận.
Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại diện tham gia việc
thi hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì những người
này ký nhận văn bản thông báo. Ngày ký nhận là ngày được thông báo hợp lệ”.
Quy định này gây nhiều trở ngại cho Chấp hành viên vì rất khó gặp được người
đại diện theo pháp luật của của cơ quan, tổ chức để giao trực tiếp cho họ nhất là
cơ quan, tổ chức là người phải thi hành án, hoặc đối với các chi nhánh tổ chức
tín dụng (khi xác minh tài khoản, tài sản) thì không có người đại diện theo pháp
luật mà chỉ là người đứng đầu. Việc xác định “người chịu trách nhiệm nhận
văn bản của cơ quan, tổ chức” cũng không dễ vì phải theo quy định nội bộ của

7
cơ quan, tổ chức đó, Chấp hành viên không có quyền tìm hiểu quy định nội bộ
đó.
2.2.2.3. Về xác minh điều kiện thi hành án
Hiện nay, quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật THADS và Khoản 1 Điều 9
Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định việc xác minh bắt buộc phải được tiến
hành với người phải thi hành án là một thủ tục không có tính khả thi, thiếu thực
tiễn. Trong hệ thống pháp luật nước ta, chế tài với người phải thi hành án gồm 3
loại: dân sự, hành chính và hình sự nhưng chế tài hành chính và hình sự ít được
áp dụng và hiệu lực không mạnh, trong khi chế tài dân sự thì biện pháp cao nhất
là cưỡng chế thi hành án đã có quá nhiều thủ tục và đặt trọng tâm trách nhiệm
vào Chấp hành viên chứ không phải là người phải thi hành án. Trường hợp
người phải thi hành án cố tình không kê khai hay kê khai không trung thực điều
kiện thi hành án thì xử lý như thế nào? Thực tế đã có người phải thi hành án nào
kê khai họ có bao nhiêu tiền, ở đâu, nhà đất, vốn góp, quyền sở hữu trí tuệ, …
như thế nào và biện pháp áp dụng đối với tài sản đó để thi hành án ra sao?
Điểm a Khoản 4 Điều 44 Luật THADS quy định khi xác minh Chấp hành
viên “có trách nhiệm xuất trình thẻ Chấp hành viên” nhưng hiện nay quyết
định bổ nhiệm Chấp hành viên không kèm theo thẻ và việc luân chuyển, chuyển
đổi, nâng ngạch Chấp hành viên không được đổi thẻ kịp thời gây nhiều khó
khăn trong thực hiện nhiệm vụ.
Điểm d Khoản 4 Điều 44 Luật THADS quy định “trường hợp người phải
thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp hành viên trực tiếp xem xét tài sản, sổ
sách quản lý vốn, tài sản” trong khi Chấp hành viên không đủ năng lực, trình
độ để làm việc này, nếu thuê cơ quan kiểm toán thì kinh phí rất lớn và không có
cơ chế thực hiện. Thực tế, chưa có doanh nghiệp phải thi hành án nào cung cấp
sổ sách quản lý vốn, tài sản Cho chấp hành viên xác minh và chưa có biện pháp
chế tài nào đối với hành vi không không chấp hành yêu cầu của Chấp hành viên
về cung cấp sổ sách quản lý vốn, tài sản. Trong khi đó, tại Khoản 5 Điều 24
Nghị định 62/2015/NĐ-CP thì lại quy định: “Cơ quan thi hành án dân sự chỉ kê
biên tài sản khác của doanh nghiệp phải thi hành án, nếu sau khi đã khấu trừ
tài khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý khác, giấy tờ có giá của doanh
nghiệp đang do doanh nghiệp quản lý hoặc đang do người thứ ba giữ mà vẫn
không đủ để thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định có quyết định khác
hoặc đương sự có thỏa thuận khác” làm cho việc xác minh điều kiện thi hành
án và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với doanh nghiệp cực kỳ
khó khăn, phức tạp, dễ dẫn đến sai phạm và quy trách nhiệm cho Chấp hành
viên.
Điểm b Khoản 6 Điều 44 Luật THADS quy định: “đối với thông tin về
tài khoản thì phải cung cấp ngay” nhưng thực nhiều tổ chức tín dụng không
cung cấp ngay cho Chấp hành viên vì lý do phải báo cáo cấp trên hoặc người
đứng đầu, phụ trách tổ chức tín dụng không có mặt tại cơ quan, … mà không có
chế tài đủ mạnh làm cho việc xác minh tài khoản không đảm bảo tính kịp thời,

