You are on page 1of 103

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

................/............... ......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THÀNH CHUNG

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG


KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ
TỤC SƠ THẨM - TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ


LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Thừa Thiên Huế - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
................/............... ......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THÀNH CHUNG

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG


KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ
TỤC SƠ THẨM - TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ


LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
MÃ SỐ: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ VỆ QUỐC

Thừa Thiên Huế - 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách
trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn tình hình công tác quản lý.
Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2020


Học viên

Nguyễn Thành Chung


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc Học
viện Hành chính Quốc gia, Khoa sau Đại học, Phân viện miền Trung, quý
thầy cô đã truyền đạt kiến thức, tạo điều về mọi mặt để tôi hoàn thành khóa
học và công trình nghiên cứu của mình.
Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn TS. Lê Vệ Quốc đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ, động viên, hướng dẫn tận tình của quý thầy cô, quý cơ
quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè đã
giúp đỡ, động viên bản thân trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên

Nguyễn Thành Chung


Mục Lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1 .......................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH ........................................................................ 8
1.1. Quan niệm về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ......... 8
1.2. Nội dung về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.............20
1.3. Một số yếu tố bảo đảm việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát
các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm................................................................26
Chƣơng 2 ........................................................................................................ 33
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ
TỤC SƠ THẨM TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG
BÌNH HIỆN NAY .......................................................................................... 33
2.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình và tình hình kiểm sát
việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình ...........................................................33
2.3. Đánh giá chung về bảo vệ quyền con người qua công tác kiểm sát các vụ án
hành chính của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình những năm qua ...........53
CHƢƠNG 3.................................................................................................... 69
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................ 69
3.1. Quan điểm tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm ở Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh .................................................................................................................................69
3.2. Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm từ thực tiễn Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Bình ..........................................................................................75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người, quyền công dân
không chỉ là quan tâm nội bộ của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề được
quốc tế hóa ngày càng sâu rộng. Một trong những chức năng quan trọng và là
tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đảng và Nhà nước ta chủ
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì vấn đề
bảo đảm quyền con người, quyền công dân phải được chú trọng hàng đầu, đặc
biệt là trong các quan hệ tố tụng nói chung và tố tụng hành chính nói riêng.
Theo Hiến pháp 2013, ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật
(Điều 14); Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện (Điều
3). Bên cạnh đó, Điều 107, Hiến pháp 2013 cũng quy định về hoạt động của
Viện kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và các Viện kiểm sát khác do luật định; Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất.
Một trong những nguyên tắc cơ bản được Hiến định của pháp luật Việt
Nam ghi nhận là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này yêu
cầu mọi chủ thể phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật,
đảm bảo tính thống nhất và thượng tôn của pháp luật. Trong tố tụng hành
chính, Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết
tranh chấp giữa “quan” và “dân”, là hình thức “dân kiện quan”, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của các bên tham gia tố tụng. Luật Tố tụng hành chính
hiện nay đã kế thừa, phát triển các quy định của pháp luật về thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính ở nước ta từ trước đến nay, thể chế hóa các chủ
trương của Đảng về cải cách tư pháp trong hoạt động giải quyết các vụ án
hành chính. Trong đó, có nhiều nội dung đổi mới quan trọng liên quan đến
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hành chính. Luật
Tố tụng hành chính ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành
chính, cụ thể: Viện kiểm sát “là cơ quan tiến hành tố tụng hành chính”, Kiểm
sát viên “là người tiến hành tố tụng hành chính”. Do vậy, sự tham gia của
Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính nhằm bảo vệ quyền con người, bảo
đảm sự nghiêm minh của pháp luật, sự công bằng, bình đẳng và tuân thủ pháp
luật của các chủ thể là cần thiết. Sự ghi nhận về mặt lý luận cho thấy vai trò
quan trọng của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính. Tuy nhiên, trước yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân, các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền con người qua hoạt động
kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát
hai cấp nói chung và cấp tỉnh nói riêng còn nhiều bất cập, thiếu tính đồng bộ,
thống nhất, quy định về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong tố tụng hành
chính còn chung chung, chưa hoàn toàn phù hợp trong hoạt động kiểm sát
việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm. Thực tiễn trong thời
gian qua cũng cho thấy việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát
giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh vẫn có những hạn chế, chưa thực sự đạt được hiệu quả tương xứng
với vị trí của mình. Cụ thể là: chưa thực hiện đúng đầy đủ quyền năng của

2
Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hành chính như chưa yêu cầu Tòa án
xác minh bổ sung chứng cứ, không tự mình yêu cầu đương sự và người có
liên quan cung cấp tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc nghiên cứu hồ sơ; chưa
bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án hành chính được tuân thủ đúng quy
định pháp luật, không phát hiện được những vi phạm của Tòa án dẫn đến bản
án bị hủy, sửa ở cấp phúc thẩm hoặc có phát hiện vi phạm nhưng né tránh,
ngại va chạm không kháng nghị phúc thẩm.... Những thiếu sót đó là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn
của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính còn chưa bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả. Việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Bình cũng gặp vấn đề như vậy. Từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn
vấn đề “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm - Từ thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật
Hiến pháp – Luật Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia, nhằm góp
phần tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng bảo vệ quyền con người qua
công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp trên
toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh đề tài luận văn, đã có nhiều công trình liên quan được công
bố ở những mức độ, nội dung nghiên cứu khác nhau. Có thể kể tới như: Lê
Tuấn Phong (2017), “Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu của cải cách tư pháp ở
Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Ban (2017), “Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”, Luận

3
văn thạc sỹ luật học, Học Viện Hành chính quốc gia; Trần Thị Thu Hà (2014)
“Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính, qua thực tiễn thành phố
Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn
Huy Hoàn (2005), “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp”, Luận án
tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Các bài viết
“Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” của tác giả Nguyễn Hòa Bình; “Vai
trò của Viện kiểm sát trong vụ án hành chính và độc lập xét xử” của tác giả
Nguyễn Hoàng Anh; “Về một số điều của Luật tổ chức Viện kiểm sát và thẩm
quyền của Viện kiểm sát trong xét xử các vụ án hành chính, kinh tế và lao
động”của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh; “Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát
trong vụ án hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Trần Đình
Khánh; “Kinh nghiệm kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, hành chính
tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Mai Văn Sinh, Tạp chí Kiểm sát, số 15 năm
2016; Bài viết "Một số khó khăn, vướng mắc khi thực hiện Bộ luật Tố tụng
hành chính và Luật tố tụng hành chính” của tác giả Trịnh Đình Tân, Tạp chí
Kiểm sát online, tháng 10/2016; “Bàn về một số quy định Luật tố tụng hành
chính năm 2015” của tác giả Lê Văn Sua, đăng trên Trang tin điện tử Bộ Tư
pháp, 10/4/2017; “Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Luật tố tụng hành chính
2015” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả mới đề cập
nhiều ở mặt lý luận và giới hạn ở một số khía cạnh của chức năng kiểm sát tố
tụng hành chính của Viện kiểm sát, hoặc chỉ mới đề cập đến việc nâng cao
chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết án hành chính. Đến nay chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về vấn đề
bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành
chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Đây là lý do
tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải

4
quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm - Từ thực tiễn tại Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của Luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ
quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo
thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình.
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người qua hoạt động
kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiếm
sát nhân dân cấp tỉnh;
- Phân tích, đánh giá thực trạng và chất lượng công tác kiểm sát giải
quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật
và tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát cấp tỉnh hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quy định pháp luật về bảo
vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo
thủ tục sơ thẩm theo Hiến pháp 2013 và các quy định pháp luật liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là quyền và nhiệm vụ của Viện kiểm
sát cấp tỉnh nhằm bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính ở giai
đoạn sơ thẩm:
Về không gian: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình;

5
Về thời gian: 01/7/2016-31/5/2020;
Về nội dung: Các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con
người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ
thẩm; Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người
qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, về quyền con người và bảo vệ
quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính
theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn
đề liên quan đến vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát cấp tỉnh
trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm theo quy
định của pháp luật và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được
nghiên cứu trong luận văn;
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp
luật tố tụng hành chính hiện hành với pháp luật tố tụng hành chính trước đây.
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực
tiễn hoạt áp dụng pháp luật, với các số liệu cụ thể về công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tìm ra
mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp
hay chưa? Các lý do? Từ đó mà xem xét nội dung quy định của pháp luật về
việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát cấp tỉnh trong công tác kiểm

6
sát việc giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm, với thực tiễn của đời sống
xã hội nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung, làm rõ những vấn
đề Lý luận và quy định về nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành
chính ở giai đoạn sơ thẩm.
- Về thực tiễn: Những kết quả của luận văn sẽ góp phần nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát án hành chính sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh nói chung, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình nói riêng nhằm
bảo vệ quyền con người. Đồng thời, là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công
tác nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Bên cạnh đó, đề xuất với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn
thiện Luật Tố tụng hành chính, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hành
chính được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo vệ quyền con
người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ
thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Bình hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người
qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình hiện nay.

7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Quan niệm về bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm về quyền con người, quyền con người trong tố tụng
hành chính, bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người không chỉ là quan
tâm nội bộ của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề được quốc tế hóa ngày
càng sâu rộng. Quyền con người là quyền thiêng liêng, không thể bị tước
đoạt. Vấn đề bảo vệ quyền con người được mỗi quốc gia nói riêng và các
nước trong khu vực, trên thế giới nói chung ngày càng được quan tâm, củng
cố bằng việc ký kết các công ước quốc tế, các hiệp định đa phương, song
phương và cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật quốc gia trên nhiều lĩnh
vực, trong đó có tố tụng hành chính. Một trong những chức năng quan trọng
và là tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người. Đảng và Nhà nước ta chủ trương
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì vấn đề bảo đảm
quyền con người phải được chú trọng hàng đầu, đặc biệt là trong các quan hệ
tố tụng nói chung và tố tụng hành chính nói riêng.Bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hành chính là bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp,
là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm tôn trọng và thực hiện

8
các quyền công dân của các cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính bằng con đường tố tụng.
Trên thế giới, có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, tuy
nhiên, quyền con người được định nghĩa một cách khái quát “là những quyền
bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ
không thể sống như một con người”.
Ở Việt Nam, đã có những khái nhiện khác nhau về quyền con người. Có
một số nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về quyền con người, tuy nhiên,
tùy cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề khác nhau sẽ đưa ra khái niệm khác nhau
về quyền con người. Trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ: Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó chính là
những biểu hiện của quyền con người một cách rõ rệt nhất.
Khi xem xét về khái niệm quyền con người, chúng ta thấy rằng quyền
con người và quyền công dân là hai khái niệm gần gũi nhưng không đồng
nhất. Xét về nguồn gốc lịch sử, tư tưởng về quyền con người được hình thành
cùng với sự xuất hiện của những nền văn minh cổ đại, còn khái niệm quyền
công dân chỉ xuất hiện cùng với cách mạng tư sản, vì cách mạng tư sản đã
đưa con người từ địa vị thần dân trở thành công dân với tư cách là một thành
viên bình đẳng trong một nhà nước và pháp điển hoá các quyền tự nhiên của
con người dưới hình thức các quyền công dân. Như vậy, khái niệm quyền con
người xuất hiện trước khái niệm quyền công dân và về bản chất, quyền con
người bao hàm và chứa đựng các quyền công dân được các nhà nước thừa
nhận và áp dụng cho công dân của mình.
Ở Việt Nam, quyền con người muốn được hiện thực hóa phải quy định
cụ thể bằng pháp luật. Quyền con người được quy định trong Hiến pháp và
được thể chế hoá bằng các luật, đạo luật nhằm ghi nhận và bảo vệ quyền con

9
người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó quan hệ tố tụng hành
chính là lĩnh vực thể hiện quyền con người cụ thể nhất và có giá trị ảnh hưởng
sâu sắc nhất đối với mỗi con người. Tại Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định:
“các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”. Quyền con người cũng được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật
khác như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính
Chính vì vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, chế độ xã hội nào, quyền
con người cũng luôn được Nhà nước quan tâm tác động bằng chính sách, điều
chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật.
Trong quá trình vận động và phát triển của đất nước tất yếu sẽ phát sinh
mâu thuẫn trong quản lý hành chính nhà nước. Thông qua hoạt động ban hành
các quyết định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính, các chủ thể
quản lý hành chính nhà nước vì các lý do khác nhau, có thể gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức (đối tượng quản lý) dẫn
đến việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu kiện yêu cầu chấm dứt, bồi thường
thiệt hại, tạo nên sự tranh chấp hành chính giữa nhà nước với cá nhân hoặc cơ
quan, tổ chức. Và dù muốn hay không Nhà nước phải thiết lập các cơ quan và
ban hành các quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý để xem xét và giải quyết
những tranh chấp này. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành
chính tại toà án khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính, hành vi
hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
mình sau khi đã thực hiện việc khiếu nại theo thủ tục hành chính mà không
đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc đã hết thời hạn do
pháp luật quy định mà khiếu nại vẫn không được giải quyết. Sau khi nhận
được đơn khởi kiện, nếu xét thấy thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì
toà án thụ lý và tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy

10
định. Như vậy, có thể khái quát rằng, Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là Tòa án và Viện kiểm sát, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền và nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như
trình tự do pháp luật quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án
hành chính và thi hành bản án, quyết định của Tòa án, được giải quyết bởi
Tòa án nhân dân theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành luật Tố
tụng hành chính.
Quyền con người trong tố tụng hành chính phải gắn với toàn bộ quá trình
tố tụng hành chính: Từ giai đoạn khởi kiện, nộp án phí, thụ lý đến giai đoạn
xét xử, ra quyết định xét xử, ra bản án và thi hành án hành chính. Đây là cách
tiếp cận từ quyền dân sự, kinh tế trong Công ước quốc tế về quyền con người.
Quyền con người trong tố tụng hành chính thể hiện xuyên suốt và trải dài
trong suốt quá trình diễn ra quan hệ tố tụng hành chính từ quyền được khiếu
kiện theo quy định của pháp luật, quyền được xem xét giải quyết vụ án hành
chính, quyền được đón nhận kết quả giải quyết công bằng, khách quan
Quyền con người trong quá trình tố tụng hành chính cũng được đảm bảo
bằng việc cụ thể hóa các quyền trong Luật Tố tụng hành chính 2015, như:
+ Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 5 Luật
Tố tụng hành chính 2015).
+ Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết
khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri gây ra (Điều 7
Luật Tố tụng hành chính 2015).
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án
hành chính. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi

11
kiện của người khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người
khởi kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, thực hiện các
quyền tố tụng khác của mình (Điều 8 Luật Tố tụng hành chính 2015).
+ Đương sự khởi kiện có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp
tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp. Hoặc yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ và tiến hành thu
thập, xác minh chứng cứ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,
chứng cứ cho Tòa án hoặc đương sự (Điều 9 Luật Tố tụng hành chính 2015).
+ Trong tố tụng hành chính, mọi người đều có quyền bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần
xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội (Điều 17 Luật Tố tụng
hành chính 2015).
+ Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
Tòa án đảm bảo thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định (Điều 18 Luật Tố tụng hành chính
2015).

+ Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hoặc người khác có đủ


điều kiện theo quy định của Luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình (Khoản 1 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính 2015).
+ Người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý
được Nhà nước bảo đảm trợ giúp pháp lý để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. (Khoản 3 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính
2015).
+ Không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong tố tụng hành chính. (Khoản 4 Điều 19 Luật Tố tụng hành
chính 2015).
+ Được Tòa án tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với

12
nhau về việc giải quyết vụ án. (Điều 20 Luật Tố tụng hành chính 2015).
+ Trong quá trình tố tụng, Luật Tố tụng hành chính 2015 còn cho phép
người tham gia tố tụng hành chính có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của
dân tộc mình; trường hợp này phải có người phiên dịch (Khoản 1 Điều 21
Luật Tố tụng hành chính 2015).
+ Trường hợp, người tham gia tố tụng hành chính là người khuyết tật
nghe, người khuyết tật nói hoặc người khuyết tật nhìn có quyền dùng ngôn
ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp này phải có
người biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng của người
khuyết tật để dịch lại (Khoản 2 Điều 21 Luật Tố tụng hành chính 2015).
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân được thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của
mình đối với các hành vi, quyết định trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
trong hoạt động tố tụng hành chính (Điều 28 Luật Tố tụng hành chính 2015).
Về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án
hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Hiện nay, chưa có một quy định cụ thể nào về khái niệm vụ án hành
chính. Tuy nhiên, theo tác giả, vụ án hành chính có thể hiểu là vụ án tranh
chấp giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết khi
cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định buộc thôi
việc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bên cạnh đó, có thể hiểu giai đoạn sơ thẩm là giải quyết vụ án hành
chính ở Tòa án cấp thấp nhất theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 4, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2014 quy định về chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát là: “hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay
từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

13
và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án
hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm là
tổng hợp các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát, có nội dung là kiểm tra,
giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt
động tố tụng hành chính theo các thủ tục sơ thẩm nhằm bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án của Tòa án đúng quy định pháp luật, bảo vệ quyền con người, lợi
ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về bảo vệ quyền con
người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các án hành chính theo thủ tục sơ
thẩm như sau:
Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án
hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là một
phương thức bảo vệ các quyền của con người, được thực hiện trực tiếp bởi
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh theo trình tự chặt chẽ do luật định, sử dụng
các quyền năng pháp lý nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính
theo thủ tục sơ thẩm được diễn ra đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp
luật, phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm, bảo vệ quyền con người, các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.1.2. Vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh qua hoạt động kiểm sát việc quyết các vụ án hành chính theo thủ tục
sơ thẩm
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là quyền lực nhà nước là thống

14
nhất và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân thuộc hệ
thống cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu ra, là một thiết chế đặc thù trong tổ
chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là
một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, thống nhất từ Trung ương đến địa
phương. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Với vị trí, vai trò
hết sức quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước thì Viện kiểm sát là một
trong những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ
phận quan trọng và không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước.
Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định rõ chức
năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng với sự thay đổi của tình
hình kinh tế - xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó thì khẳng định rõ Viện kiểm sát
nhân dân có chức năng quan trọng là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp, cụ thể: nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân được
quy định tại Điều 2, 3, 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 2014 thì Viện kiểm sát nhân dân thực hiện cả chức năng thực hành quyền
công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Khoản 1, Điều 4, Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định về chức năng kiểm sát của
Viện kiểm sát là: “hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật.”

15
Theo Điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định về vị trí, vai trò
của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hành chính như sau:
– Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành
chính, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng
pháp luật.
– Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc
việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa
án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của
pháp luật.
- Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm
sát kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ
đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người đó.
Bên cạnh đó, Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định về thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính của Tòa an nhân dân cấp tỉnh: Tòa án cấp
tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng
Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm
quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc
trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người

16
khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt
Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm
quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết
định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan
đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm
vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải
quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành
chính, có hành vi hành chính.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân
dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tòa án.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại
diện của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên
cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện
không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm
việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.