8
hiệu quả và không loại trừ trường hợp nhân viên tổ chức tín dụng có thể thông
báo cho khách hàng thanh toán tiền trong tài khoản vì với điều kiện công nghệ
hiện nay, việc thanh toán tiền trong tài khoản diễn ra trong tích tắt.
2.2.2.4.Về đình chỉ thi hành án
Điểm b Khoản 1 Điều 50 Luật THADS quy định: “Người được thi hành
án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản
án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người
thừa kế”mới tính đến người được thi hành án là cá nhân mà chưa có quy định
và hướng dẫn về trường hợp người được thi hành án là doanh nghiệp bị thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Vì khi doanh nghiệp đã bị cơ quan
đăng ký kinh doanh thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp không thể xác định được trong quan hệ pháp luật về
thi hành án dân sự, ai là người đại diện cho doanh nghiệp tham gia quá trình tổ
chức thi hành án: nhận các quyết định, văn bản về thi hành án, thực hiện quyền
khiếu nại, quyền và nghĩa vụ trong kê biên, định giá, xử lý tài sản của người
phải thi hành án, tiếp nhận kết quả thi hành án?
2.2.2.5.Về phí thi hành án
Khoản 4 Điều 4 Thông tư 216/2016/TT-BTC quy định trường hợp đã ra
quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng chưa thưc hiện việc cưỡng chế mà
đương sự tự giao, nhận tiền cho nhau thì người được thi hành án phải nộp 1/3
mức phí theo quy định tại Khoản 1 Điều này là không hợp lý, chưa tính đến các
nguồn lực mà cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên đã bỏ ra. Trong
rất nhiều việc thi hành án, để ban hành quyết định cưỡng chế, Chấp hành viên
phải làm việc, xác minh, động viên, thuyết phục cả thời gian dài, đến khi ban
hành quyết định cưỡng chế, người phải thi hành án thấy được trách nhiệm của
họ nên thực hiện nghĩa vụ. Thay vì giao, nộp cho cơ quan Thi hành án dân sự,
Chấp hành viên thì lại giao, nhận với người được thi hành án dẫn đến người
được thi hành án chỉ phải nộp 1/3 như trường hợp người phải thi hành tự
nguyện thi hành khi cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên chưa tiến
hành các hoạt động tổ chức thi hành án dẫn đến việc ra quyết định cưỡng chế.
Mặt khác, Khoản 4 và Khoản 5 Thông tư 216/2016/TT-BTCchưa tính đến
trường hợp sau khi ban hành quyết định cưỡng chế và đã thực hiện việc cưỡng
chế mà đình chỉ thi hành án theo Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật THADS thì phí
thi hành án được xác định như thế nào.
2.2.2.6.Biện pháp bảo đảm thi hành án
Trong điều kiện ngày nay, giao dịch về tài khoản được thực hiện rất
nhanh chóng, thuận tiện bằng các thao tác nghiệp vụ điện tử, mặt khác, giữa
người có tài khoản và tổ chức tín dụng, kho bạc, ngân hàng luôn có mối quan hệ
khăn khít, lâu dài nên các thông tin liên quan đến tài khoản của họ một khi đã
không còn được bí mật do quá trình tiến hành các thủ tục xác minh của người
được thi hành án đã giúp cho người phải thi hành án có nhiều thời gian để tẩu
tán tiền trong tài khoản. Bên cạnh đó, theo tinh thần của Điều 67 Luật Thi hành
9
án dân sự, Điều 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và mẫu Quyết định phong toả
tài khoản ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp thì khi phong toản tài khoản, Chấp hành viên phải xác định rõ số tiền
bị phong tỏa trong tài khoản đó, nghĩa là số tiền phong tỏa phải là số tiền của
người phải hành án đang có thực trong tài khoản bị phong tỏa. Quy định này chỉ
có tác dụng khi tại thời điểm phong tỏa, tài khoản có số dư đủ để thực hiện
nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án mà chưa tính tới việc phong tỏa
trong một khoản thời gian nhất định đối với tài khoản đó nếu như tại thời điểm
xác minh hoặc ban hành quyết định phong tỏa không có số dư hoặc có nhưng
không đủ thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Thực tế tổ chức thi hành án cho thấy,
khác với các loại nghĩa vụ khác, khi người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền,
nếu xác định được họ có số dư trong tài khoản cụ thể thì Chấp hành viên có
quyền áp dụng khoản 2 Điều 45 và Điều 76 Luật Thi hành án dân sự để ra quyết
định khấu trừ tiền trong tài khoản đó để thi hành án ngay cả khi chưa hết thời
gian tự nguyện mà không cần thiết phải áp dụng biện pháp phong tỏa rồi mới áp
dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ, trong khi thời gian giữa hai biện pháp này
chỉ là 05 ngày và người phải thi hành án không có quyền thay thế nghĩa vụ trả
tiền bằng một nghĩa vụ khác trong thời gian áp dụng biện pháp phong tỏa. Do
đó, biện pháp phong tỏa tiền trong tài khoản chỉ có thể có tác dụng hơn khi cho
phép được áp dụng trong trường hợp cần “đón lỏng” khoản tiền phải thi hành án
trong tài khoản của người phải thi hành án mà tại thời điểm xác minh, ra quyết
định phong tỏa chưa có số dư hoặc số dư ít không đủ để thi hành án, làm cho
biện pháp phong tỏa tài khoản có tác dụng răn đe mạnh hơn đối với người phải
thi hành án.
Khoản 3 Điều 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: “Chấp hành
viên có trách nhiệm bảo mật của những thông tin về tài khoản, tài sản của
người phải thi hành án bị áp dụng biện pháp bảo đảm khi được Kho bạc Nhà
nước, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khaorn, tài sản
cung cấp” cũng tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất, chưa được
hướng dẫn cụ thể, xác định trách nhiệm bảo mật như thế nào. Về nguyên tắc,
biên bản xác minh tài khoản, quyết định phong toản tài khoản không phải là văn
bản thuộc danh mục bí mật nhà nước nên không hạn chế về đối tượng tiếp cận
trong nội bộ cơ quan thi hành án cũng như các cơ quan khác (Viện Kiểm sát,
người được thi hành án,…). Vì vậy, một khi những thông tin về tài khoản của
người phải thi hành án mất tính bí mật thì khó có thể xác định được người chịu
trách nhiệm. Mặt khác, những thông tin đó có được sử dụng để thi hành án cho
những việc thi hành án khác cùng đang tổ chức thi hành án tại cơ quan thi hành
án hoặc sau đó hay không, Chấp hành viên có được cung cấp thông tin đó cho
Chấp hành viên khác trong đơn vị khi người phải thi hành án thi hành nhiều
nghĩa vụ do các Chấp hành viên khác thụ lý là những vấn đề chưa được quy
định, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể.
3. Thực trạng công tác thi hành án dân sự tại Chi cục THADS quận Hải
Châu
10
3.1. Kết quả đạt được
Kết quả thi hành án dân sự về việc và về tiền 12 tháng năm 2020 (từ ngày
01/10/2019 đến ngày 30/9/2020)
- Về việc: Tổng số bản án quyết định đã nhận là 757 bản án, quyết định;
Tổng số giải quyết là 2.110 việc, trong đó: Số cũ chuyển sang (trừ số đã chuyển
sổ theo dõi riêng) là 775 việc; Số thụ lý mới là 1.335 việc, giảm 288 việc (giảm
17.7% so với cùng kỳ năm 2019);
- Sau khi trừ đi số ủy thác 92 việc, số thu hồi, hủy quyết định thi hành án
01 việc, tổng số phải thi hành là 2.017 việc, trong đó: Số có điều kiện thi hành
là 1.494 việc, chiếm 74% trong tổng số phải thi hành; Số chưa có điều kiện (trừ
số đã chuyển sổ theo dõi riêng) là 497 việc, chiếm 24.6% trong tổng số phải thi
hành;
Trong số có điều kiện thi hành, tổng số thi hành xong là 1.216 việc, giảm
178 việc (giảm 12.7%) so với cùng kỳ năm 2019; đạt tỉ lệ 81.39% (tăng 3.03%)
so với cùng kỳ năm 2019. Vượt so với chỉ tiêu Cục Thi hành án dân sự thành
phố Đà Nẵng giao là: 1.39%.
Tổng số việc chưa có điều kiện thi hành án chuyển sang sổ theo dõi riêng
là 568 việc
Số việc chuyển kỳ sau (trừ số đã chuyển sổ theo dõi riêng) là 801 việc.
- Về tiền: Tổng số giải quyết là 1.282.509.846 nghìn đồng , trong đó: Số cũ
chuyển sang (trừ số đã chuyển sổ theo dõi riêng) là 619.184.387 nghìn đồng; Số
thụ lý mới là 663.325.459 nghìn đồng, tăng 205.489.673 nghìn đồng (tăng
44.8%) so với cùng kỳ năm 2019;
- Sau khi trừ đi số ủy thác là 654.107.091 nghìn đồng, số thu hồi, hủy
quyết định thi hành án 46.000 nghìn đồng, tổng số phải thi hành là 628.356.755
nghìn đồng, trong đó: Số có điều kiện thi hành là 233.817.140 nghìn đồng, chiếm
37% trong tổng số phải thi hành; Số chưa có điều kiện (trừ số đã chuyển sổ theo
dõi riêng) là 207.511.401 nghìn đồng, chiếm 33% trong tổng số phải thi hành;
Trong số có điều kiện thi hành, tổng số thi hành xong là 96.967.767 nghìn
đồng, tăng 43.234.743 nghìn đồng (tăng 80%) so với cùng kỳ năm 2019; đạt tỉ lệ
41.47% (tăng 31.03%) so với cùng kỳ năm 2019. Vượt so với chỉ tiêu của Cục
Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng giao là: 3.47%.
- Tổng số tiền chưa có điều kiện thi hành án chuyển sang sổ theo dõi riêng
là 65.040.320 nghìn đồng.