17
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên
cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
- Trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án
hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định
tại Điều 31 của Luật này.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hành chính do Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
Phạm vi công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục
sơ thẩm của Viện kiểm sát cấp tỉnh là bắt đầu từ khi Tòa án thông báo trả lại
đơn khởi kiện vụ án hành chính hoặc từ khi Tòa án thông báo thụ lý vụ án
hành chính đến khi bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Tòa án
có hiệu lực pháp luật mà không có kháng nghị, không có yêu cầu, kiến nghị,
đề nghị xem xét lại theo quy định. Đối tượng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh trong tố tụng hành chính sơ thẩm là việc tuân theo pháp luật của
Tòa án, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục
sơ thẩm. Mục tiêu của hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính
theo thủ tục sơ thẩm là bảo đảm vụ án hành chính được giải quyết kịp thời,
đúng pháp luật, qua đó, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi chính
đáng của đương sự.
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong tố tụng hành chính
theo thủ tục sơ thẩm đối với những vụ án theo thẩm quyền nhằm bảo vệ
quyền con người được thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hiện diện hầu khắp trong các
giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm. Về
nguyên tắc, theo Luật Tố tụng hành chính, Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành

18
chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên
tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác
thi hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh xuất hiện trong các giai đoạn
giải đoạn giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm và có những quyền năng
quan trọng có thể gây áp lực hoặc thậm chí can thiệp trực tiếp vào hoạt động
này. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát có quyền đề nghị chuyển
giao để kiểm tra hồ sơ tố tụng. Tiếp đó, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa
án tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ, nếu Viện cho rằng cần thiết,
như: xác minh, thu thập chứng cứ, giám định v.v.. Trong trường hợp đặc biệt,
Viện kiểm sát còn có thể tự mình tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Tại
phiên tòa, sự tham gia của Viện kiểm sát là trực tiếp: không chỉ kiểm sát diễn
biến phiên tòa mà còn có thể đề nghị triệu tập bổ sung nhân chứng, người
giám định hay phiên dịch. Đặc biệt, trong giai đoạn thẩm vấn, đại diện Viện
kiểm sát có quyền đặt câu hỏi, tham gia xét hỏi trực tiếp. Cũng ở giai đoạn
này, Viện kiểm sát có quyền: đọc bài phát biểu của mình, trong đó nêu rõ sự
tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, nêu
rõ nhận định, đường hướng xét xử của vụ án. Kiểm sát xét xử bảo đảm cho
việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của Tòa án, tuy nhiên, liệu có thể dẫn
đến khả năng can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua con
đường kiểm sát xét xử? Câu trả lời không thể luôn luôn là phủ định, vì lý do
khá đơn giản, nếu không theo sát đường hướng xét xử nêu ra trong bài phát
biểu của đại diện Viện kiểm sát, bản án, quyết định của Tòa án sẽ bị kháng
nghị. Nói cách khác, Viện kiểm sát thông qua quyền kháng nghị, có thể gây
áp lực trực tiếp đối với việc xét xử của Tòa án. Hơn nữa, những vấn đề mà
Viện kiểm sát đề xuất, theo một cách nghĩ khách quan nào đó, nó thông
thường là một quan điểm mang tính tham khảo có chất lượng, tuy không phải

19
có ý nghĩa bắt buộc phải thực hiện đối với các chủ thể liên quan. Nói tóm lại,
về nguyên tắc, chức năng kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát đều nhằm mục
đích bảo đảm pháp chế và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, đặc biệt là quyền lợi của người dân, những đối tượng chịu thiệt
thòi trong xã hội.
Thứ ba, kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đối
với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án là một trong những biện pháp thể
hiện rõ nét nhất chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc
giải quyết vụ án hành chính của Tòa án. Kháng nghị phúc thẩm của Viện
kiểm sát nhân dân góp phần phát hiện và khắc phục vi phạm trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, của Nhà nước và bên thứ ba.
Kháng nghị của Viện kiểm sát là văn bản pháp lý thể hiện quan điểm
của Viện kiểm sát đối với bản án, quyết định của Tòa án là có vi phạm pháp
luật, để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền đưa vụ án hành chính ra xem xét lại
theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm khắc phục những vi
phạm pháp luật của bản án, quyết định đó.
1.2. Nội dung về bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh
1.2.1. Thực hiện nguyên tắc “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hành chính”
Khoản 1 Điều 36 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định Viện kiểm sát
nhân là cơ quan tiến hành tố tụng hành chính cùng với Tòa án nhân dân.
Trong tố tụng hành chính, Viện kiểm sát nhân nhân danh quyền lực Nhà nước
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể là kiểm sát tính hợp
pháp về các quyết định và hành vi của người tiến hành tố tụng và hành vi của
người tham gia tố tụng, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành

20
chính phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh giúp cho việc giải
quyết vụ án hành chính được đúng đắn và khách quan.
Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 36 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là những người tiến
hành tố tụng hành chính cùng với Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; tiếp tục kế thừa các quy định trước
đây của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 khi quy định “Viện kiểm sát kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc
giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật”. Viện kiểm sát nói
chung và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nói riêng kiểm sát các vụ án hành
chính theo thủ tục sơ thẩm từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án;
tham gia các phiên toà, phiên họp của Toà án; kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Toà án; thực hiện các
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Thông qua
việc thực hiện chức năng này, Viện kiểm sát giúp Tòa án kịp thời sửa chữa
những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động xét xử nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
1.2.2. Tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án hành chính và phát
biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa sơ thẩm
Điều 156 Luật Tố Tụng hành chính 2015 quy định về sự có mặt của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm như sau:
Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có
nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
xét xử.
Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp
tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người
này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ
đầu.

21
Với quy định trên có thể thấy Luật Tố tụng hành chính 2015 có hai điểm
kế thừa Luật Tố tụng hành chính 2010: Một là, Kiểm sát viên được Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công phải có mặt tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính; hai là, trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên
tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên
dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có
mặt tại phiên tòa từ đầu. Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính 2015 có một
điểm sửa đổi so với quy định của Luật Tố tụng hành chính 2010 là trong
trường hợp Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân
công vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử thay vì
phải hoãn phiên tòa như quy định trước đây. Sở dĩ Luật Tố tụng hành chính
2015 có sự sửa đổi này xuất phát từ lý do nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án
hành chính được xét xử kịp thời nhằm bảo đảm đúng thời hạn tố tụng đã được
quy định.
Điều 190 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: “Sau khi những người
tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về
việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký
phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ
khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án.
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát
biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án”.
Như vậy, theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, việc
phát biểu của Kiểm sát viên đã được sửa đổi so với Luật Tố tụng hành chính
năm 2010 theo hướng cho phép Kiểm sát viên được quyền phát biểu ý kiến về
việc giải quyết vụ án. Việc sửa đổi này là hợp lý, bởi lẽ, Kiểm sát viên là
người kiểm sát việc giải quyết vụ án ngay từ khi vụ án hành chính được khởi
kiện, Kiểm sát viên cũng được quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nên hơn ai hết

22
Kiểm sát viên là người nắm rõ bản chất vụ việc. Do đó, Kiểm sát viên phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án được xem như là kênh quan trọng để
Hội đồng xét xử tham khảo đánh giá về tính hợp pháp của đối tượng khiếu
kiện.
Thực tiễn thi hành Luật tố tụng hành chính trong thời gian qua cho thấy
quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát cấp tỉnh trong tố tụng hành chính ở
giai đoạn sơ thẩm đã tạo điều kiện cho Viện kiểm sát cấp tỉnh thực hiện được
đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân để bảo vệ quyền con người. Trong điều kiện thực
tiễn của Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp
nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trước Tòa án, khi có tranh chấp nhiều người dân chưa có điều
kiện mời Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình và đội ngũ Luật sư hiện nay cũng
chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất cả các phiên tòa.Viện kiểm sát tham
gia phiên tòa và phát biểu về việc giải quyết vụ án là đại diện cho quyền lợi
của xã hội, không phải là đại diện của các bên đương sự, chỉ đưa ra quan điểm
về áp dụng pháp luật và không nghiêng về bên nào. Quy định này cũng nâng
cao vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên.
1.2.3. Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hành chính góp phần giúp cho hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án,
đương sự được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đối
với việc xác minh và thu thập chứng cứ, khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành
chính 2015 kế thừa quy định trước đây của Luật Tố tụng hành chính năm2010
khi quy định “Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản
án hoặc quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo

23
đảm cho việc kháng nghị”; Bên cạnh đó, đối việc bảo vệ chứng cứ, khoản 2
Điều 97 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định “Trường hợp người làm
chứng bị đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ
hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Tòa án có quyền quyết định buộc
người có hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi
đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đó
có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về trách
nhiệm hình sự”, trong khi đó theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Tố tụng
hành chính 2010 trước đây quy định “ Trường hợp hành vi đe doạ, khống
chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án chuyển cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền xem xét về trách nhiệm hình sự”. Có thể thấy, Luật Tố
tụng hành chính 2015 đã có sự quy định cụ thể, rõ ràng và chi tiết hơn giúp
cho Tòa án thuận lợi trong công tác xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm
pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính được kịp thời, đúng
pháp luật.
1.2.4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Pháp luật tố tụng nói chung, bao gồm các quy phạm, chế định pháp luật
về trình tự giải quyết vụ án tại Toà án. Nhằm đảm bảo cho vụ án được xét xử
một cách dân chủ và đúng pháp luật, pháp luật tố tụng quy định nguyên tắc
Toà án xét xử 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Ngoài ra, để khắc phục những sai
lầm của những bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc
trong trường hợp phát hiện tình tiết mới, pháp luật tố tụng còn quy định thủ
tục xét xử đặc biệt được gọi là cấp giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo quy định
tại Điều 42 Luật Tố tụng hành chính 2015, Viện trưởng Viện kiểm sát có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định của Tòa án.
Cơ sở quan trọng duy nhất để Toà án xét xử vụ án theo thủ tục phúc
thẩm cũng như thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chính là việc bản án có kháng

24
cáo (quyền chống án của đương sự) và kháng nghị. “ Kháng nghị là việc
người có thẩm quyền, bằng văn bản của mình gửi đến Toà án có thẩm quyền
làm ngừng hiệu lực phán quyết của Toà án trong bản án hoặc quyết định để
xét xử theo phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án
được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật”. Tính chất chung của
kháng nghị là sự thể hiện phản ứng và yêu cầu, đề nghị từ phía công quyền
bằng văn bản đối với bản án có sai lầm (khác với kháng cáo là sự phản ứng,
chống lại bản án sơ thẩm của đương sự) nhằm thực hiện chức năng kiểm
tra, giám sát của Viện kiểm sát các cấp, Toà án cấp trên đối với Toà án cấp
dưới và là cơ sở cho việc xét xử lại với mục đích làm cho vụ án được xét xử
chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Có thể thấy quyền kháng nghị phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc đảm bảo sự tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử và tòa án khi
giải quyết vụ án hành chính. Quyền năng này đã tạo ra một cơ sở hết sức quan
trọng cho Viện kiểm sát phát hiện và khắc phục vi phạm của Tòa án trong quá
trình kiểm sát của mình, đảm bảo tốt nhất quyền con người cho những người
tham gia tố tụng hành chính theo thủ tục sơ thẩm.
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh bảo vệ quyền con người bằng hoạt động
của mình nhằm ngăn chặn vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, khôi
phục quyền, lợi ích bị vi phạm, áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và
điều kiện vi phạm. Với vị trí, chức năng và nhiệm vụ của mình trong tố tụng
hành chính theo thủ tục sơ thẩm, Viện kiểm sát cấp tỉnh có vai trò to lớn trong
việc bảo vệ quyền con người. Hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành
chính nhằm bảo đảm việc việc giải quyết đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp
thời bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ, bảo đảm quyền con người của
những chủ thể tham gia tố tụng. Luật Tố tụng hành chính đã có những quy
định chung về thời hạn kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cho

25
các vụ án hành chính làm nền tảng quan trọng cho hoạt động áp dụng trong
thực tế.
1.3. Một số yếu tố bảo đảm việc bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt
động kiểm sát các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
1.3.1. Sự hoàn thiện của pháp luật về chức năng kiểm sát trong tố
tụng hành chính
Các chính sách của nhà nước đưa ra có ảnh hưởng trực tiếp đến nâng cao
chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân đã
được quy định rõ trong các văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật về phát
triển chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân
cần đảm bảo quy định rõ ràng, chi tiết và có hướng dẫn cụ thể về phương
thức, trình tự, thủ tục, đảm bảo thực hiện bằng các công cụ như thế nào
Ngoài ra, hệ thống văn bản cần mang tính chất dự báo, các quy định mang
tính chất điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh rộng...;
Ở nước ta hiện nay, tại Hiến pháp 2013 – luật cơ bản của nhà nước có
giá trị pháp lý cao nhất là cơ sở pháp lý cơ bản cho văn bản luật và dưới luật
triển khai chi tiết quy định về vấn đề này. Cùng với Hiến pháp, các văn bản
luật cũng quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn về nội
dung nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính ở nước ta, đáp
ứng với yêu cầu chính trị, quá trình xây dựng kinh tế - xã hội ở nước ta trong
tình hình mới.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và các văn bản hướng dẫn thi
hành được quy định làm nền tảng cơ bản và tạo ra cơ chế xử lý tương đối
hoàn thiện đối với chức năng, nhiệm vụ của phát triển chức năng kiểm sát
trong tố tụng hành chính. Thông qua các quy định trên đã thể hiện rõ nét sự
tiến bộ của Nhà nước ta trong việc quan tâm đến vấn đề nâng cao chức năng
kiểm sát trong tố tụng hành chính của ngành Kiểm sát nhân dân ở nước ta
hiện nay. Văn bản pháp lý này đã quy định nhiều nội dung phù hợp tạo điều

26
kiện tối đa để cho việc nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính
của ngành Kiểm sát nhân dânở nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Như vậy, có thể thấy pháp luật quy định khá thống nhất và xuyên suốt về
vấn đề nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính của ngành Kiểm
sát nhân dân. Điều này tạo điều kiện để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của
các chủ thể ở nước ta hiện nay; thể hiện rõ nét sự quan tâm thường xuyên của
Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề này. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay
khi yêu cầu đổi mới và phát triển hệ thống tư pháp đáp ứng với yêu cầu của
công cuộc cải cách đất nước hiện nay. Đồng thời, cùng với hoạt động ban
hành các văn bản hướng dẫn nêu trên đã giúp cho quá trình áp dụng những
quy định của pháp luật về nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành
chính ở nước ta được thực hiện một cách hoàn thiện hơn. Từ đó, hình thành
nền tảng pháp lý cơ bản trong việc thực thi nâng cao chức năng kiểm sát trong
tố tụng hành chính trong ngành Kiểm sát nhân dân, đảm bảo hành lang pháp
lý và các điều kiện đảm bảo cho tiến trình phát triển đất nước ta hiện nay và
trong tương lai.
1.3.2. Năng lực, sự tích cực thực thi công vụ và ý thức bảo vệ quyền
con người của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm
sát trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục
sơ thẩm
Trong nền tư pháp hiện nay thì năng lực và sự tích cực thực thi công vụ
của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt
động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính đóng vai trò quan trọng. Thông
qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp đảm bảo
cho điều kiện làm việc, trình độ năng lực của các cán bộ, công chức, cơ sở vật
chất là những yếu tố căn bản cho việc năng lực và sự tích cực thực thi công vụ
của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt

27
động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính. Quá trình làm việc tốt là một
trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của cán bộ, công
chức cũng như quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động tại Viện kiểm
sát nhân dân các cấp, đơn vị trong lĩnh vực này nói riêng và thi hành pháp luật
nói chung. Thực tế cho thấy không ít cơ quan, đơn vị làm việc, năng lực trình
độ của các cán bộ, công chức chưa tốt dẫn đến những hậu quả có thể nhìn
thấy được như: Chất lượng, hiệu quả làm việc kém; mất đoàn kết; thậm chí
cán bộ, công chức có trình độ, năng lực xin thôi việc hoặc chuyển công tác
Để hoạt động tố tụng hành chính được thực hiện tốt, mỗi cơ quan cơ quan,
đơn vị, nhất là đối với người phụ trách phải xác định đây là nhiệm vụ cần
được ưu tiên hàng đầu song song với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên
từng lĩnh vực nói chung và trong vấn đề đào tạo và phát triển năng lực cho đội
ngũ Kiểm sát viên nói riêng. Việc bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất như
phòng làm việc, bàn, ghế, điện thoại, máy vi tính và các máy móc kỹ thuật
hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Tùy theo điều kiện thực tế
của cơ quan, đơn vị để trang bị cho cán bộ, công chức nhưng phải đảm bảo
các yếu tố của một cơ quan, công sở. Ngoài ra, cần thực hiện đào tạo, bồi
dưỡng theo đúng yêu cầu tiêu chuẩn của mỗi chức danh, ngạch, bậc cán bộ,
công chức và yêu cầu nhằm phục vụ cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của các
cơ quan nhà nước cũng như năng lực và sự tích cực thực thi công vụ của
người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt động
kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính. Quá trình xây dựng làm việc cũng
như nâng cao chất lượng trình độ cho các cán bộ, công chức làm công tác
trong lĩnh vực này là một trong những nội dung, nhiệm vụ hàng đầu mà cơ
quan hay đơn vị phải quan tâm thực hiện, đáp ứng với yêu cầu công việc,
nhiệm vụ đã được đề ra.
Hiện nay, điều kiện để năng lực và sự tích cực thực thi công vụ của
người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt động

28
kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính cần thiết một nguồn đào tạo có chất
lượng và có khả năng kéo dài để từ đó xây dựng và hoàn thiện đội ngũ này
trong thực tế. Qua đó, phát huy hết được sức mạnh của ngành kiểm sát nhân
dân, và đảm bảo quyền con người được bảo vệ trong tố tụng hành chính.
Bên cạnh vai trò của Viện kiểm sát, vai trò bảo vệ quyền con người của
Tòa án cũng có ý nghĩa then chốt. Theo Hiến pháp 2013, chức năng của Tòa
án đã được quy định: Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nhiệm vụ
của Tòa án được quy định tại khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân” đã được đưa lên thành nhiệm vụ hàng đầu
của Tòa án. Theo đó, quyền tự do của nhân dân, hạnh phúc của con người là
mục đích của quyền lực nhà nước, bao gồm cả quyền tư pháp.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, khoản 2 Điều 103 của Hiến pháp 2013
quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm”, đây là nguyên tắc phổ quát trên thế giới, phù hợp với các
công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việc “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” có nghĩa là
những quyết định, bản án được ban hành mà có sự can thiệp là vi hiến và vô
hiệu, như vậy quyền hạn và tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm được tăng
lên. Muốn chống lại sự can thiệp, Thẩm phán vừa phải có dũng khí và tinh
thần yêu công lý, còn phải có trình độ và bản lĩnh. Để đảm bảo được nguyên
tắc “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
1.3.3. Năng lực sử dụng pháp luật của đương sự
Năng lực sử dụng pháp luật của đương sự gắn liền với quyền tố tụng của
đương sự, sẽ quyết định hiệu lực, hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người

29
trong mối quan hệ với quyền kiểm sát của Viện kiểm sát trong giải quyết các
vụ việc hành chính.
Theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính 2015 thì:
Điều 5. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của
Luật này.
Điều 8. Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án
hành chính. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi
kiện của người khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người
khởi kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, thực hiện các
quyền tố tụng khác của mình theo quy định của Luật này.
Điều 9. Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành
chính
1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài
liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp.
Cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng
minh như đương sự.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đương sự có thể sử dụng để đòi hỏi
công lý, là cơ sở để người tiến hành tố tụng ý thức được bổn phận phải tôn
trọng và bảo đảm các quyền căn bản này. Ngoài ra, các ghi nhận của pháp luật
tố tụng hành chính về các quyền cơ bản này còn thể hiện được bản chất của
một Nhà nước của dân, do dân và vì dân trong lĩnh vực tố tụng hành chính.
Tùy theo từng giai đoạn tố tụng, pháp luật trang bị cho các đương sự
những quyền tố tụng khác nhau để đương sự tự do lựa chọn và quyết định có

30
sử dụng hay không để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các quyền
năng này được trao cho đương sự có ý nghĩa trong việc chống lại sự lạm
quyền, thiên vị hay sai sót của hệ thống Tòa án hoặc tạo điều kiện cho các bên
đương sự có cơ hội như nhau trong việc chứng minh bảo vệ quyền lợi của
mình, có phương tiện để chống lại sự thiếu trung thực, gian lận hay thiếu
thiện chí của bên đối phương.
Các quyền tố tụng được pháp luật ghi nhận cho đương sự còn có ý
nghĩa bảo đảm cho việc giải quyết án hành chính được thống nhất, khách
quan, nhanh chóng và đúng đắn. Các quyền tố tụng này không chỉ có giá trị
đối với đương sự mà nó còn là cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết vụ việc
hành chính của những người tiến hành tố tụng, giúp cho Tòa án có thể bảo vệ
hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Quy định về các quyền tố tụng còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật
của người dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ tố tụng hành
chính nói riêng. Qua đó, người dân có thể nhận thức được các quyền tố tụng
của mình và tôn trọng quyền tố tụng của các chủ thể khác đồng thời có ý thức
hơn về việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thông qua các
hoạt động tố tụng hành chính tại Tòa án. Người dân nhận thức được quyền
yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm là quyền quan
trọng để chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ, họ có
quyền khởi kiện để Tòa án có thẩm quyền giải quyết bảo vệ quyền lợi chính
đáng của họ. Khi có yêu cầu, Tòa án xem xét và đưa ra xét xử bằng một bản
án, quyết định chính xác, khách quan thì người dân sẽ tin tưởng vào pháp luật
và họ coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để họ đấu tranh phòng chống vi phạm
pháp luật. Cũng từ đó mà pháp luật được tôn trọng, pháp chế xã hội chủ nghĩa
ngày càng được củng cố và tăng cường.

31
Tiểu kết chƣơng 1
Quy định về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết
các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân là một
chế định pháp lý quan trọng, là cơ sở cần thiết trong việc thiết lập và hoàn
chỉnh một hệ thống pháp luật quy định về ở nước ta hiện nay. Việc xác định
vai trò, ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm
sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực này sẽ hỗ trợ một phần lớn trong việc thiết
lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp
luật về tố tụng hành chính tại Việt Nam. Qua đó, góp phần quan trọng trong
hoạt động thi hành các bản án trên thực tế. Cùng với thời gian thì những quy
định về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án
hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đã được thay đổi
nhằm phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảm bảo hoạt động thực
hiện pháp luật là quá trình đưa pháp luật vào đời sống, áp dụng những quy
định trong văn bản vào hiện thực, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật. Chương I của Luận văn đã phân tích một cách khái quát cơ sở lý
luận của việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở
nước ta hiện nay. Trên cơ sở lý luận bảo vệ quyền con người qua hoạt động
kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh ở Chương I, tác giả vận dụng thực tiễn nhằm đánh giá
thực trạng các yếu tố ảnh hưởng và kết quả đạt được trong việc áp dụng và
những hạn chế, khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành, từ đó tìm ra
nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như nguyên nhân của những
hạn chế được trình bày trong Chương 2 của luận văn.

32
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ
TỤC SƠ THẨM TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG
BÌNH HIỆN NAY
2.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình và tình
hình kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết án hành chính
theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
2.1.1. Khái quát về cơ cấu, tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành,
nguyên tắc độc lập không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào ở địa
phương. Viện kiểm sát nhân dân có 04 cấp, gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra còn có
Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong hệ thống
Viện kiểm sát nhân dân, đây là cấp giải quyết phần lớn các vụ án mà Viện
kiểm sát thụ lý. Những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
từng bước củng cố, tăng cường và ngày càng hoàn thiện về cơ cấu tổ chức. Về
cơ bản, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đáp ứng được yêu cầu của
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Việc phân công chỉ đạo, điều hành công việc của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình dựa trên nguyên tắc tập trung thống nhất dưới sự lãnh đạo và
điều hành của Viện trưởng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
gồm: 08 Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố, thị xã và 09 phòng trực
thuộc, cụ thể:

33
- Phòng 1: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử sơ thẩm án hình sự về an ninh, ma túy;
- Phòng 2: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,kiểm sát sơ
thẩm án hình sự về trật tự xã hội;
- Phòng 3: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ,kiểm sát
xét xử sơ thẩm án hình sự ,về kinh tế, chức vụ tham nhũng;
- Phòng 7: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm
án hình sự;
- Phòng 8: Phòng kiểm sát, tạm giữ, tạm giam thi hành án hình sự; Thi
hành án dân sự; Khiếu nại – Tố cáo.
- Phòng 9: Phòng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, vụ án
hành chính và những việc khác theo quy định của phápluật;
- Phòng 15: Phòng tổ chức cán bộ;
- Thanh tra;
- Văn phòng tổng hợp.
Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình có 68 biên chế, 12
hợp đồng lao đồng, trong đó có 04 Lãnh đạo.
Trong nội dung Luận văn này, tác giả sẽ phân tích cụ thể hơn về cơ cấu,
tổ chức của Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình: Phòng 9 là đơn
vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình có chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, lao động, kinh doanh thương mại và
những việc khác theo quy định của pháp luật, theo thẩm quyền được quy định
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố
tụng hành chính. Phòng có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Tham mưu cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thực hiện
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ, việc
dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, lao động, kinh doanh thương

34
mại và những việc khác theo quy định của pháp luật của Toà án cùng cấp và
cấp dưới theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính;
tham mưu cho Viện trưởng ban hành kháng nghị đối với các bản án, quyết
định của Toà án cùng cấp và cấp dưới có vi phạm pháp luật.
- Tham mưu cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh theo dõi,
quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra đối với Viện kiểm sát nhân dân
huyện, thị xã, thành phố về nghiệp vụ công tác kiểm sát giải quyết các vụ,
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, lao động, kinh doanh
thương mại và những việc khác theo quy định của pháp luật.
- Tổng hợp những vi phạm trong công tác của Tòa án cùng cấp và cấp
dưới, để tham mưu cho Viện trưởng kiến nghị với Chánh án Tòa án cùng cấp
và cấp dưới yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật. Quản lý, báo cáo tình hình
chấp hành pháp luật trong nhiệm vụ được giao.
- Giải quyết đơn khiếu nại thuộc lĩnh vực công tác và các việc khác
theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.
Cơ cấu tổ chức: Biên chế của phòng hiện có 08 công chức, trong đó có
01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng, 03 Kiểm sát viên trung cấp, 02
Kiểm sát viên sơ cấp.
2.1.2. Tình hình kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết
các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
Khởi kiện vụ án hành chính là hiện tượng tất yếu nảy sinh trong quá
trình quản lý nhà nước về đời sống, kinh tế, xã hội Quá trình quản lý nhà
nước sẽ nảy sinh nhiều vấn đề, có thể xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua việc khởi kiện hành chính, các quyết định,
hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý nhà nước sẽ được phát
hiện và xử lý kịp thời.
Trong thời gian qua, tình hình khởi kiện các quyết định hành chính,
hành vi hành chí trên địa bàn tỉnh Quảng Bình diễn ra tương đối phức tạp.

35
Qua công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý giải quyết các vụ án
hành chính trong những năm qua đã xác định được số liệu như sau:
BẢNG SỐ LIỆU KIỂM SÁT TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN,
THỤ LÝ, GIẢI QUYẾT

Nội dung Thông báo trả lại đơn khởi kiện Cấp sơ thẩm
KN Tòa án giải quyết
Tổng Kiến Chưa
TB có vi được VKS Đối Đã
số đã nghị vi Đình giải
phạm chấp thụ lý thoại xét
KS phạm chỉ quyết
Thời điểm nhận thành xử
Từ
01/7/2016
6 20 8 1 11
đến
30/11/2016
Từ
01/12/2016
9 2 1 1 30 21 13 7
đến
30/11/2017
Từ
01/12/2017
10 3 1 1 16 17 3 3
đến
30/11/2018
Từ
01/12/2018
12 3 1 1 42 29 7 6
đến
30/11/2019
Từ
01/12/2019
2 0 0 0 8 2 2 10
đến
31/5/2020

39 6 3 3 116 69 25

Nguồn: Văn phòng Viện kiêm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

36
Qua số liệu trên, có thể nhận thấy tình hình khởi kiện vụ án hành chính
ngày càng tăng qua từng năm. Chỉ có năm 2020 là số lượng khởi kiện giảm,
bởi lẽ tình hình covit 19 nên người dân hạn chế tiếp xúc nên chưa khởi kiện.
Dự kiến số lượng khởi kiện sẽ tăng khi hết dịch.
Số lượng án có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, mà chủ yếu
khiếu kiện về đất đai. Bởi lẽ, những năm vừa qua, tình hình kinh tế - xã hội
của tỉnh có những khởi sắc, nhiều dự án, nhiều công trình được xây dựng.
Nhu cầu về đất đai của người dân ngày càng tăng, sẽ dẫn đến những sai sót
trong việc cấp đất, thu hồi, đền bù của cơ quan chính quyền. Bên cạnh đó,
vẫn còn những mâu thuẫn trong quy định của pháp luật về đất đai. Vì vậy, có
nhiều vụ án hành chính đã được xét xử xong, tuy nhiên người dân vẫn rất bức
xúc, không đồng tình với quyết định của bản án đó.
Một nguyên nhân nữa khiến số lượng khởi kiện án hành chính tăng
nhanh, đó là nhận thức về pháp luật của người dân ngày càng tăng. Một phần
cũng nhờ sự phát triển của mạng xã hội và internet. Có những vấn đề người
dân chưa biết, họ có thể lên mạng và tìm kiếm thông tin để giải quyết vấn đề.
Qua bảng số liệu, có thể thấy số vụ án được tòa án công nhận đối thoại
thành rất thấp. Qua đây, có thể thấy quyền tự thỏa thuận của các đương sự
trong việc giải quyết vụ án chưa được thể hiện nhiều. Đây là một quyền con
người, tuy nhiên, nó chưa được thể hiện nhiều trong việc giải quyết các vụ án
hành chính. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát quyết định công nhận đối thoại
thành và đình chỉ giải quyết vụ án, có thể thấy, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cũng cũng thừa nhận quyết định ban hành chưa đúng quy định, phải
hủy bỏ hoặc thay thế quyết định để người dân rút đơn khởi kiện.
2.2. Thực trạng thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ án
hành chính theo thủ tục sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền con ngƣời của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình những năm qua

37
2.2.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn
khởi kiện
Trả lại đơn khởi kiện là hoạt động của Tòa án, là nội dung quan trọng
trong tố tụng hành chính, bởi vì khi có hành vi này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến
quyền của người khởi kiện, đó là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp được quy định tại Điều 5 Luật Tố tụng hành chính, với việc trả
lại đơn khởi kiện, cũng có nghĩa người khởi kiện sẽ không được cơ quan Tòa
án chấp nhận giải quyết đối với yêu cầu của mình, vì vậy đảm bảo việc trả lại
đơn khởi kiện của Tòa án đúng quy định của pháp luật sẽ góp phần vào việc
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi họ
tham gia vào quan hệ tố tụng hành chính. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân tỉnh
Quảng Bình rất chú trọng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện. Việc kiểm sát
chặt chẽ, có hiệu quả việc trả lại đơn khởi kiện là một trong những nội dung
quan trọng thể hiện vấn đề bảo vệ quyền con người trong việc thực hiện hoạt
động tố tụng hành chính của cán bộ Viện kiểm sát. Bởi lẽ, quyền khởi kiện vụ
án hành chính yêu cầu Tòa án giải quyết là một trong những quyền quan trọng
của con người, là cơ chế cần thiết để các chủ thể trong xã hội thông qua đó có
cơ chế về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị
xâm phạm. Từ đó, việc trả lại đơn khởi kiện cần thiết phải được kiểm sát chặt
chẽ, đạt hiệu quả cao nhằm loại trừ việc Tòa án từ chối quyền này của các chủ
thể một cách tùy tiện. Ngoài ra, hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
của Tòa án trong một số trường hợp như người khởi kiện không có quyền
khởi kiện nhìn dưới góc độ khác còn là một phương thức bảo vệ quyền con
người của chủ thể bị kiện, tránh để chủ thể khác lợi dụng quyền khởi kiện
xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của mình, nhất là đối với án hành
chính, mà chủ thể bị kiện là chính quyền, người thực thi công vụ... Trong
khoảng thời gian từ năm 2016 đến nay, có tổng cộng 39 trường hợp Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình trả lại đơn khởi kiện với các lý do là người khởi

38
kiện không có quyền khởi kiện, người khởi kiện chưa đủ điều kiện khởi kiện,
sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Qua việc thực hiện hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Bình đã kiểm sát chặt chẽ việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình, qua đó, phát hiện một trường hợp Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Bình trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định pháp luật đó là
Thông báo trả lại đơn khởi kiện của ông Lê Hữu Ư, cụ thể như sau:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2019 và các tài liệu, chứng cứ kèm theo
của ông Lê Hữu Ư gồm có: Quyết định số 31/QĐ-KTUB ngày 24/2/1998 của
UBND huyện TH về việc giao đất sản xuất nông nghiệp; Khế ước giao đất
rừng tự nhiên, có thảm thực vật cần bảo vệ thuộc rừng sản xuất; Quyết định
thu hồi đất số 2991/Qđ-UBND ngày 17/12/2018 của UBND huyện TH về
việc thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và mở rộng đường tại thị trấn Đ,
huyện TH và Công văn số 93/UBND–TH ngày 17/7/2019 của UBND huyện
TH về việc trả lời đơn khiếu nại ông Lê Hữu Ư.
Ngày 08/01/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ban hành Thông
báo số 03/TB-TA, trả lại đơn khởi kiện cho ông Lê Hữu Ư với lý do: Thửa
đất ông Lê Hữu Ư yêu cầu bồi thường, hỗ trợ là đất rừng chưa giao quyền sử
dụng đất theo quy định Điều 123 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án tỉnh trả lại
đơn khởi kiện cùng toàn bộ hồ sơ cho ông Ư.
Không đồng ý với thông báo trả lại đơn khởi kiện, ngày 14/01/2020, ông
Ước có đơn khiếu nại Thông báo trả lại đơn khởi kiện số 03/TB-TA ngày
08/01/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh và đề nghị Tòa án tỉnh xem xét nhận lại
đơn khởi kiện để thụ lý giải quyết.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh xét thấy:
Tại thông báo trả lại đơn khởi kiện số 03/TB-TA ngày 08/01/2020 của
Tòa án nhân dân tỉnh cho rằng ông Ư không có quyền khởi kiện là không
đúng quy định của pháp luật tố tụng hành chính, bởi lẽ: Với những tài liệu

39
chứng cứ ông Ư cung cấp cho thấy ông Ư là người có đất do nhà nước giao,
tuy nhiên khi nhà nước thu hồi nhưng không bồi thường, hỗ trợ cho ông nên
ông Ư có quyền khởi kiện là đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên họp xem xét khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên
đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh căn cứ điểm b khoản 4 Điều 124 Luật tố tụng
hành chính để giải quyết nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo
của ông Lê Hữu Ư để tiến hành thụ lý vụ án và được Tòa án chấp nhận.
2.2.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải
quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải quyết
vụ án hành chính là một trong những hoạt động nghiệp vụ quan trọng của cán
bộ kiểm sát liên quan đến quyền con người. Thông qua việc kiểm sát việc thụ
lý, giải quyết vụ án hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát tỉnh
Quảng Bình đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của các đương
sự khi tham gia tố tụng trong tố tụng hành chính theo thủ tục sơ thẩm. Thụ lý
vụ án được coi là giai đoạn khởi đầu cho cả quá trình giải quyết vụ án hành
chính. Do đó, việc Tòa án nhân dân thực hiện hoạt động thụ lý đúng theo quy
định của pháp luật sẽ đảm bảo quyền khởi kiện – một trong những quyền con
người. Ngược lại, việc thụ lý vụ án tùy tiện, trái quy định của pháp luật tất
yếu sẽ tạo điều kiện để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Khi kiểm sát việc thụ lý, Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát chặt chẽ các vấn
đề sau: Đối tượng bị khởi kiện có phải là quyết định hành chính hay hành vi
hành chính không? Người bị kiện là cá nhân hay cơ quan, tổ chức? Người
khởi kiện có quyền khởi kiện, có đủ điều kiện khởi kiện theo Điều 115 Luật
Tố tụng hành chính 2015 hay không? Thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Kiểm sát viên căn cứ vào quy định tại các Điều 30, 31, 32, 33 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 để xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án hay không? Xác định thời hiệu khởi kiện: Kiểm sát viên căn cứ vào