11
- Số tiền chuyển kỳ sau (trừ số đã chuyển sổ theo dõi riêng) là
531.388.988 nghìn đồng.
- Về xác minh, phân loại điều kiện thi hành án: Thực hiện tốt việc gửi
danh sách định kỳ hàng tháng các trường hợp chưa có điều kiện thi hành cho
Cục Thi hành án tổng hợp đăng tải lên trang thông tin điện tử. Thường xuyên
theo dõi, phân loại án, xác minh định kỳ đúng thời hạn theo quy định pháp luật
đối với các vụ việc chưa có điều kiện thi hành.
- Về thi hành án đối với các khoản thu Ngân sách Nhà nước: số việc phải
thi hành loại này là 820 việc, tương ứng với số tiền là 13.743.497 nghìn đồng
(chiếm 40.6% về việc và 5.8% về tiền so với tổng số việc và tiền phải thi hành).
Kết quả: trong số việc loại này, đã thi hành được 346 việc thu được số tiền là
2.414.807 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 42% về việc và 17.5% về tiền.
- Về tình hình giải quyết các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng:
số việc phải thi hành loại này là 129 việc, tương ứng với số tiền là 893.025.493
nghìn đồng. Kết quả: trong số việc loại này số đã ủy thác thi hành án là 10 việc,
tương ứng với số tiền là 615.741.248 nghìn đồng, đã thi hành được 05 việc, giải
quyết được số tiền là 8.593.575 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 3.8% về việc và 1% về tiền.
- Về thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về
tham nhũng, kinh tế: Tổng số phải thi hành 03 việc, với số tiền 7.600.000 đồng.
Số có điều kiện là 03 việc, với số tiền 7.600.000 đồng. Đã thi hành xong 03
việc, với số tiền là trên 7.600.000đồng. Số chưa có điều kiện thi hành 0 việc, với số
tiền 0 đồng.
- Về kết quả xét miễn, giảm thi hành án: Chi cục Thi hành án dân sự phối
hợp với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề nghị Tòa án
nhân dân có thẩm quyền xét miễn, giảm đối với 39 trường hợp (trong đó: 35
trường hợp miễn và 04 trường hợp giảm). Đã được Tòa án ra quyết định miễn,
giảm nhưng chưa ra quyết định đình chỉ thi hành án (do quyết định miễn, giảm
của Tòa án chưa đủ thời gian có hiệu lực thi hành).
- Về kết quả tổ chức thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự đối
với phạm nhân tại các Trại giam thuộc Bộ Công an: Trong năm 2020, tổng số
thụ lý là 214 việc, tương ứng với số tiền 2.781.697 nghìn đồng. Kết quả, Thi hành
xong 146 việc, thu được số tiền là 187.595 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 68% về việc và
6.7%
về tiền.
- Về kết quả tổ chức cưỡng chế thi hành án, từ ngày 01/10/2019 đến hết
30/9/2020, Chi cục đã ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
đối với 21 trường hợp, giảm 11 trường hợp so với cùng kỳ 2019; 02 trường hợp