40
Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015 để xem xét còn thời hiệu khởi kiện
hay không? Việc kiểm sát chặt chẽ thông báo thụ lý vụ án nhằm đảm bảo
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Qua việc kiểm
sát thông báo thụ lý vụ án, Viện kiểm sát tỉnh Quảng Bình đã phát hiện được
nhiều vi phạm của Tòa án như thụ lý vụ án chậm, gửi thông báo thụ lý không
đúng thời hạn Tuy nhiên các vi phạm này không ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích của đương sự nên Viện kiểm sát tỉnh đã tổng hợp và kiến
nghị khắc phục vi phạm chung. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã
phát hiện một trường hợp Tòa án thụ lý không đúng đối tượng khởi kiện, đã
kiến nghị yêu cầu khắc phục và đã được Tòa án chấp nhận:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B có văn bản ủy quyền nội bộ cho Phó
Chủ tịch ký các quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Ngày
01/3/2017, Phó Ủy ban nhân dân thị xã B ban hành quyết định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực xây dựng đối với ông C chủ hộ của căn nhà số 10/1
đường N, thị xã B. Ông C khởi kiện và Tòa án thụ lý và xác định Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thị xã B là người bị kiện. Mặc dù Phó Chủ tịch được ủy
quyền ký quyết định, nhưng khi xác định người bị kiện trong vụ án hành
chính này phải là người mà Luật quy định có thẩm quyền ban hành xử phạt,
đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B chứ không thể xác định người bị kiện
là ông Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B. Sau khi kiểm sát thụ lý, Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh đã ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm và
đã được Tòa án chấp nhận.
Sau khi kiểm sát thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên sẽ lập hồ sơ
kiểm sát nhằm kiểm sát quá trình giải quyết vụ án, theo dõi thời hạn giải
quyết vụ án, việc kéo dài thời hạn giải quyết vụ án sẽ ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích của một hoặc các bên đương sự. Đồng thời trong quá trình kiểm sát
việc giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
luôn chú trọng đến các quy định về quyền của đương sự và những người tham

41
gia tố tụng khác để kiểm sát hoạt động của Tòa án nhân dân tránh việc tùy
tiện xâm phạm các quyền này như quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự; quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hành chính;
đảm bảo quyền kháng cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính. Đây
đều là những quyền cơ bản của con người, của công dân. Trong quá trình
kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, Kiểm sát viên luôn nghiêm túc,
khách quan, công minh, chính trực để đảm bảo các quyền cơ bản trên cho các
đương sự. Trong khoảng thời gian từ 01/7/2016 đến 31/5/2020, Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Bình đã kiểm sát 100% việc thụ lý các vụ án hành chính
của Tòa án, gồm 106 vụ, phát hiện và ban hành 03 kiến nghị chung và 01 kiến
nghị riêng về vi phạm trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án.
Trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình sẽ kiểm sát các quyết định của Tòa án như: Quyết định công
nhận đối thoại thành và đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đưa vụ án ra
xét xử, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Đối với các loại quyết định trên, thời hạn xem xét kháng nghị phúc thẩm,
đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm rất ngắn nên Kiểm sát viên thường chủ
động nghiên cứu kiểm sát ngay sau khi nhận được quyết định; Lãnh đạo đơn
vị sớm kiểm duyệt kết quả kiểm sát để kịp thời ra văn bản yêu cầu Tòa án
chuyển hồ sơ để xem xét theo thẩm quyền nếu qua kiểm sát có nghi ngờ hoặc
xét thấy cần xem xét căn cứ tạm đình chỉ; căn cứ xác định việc đình chỉ có
đúng theo quy định của pháp luật hay không; kiểm tra việc Tòa án tuyên về
hậu quả của việc đình chỉ, tính án phí có đảm bảo quy định không (ví dụ: đình
chỉ trong trường hợp nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng
vắng mặt thì án phí phải sung công quỹ nhà nước nhưng Tòa án lại tuyên án
phí trả lại cho đương sự là vi phạm); tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị có

42
đúng không?
Qua thực hiện công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã yêu cầu
Tòa án chuyển hồ sơ, nghiên cứu và ban hành quyết định kháng nghị phúc
thẩm đối với một quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa án
do Tòa án đã căn cứ điểm d khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng hành chính 2015
“Sự việc đã được giải quyết bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”
để đình chỉ giải quyết vụ án không đảm bảo có căn cứ... Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà nẵng đã xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chuyển
hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý giải quyết (vụ yêu cầu hủy quyết định
hành chính là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa người khởi kiện là ông
Trượng - người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện MH).
Riêng đối với các quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, quyết
định công nhận sự thỏa thuận, do có hiệu lực pháp luật ngay, Viện kiểm sát
không có quyền kháng nghị phúc thẩm, tuy nhiên Viện kiểm sát luôn chú ý
kiểm sát để xác định việc thỏa thuận của đương sự đã phù hợp quy định của
pháp luật chưa, việc áp dụng án phí, lệ phí của Tòa án có đúng hay không, có
gây ảnh hưởng, thiệt hại đến quyền lợi của người thứ ba không, đây là nhiệm
vụ quan trọng của Viện kiểm sát để bảo vệ quyền con người của đương sự.
Qua đó xem xét kiến nghị hoặc báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.
2.2.3. Bảo vệ quyền con người qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, yêu
cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính theo thủ tục sơ thẩm
Việc quyền con người, quyền công dân có thực sự được Tòa án đảm
bảo hay không qua hoạt động của Kiểm sát viên mấu chốt là ở giai đoạn này.
Khi được nhận được hồ sơ vụ án từ Tòa án, Kiểm sát viên được phân công
phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm đánh giá chứng cứ và các tài liệu
có trong hồ sơ, xem xét việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải

43
quyết vụ án của Thẩm phán, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố
tụng, nắm vững nội dung và các tình tiết của vụ án để dự thảo đề cương
những nội dung cần làm sáng tỏ và dự thảo bản phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát tại phiên tòa. Kiểm sát viên được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án
sẽ lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu đầy đủ, trung thực lời trình bày của đương sự,
sao chụp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ do các đương sự nộp hoặc do Tòa án
thu thập có trong hồ sơ vụ án. Chủ yếu ở hoạt động này, Kiểm sát viên mới
trực tiếp thâm nhập vào vụ án, nắm được bản chất vụ án, các điều kiện cần và
đủ để giải quyết vụ án. Nếu xét thấy vụ án còn thiếu chứng cứ, Kiểm sát viên
sẽ yêu cầu tòa án thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được
đúng đắn và khách quan. Ở giai đoạn kiểm sát việc thụ lý vụ án tới trước khi
nhận hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên hầu như không thể biết quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự bị xâm phạm hay không? Ví dụ,
Tòa án không gửi hoặc gửi chậm thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập cho
đương sự, Tòa án đã triệu tập đầy đủ người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
chưa thì Kiểm sát viên không thể biết. Nhưng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án,
Kiểm sát viên sẽ xác định được Tòa án có vi phạm không Qua việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên đã phát hiện được nhiều vi phạm của Tòa án,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời báo cáo
Lãnh đạo để yêu cầu hoặc kiến nghị Tòa án khắc phục các vi phạm. Một số
dạng vi phạm cụ thể mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã phát hiện
như: không đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng,
xác định sai tư cách tham gia tố tụng của đương sự, thu thập tài liệu, chứng cứ
không đủ để giải quyết vụ án một cách khách quan cụ thể:
Thứ nhất, vi phạm về không đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng: Ông Bùi L (con của bà Nguyễn Thị B) khởi kiện yêu
cầu Tòa án hủy Quyết định thu hồi đất và thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (GCNQSDĐ) số 952/QĐ-UBND ngày 05/7/2002 của UBND huyện

44
MH; Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 6405/QĐ-UBND ngày
18/10/2016 của Chủ tịch UBND huyện MH và yêu cầu khôi phục lại quyền sử
dụng đất hợp pháp của bà B đối với 4,2 ha đất nông nghiệp tại thôn 2, xã
H.Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh lại không đưa bà Lê Thị N
vào tham gia tố tụng trong khi diện tích đất 4,2 ha này đã được UBND huyện
MH cấp cho bà Lê Thị N vào năm 2007 và hiện nay bà N vẫn đang quản lý,
sử dụng. Tòa án không đưa bà vào tham gia tố tụng, làm cho bà N không thực
hiện được các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 55 Luật
Tố tụng hành chính 2015.
Do đó, đối với trường hợp trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã ban hành
yêu cầu đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng và
đã được Tòa án chấp nhận thực hiện, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
bà N, ông D, Ủy ban nhân dân xã H.
Thứ hai, xác định không đúng tư cách pháp lý của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính: Ngày 02/01/2019, ông Nguyễn
Văn A và bà Trần Thị B cùng đứng đơn khởi kiện quyết định thu hồi đất của
Chủ tich Ủy ban nhân dân huyện QT. Ngay cùng ngày, bà B ủy quyền cho
ông A là người đồng khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án xác
định bà B là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là không đúng, vì bà B
vẫn là nguyên đơn. Ngay khi phát hiện, Viện kiểm sát đã kiến nghị và yêu cầu
Tòa án khắc phục vi phạm.
Việc Viện kiểm sát đã phát hiện và yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm
về việc bổ sung người tham gia tố tụng hoặc xác định đúng tư cách tham gia
tố tụng nhằm bảo vệ quyền con người, quyền và lợi chích chính đáng của
đương sự. Bởi lẽ, nếu không được tham gia vụ án thì chủ thể đó không có
quyền kháng nghị, quyền đưa ra những chứng cứ để bảo vệ lợi ích của mình...
Hoặc nếu xác định sai tư cách tố tụng của nguyên đơn thành người liên quan
thì sẽ hạn chế quyền của họ, nhất là quyền rút yêu cầu khởi kiện.

45
Thứ ba, Vi phạm về thu thập chứng cứ chưa đầy đủ: Thửa đất số 425 có
diện tích 1.151 m2, theo tờ bản đồ số 9 ở thôn N, xã H, huyện LT có nguồn
gốc của cụ T (chết năm 1976) và cụ P (chết năm 1978) là ông, bà nội ông C.
Toàn bộ thửa đất trên, sau khi các cụ nội chết, ông M (là bố đẻ ông C) quản
lý, sử dụng. Năm 2002, ông C kết hôn với bà Tr, ông M cho ông một phần
diện tích đất để làm nhà ở. Năm 2015, ông M chết thì ông C là người quản lý
sử dụng thửa đất trên. Năm 2017, vợ chồng ông C có đơn yêu cầu Ủy ban
nhân dân xã H xác nhận để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận cho ông C đối
với thửa đất Thửa đất số 452, tờ bản đồ số 9, diện tích 1.151m2 do ông C đang
quản lý sử dụng nêu trên. Tuy nhiên, một phần của thửa đất trên đã được Ủy
ban nhân dân xã H giao 200m2 đất cho hộ ông Q, bà T theo Quyết định số
453/QĐ-UB ngày 02/4/1994 của Ủy ban nhân dân huyện LT (thuộc thửa đất
số 50b, tờ bản đồ số 07, diện tích 200m2 thôn A, xã H, huyện LT). Do đó, Ủy
ban nhân dân xã H không xác nhận diện tích đất ông C yêu cầu làm thủ tục,
mà yêu cầu ông C phải giao phần diện tích đất 200m2 cho vợ, chồng ông Q,
bà T. Không nhất trí nội dung giải quyết, ngày 14/4/2017, ông C khiếu nại
hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã H về việc không giải quyết đơn
yêu cầu nói trên. Ngày 07/6/2017, Ủy ban nhân dân xã H hoà giải nhưng
không thành.
Ông C khởi kiện ra Toà án yêu cầu huỷ Quyết định giao đất số
453/QĐ-UB ngày 02/4/1994 của Ủy ban nhân dân huyện LT về việc giao
200m2 đất, thửa số 50b, tờ bản đồ số 07 ở xã H, huyện LT cho ông Q và vợ bà
T là không đúng, vì diện tích này là do ông C đang quản lý, sử dụng; buộc Ủy
ban nhân dân xã H thực hiện việc lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng thửa đất số 452, tờ bản đồ số 9, diện tích 1.151 m2 cho vợ, chồng ông C
theo đúng quy định pháp luật về đất đai.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã yêu
cầu Tòa án tiến hành điều tra, xác minh hiện trạng sử dụng đất, ông C, bà Tr

46
quản lý sử dụng có hợp pháp không? Có tranh chấp hay không? Và đã được
Tòa án chấp nhận và thực hiện.
Việc thu thập tài liệu, chứng cứ đúng quy định và đầy đủ sẽ đảm bảo cho
vụ án được giải quyết một cách khách quan. Nếu tài liệu chứng cứ chưa đầy
đủ thì cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ giải quyết không chính xác,
gây thiệt hại lớn về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
2.2.4. Bảo vệ quyền con người qua việc tham gia phiên tòa và phát
biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án hành chính
Theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì :
“Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc
giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án;
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp
luật”. Như vậy, Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên tòa giải quyết vụ án
hành chính nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự. Trong
thời gian từ 01/7/2016 đến 31/5/2020, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Bình luôn tham gia đầy đủ các phiên tòa theo quy định của
pháp luật, không để xảy ra trường hợp phiên tòa vẫn diễn ra nhưng vắng mặt
Kiểm sát viên. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại Điều 156 Luật Tố
tụng hành chính về sự có mặt của Kiểm sát viên thì “nếu Kiểm sát viên vắng
mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử”, do đó, để có thể đảm bảo hoạt
động kiểm sát tại phiên tòa, Kiểm sát viên luôn luôn sắp xếp, tôn trọng việc
tham gia phiên tòa, bởi lẽ, theo quy định của luật mới việc vắng mặt của
Kiểm sát viên không còn là căn cứ để hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa, Kiểm sát
viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hành chính và có thể tham gia
hỏi trong trường hợp cần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại
phiên tòa, trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Kiểm sát viên bổ sung vào bản

47
ý kiến của Viện kiểm sát đã chuẩn bị trước, phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng hành
chính, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,
đồng thời phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án
theo quy định tại Điều 190 – Luật Tố tụng hành chính 2015. Khi Chủ tọa
phiên tòa tuyên án, Kiểm sát viên ghi lại những nhận định và các căn cứ pháp
luật cũng như phần quyết định giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử để có căn
cứ đối chiếu với bản án do Tòa án gửi tới Viện kiểm sát.
Bản phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là tổng hợp của cả quá
trình hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên từ khi Tòa án thụ lý vụ án, đến
thời điểm trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Vì vậy, Kiểm sát viên luôn
chuẩn bị bài phát biểu chu đáo, lập luận chính xác, sắc bén, có căn cứ pháp
luật đối với từng vấn đề và kịp thời bổ sung những tình tiết, diễn biến mới
phát sinh tại phiên tòa, trình bày rõ ràng, mạch lạc. Qua việc phát biểu, Kiểm
sát viên sẽ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Những vi phạm trong quá trình
giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ảnh
hưởng như thế nào đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác sẽ được
Kiểm sát viên phân tích, đánh giá về tính chất, mức độ và đưa ra hướng xử lý.
Bản phát biểu Kiểm sát viên là một văn bản pháp lý quan trọng của Viện
kiểm sát trong tố tụng hành chính, thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát trong
toàn bộ quá trình xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm. Tại phiên tòa, bài phát biểu của Kiểm sát viên là một công cụ
quan trọng để thể hiện quan điểm về toàn bộ việc chấp hành pháp luật tố tụng
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người gia tố tụng. Ngoài
ra, còn thể hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát
đối với những vi phạm của Tòa án, đảm bảo việc ra bản án, quyết định của

48
Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật. Thông qua bài phát biểu của tại phiên tòa
hành chính sơ thẩm, Kiểm sát viên khẳng định được vị trí, vai trò của Viện
kiểm sát trong tố tụng hành chính. Bài phát biểu là nguồn tài liệu quan trọng
để Hội đồng xét xử tham khảo, xem xét ra một bản án có căn cứ và đúng pháp
luật. Việc Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành
chính nhằm đảm bảo cho phiên tòa, phiên họp được diễn ra đúng quy định,
đúng thành phần, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của
đương sự.
2.2.5. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính qua việc kiểm
sát bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên kiểm sát phần tuyên án, ghi chép những nội
dung cơ bản đồng thời thực hiện việc ghi âm để đảm bảo cho việc báo cáo kết
quả xét xử được chính xác. Để tránh tình trạng Tòa án cố tình gửi chậm bản
án, làm ảnh hưởng đến việc kháng nghị của Viện kiểm sát. Tòa án có chậm
gửi bản án cho Viện kiểm sát thì vẫn có căn cứ để thực hiện quyền kháng nghị
đúng thời hạn, sau đó kiến nghị với Tòa án về vi phạm chậm gửi bản án.
Khi kiểm sát bản án, Kiểm sát viên đối chiếu với ghi chép (bút ký phiên
tòa) về những người tiến hành tố tụng; sự có mặt của các đương sự và nội
dung bản án được công bố tại phiên tòa để xác định có đảm bảo đúng hay
không (thực tiễn đã cho thấy có Bản án vi phạm ghi không đúng thời gian xét
xử, không đúng họ tên Hội thẩm nhân dân do có sự thay đổi so với khi dự
thảo bản án, quyết định; ghi không chính xác sự có mặt của các đương sự...
Qua thực hiện công tác kiểm sát bản án, Kiểm sát viên đã nghiên cứu phát
hiện được nhiều vi phạm gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự như: Giải quyết không đúng yêu cầu của người khởi kiện;
không quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã rút;
áp dụng pháp luật không đúng, tuyên xử lý tài sản bảo đảm không đúng;
nhầm lẫn, tính sai số tiền phải hoàn trả; tính sai án phí Qua đó, đã tham mưu

49
cho Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân ban hành nhiều kháng nghị phúc thẩm.
Đối với những trường hợp Tòa án không mở phiên tòa ban hành quyết
định giải quyết vụ án như quyết định công nhận kết quả đối thoại thành và
đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định tạm
đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải nghiên cứu các căn cứ giải quyết có đúng
với quy định tại Luật Tố tụng hành chính không. Qua công tác này, Kiểm sát
viên đã phát hiện được nhiều trường hợp vi phạm của Tòa án như: Ban hành
quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ giải quyết vụ án khi
chưa đủ thời hạn theo quy định của Luật tố tụng hành chính; Tòa án yêu cầu
đương sự cung cấp chứng cứ mà đương sự chưa cung cấp, hết thời hạn chuẩn
bị xét xử nên Tòa án tạm định chỉ là không đúng quy định (khoản 1 Điều 141
Luật Tố tụng hành chính không có căn cứ này); Nguyên đơn rút yêu cầu khởi
kiện, Tòa án đình chỉ vụ án nhưng tuyên sung quỹ khoản tiền tạm ứng án phí
là không đúng. Các trường hợp trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
đã kịp thời ban hành kiến nghị, kháng nghị nhằm đảm bảo quyền lợi của
đương sự.
2.2.6. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính qua hoạt
động kiến nghị, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm
pháp luật
Kháng nghị, kiến nghị trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp nói
chung và trong tố tụng hành chính nói riêng là quyền năng pháp lý của Viện
kiểm sát được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ này nhằm phát hiện những vi phạm trong hoạt
động tư pháp, yêu cầu cơ quan vi phạm khắc phục bảo đảm cho hoạt động tư
pháp được thực hiện nghiêm minh, công bằng, dân chủ và khách quan, bảo vệ
quyền con người, các quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, của các tổ
chức và công dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Trong giai đoạn
từ năm 01/7/2016-31/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban

50
hành 12 kiến nghị và 05 kháng nghị phúc thẩm trong hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ án hành chính. Tất cả các kiến nghị, kháng nghị đều có chất
lượng, đã được Tòa án cùng cấp chấp nhận và trả lời kiến nghị, được Tòa án
cấp trên xét xử theo hướng kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình.
Quyền kiến nghị được Viện kiểm sát nhân dân thực hiện khi phát hiện
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp
có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị nêu
trên thì Viện kiểm sát phải kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục
vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; nếu phát
hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức
hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật
và tội phạm. Khi nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị
của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật. Theo đó, Viện kiểm
sát có quyền kiến nghị tất cả các trường hợp Tòa án có vi phạm trong quá
trình tiến hành tố tụng, gồm từ khi thụ lý vụ án, tiến hành lập hồ sơ, áp dụng
biện pháp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định tạm đình chỉ, đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính. Tùy theo tính chất từng vụ,việc có vi phạm
để áp dụng các hình thức kiến nghị phù hợp.
Quyền kháng nghị được Viện kiểm sát nhân dân thực hiện khi phát hiện
hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt
động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con
người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị. Khi nhận được
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cơ quan, người có thẩm quyền phải
giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp

51
luật. Kháng nghị phúc thẩm phải đảm bảo chất lượng về hình thức và tính căn
cứ: khi ban hành kháng nghị phúc thẩm, bản kháng nghị phải bảo đảm có căn
cứ pháp luật, chặt chẽ từ hình thức đến nội dung, đúng thủ tục, thời hạn kháng
nghị, thẩm quyền ban hành. Thận trọng, xem xét, cân nhắc, tôn trọng nguyên
tắc quyền tự định đoạt của đương sự đối với những trường hợp không liên
quan đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hoặc có một bên đương sự là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, nếu đương
sự không kháng cáo thì Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị. Một số vi
phạm nghiêm trọng của Tòa án đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị,
cụ thể:
* Vụ thứ nhất: Theo đơn khởi kiện bà Phan Thị Thu K trình bày: Năm
2001 Uỷ ban nhân dân huyện BT thu hồi của bà diện tích đất 11.206 m2 thuộc
các thửa 133, 134, 135, 136, 137 và 138 tờ bản đồ số 01 xã P, huyện BT để
giao cho Công an huyện BT. Nhưng trong quá trình đền bù và hỗ trợ thiệt hại,
Uỷ ban nhân dân huyện BT đã thực hiện sai các quy định của pháp luật, thực
hiện không đúng phương án đền bù giải tỏa như đã cam kết, xâm hại đến
quyền lợi của bà, nên bà khởi kiện yêu cầu: Uỷ ban nhân dân huyện BT thực
hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất theo đúng quy định pháp luật; Phải bố trí
cho bà một nền đất ở tại khu tái định cư là 300m2 theo đúng phương án thỏa
thuận trước khi thu hồi đất; Hủy bỏ Thông báo số 72/TB-UBND ngày
07/5/2009 và Công văn số 332/CV-BT ngày 15/10/2007 của Uỷ ban nhân dân
huyện BT và Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện BT.
Tòa án nhân dân tỉnh đã tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà Phan Thị Thu K đòi hủy bỏ Biên bản hiệp thương đền bù ngày
06/9/2001 của Uỷ ban nhân dân huyện BT và yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện
BT thực hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất.
Trong vụ án hành chính này, bà K có 3 yêu cầu cụ thể là buộc Uỷ ban
nhân dân huyện BT thực hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất theo đúng quy

52
định pháp luật; bố trí cho bà một nền đất ở tại khu tái định cư là 300m2 theo
đúng phương án thỏa thuận trước khi thu hồi đất. Hủy bỏ Thông báo số
72/TB-UBND ngày 07/5/2009 và Công văn số 332/CV-BT ngày 15/10/2007
của Uỷ ban nhân dân huyện BT và Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng
huyện BT. Bà K không yêu cầu hủy biên bản hiệp thương nhưng Tòa án tỉnh
lại tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K về việc hủy biên
bản hiệp thương là vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự, bên cạnh đó
cũng chưa xem xét đến các yêu cầu khởi kiện của đương sự là vi phạm tố tụng
nghiêm trọng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã kháng nghị cấp phúc thẩm hủy
vụ án nói trên để giải quyết lại đúng pháp luật.
* Vụ thứ hai: Ông H.V.T kiện Uỷ ban nhân dân huyện QN, yêu cầu
tuyên bố hành vi không giải quyết yêu cầu xác định lại diện tích đất ở là trái
pháp luật và buộc Uỷ ban nhân dân huyện QN xác định lại đất ở cho ông T
theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 24 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của
Chính phủ. Bản án sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Tuy nhiên,
trong phần quyết định của bản án sơ thẩm lại tuyên: “Ông T có đủ điều kiện
công nhận đất ở mà không phải nộp tiền sử dụng đất ở nằm trong diện tích đất
2.342 m2 tại xóm L, xã B, huyện QN; ông T có quyền nộp hồ sơ xác định lại
diện tích đất ở theo quy định tại khoản 47 Điều 2 bổ sung Điều 72a Nghị định
số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ” là đã vượt quá thẩm
quyền của Toà án trong giải quyết vụ án hành chính. Viện kiểm sát tỉnh đã
kháng nghị bản án và cấp phúc thẩm đã xét xử theo hướng sửa bản án nói
trên.
2.3. Đánh giá chung về bảo vệ quyền con ngƣời qua công tác kiểm
sát các vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
những năm qua
2.3.1. Những thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân

53
Thời gian vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã khẳng
định được vai trò của mình trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án
hành chính theo thủ tục sơ thẩm, là một thiết chế cơ bản bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hành chính, là công cụ không thể thiếu trong công cuộc
đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Kể từ thời điểm Luật Tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực đến nay, qua
công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã có những biện
pháp trao đổi, phối hợp, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm đẩy nhanh quá
trình giải quyết vụ án, hạn chế rất thấp số lượng các vụ án hành chính tạm
đình chỉ kéo dài, quyền con người trong vụ án được đảm bảo hơn, nội dung
giải quyết vụ án đúng quy định, hạn chế bị cấp trên sửa, hủy.
Để nâng cao kỹ năng của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Lãnh đạo Viện đã
rất quan tâm, chú trọng đến công tác đào tạo của đơn vị, đặc biệt là đào tạo
chuyên sâu những nội dung có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Tại các
buổi họp giao ban, Lãnh đạo Phòng đều tiến hành phổ biến, thảo luận những
thông báo rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên đến cán bộ,
công chức trong Phòng. Trong quá trình làm việc, mỗi khi có vấn đề gì vướng
mắc, mỗi cán bộ, công chức trong Phòng đều chủ động xin ý kiến của Lãnh
đạo Phòng hoặc đưa ra thảo luận trong Phòng để tìm được cách giải quyết tối
ưu nhất. Qua đó, cũng là cơ hội để mỗi cán bộ, Kiểm sát viên nghiên cứu sâu
hơn các quy định của pháp luật.
Các Kiểm sát viên của đơn vị luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm,
nghiên cứu kỹ các hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển sang, đề xuất đường lối giải
quyết phù hợp, đúng quy định của pháp luật; tham gia 100% các phiên tòa,
phiên họp theo quy định có Viện kiểm sát nhân dân tham gia; kiểm sát chặt
chẽ các bản án, quyết định. Thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định
nếu phát hiện vi phạm sẽ kịp thời ban hành kháng nghị hoặc kiến nghị đối với

54
các vi phạm của Tòa án. Do đó, vi phạm của Tòa án cũng dần dần được khắc
phục, quyền con người, quyền công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của nhà
nướccũng được đảm bảo hơn; việc khiếu nại, tố cáo của đương sự đối với các
bản án, quyết định của Tòa án cũng ít hơn.
* Nguyên nhân cơ bản, quan trọng của những thành tựu trên là:
Một là, hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát cơ
bản đã được hoàn thiện hơn thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra được bám sát và kịp
thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án.
Bên cạnh đó, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh luôn quan tâm và
tăng cường công tác lãnh đạo, rèn luyện, bồi dưỡng cho đội ngũ Kiểm sát
viên về mọi mặt, có bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp
luật, không ngừng nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc kiểm
sát việc giải quyết các vụ án hành chính;
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phối hợp với Tòa án tổ chức các phiên toà
rút kinh nghiệm xét xử các vụ án hành chính, bởi thông qua đó sẽ phát hiện
được những vi phạm, thiếu sót trong quá trình xét xử, từ đó các Thẩm phán,
Kiểm sát viên sẽ rút ra những bài học để khắc phục.
Hai là, hàng năm xây dựng các báo cáo chuyên đề nghiệp vụ về công
tác kiểm sát giải quyết án hành chính để góp phần nâng cao nhận thức Kiểm
sát viên trong toàn ngành Kiểm sát Quảng Bình đối với lĩnh vực này, đồng
thời cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, học hỏi, xây dựng góp phần quan trọng
vào việc bảo vệ quyền con người. Bên cạnh đó, hàng quý, Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Bình ban hành các Thông báo rút kinh nghiệm nhằm chấn
chỉnh, khắc phục các vi phạm trong công tác kiểm sát giải quyết án hành
chính.
Ba là, ý thức pháp luật, thái độ thực hiện công vụ và trình độ chuyên

55
môn, nghiệp vụ của lực lượng Kiểm sát viên đã được nâng cao, góp phần
nâng cao hiệu quả trong quá trình giải quyết các nói chung, vụ án hành chính
nói riêng nhằm quyền con người. Phải nhìn nhận một cách khách quan rằng
đội ngũ lãnh đạo, Kiểm sát viên cần thiết phải có phẩm chất chính trị và năng
lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hành chính trong giai đoạn mới. Bên cạnh việc bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ thì cần thiết phải có đạo đức nghề nghiệp, có ý chí
vươn lên, khả năng tiếp cận nhanh được các kiến thức pháp lý mới nhằm đáp
ứng với yêu cầu của công tác hiện nay. Ngoài ra, đội ngũ Kiểm sát viên phải
là đội ngũ có khả năng ứng dụng được công nghệ thông tin trong công tác
quản lý và thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Bốn là, thông qua hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các
hoạt động tư pháp nói chung và công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
nói riêng cần thiết phải có sự tham gia tích cực của người dân, xã hội trong
đấu tranh, bảo vệ quyền con người cũng là yếu tố quan trọng giúp cơ quan
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình hoàn thành vai trò bảo vệ quyền con
người theo quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, bên cạnh việc tuân
thủ thì người dân có sự tiếp thu thông tin và nghiên cứu quyền con người
nhằm hình thành nên ý thức trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người
đạt hiệu quả cao.
Một trong những cách làm hay để đáp ứng nhiệm vụ kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính nói chung và nhằm bảo vệ quyền con người nói riêng
của Viện kiểm sát nhân dântỉnh Quảng Bình trong việc kiểm sát giải quyết án
hành chính là đăng tải trên Trang Thông tin điện tử của ngành Kiểm sát tỉnh
Quảng Bình (tại mục Văn bản pháp luật - Văn bản pháp luật theo chuyên đề)
các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai, đền bù giải phóng mặt
bằng qua các thời kỳ của cả nước và trên địa bàn thành phố, điều này có ý
nghĩa rất lớn phục vụ công tác tra cứu văn bản pháp luật, tăng cường hiệu quả

56
công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến quản lý
nhà nước về đất đai. Việc làm này của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã được
Uỷ ban nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ghi nhận.
Ngoài ra, trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo
thủ tục sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã chú trọng tăng cường công
tác phối hợp, ký kết quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát với Tòa án và các
cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một kinh nghiệm thành công trong quá
trình giải quyết các loại vụ án nói chung và án hành chính nói riêng. Viện
kiểm sát cần phối hợp với Tòa án để có thể tham gia vào việc giải quyết vụ án
ngay từ đầu như tham gia các buổi đối thoại, các cuộc xem xét, thẩm định tại
chỗ để nắm bắt được nội dung cũng như nhanh chóng làm rõ những khúc mắc
còn chưa rõ ràng. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu phát hiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị khởi kiện là trái với quy định của pháp luật, cần
phân tích và thẳng thắn chỉ ra những sai sót cho cơ quan hành chính nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước biết để sửa
đổi, hủy bỏ quyết định hoặc chấm dứt hành vi hành chính.
Ở Quảng Bình hiện nay, sau nhiều vụ án hành chính đã được giải quyết,
các cơ quan hành chính nhà nước đã thận trọng hơn khi tiến hành thu hồi đất,
trước khi tiến hành thu hồi đất, đều tham vấn ý kiến của các cơ quan, Sở, ban
ngành và tham vấn cả Tòa án, Viện kiểm sát để quá trình thu hồi đất được
đúng pháp luật. Phòng nghiệp vụ thường xuyên tham mưu cho Lãnh đạo Viện
ban hành góp ý cho các Ủy ban nhân dân thành phố, thị xã, huyện về hồ sơ
cưỡng chế của các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện các dự án phát triển
giao thông đô thị, kinh tế xã hội của tỉnh; chỉ đạo các đơn vị cấp huyện chủ
động phối hợp với các cơ quan hữu quan địa phương giải quyết các vụ việc
tranh chấp phức tạp ở địa phương hạn chế việc khiếu kiện đông người, gây dư
luận không tốt trong nhân dân.
2.3.2. Những hạn chế, tồn đọng và nguyên nhân

57
Mặc dù vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính qua
hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình ngày càng được nâng cao so với
trước đây, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế, tồn đọng nhất
định, cụ thể:
Một là, các khiếu kiện hành chính xảy ra rất nhiều trong cuộc sống,
nhiều khi trở thành vấn đề thời sự sôi động trong cả nước, nhưng các đơn khởi
kiện tại Tòa án không nhiều và số vụ án hành chính Tòa án đã thụ lý cũng còn
rất ít trên thực tế.Hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính và tham
gia phiên tòa nói riêng là một vấn đề hết sức tế nhị vì đụng chạm đến các cơ
quan hành chính nhà nước, đặc biệt cơ quan hành chính cùng cấp với Tòa án
địa phương. Chính vì vậy, Kiểm sát viên sẽ dè dặt và phát sinh tư tưởng ngại
tham gia phiên tòa xét xử các vụ án hành chính. Vì vậy, dẫn đến chất lượng
kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính sẽ bị giảm đi phần nào.
Hai là, việc đánh giá tính chất vụ án, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án hành chính còn chưa chính xác; Công tác kiểm sát bản án, quyết định
đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức, nên không kịp thời phát hiện được
những sai sót, vi phạm trong một số bản án, quyết định để ban hành kháng
nghị, kiến nghị; vẫn còn có kháng nghị, chất lượng còn hạn chế, dẫn đến
không được Tòa án xét xử chấp nhận v.v
Ba là, Kiểm sát viên không chuẩn bị tốt cho việc tham gia phiên tòa,
dẫn đến việc tham gia xét xử có nhiều lúng túng, đặt câu hỏi đối với đương sự
không đúng trọng tâm, trọng điểm, hỏi lan man, không kịp bổ sung những
tình tiết mới diễn ra tại phiên tòa vào bài phát biểu của Kiếm sát viên
* Nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại:
Thứ nhất, Công tác kiểm sát giải quyết án hành chính của Viện kiểm
sát nhân dân là lĩnh vực khó khăn, phức tạp, xuất phát từ các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực quản lý nhà nước rất đa dạng,

58
phong phú, nhưng lại thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Mặt khác các văn bản
pháp luật còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, nhất là trong lĩnh vực pháp luật
về quản lý đất đai và xây dựng. Pháp luật về thi hành án hành chính chưa đầy
đủ, rõ ràng, chưa có tính bắt buộc.
Trong Luật Tố tụng hành chính 2015, vị trí, vai trò của Kiểm sát viên
tiếp tục được khẳng định, Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong giải
quyết các vụ án hành chính. Luật cũng đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn
của Kiểm sát viên, tạo cơ sở pháp lý cho Kiểm sát viên thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính.
Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính 2015 vẫn còn những tồn tại, bất cập về
cơ chế để đảm bảo các quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát và chưa
quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn tranh tụng của Kiểm sát viên trong giải
quyết các vụ án hành chính. Trong một số điều luật quy định còn gây khó
khăn cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ như kiểm sát việc trả
lại đơn khởi kiện, thông báo thụ lý, thu thập chứng cứ, quyền tham gia các
phiên tòa, phiên họp . Cụ thể:
- Về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện theo khoản 1 Điều 43
Nhiệm vụ, quyền hạn này được quy định cụ thể tại Điều 123 và 124
Luật Tố tụng hành chính 2015, theo đó:
Khoản 2 Điều 123 quy định: Thẩm phán, Thẩm tra viên được giao
nhiệm vụ phân loại xử lý đơn có trách nhiệm sao chụp lại đơn khởi kiện và
các tài liệu, chứng cứ trước khi trả lại cho người khởi kiện để lưu tại Tòa án
làm cơ sở cho việc giải quyết các khiếu nại của đương sự hoặc kiến nghị của
Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Luật không quy định Tòa án phải gửi đơn và tài liệu
này cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Khoản 2 điều này cũng quy định: “Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản ghi rõ lý
do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho

59
Viện kiểm sát cùng cấp”, văn bản trả lại đơn khởi kiện thực tế là thông báo trả
lại đơn khởi kiện của Tòa án gửi cho Viện kiểm sát, nhưng luật không quy
định Tòa án gửi cho Viện kiểm sát kèm theo những bản sao của các tài liệu,
chứng cứ để Viện kiểm sát kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện có đúng quy
định hay không, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
kịp thời, nhanh chóng.
Khoản 1 Điều 124 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định, trong thời
hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, Viện kiểm
sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, nếu chỉ
căn cứ vào thông báo trả lại đơn khởi kiện mà không có đơn khởi kiện và các
tài liệu, chứng cứ kèm theo thì rất khó để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến
nghị. Mặt khác, Viện kiểm sát cũng chỉ có thể kiểm sát việc trả lại đơn khởi
kiện của Tòa án khi Tòa án gửi thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm
sát, trường hợp Tòa án không gửi thông báo thì Viện kiểm sát không thể thực
hiện chức năng kiểm sát vì Luật Tố tụng hành chính 2015 không quy định
Viện kiểm sát được quyền kiểm sát trực tiếp tại Tòa án về việc xem xét và thụ
lý đơn khởi kiện. Như vậy, sẽ ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của đương sự.
Đây là một trong những vướng mắc mà trong quá trình thi hành Luật Tố tụng
hành chính 2010 đã gặp phải, dẫn đến hiệu quả kiểm sát việc trả lại đơn khởi
kiện của Tòa án chưa cao, tuy nhiên chưa được sửa đổi tại Luật Tố tụng hành
chính 2015. Trên thực tế, có trường hợp khi ra văn bản trả lại đơn khởi kiện
Tòa án cũng không gửi cho Viện kiểm sát, đến khi đương sự có đơn khiếu nại
gửi Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát mới biết Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện
cho đương sự.
Theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính 2015, trong trường hợp
đương sự có khiếu nại hoặc Viện kiểm sát có kiến nghị về việc trả lại đơn
khởi kiện của Tòa án thì Tòa án phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu

60
nại, kiến nghị và phiên họp này mới có sự tham gia của đại diện Viện kiểm
sát.
- Về quy định sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên toà giải quyết vụ
án hành chính
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Viện kiểm sát có
nhiệm vụ tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp hành chính sơ thẩm, phúc
thẩm, tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 156 và Điều 224 Luật Tố tụng hành chính
2015 lại quy định: Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì hội đồng xét xử vẫn tiến
hành xét xử.
Quy định này là chưa hợp lý, bởi lẽ: Viện kiểm sát tham gia phiên tòa
với vai trò là cơ quan tiến hành tố tụng nhằm kiểm sát hoạt động của Toà án
và người tham gia tố tụng khác nhằm đảm bảo cho phiên toà diễn ra đúng
pháp luật, khách quan, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích của đương
sự nhưng khi Viện kiểm sát vắng mặt thì toà án vẫn xét xử mà Luật cũng
không quy định xem xét lý do vắng mặt là gì? Chính đáng hay không chính
đáng? Quy định này gần như phủ nhận lại vai trò của Viện kiểm sát mà pháp
luật tố tụng hành chính đã quy định, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát.
- Về quyền yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án của đương sự:
Khoản 18 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định đương sự có
quyền đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, theo Khoản 1
Điều 141 Luật Tố tụng hành chính quy định về các trường hợp tạm đình chỉ
thì không quy định trường hợp đương sự yêu cầu tạm đình chỉ vụ án là căn cứ
để tạm đình chỉ. Như vậy, khi đương sự yêu cầu tạm đình chỉ vụ án mà không
thuộc các trường hợp quy định tại Điều 141 Luật tố tụng hành chính thì Tòa
án có được tạm đình chỉ hay không?
- Về kiểm sát phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và đối thoại

61
Luật Tố tụng hành chính 2015 đã quy định nguyên tắc đối thoại là
nguyên tắc bắt buộc. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và đối thoại là thủ tục tố tụng cực kỳ quan trọng; là cơ hội để các
bên đương sự đối thoại hòa giải mâu thuẫn, đưa ra những tài liệu, chứng cứ để
bảo vệ quan điểm của mình. Nếu như trước đây, theo quy định của Luật Tố
tụng hành chính 2010, đối thoại không phải là một thủ tục bắt buộc mà trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án tạo điều kiện để các đương sự
đối thoại về việc giải quyết vụ án (Điều 12 Luật Tố tụng hành chính 2010) và
chỉ tổ chức việc đối thoại giữa các đương sự khi có yêu cầu (Khoản 4 Điều 36
Luật Tố tụng hành chính 2010) thì đến Luật Tố tụng hành chính 2015, đối
thoại trở thành thủ tục bắt buộc. Theo quy định tại các điều 134, 136, 137,
138, 139 Luật Tố tụng hành chính2015 thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm, Tòa án phải tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và đối thoại. Đây là phiên họp rất quan trọng giúp xác định các
tài liệu, chứng cứ, các yêu cầu cụ thể, cuối cùng mà đương sự yêu cầu giải
quyết, nghe lời trình bày của các bên về nội dung vụ kiện Tuy nhiên, Luật
Tố tụng hành chính lại không quy định vai trò của Viện kiểm sát trong phiên
họp này mà Viện kiểm sát chỉ biết thông qua Biên bản phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản đối thoại gửi kèm
theo hồ sơ chính khi Tòa án chuyển sang cho Viện kiểm sát nghiên cứu để
tham gia xét xử. Do đó, việc phiên họp diễn ra đúng hay sai, thành phần có
phù hợp hay không? Viện kiểm sát không nắm được ngay từ đầu mà phải qua
nghiên cứu hồ sơ mới phát hiện, có những trường hợp Tòa án không tiến hành
đối thoại, đối thoại không đầy đủ thành phần hay không lập biên bản không
tiến hành đối thoại được, đến nghiên cứu hồ sơ vụ án Kiểm sát viên mới phát
hiện được, dẫn đến việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà lẽ ra nếu có
sự kiểm sát ngay từ ban đầu thủ tục này sẽ hạn chế được các vi phạm. Quyền
hạn của Viện kiểm sát không thấy thể hiện trong thủ tục này của Tòa án. Do

62
vậy, Kiểm sát viên cần phải có mặt tại phiên họp để giám sát quá trình thực
hiện hoạt động tố tụng của Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Điều này sẽ nâng cao
chất lượng phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
đối thoại; nhằm bảo vệ quyền con người, đảm bảo việc giải quyết vụ án được
chính xác, đúng quy định của pháp luật.
- Về việc hỏi và tranh luận sau nghị án
Điều 192 Luật Tố tụng hành chínhquy định: "Qua tranh luận hoặc qua
nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xét hỏi
chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định
trở lại việc hỏi và tranh luận". Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận thấy có
tình tiết, chứng cứ cần phải làm rõ và quay trở lại việc hỏi và tranh luận.
Trường hợp việc hỏi và tranh luận phát sinh tình tiết mới thay đổi nội dung vụ
án, dẫn đến quan điểm giải quyết trong bài phát biểu của Kiểm sát viên không
còn đảm bảo, có thể trái với báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện trước đó thì
trường hợp này giải quyết như thế nào? Đây là một vấn đề vướng mắc cần
phải làm rõ.
- Về quyền yêu cầu Tòa án thu thập và quyền thu thập tài liệu, chứng
cứ của Kiểm sát viên
Theo khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính 2015, trong quá trình
giải quyết vụ án, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu tòa án thu thập tài liệu, chứng
cứ.
Theo quy định tại Điều 147 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì “Tòa án
phải gửi hồ sơ vụ án cùng với việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho
Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả hồ lại hồ sơ vụ án cho Tòa án”. Như
vậy, Viện kiểm sát chỉ được tiếp cận hồ sơ khi vụ án chuẩn bị xét xử, bởi sau
khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án mới gửi hồ sơ cho
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ xong phát hiện cần phải xác

63
minh thu thập chứng cứ thì sẽ có văn bản yêu cầu và gửi kèm hồ sơ trả cho
Tòa án, thời điểm đó phần lớn các vụ án đã gần đến ngày xét xử, điều đó dẫn
đến việc tiến thành thu thập tài liệu, chứng cứ đối với Tòa án lại càng khó
khăn và nhiều trường hợp không thể thực hiện kịp phải hoãn phiên tòa và làm
cho thời hạn giải quyết vụ án bị kéo dài. Do vậy, cần bổ sung quyền của Viện
kiểm sát được tiếp cận hồ sơ vụ án ngay sau khi Tòa án thông báo thụ lý vụ
án, điều đó phù hợp với Khoản 2 Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, Khoản 2 Điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015 và làm cơ sở cho kiểm
sát tính hợp pháp, tính liên quan, tính khách quan của chứng cứ do Tòa án thu
thập được, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân tốt
hơn.
Luật Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định 07 biện pháp thu thập
chứng cứ Thẩm phán được phép tiến hành (khoản 2 Điều 84). Đối với Viện
kiểm sát, khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính chỉ quy định“Viện kiểm
sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng
nghị” mà không quy định rõ Viện kiểm sát được tiến hành những biện pháp
thu thập chứng cứ nào.
Khoản 4 Điều 93 Luật Tố tụng hành chính quy định trường hợp Viện
kiểm sát có yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ thì cơ quan, tổ chức, cá nhân
có trách nhiệm thực hiện theo khoản 3 Điều 93. Như vậy, Luật đã quy định rõ
ràng những trường hợp Viện kiểm sát có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ
trong giải quyết vụ án hành chính và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên,
nếu trường hợp Viện kiểm sát đã có yêu cầu mà đối tượng bị yêu cầu có hành
vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ hoặc không cung cấp tài
liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát thì giải quyết như thế nào? Hiện nay Luật
chỉ quy định việc xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ
và không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án (Điều 318, Điều 325) mà

64
chưa quy định chế tài xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập
chứng cứ và không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát. Đây là
thiếu sót rất lớn, có thể ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ nói chung và nhiệm vụ bảo vệ quyền con người nói riêng của Viện kiểm
sát trong việc kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm.
- Đối với quy định về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án: Theo Điều 147
Luật Tố tụng hành chính thì Viện kiểm sát nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án
trong thời hạn 15 ngày. Theo quan điểm của tác giả khoảng thời hạn luật định
nêu trên chưa đủ độ dài thời gian cần thiết để có thể nghiên cứu, xem xét hồ
sơ một cách thận trọng, đầy đủ, đặc biệt là những hồ sơ với số bút lục nhiều
và nhiều tài liệu phức tạp,dư luận xã hội quan tâm.Điều đó có thể dẫn đến tình
trạng nghiên cứu hồ sơ vụ án hời hợt, “cưỡi ngựa xem hoa”, đôi khi chưa bảo
đảm hết quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong vụ án hành chính
nếu bị xâm phạm. Mặt khác đặt trong mối quan hệ so sánh với thời hạn chuẩn
bị xét xử theo quy định của pháp luật thì thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện
kiểm sát tương đối ngắn. Do đó, có thể thấy Luật Tố tụng hành chính hiện
hành chưa thực sự quan tâm đến vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động
bảo đảm quyền con người trong tố tụng hành chính.
Thứ hai, bên cạnh một số hạn chế của quy định của pháp luật, nguyên
nhân dẫn đến vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát
việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm vẫn chưa thực sự hiệu
quả mong đợi là do một phần xuất phát từ nhận thức của một số Kiểm sát viên
về vấn đề bảo vệ quyền con người. Kiểm sát viên chưa phát huy hết tinh thần
trách nhiệm khi được phân công kiểm sát giải quyết án hành chính. Một số
Kiểm sát viên được phân công giải quyết án hành chính còn có tâm lý xem
nhẹ công tác này; chưa thật sự tự giác nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp luật
liên quan đến giải quyết án; có những sai sót về chuyên môn đã được thông
báo rút kinh nghiệm, tập huấn nhắc nhở nhưng vẫn còn vi phạm; dễ dàng

65
chấp thuận hoặc đồng ý với quan điểm giải quyết của Tòa án; khi phát hiện vi
phạm nhưng không kịp thời áp dụng các biện pháp nghiệp vụ (yêu cầu, kháng
nghị, kiến nghị) theo luật định mà mới chỉ dừng lại ở việc trao đổi, góp ý.
Năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số Kiểm sát viên làm
công tác giải quyết các loại án này còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu công
tác và đòi hỏi của thực tiễn, sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa Thẩm phán và
Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết án. Thực tế cho thấy, nhiều vụ án
hành chính bị cấp phúc thẩm hủy án đa phần là do xác định không đúng tranh
chấp, bỏ sót người tham gia tố tụng hoặc xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ
chưa đầy đủ. Chính từ những nguyên nhân chủ quan nêu trên, vô hình chung
hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính vốn là cơ chế quan trọng
để bảo vệ quyền con người của các bên trong quan hệ tố tụng hành chính bị
triệt tiêu.
Thứ ba, một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng xâm phạm
quyền con người trong tố tụng hành chính xuất phát từ chính sự hạn chế về
nhận thức của các chủ thể bị xâm phạm quyền con người. Nhận thức pháp
luật của một số đương sự, kể cả phía người bị kiện (thường là cơ quan hành
chính nhà nước hoặc cán bộ, công chức) còn nhiều vấn đề cần phải được bổ
sung. Do đó, thực tế ngay chính những người bị xâm phạm nhân quyền lại
không biết, không hiểu nên không hề “lên tiếng” khi bị ảnh hưởng đến quyền
lợi của mình. Đây cũng chính là một trong những rào cản không hề nhỏ trong
quá trình kiểm sát việc giải quyết các án hành chính nằm bảo vệ quyền con
người. Sự thiếu hiểu biết của người tham gia tố tụng xuất phát từ hoạt động
tuyên truyền phổ biến tại địa phương trong vấn đề này còn kém hiệu quả,chưa
thực sự cung cấp một cách đầy đủ những nội dung cần thiết về nhận thức cho
người dân. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp đương sự cố tình né tránh, đối phó,
thậm chí chống đối bằng nhiều hình thức như: gây khó khăn trong việc cung

66
cấp lời khai, chứng cứ, không đến Tòa theo giấy triệu tập v.v... cũng làm ảnh
hưởng đến thời hạn và chất lượng giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân.
Bên cạnh đó, những hạn chế nêu trên còn một phần xuất phát từ nguyên
nhân là cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động kiểm sát
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc. Những năm gần đây, mặc dù Nhà
nước cũng đã có những quan tâm đầu tư vật chất, phương tiện làm việc cho
ngành Kiểm sát nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Không gian làm việc
cho một Kiểm sát viên còn chật hẹp, thiếu phương tiện thiết yếu phục vụ cho
tác nghiệp. Công nghệ thông tin còn lạc hậu, cần truy cập những thông tin, tài
liệu, chứng cứ của các ngành khác như: Tài nguyên, môi trường, thuế, tài
chính, ngân hàng, kho bạc.. để phục vụ cho việc giải quyết án rất khó khăn,
vướng mắc.

67
Tiểu kết chƣơng 2
Như vậy, có thể thấy, từ khi Luật Tố tụng hành chính 2015 được thông
qua và có hiệu lực thì vấn đề nhân quyền được bảo đảm ngày càng hiệu quả
hơn thông qua hoạt động kiểm sát án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của
Viện kiểm sát cấp tỉnh. Theo đó, các quyền quan trọng của người tham gia tố
tụng cơ bản được bảo đảm. Những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân Quảng
Bình đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác kiểm sát hoạt động tố tụng
hành chính theo thủ tục sơ thẩm, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, góp phần đảm bảo trật tự, an ninh xã hội, xây dựng xã hội ngày càng
ấm no, phồn vinh, hạnh phúc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những hạn chế, tồn đọng, phần có nguyên
nhân khách quan từ những thiếu hụt, vướng mắc trong hệ thống pháp luật,
phần có nguyên nhân từ hoạt động áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát, Tòa
án và năng lực sử dụng pháp luật của chính người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án hành chính.
Ở Chương II, tác giả đã đánh giá được những mặt tích cực và hạn chế,
nguyên nhân trong việc bảo vệ quyền con người qua công tác kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Bình. Chương 3 dưới đây người viết sẽ đưa ra một số quan điểm
và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm ở Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Bình nhằm đáp ứng với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
trong giai đoạn mới.

68
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm tăng cƣờng bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt động
kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm ở Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
3.1.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với việc thực hiện mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Bảo đảm quyền con người trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh phải
gắn với việc thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý
giữa nhà nuớc và công dân, thực hành dân, tiếp tục quán triệt các chủ trương
của Đảng về cải cách tư pháp.
Trong tố tụng hành chính bảo vệ quyền con người là một nhiệm vụ luôn
được đặt ra. Bảo vệ quyền con người không đơn thuần là yêu cầu, đòi hỏi từ
phía cá nhân trong hoạt động tố tụng hành chính mà còn là tiêu chí và thước
đo cho giá trị và sự tiến bộ xã hội, sự phát triển của quốc gia. Do vậy, việc
ghi nhận và bảo vệ quyền con người là một trong những nhiệm vụ mà các
quốc gia trên thế giới hiện nay đang thực hiện. Nước Việt Nam đang thực
hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc thực
hiện mục tiêu bảo vệ quyền con người nói chung, trong hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh nói riêng là nhiệm vụ được quan tâm hàng đầu. Việc bảo vệ

69
quyền con người là thước đo phản ánh mối quan hệ giữa cơ quan, người tiến
hành tố tụng với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
Như vậy, bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết
các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh trong thời gian tới phải quán triệt quan điểm và nguyên tắc tất cả vì mục
tiêu bảo vệ quyền con người, quyền công dân; phải không ngừng nâng cao
trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nuớc và công dân, thực hành dân chủ.
3.1.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với nhiệm vụ xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật
Pháp luật không chỉ là phương tiện quan trọng nhất để Nhà nước thống
nhất quản lý xã hội, điều chỉnh và thiết lập trật tự phù hợp với lợi ích của Nhà
nước mà pháp luật còn là công cụ để cho người dân tổ chức, xây dựng cuộc
sống và đặc biệt pháp luật là phương tiện để bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân trong đó pháp luật tố tụng hành chính là bộ phận quan trọng.
Chính vì vậy, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định phương hướng là: hoàn
thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các
thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật
liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, thể chế hóa các quan điểm của
Đảng về chính sách pháp luật, Luật Tố tụng hành chính quy định những vấn
đề về trình tự, thủ tục và quy trình giải quyết vụ án hành chính, gắn với thẩm
quyền xét xử theo lãnh thổ, theo cấp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói

70
chung, pháp luật tố tụng hành chính nói riêng phải phân địch rõ chức năng
của các cơ quan và người tiến hành tố tụng như Viện kiểm sát, Tòa án và các
cơ quan bổ trợ tư pháp như Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý, Giám định, phiên
dịch Bảo đảm trong mỗi giai đoạn, mỗi quá trình không có sự chồng chéo
về chức năng, nhiệm vụ, không để tình trạng lạm dụng quyền lực, hay sử
dụng không đúng mục đích dẫn đến làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
3.1.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với việc nâng cao chất
lượng của Kiểm sát viên
Để bảo vệ quyền con người qua kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó
có lĩnh vực tố tụng hành chính, thì vai trò của Viện kiểm sát là rất quan trọng
vô cùng cần thiết. Vai trò của Viện kiểm sát được thể hiện thông qua đội ngũ
Kiểm sát viên. Vai trò của Kiểm sát viên trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật đã được Đảng và Nhà nước ta ghi nhận. Kể từ khi
Hiến pháp 2013 có hiệu lực thi hành, các Bộ luật Tố tụng hình sự, Tố tụng
dân sự, Luật Tố tụng hành chính đều được thay thế theo hướng tăng cường
vai trò của Kiểm sát viên. Đội ngũ kiểm sát viên là nòng cốt của ngành Kiểm
sát.
Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, tất yếu sẽ nảy
sinh nhiều tranh chấp, trong đó có tranh chấp về án hành chính. Luật tố tụng
hành chính 2015 đã khắc phục được những hạn chế của Luật tố tụng hành
chính năm 2010, như tăng thẩm quyết giải quyết của Tòa án, đảm bảo quyền
khiếu kiện và các quyền khác của đương sự, nâng cao vai trò của Kiểm sát
viên để hạn chế những vi phạm, thiếu sót trong tố tụng hành chính. Để bảo vệ
quyền con người một cách hiệu quả nhất trong hoạt động tố tụng hành chính
nói chung và theo thủ tục sơ thẩm nói riêng, Kiểm sát viên phải thực hiện tốt
công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính một cách hữu hiệu, tránh việc