12
có huy động lực lượng, trong đó: 20 trường hợp đã cưỡng chế thành công và 01
trường hợp chưa tổ chức cưỡng chế.
- Về kết quả bán đấu giá thành:
Tổng số việc bán đấu giá thành là 03 việc, tương ứng với 2.530.124 nghìn
đồng; trong đó kỳ trước chuyển sang là 01 việc tương ứng 1.910.155 nghìn
đồng. Đã giao tài sản cho người mua trúng đấu giá: 03 việc, tương ứng
2.530.124 nghìn đồng, chiếm 0.16% về việc, 0.4% về tiền. Chưa giao tài sản: 0
việc, tương ứng 0 đồng.
+ Hủy kết quả bán đấu giá: 0 việc, tương ứng 0 đồng.
Kết quả đấu giá chưa thành:
Tổng số việc bán đấu giá chưa thành là 02 việc, tương ứng 26.171.471
nghìn đồng. Trong đó, kỳ trước chuyển sang 01 việc tương ứng 24.020.104
nghìn đồng; thụ lý mới 01 việc, tương ứng 2.151.367 nghìn đồng. Số lượng bán
đấu giá trên 10 lần là 01 việc;

Về các chỉ tiêu khác: Đơn vị luôn bảo đảm việc ra quyết định thi hành án
đúng thời hạn đối với 100% các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực
theo đúng quy định của pháp luật; xác minh phân loại án chính xác 100%; Chấp
hành viên tự khắc phục những mặt còn hạn chế thiếu sót trong công tác kiểm tra
nội bộ, thực hiện đúng quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án
dân sự.
Đơn vị tổ chức rà soát, phân loại các vụ việc thi hành án trọng điểm; các
vụ việc thi hành án phần trách nhiệm dân sự trong bản án hình sự; các vụ việc
thi hành án liên quan đến tín dụng, ngân hàng của năm 2019 chuyển sang và số
vụ việc thụ lý mới trong năm 2020, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp, giải
pháp xử lý đối với từng vụ việc, triệt để áp dụng biện pháp kê biên xử lý tài sản
đối với các vụ việc có điều kiện thi hành.
- Triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án dân sự trên địa bàn như tăng cường phối hợp với chính quyền địa
phương trong công tác xác minh, động viên hòa giải để đương sự tự nguyện thi
hành; động viên thân nhân người đang chấp hành án phạt tù thực hiện thay
nghĩa vụ thi hành án dân sự.
3.2. Những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân
3.2.1. Tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc:

 Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành có nhiều quy
định chưa hợp lý gây nên những khó khăn trong thực tiễn hoạt động của cơ

13
quan thi hành án. Nhận thức pháp luật về thi hành án trong xã hội còn nhiều hạn
chế.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 từ đầu năm đến nay khiến nhiều doanh
nghiệp phải thi hành án ngừng hoạt động, ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả
công tác thi hành án dân sự tại địa phương.
Số lượng việc và tiền phải thi hành án còn tồn lớn, tính chất vụ việc phức
tạp gây ra những khó khăn cho việc thực hiện chỉ tiêu nhiệm vụ được giao.
b) Nguyên nhân:
Về chủ quan: Một số Cán bộ công chức chưa quyết liệt trong việc tổ chức
cưỡng chế thi hành án, còn nể nang, thụ động trong quá trình giải quyết án; hiệu
quả công tác động viên, giáo dục, thuyết phục trong công tác thi hành án còn
hạn chế.
Về khách quan:
Do ảnh hưởng dịch Covid-19, thực hiện Chỉ thị 16-TTg về cách ly xã hội
của Thủ Tướng Chính Phủ dẫn đến công tác xác minh điều kiện thi hành án
cũng như làm việc trực tiếp với đương sự để giải quyết án còn hạn chế.
Ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân chưa cao. Việc tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật vẫn còn ở mức độ nhất định; Sự phối kết hợp của
các ngành ở một số địa phương trong công tác thi hành án còn chưa chặt chẽ.
Lượng tiền ở loại việc kinh doanh thương mại chiếm tỷ lệ rất lớn chưa xử
lý xong. Số lượng tiền phải thi hành lớn, tính chất vụ việc phức tạp, tài sản thế
chấp vay vốn ngân hàng là nhà đất chưa xử lý còn nhiều. Việc xử lý tài sản để
đảm bảo thi hành án rất khó khăn, một số tài sản cơ quan thi hành án đã kê biên,
ký hợp đồng bán đấu giá tài sản nhưng không có người mua, phải giảm giá
nhiều lần cũng không bán được.
II/.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC THI HÀNH ÁN