71
kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân chỉ mang tính hình thức. Kiểm
sát viên phải bảo đảm cho pháp luật được người tiến hành tố tụng và tham gia
tố tụng chấp hành nghiêm chỉnh. Phải kịp thời phát hiện và yêu cầu khắc phục
vi phạm.
Việc nâng cao chất lượng Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính là một
yêu cầu cấp thiết. Kiểm sát viên phải tuân thủ quy định của pháp luật để bảo
vệ quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Mặt khác,
cũng như Thẩm phán, Kiểm sát viên phải độc lập trong hoạt động xét xử. Để
thực hiện được vấn đề đó, Kiểm sát viên phải khách quan, không nể nang,
ngại va chạm, không chịu sự tác động bởi bên bị kiện, bởi chủ thể bị kiện
trong các vụ án hành chính là các cơ quan công quyền, người có chức vụ
trong các cơ quan hành chính nhà nước, đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia tố
tụng.
3.1.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với việc phát huy vai trò
bảo vệ quyền con người của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng
Tố tụng hành chính là hoạt động đặc thù của nhà nước nhằm đảm bảo
việc giải quyết vụ án một các trung thực, khách quan. Vấn đề bảo vệ quyền
con người, quyền công dân trong tố tụng hành chính ngày càng nâng cao.
Trong tố tụng hành chính, trách nhiệm bảo vệ quyền con người thuộc về Tòa
án và Viện kiểm sát. Tòa án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật,
đảm đảm công bằng, khách quan trong giải quyết vụ án, không được thiên
lệch về một chủ thể tham gia tố tụng nào. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát phải
chú trọng phát hiện vi phạm của Tòa án, nhất là các vi phạm về xâm phạm
quyền con người nhằm có biện pháp để yêu cầu khắc phục và xử lý vi phạm.
Việc xác định rõ vai trò của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

72
tụng về bảo vệ quyền con người có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trách nhiệm
này cần được luật hóa cụ thể nhằm có hình thức xử lý nếu cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng xâm phạm quyền con người. Theo quy định
của Luật Tố tụng hành chính 2015, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ phải được
thực hiện trong buổi công khai tài liệu, chứng cứ. Tuy nhiên, có những trường
hợp, đương sự nộp chứng cứ sau phiêp họp thì Thẩm phán vẫn bỏ vào hồ sơ
vụ án. Việc đó sẽ dẫn đến việc các đương sự còn lại không biết đã có những
tài liệu, chứng cứ chống lại mình. Đồng thời, qua công tác kiểm sát, Viện
kiểm sát cũng rất khó để biết. Vấn đề đó vẫn chưa có quy định cụ thể về xử lý
vi phạm đối với Thẩm phán, đương sự vi phạm và tài liệu, chứng cứ phải xử
lý thế nào.
3.1.5. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người
Hiện nay, công tác tuyên tuyền pháp luật đang diễn ra mạnh mẽ trên cả
nước nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng. Sau khi Hiến pháp năm 2013
ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng tuyên truyền các quy định của Hiến pháp,
trong đó có quyền con người rất rộng rãi. Tuy nhiên công tác này lại chỉ chú
trọng về một số lĩnh vực nhất định như Hiến pháp, hình sự , về lĩnh vực
dân sự và hành chính chưa được chú trọng. Vì vậy, cần phải tăng cường công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tiếp công dân, khiếu kiện, tố
cáo, các quy định về đất đai, xây dựng bằng nhiều nội dung, hình thức
phong phú, đa dạng phù hợp với các tầng lớp nhân dân trên địa bàn, như tuyên
truyền trên mạng xã hội, các trang web, phương tiện thông tin đại chúng,
thông qua các loại hình văn hóa truyền thống, văn hóa quần chúng, các loại
hình nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng, thông qua việc tổ chức thi tìm hiểu
pháp luật, sinh hoạt của các loại hình câu lạc bộ nhằm góp phần giúp người
dân tăng thêm hiểu biết pháp luật, tự bảo vệ quyền con người của mình. Thởi

73
gian vừa qua, ngành Kiểm sát rất quan tâm tới việc tuyên truyền pháp luật,
bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nổi bật nhất là việc xây dựng phim
tài liệu về ngành Kiểm sát và bộ phim “Sinh tử” được phát sóng trên VTV1.
Qua việc tuyên truyền đó, người dân dần hiểu được chức năng, nhiệm vụ,
vai trò của ngành Kiểm sát. Hy vọng thời gian tới, ngành Kiểm sát sẽ chú
trọng hơn đến việc tuyên truyền pháp luật về dân sự, hành chính, để người
dân hiểu được vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, tố tụng
hành chính, đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
3.1.6. Phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các
cơ quan, tổ chức đối với công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
Thông qua các báo cáo của Viện kiểm sát tại kỳ họp, Quốc hội và Hội
đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan tư pháp nói
chung và hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính nói riêng.
Vì vậy, Quốc hội, Hội đồng nhân dân cần phát huy hơn nữa việc tổ chức hoạt
động giám sát thường xuyên hoặc bất thường, giám sát theo chuyên đề hoặc
bằng các yêu cầu trả lời chất vấn nhất là đối với những vụ án hành chính
phức tạp tại địa phương và đang được nhiều người quan tâm theo dõi để đảm
bảo việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng thời hạn. Đồng thời, Quốc hội
cần tăng cường công tác giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
và giải thích pháp luật của cơ quan tư pháp.
Bên cạnh đó, để hạn chế và tránh tình trạng “nể nang”, “ngại va chạm”
trong hoạt động tố tụng hành chính vẫn còn tồn tại như hiện nay cần tăng cường
hoạt động giám sát của các cơ quan báo chí truyền thông nhằm phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa và đồng hành cùng quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tất nhiên, việc phát huy dân chủ phải đi liền với việc nâng cao trách nhiệm cá
nhân trong việc giữ vững kỷ cương, tuân thủ pháp luật. Tránh những biểu hiện

74
dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức và kiên quyết xử lý những hành vi gắn
mác dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
3.2. Các giải pháp tăng cƣờng bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt
động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm từ
thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tố tụng hành chính
Đã trải qua hơn 04 năm thi hành Luật Tố tụng hành chính 2015, tuy nhiên
ngoài Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKS-TA ngày 31/8/2016 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao thì vẫn vẫn chưa có văn
bản nào hướng dẫn thi hành đối với Luật Tố tụng hành chính. Các văn bản
hướng dẫn đối với Luật Tố tụng hành chính 2010 của Hội đồng thẩm phán tòa
án nhân dân tối cao vẫn chỉ có giá trị tham khảo chứ chưa được thay thế. Do đó,
cần thiết phải hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành
chính 2015, nhất là quy định về vai trò, phạm vi, cách thức tranh tụng của Kiểm
sát viên trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, nhằm tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong luật, nâng cao chất lượng giải quyết và kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, đảm bảo cho việc áp
dụng pháp luật được thống nhất, nghiêm chỉnh.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật nội dung có liên quan
đến giải quyết vụ án hành chính. Có thể khẳng định muốn giải quyết căn bản
vấn đề của vụ án hành chính, hạn chế các khiếu nại, khiếu kiện nảy sinh thì
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nội dung là đặc biệt quan trọng,
nhất là pháp luật về đất đai, pháp luật về cán bộ, công chức, pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính...Quy định của pháp luật trên các lĩnh vực có đầy đủ,
thống nhất, phù hợp với thực tiễn thì mới tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan
hành chính nhà nước ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành
chính, quản lý hành chính trên các lĩnh vực, tránh được các khiếu kiện phát
sinh và trong trường hợp phát sinh tranh chấp hành chính thì có cơ sở, có căn

75
cứ để giải quyết vụ án, nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết vụ án
trong đó cần thiết phải đặc biệt chú trọng việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật
đất đai, nhất là các quy định về quản lý đất đai, việc bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư.
- Đối với sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên họp giải quyết khiếu nại,
kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện: Cần sửa đổi khoản 3 Điều 124 Luật Tố
tụng hành chính theo hướng nếu tại phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị
việc trả lại đơn khởi kiện nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì Thẩm phán phải ra
quyết định hoãn phiên họp. Việc kiểm sát viên có mặt tại phiên họp sẽ đảm
bảo phiên họp diễn ra đúng thành phần, khách quan, góp phần bảo vệ vệ
quyền con người.
- Đối với thành phần phiên họp kiểm sát việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và đối thoại: Cần sửa đổi theo hướng Kiểm sát viên phải tham
gia phiên họp. Kiểm sát viên phải được tham gia phiên họp để giám sát việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký tòa án, đương sự và trình tự phiên
họp, chứng cứ được giao nộp có khách quan và đúng pháp luật Việc có mặt
của Kiểm sát viên sẽ đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, ngay cả những
đương sự vắng mặt tại phiên họp.
- Đối với việc tham gia phiên tòa và gửi bài phát biểu của Kiểm sát viên:
Cần sửa đổi luật theo hướng Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa thì phải
hoãn phiên tòa. Sự có mặt của Kiểm sát viên sẽ phù hợp với các quy định của
pháp luật về hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, đảm
bảo cho việc Kiểm sát viên thực hiện nhiện vụ bảo vệ quyền con người tại
phiên tòa.
Bên cạnh đó, cần phải quy định thời hạn gửi bài phát biểu của Kiểm sat
viên sau khi kết thúc phiên tòa là 03 ngày làm việc. Hiện nay, để khắc phục
vướng mắc này, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã thống

76
nhất thời hạn gửi bài phát biểu sau khi kết thúc phiên tòa dân sự, hành chính
là 03 ngày làm việc.
- Đối với việc tiếp cận chứng cứ và quyền thu thập, tài liệu, chứng cứ
của Viện kiểm sát: Cần quy định Viện kiểm sát có quyền tiếp cận chứng cư
sau khi tòa án thu thập, xác minh; Bổ sung quy định Viện kiểm sát có quyền
thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính và cung
cấp ngay cho Tòa án. Quy định xử lý đối với những hành vi chống đối hoặc
cản trở hoạt động Viện kiểm sát xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ. Có chế
tài xử lý đối với việc cơ quan, tổ chức, cá nhân cố ý không cung cấp tài liệu,
chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát bảo vệ quyền con
người trong kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, thì việc có đầy đủ, tài liệu
chứng cứ sẽ đảm bảo hơn cho hoạt động bảo vệ quyền con người. Chính vì
vậy, cần phải sửa đổi luật theo hướng bổ sung các quy định về thu thập tài
liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát như đã nêu ở trên.
- Cần có nghiên cứu để có quy chế phối hợp giữa Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Chính phủ để bảo đảm việc người bị
khởi kiện chấp hành tốt và phải thực hiện nghĩa vụ tham gia tố tụng, nhất là
việc tham gia đối thoại và phiên tòa, vì thủ tục đối thoại theo Luật Tố tụng
hành chính 2015 là quy định là bắt buộc nhưng thực tế cơ quan bị kiện,
người bị kiện thường hay né tránh việc đối thoại.
3.2.2. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện
3.2.2.1. Nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên kiểm sát
giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm.
Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách Tư pháp đến năm 2020”, những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính bảo đảm đúng pháp luật, góp phần

77
giữ vững kỷ cương pháp luật, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn tỉnh.
Việc tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong trong tố
tụng hành chính thể hiện Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định và tin tưởng vào
vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư
pháp. Đây là vinh dự, đồng thời cũng là trách nhiệm mà Viện kiểm sát phải cố
gắng thực hiện để xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, đáp
ứng được sự mong đợi của người dân đối với Ngành.
Để nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, bện cạnh việc quán triệt
nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nhiệm vụ rất quan trọng
mà Kiểm sát viên phải thực hiện, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
cần thực hiện một số giải pháp sau:
Giải pháp về quản lý chỉ đạo, điều hành.
Thứ nhất, Lãnh đạo viện cần phân công cán bộ nghiên cứu hồ sơ vụ án
đúng chuyên môn, đủ năng lực và kinh nghiệm giải quyết án; Kiểm sát viên
được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính phải có thời gian
công tác ổn định nhất định, đảm bảo tiếp cận được nhiều dạng án hành chính
khác nhau, có khả năng tổng hợp vi phạm của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân và của Tòa án cùng cấp, biết vận dụng, áp dụng đúng pháp luật
cũng như linh hoạt trong xử lý tình huống khi có vi phạm của Ủy ban nhân
dân hoặc Tòa án nhưng chưa đến mức phải kháng nghị hoặc để bảo đảm việc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm tình hình an ninh, trật tự phục
vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Thứ hai, Lãnh đạo Viện cần áp dụng cơ chế động viên, khuyến khích kịp
thời khi cán bộ, Kiểm sát viên hoàn thành việc giải quyết những vụ án phức
tạp, dư luận quan tâm. Tổ chức chương trình tập huấn nghiệp vụ tại chỗ bằng
hình thức mở lớp tập huấn ngay tại đơn vị. Ngoài ra, thường xuyên yêu cầu

78
Kiểm sát viên soạn Thông báo rút kinh nghiệm tới các Viện kiểm sát nhân
dân cấp dưới để nghiên cứu, rút kinh nghiệm trong quá trình công tác. Tích
cực tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm để nâng cao kỹ năng kiểm sát tại phiên
tòa cho Kiểm sát viên. Xây dựng tiêu chí chỉ tiêu công tác đến từng công chức
để phát huy tính tự giác và chủ động thực hiện công việc chuyên môn như
Lãnh đạo đơn vị phải yêu cầu mỗi Kiểm sát viên, công chức được phân công
nghiên cứu hồ sơ vụ án và trực tiếp tham gia xét xử nắm chắc các quy định
của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và của Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên tại Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tố tụng
hành chính, Luật Tổ chức chính quyền, các luật và văn bản hướng dẫn thi
hành luật liên quan đến ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính
hoặc lĩnh vực giải quyết khiếu kiện bị khởi kiện; lập Sổ tích lũy vi phạm từng
vụ án thông qua công tác chuyên môn hàng ngày....
Thứ ba, đẩy mạnh công tác góp ý, xây dựng pháp luật. Trong quá trình
thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính cần thực hiện tốt
công tác sơ kết, tổng kết, rút ra những bất cập, vướng mắc phát sinh từ thực
tiễn để kiến nghị đề xuất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn
sửa đổi, bổ sung để góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính.
Giải pháp về nghiệp vụ
Kiểm sát viên cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau nhằm nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính.
Thứ nhất, thực hiện tốt công tác kiểm sát việc thụ lý
Khi nhận được Thông báo thụ lý, Kiểm sát viên liên hệ với Thẩm phán
(Thư ký) để photo đơn khởi kiện để xác định được loại kiện là quyết định
hành chính hay hành vi hành chính, xác định được thời hiệu khởi kiện theo
Điều 116 Luật Tố tụng hành chính và thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy
định từ Điều 30-33 Luật Tố tụng hành chính 2015.
Tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015quy định:

79
“2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính,
hành vi hành chính …;”
Đối với trường hợp ngày nhận được quyết định hành chính thì thể hiện
bằng biên bản hoặc phiếu báo phát của Bưu điện nên dễ xác định được; còn
đối trường hợp biết được quyết định hành chínhthì thể hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau, có thể có biên bản (thông qua cuộc họp tiếp xúc cử tri )
hoặc không có biên bản (lời nói ). Trong trường hợp này Kiểm sát viên cần
phải yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ để xác định người khởi kiện biết được
quyết định hành chính, hành vi hành chính để làm căn cứ xác định thời hiệu
khởi kiện.
Về thẩm quyền giải quyết vụ án, tại khoản 1 Điều 34 Luật Tố tụng hành
chính 2015 quy định việc chuyển vụ án cho Tòa án khác như sau:
“Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, Tòa
án xác địnhvụ án đó không phải là vụ án hành chính mà là vụ án dân sự và
việc giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án giải quyết vụ
án đó theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định, đồng thời
thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp”.
Quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính 2015 đã rõ nhưng
chưa có “cơ chế” để thực hiện nên cần có hướng dẫn của cấp có thẩm quyền.
Có một số trường hợp, bản chất vụ án là tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa
các cá nhân, tổ chức với nhau nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Toà án
tuyên huỷ giấy chứng nhận sử dụng đất, không yêu cầu giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần yêu cầu Thẩm
phán giải thích rõ cho người khởi kiện biết thẩm quyền xét xử, nếu người
khởi kiện vẫn kiên quyết khởi kiện hành chính thì Toà án phải thụ lý giải
quyết.

80
Thứ hai, tăng cường kiểm sát việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
của Tòa án.
Đối với những vụ án dư luận quan tâm hoặc có nhiều vụ tương tự nhau
thì Kiểm sát viên phải phối hợp với Thẩm phán để kiểm sát việc xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án ngay từ đầu để báo cáo ngay cho Lãnh
đạo cho ý kiến chỉ đạo, kịp thời yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ bổ sung theo quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính
2015 và Điều 22 Thông tư liên tịch số 03/2016 (đối với những vụ án thông
thường thì kiểm sát sau khi Toà án chuyển hồ sơ và Quyết định đưa vụ án ra
xét xử cho Viện kiểm sát).
Lưu ý những vụ án có liên quan đến chủ trương, đường lối của Thường
vụ Tỉnh ủy thì Kiểm sát viên phối hợp với Thẩm phán nghiên cứu vụ án, đánh
giá toàn diện chứng cứ. Nếu phát hiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị kiện không đúng quy định của pháp luật thì báo cáo ngay cho Lãnh
đạo để kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chỉ đạo người bị kiện khắc phục vi
phạm, nhằm phục vụ tốt tình hình chính trị tại địa phương và đảm bảo quyền
lợi chính đáng của công dân.
Thứ ba, nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án
đúng nội dung và có chất lượng.
Để làm tốt việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo kết quả nghiên cứu hồ
sơ vụ án Kiểm sát viên cần nghiên cứu và thực hiện theo Điều 14 Quy định về
quy trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính(Ban hành kèm theo
Quyết định số 286/QĐ-VKSTC ngày 08 tháng 07 năm 2019của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
Ngoài ra, Kiểm sát viên tự trang bị cho mình một hệ thống pháp luật có
liên quan, có thể tải trên các trang Web chính thống (Chính phủ, Bộ tư pháp,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao...) hoặc đăng ký
thành viên VIP các trang Web có thu phí (thuvienphapluat...) để họ gửi những

81
văn bản mới nhất và cập nhật các văn bản hết hiệu lực để thuận tiện cho việc
nghiên cứu.
Trước tiên, Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ nội dung đơn khởi kiện, các tài
liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện và các căn cứ pháp lý người khởi kiện
viện dẫn để chứng minh cho yêu cầu của mình. Qua đó đối chiếu với quy định
pháp luật để đánh giá sơ bộ về yêu cầu khởi kiện.
Tiếp theo, Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ văn bản nêu quan điểm của
người bị kiện và căn cứ pháp lý người bị kiện viện dẫn để bảo vệ quyết định
hành chính, hành vi hành chính của mình. Qua đó đối chiếu với quy định
pháp luật, đánh giá toàn diện chứng cứ do các đương sự cung cấp để xây dựng
Tờ trình báo cáo Lãnh đạo, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án.
Vấn đề cần lưu ý là văn bản pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là văn
bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ban hành quyết định hành chính hoặc
thực hiện hành vi hành chính.
Thứ tư, xây dựng dự thảo đề cương hỏi và văn bản phát biểu ý kiến để
tham gia phiên tòa.
Kiểm sát viên cần nghiên cứu hướng dẫn tại Điều 15 Quy định về quy
trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Đối với văn bản phát biểu
ý kiến tại phiên tòa Kiểm sát viên phải tuân thủ quan điểm duyệt án của Lãnh
đạo viện và cần dự kiến các tình huống khác có thể xảy ra tại Toà và có quan
điểm xử lý để xin ý kiến Lãnh đạo. Tại phiên toà, Kiểm sát viên cần sử dụng
máy tính xách tay để chỉnh sửa dự thảo văn bản phát biểu cho phù hợp với
diễn biến tại toà; có đầy đủ các văn bản pháp luật có liên quan để viện dẫn khi
cần thiết và có phương án để kịp thời báo cáo Lãnh đạo cho ý kiến xử lý các
tình huống mới phát sinh tại toà. Nếu không báo cáo kịp thì Kiểm sát viên tự
quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Thứ năm,báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm và kiểm sát bản án.