Trước hết bản thân với nhiệm vụ là Chấp hành viên Chi cục THADS quận
trung tâm của thành phố luôn luôn không ngừng nghiên cứu và nắm vững các
quy định, xuất phát từ thực tiễn công tác tổ chức thi hành án tại đơn vị, nhằm
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tôi đã đưa ra một số giải pháp đã được áp
dụng và đạt hiệu quả tại Chi cục THADS quận Hải Châu nhằm nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự cụ thể như sau:
1/. Xây dựng kế hoạch công tác

14
Lập kế hoạch công tác theo tuần: những công việc cần làm, cần hoàn thành
trong tuần. Đảm bảo hoàn thành kế hoạch đặt ra. Nhờ giải pháp này mà bản
than cũng như đơn vị luôn luôn hoàn thành chỉ tiêu, báo cáo kịp thời, giải quyết
những tình huống phát sinh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
2./Kiểm tra, rà soát kỹ nội dung bản án, quyết định của Tòa án tên tuổi,
địa chỉ đương sự người liên quan, đối chiếu so sánh số liệu, đối với bản án hình
sự đối chiếu vật chứng bản án, quyết định tuyên với biên bản, quyết định giao
nhận vật chứng để kịp thời liên hệ Tòa án giải thích , đính chính nhằm giảm thời
gian, thủ tục cũng như khiếu nại thi hành án nhằm đem lại hiệu quả công tác thi
hành án. Tránh được các trường hợp đã ban hành quyết định mới phát hiện bản
án, quyết định sai sót việc thi hành án phải dừng lại để yê cầu tòa đính chính,
giải thích, Chấp hành viên phải đi tác nghiệp lại từ đầu, thậm chí xảy ra khiếu
nại khiếu kiện.
3/. Thường xuyên phối hợp với Công an, chính quyền địa phương kịp
thời nắm bắt thông tin, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án từ đó có
thể vận dụng các kỹ năng mềm như vận động, thuyết phục để đương sự tự
nguyện thi hành án đạt kết quả cao. Hầu hết việc tổ chức thi hành án tại đơn vị
hoàn thành do đương sự tự nguyện thi hanh án.
4/.Chủ động phối hợp với các trại giam như lập danh sách các đối tượng
đang thụ hình tại trại phải có nghĩa vụ thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án
hình sự và có văn bản kèm theo danh sách phối hợp trại giam động viên , thuyết
phục tự nguyện thi hành án. Kết quả việc xử lý tang tài vật cũng như thực hiện
nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự đạt kết quả cao.
5/. Có kế hoach, báo cáo cụ thể các vụ án phức tạp. Trước khi tổ chức
cưỡng chế kế hoạch, phương án phải chặt chẽ, dự kiến các tình huống xảy ra để
xử lý kịp thời, không để xảy ra sai phạm. Tất cả các vụ việc cưỡng chế tại đơn
vị thành công, không để xảy ra điểm nóng tại địa phương.
6/. Những vụ việc có khiếu nại, tố cáo làm việc với địa phương nơi người
khiếu nại, tố cáo cư trú hoặc cơ quan nơi làm việc để nắm bắt thông tin lý do vì
sao họ khiếu nại, tố cáo để từ đó có hướng giải quyết dứt điểm. Nhiều vụ việc
phức tạp nhưng khi được giải quyết khiếu nại, tố cáo đương sự rút đơn hoặc
thỏa mãn với quyết định giải quyết khiếu nại không khiếu nại vượt cấp.

15
Trong những năm qua nhờ thực hiện tốt một số giải pháp trên mà Công
tác thi hành án dân sự tại quận Hải Châu có những chuyển biến rõ rệt, nhiều vụ
án phúc tạp, kéo dài được giải quyết dứt điểm, các vụ việc cưỡng chế đều thành
công không để xảy ra điểm nóng, không có đơn khiếu nại, tố cáo vượt cấp, đạt
tỷ lệ về tiền và việc góp phần vào thành tích chung của Công tác thi hành án dân
sự của Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng nói riêng và Công tác thi
hành án dân sự toàn quốc nói chung.
Cụ thể:

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


1/.Kết luận:
Công tác thi hành án dân sự có tác dụng quan trọng trong việc tuyên
trueyenf, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho
người dân, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, tạo niềm tin
của người dân vào tính nghiêm minh của pháp luật, củng cố quyền lực nhà
nước. Tuy nhiên, thời gian qua Công tác thi hành án dân sự còn bộc lộ một số
tồn tại, hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả , niềm tin của
doanh nghiệp, người dân đối với hoạt động thi hành án. Trong đó phải kể đến
các quy định về thủ tục Thi hánh dân sự, công tác xác minh, phong tỏa tài khoản
chưa sát với thực tế và hiệu quả.

Với những giải pháp đã nêu trên, hy vọng góp phần khắc phục được những
hạn chế phát sinh nhằm nâng cao hiệu quả công tác Thi hành án dân sự góp
phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương tạo được niềm tin của nhân
dân vào tính nghiêm minh của pháp luật.

2. Kiến nghị
Trong việc xây dựng pháp luật, cần xác định người phải thi hành án là
người chịu trách chính, chủ yếu trong việc thực hiện các nghĩa vụ trong quan hệ
pháp luật về thi hành án dân sự, không nên để Chấp hành viên phải “chạy theo”
người phải thi hành để “kêu gọi” họ thực hiện nghĩa vụ. Để làm được việc này,
cần xây dựng chế định về xác minh điều kiện thi hành án theo hướng người phải
thi hành án có trách nhiệm cung cấp điều kiện thi hành án chứ không buộc Chấp
hành viên phải thực hiện xác minh với họ mà không có tính khả thi, thiếu thực
16
tế và không có chế tài đủ mạnh như hiện nay. Trong điều kiện công nghệ ngày
nay, không khó để xây dựng cơ sở dữ liệu dân cư (gồm cả doanh nghiệp) về thu
nhập, tài sản (tiền trong ngân hàng và các tài sản đăng ký quyền sở hữu,…) để
các cơ quan có thẩm quyền quản lý, cơ quan Thi hành án dân sự dễ dàng xác
minh chính xác điều kiện thi hành án của cá nhân, tổ chức. Khi đó, hiệu quả
công tác Thi hành án dân sự chắc chắn sẽ nâng cao, đỡ tốn nhiều nguồn lực con
người và thời gian.
Biện pháp bảo đảm cưỡng chế thi hành án phải thực sự mạnh mẽ, hiệu
lực, hiệu quả, bao quát toàn bộ nghĩa vụ của người phải thi hành án. Khi không
thực hiện nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực thì người phải thi
hành án không thể tham gia bất kỳ giao dịch dân sự nào chứ không như tình
trạng hiện nay, cá nhân, doanh nghiệp phải thi hành án không thực hiện nghĩa
vụ mà vẫn “đường hoàng” tồn tại, tham giao giao dịch dân sự mà cơ quan Thi
hành án dân sự và Chấp hành viên không thể biết để áp dụng biện pháp bảo
đảm, biện pháp cưỡng chế.
Trong điều kiện hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế toàn cầu, cần xây
dựng ý thức tuân thủ pháp luật của người dân và doanh nghiệp để tạo môi
trường minh bạch, bình đẳng trong quan hê với đối tác mà các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới chúng ta đã ký kết, gia nhập. Khi ý thức tuân thủ pháp
luật, trong đó có pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại, dân sự không
được thực thi nghiêm minh thì niềm tin vào hệ thống pháp luật sẽ bị mai mọt,
nhà đầu tư không mặn mà với môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

CHI CỤC TRƯỞNG Người thực hiện

Huỳnh Quang Thành Ngô Chí Tân

17

You might also like