82
Các nội dung này được hướng dẫn tại Điều 17, 18 Quy định về quy trình
kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Khi Hội đồng xét xử tuyên án,
Kiểm sát viên cần sử dụng máy ghi âm để ghi lại nội dung bản án, làm căn cứ
đối chiếu với Bản án toà gửi cho Viện kiểm sát. Vấn đề cần lưu ý là Bản án sơ
thẩm tuyên khác quan điểm của Viện kiểm sát nhưng Toà án không gửi bản
án trong thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Khi đó, Kiểm sát viên đề xuất kháng
nghị phúc thẩm trên cơ sở nội dung bản án đã ghi âm tại Toà (trong nội dung
Quyết định kháng nghị phúc thẩm chừa trống số bản án); đồng thời đề xuất
kiến nghị việc Toà án vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 196 Luật Tố tụng
hành chính 2015.
Thứ sáu, đối với phiên tòa rút kinh nghiệm,
Sau phiên tòa, Viện kiểm sát tổ chức rút kinh nghiệm đối với Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa; cán bộ, Kiểm sát viên tham dự phiên tòa. Nội dung
rút kinh nghiệm gồm:
- Việc nghiên cứu hồ sơ, lập hồ sơ kiểm sát, chuẩn bị tham gia phiên tòa
sơ thẩm; về tác phong, bản lĩnh nghiệp vụ của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
- Nhận xét, đánh giá xem Kiểm sát viên đã thực hiện đầy đủ quyền hạn,
trách nhiệm của Viện kiểm sát tại phiên tòa hay chưa? Phát hiện được đầy đủ,
chính xác các vi phạm và kiến nghị Hội đồng xét xử khắc phục chưa? Rút
kinh nghiệm về nhận thức pháp luật, kỹ năng áp dụng trong việc phân tích
đánh giá vi phạm, về việc giải quyết vụ án.
- Việc quán triệt và vận dụng ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị trong
quá trình kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa, kiến nghị xử lý vi phạm,
về việc thay đổi, bổ sung quan điểm giải quyết vụ án như thế nào?
- Rút kinh nghiệm về kết quả xét xử vụ án của Hội đồng xét xử và trách
nhiệm của Viện kiểm sát.
Giải pháp về tăng cường đào tạo, bồi dưỡng

83
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, cần có sự quan tâm hơn nữa đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Kiểm sát viên làm công tác kiểm
sát án hành chính nằm chuyên môn hóa bộ phận nghiệp vụ, nâng cao tinh thần
trách nhiệm và hiêu quả hoạt động của công tác kiểm sát. Bên cạnh việc đào
tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Quảng Bình cần thực hiện nhiều biện pháp tự đào tạo,
nghiên cứu nâng cao trình độ thông qua các hoạt động cụ thể như: Trong các
cuộc họp giao ban hàng tuần, lồng ghép phổ biến, quán triệt văn bản nghiệp
vụ để Kiểm sát viên nắm bắt kịp thời; tăng cường tổng hợp rút kinh nghiệm
thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định, công tác kiểm sát xét xử
những vụ án cụ thể; tổ chức các buổi tọa đàm nghiệp vụ để cùng trao đổi về
những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc, nhất là những vấn đề liên quan đến
kỹ năng kiểm sát phát hiện vi phạm của Tòa án. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ,
kỹ năng xây dựng bản phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, kỹ năng viết
kiến nghị, kháng nghị. Bố trí, phân công, giao nhiệm vụ cho Kiểm sát viên có
năng lực kinh nghiệm kèm cặp, hướng dẫn cán bộ, Kiểm sát viên mới còn ít
kinh nghiệm
3.2.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp với tòa án và các cơ quan liên
quan trong tố tụng hành chính
Với vị trí, chức năng rất quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, Viện
kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân có trách nhiệm phối hợp với nhau để
giải quyết vụ án hành chính đúng đắn, khách quan theo luật định nhằm bảo vệ
chế độ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án
trong việc giải quyết các vụ án, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của
Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới” đã nhấn mạnh: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong
hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

84
của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan
điều tra, kiểm sát, xét xử cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định”.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2014 đều quy định trách nhiệm phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát, với
các cơ quan, tổ chức khác của Nhà nước trong hệ thống chính trị nhằm thực
hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính. Các cơ
quan tiến hành tố tụng không những có trách nhiệm phối hợp với nhau mà còn
phải phối hợp với các cơ quan nhà nước khác bằng những nội dung cụ thể,
thiết thực. Quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng
hành chính còn có mục đích chung là tìm ra nguyên nhân và điều kiện vi
phạm luật, kiến nghị hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện
pháp khắc phục và phòng ngừa vi phạm.
Để tăng cường phối hợp quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Bình trong tố tụng hành chính nhằm bảo vệ quyền con
người cần thiết thực hiện một số giải pháp đồng bộ sau:
Một là, thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa Viện kiểm sát và
Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện, nhất là thường xuyên tổ chức họp liên ngành
đưa ra những vụ án có tính chất phức tạp để có biện pháp giải quyết, đảm bảo
việc giải quyết vụ án kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Cần xây dựng ký
kết quy chế phối hợp trong công tác giải quyết các vụ án hành chính để tạo
hành lang pháp lý giữa hai cơ quan để phối hợp với Tòa án giải quyết các vụ
án hành chính được nhanh chóng và đúng quy định pháp luật, tạo điều kiện để
cả hai đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền
con người trong tố tụng hành chính.
Ngoài ra, Viện kiểm sát tỉnh cũng cần tích cực, chủ động trong việc ban
hành yêu cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, phối hợp với Tòa án trong
việc xem xét, thẩm định tại chỗ, xuống địa bàn nơi có khiếu kiện để xác minh
tình hình thực tế của người bị kiện, từ đó có căn cứ để đưa ra phán quyết hợp

85
tình, hợp lý, đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia tố tụng. Viện kiểm
sát cũng phối hợp tốt với Tòa án tại các buổi đối thoại, buổi làm việc với
người bị kiện nhằm lắng nghe những ý kiến giải trình của người bị kiện về
tính có căn cứ của việc ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Hai là, Phối hợp với Tòa án tổ chức các phiên tòa sơ thẩm rút kinh
nghiệm về lĩnh vực dân sự, hành chính. Các Kiểm sát viên mỗi năm phải
tham gia xét xử được từ 2-3, hoặc có thể nhiều hơn nữa các phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính, dân sự. Kế hoạch tổ chức phiên tòa rút kinh
nghiệm cần cụ thể, chi tiết như: Chọn phiên tòa điển hình (Ví dụ loại tranh
chấp phức tạp, khó giải quyết, dư luận xã hội quan tâm, đa dạng người tham
gia tố tụng ); chuẩn bị đề cương hỏi người tham gia tố tụng; dự kiến tình
huống diễn ra trong quá trình xét xử và xử lý tình huống tại phiên tòa; dự thảo
bài phát biểu ý kiến của Viện kiếm sát tại phiên tòa. Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa phải có kinh nghiệm, kỹ năng kiểm sát việc giải quyết các vụán
hành chính; sau mỗi phiên tòa tổ chức rút kinh nghiệm trong đơn vị.
Ba là, Tăng cường quan hệ phối hợp tốt giữa Viện kiểm sát với các cơ
quan hữu quan, đặc biệt là Ủy ban nhân dân các cấp và các tổ chức chính trị,
xã hội trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân các cấp cùng cấp, góp
phần đảm bảo việc xây dựng, ban hành các quyết định hành chính và việc
thực hiện hành vi hành chính đúng pháp luật và được thực thi một cách
nghiêm minh, qua đó góp phần thực hiện tốt công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ án hành chính.
Bên cạnh đó,Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 04/CT-VKSTC-
VPT1 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về
tăng cường công tác kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự, hành chính;
xác định công tác kháng nghị là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do đó, bên cạnh sự phối hợp nhưng

86
cũng phải “mạnh tay” kháng nghị với một số vi phạm của Tòa án, đặc biệt với
những vi phạm đã xảy ra có tính hệ thống.
3.2.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ
lương, phụ cấp, ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ
Kiểm sát
Mặc dù nhân tố con người là quyết định, công tác tổ chức, bộ máy,
phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành là quan trọng nhưng nếu cơ sở vật
chất không đảm bảo thì hiệu quả thực hiện nhiệm vụ sẽ gặp không ít khó
khăn. Việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc, chế
độ lương, phụ cấp ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp, trong đó
có Viện kiểm sát nhân dân có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ. Chế độ, chính sách được đảm bảo là một động lực quan trọng
giúp cho cán bộ yên tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề, gắn bó với nghề.
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý cán bộ;
chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần đối với cán bộ, góp phần
khuyến khích động viên đội ngũ cán bộ phấn đấu, đóng góp vào sự nghiệp
cách mạng của Đảng, xây dựng ngành trong sạch vững mạnh.
Trong thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã và đang triển khai
nhiều dự án nhằm tăng cường cơ sở vật chất phục vụ cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Bình nói riêng và ngành Kiểm sát nhân dân nói chung đã và đang tiến
hành xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng, trang thiết bị, cũng như số
hóa hệ thống quản lý trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành
Kiểm sát. Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đang sử dụng
hệ thống họp và giao ban trực tuyến. Hệ thống được xây dựng, bố trí một cách
hợp lý, khoa học, đáp ứng yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng trong quá
trình hoạt động của Kiểm sát viên. Bên cạnh đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
và huyện tại tỉnh Quảng Bình đã và đang xây dựng quản lý và theo dõi thời

87
hạn giải quyết phần mềm quản lý án hành chính, dân sự với yêu cầu đặt ra là
phần mềm tiện ích phong phú, đa dạng, bao quát toàn bộ các khâu trong quản
lý án hành chính, dân sự, sử dụng chung cho cả cấp tỉnh và cấp huyện
Tuy nhiên, những vấn đề nêu trên chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu
công việc của Kiểm sát viên. Các cấp, các ngành cần thiết phải triển khai thực
hiện đề án tiền lương, đề án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và
trang thiết bị làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó, có các định
mức, tiêu chuẩn phòng làm việc, trang thiết bị, phương tiện cho từng chức
danh Kiểm sát viên và công chức khác theo đặc thù Viện kiểm sát nhân dân.
Để thực hiện được những giải pháp trên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần
tập trung nghiên cứu, xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt các
đề án, chương trình, kế hoạch trong công tác bảo đảm tiền lương và phụ cấp,
cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho Kiểm sát viên và
công chức khác của Viện kiểm sát nhân dân theo lộ trình cụ thể, phù hợp với
yêu cầu cải cách tư pháp.
Bên cạnh những giải phải nêu trên, qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có
nhiều cách làm hay của các Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong việc nâng
cao chất lượng của Kiểm sát viên trong Kiểm sát giải quyết các vụ án hành
chính nhằm bảo vệ quyền con người như: Tổ chức cuộc thi “Xây dựng bài
phát biểu của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa dân sự hành chính” nhằm
đẩy mạnh phong trào tự học tập, nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp
luật, giúp đội ngũ Kiểm sát viên nâng cao hiểu biết và kỹ năng nghiệp vụ
kiểm sát tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hành chính, nhằm mục đích bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, lợi ích hợp pháp của nhà nước; Tổ chức
sinh hoạt vào ngày Pháp luật hàng tháng với nội dung: phổ biến các văn bản
hướng dẫn mới, còn quán triệt đầy đủ các Thông báo rút kinh nghiệm của
Viện kiểm sát cấp cao, Viện kiểm sát tối cao
3.2.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp

88
luật, vi phạm quyền con người của ngành
Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, vi
phạm quyền con người của ngành: cơ quan cấp trên kiểm tra cơ quan cấp
dưới, kiểm tra nội bộ trong ngành kiểm sát; trường hợp có cán bộ, kiểm sát
viên vi phạm cần xử lý theo quy định pháp luật.
Thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân là hoạt động phòng ngừa; xem
xét, đánh giá, xử lý theo quy định của pháp luật và của ngành khi có dấu hiệu
vi phạm pháp luật, quy định của ngành đối với tập thể; vi phạm pháp luật,
phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong
ngành Kiểm sát nhân dân.
Kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân là hoạt động xem xét, thẩm
định việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao đối với các đơn vị; cán
bộ, công chức, viên chức và ngƣời lao động trong ngành. Đối với những cán
bộ trong ngành kiểm sát vi phạm thì xử lý theo Quyết định số 183/QĐ-
VKSTC-T1 ngày 04/4/2016 ban hành Quy định về xử lý kỷ luật trong ngành
kiểm sát nhân dân.
Cán bộ thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải tuân thủ pháp luật, xử lý
mọi tình huống linh hoạt “có lý, có tình” trong từng trường hợp giao tiếp cụ
thể, phải lấy giáo dục, thuyết phục làm chính. Khi giao tiếp với các đối tượng,
cán bộ thanh tra phải chuẩn bị kỹ về tâm lý, nắm chắc pháp luật, đảm bảo
chứng cứ đầy đủ, sẵn sàng đối thoại, đấu tranh để làm sáng tỏ chân lý của sự
việc một cách khách quan và chính xác.
Nhằm đảm bảo cho việc thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ của ngành
Kiểm sát nhằm góp phần bảo vệ các quyền con người, quyền công dân theo
quy định của pháp luật cần chú trọng tới việc tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra trong ngành Kiểm sát. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
nghiệp vụ, công vụ và nội vụ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kịp thời xử lý
nghiêm minh những cá nhân vi phạm, tiêu cực, nhất là những trường hợp để

89
cố ý làm sai, những cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất. Thanh tra Viện
kiểm sát tối cao cần tăng cường thanh tra công vụ trong toàn Ngành, nhất là
đối với Viện kiểm sát cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Phòng Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh tăng cường thanh tra đối với các phòng nghiệp vụ, các Viện
kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố nhằm phát hiện những vi phạm,
nhất là trong công tác kiểm sát việc giải quyết án hành chính, nhằm xử lý
những vi phạm, đồng thời để tổng hợp thành những chuyên đề, những thông
báo rút kinh nghiệm để làm tài liệu nghiên cứu, phòng ngừa vi phạm.

90
Tiểu kết chƣơng 3
Quyền con người ngày càng được chú trọng bảo vệ, tuy nhiên, trong
thực tiễn vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định cho hoạt động này. Chính
vì vậy, đòi hỏi phải tích cực tìm kiếm và áp dụng đồng bộ các biện pháp để
đảm bảo tốt hơn quyền con người trong tố tụng hành chính sơ thẩm qua hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát. Tăng cường bảo vệ quyền con người qua
kiểm sát giải quyết các án hành chính theo thủ tục sơ thẩm trước hết là nỗ lực
của cơ quan Viện kiểm sát, nhưng cũng cần sự tương thích, phù hợp trong
hoạt động của cơ quan hữu quan như Tòa án, Hội thẩm nhân dân và của chính
bản thân người tham gia tố tụng. Do vậy, các giải pháp vừa chú trọng tới kiện
toàn tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát, đồng
thời phải chú trọng tới tổ chức và hoạt động của cơ quan hữu quan khác. Về
phía người tham gia tố tụng, để góp phần bảo vệ quyền của chính mình, bản
thân họ cũng phải nâng cao ý thức phải luật và khả năng sử dụng pháp luật
của mình để tận dụng tốt hơn nữa những tác dụng từ hoạt động kiểm sát đem
lại.

91
KẾT LUẬN
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý của hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của cơ quan Viện kiểm
sát, luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hành chính nói chung và theo thủ tục sơ thẩm nói riêng, khái niệm và nội
dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành
chính, bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành
chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, phân tích
thực trạng hoạt động này của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình giai
đoạn từ 01/7/2016-31/5/2020, giai đoạn thi hành Hiến pháp 2013, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và thi hành Luật Tố tụng hành chính 2015;
Luận văn cũng phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác
kiểm sát ., nguyên nhân của tình trạng từ đó, đề xuất một số phương
hướng và giải pháp thiết thực nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người qua
hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
của ngành Kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học của người làm thực tiễn công tác
kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hành chính từ giai đoạn Luật Tố tụng
hành chính 2015 có hiệu lực thi hành, tác giả chú trọng tới chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hành chính theo thủ tục sơ thẩm của
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh – nơi mà thời gian qua tình hình tranh chấp
về khiếu kiện hành chính có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Các giải pháp
của luận văn chủ yếu hướng tới kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực kiểm
sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hành chính của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, luận văn cũng
chú trọng tới các giải pháp khác nhằm đảm bảo tính đồng bộ và hiệu lực, hiệu
quả của hoạt động kiểm sát theo các mục tiêu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền

92
con người hiện nay, như nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát và hoạt động
xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, nâng cao ý thức
và năng lực sử dụng pháp luật của chính người tham gia tố tụng.

93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban cán sự Đảng VKS nhân dân tối cao (2011), Đề án nghiên cứu việc
chuyển VKS thành Viện Công tố, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Thông báo kết luận số 230-TB/TW
ngày 26/3/2009 về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Bộ Chính trị, Kết luận 79-KL/TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân, VKS nhân dân và cơ quan điều tra, Hà Nội.
6. Khoa Luật ĐHQG Hà Nội (2016), Bình luận khoa học Hiến pháp nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật,
Hà Nội: Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.
7. Lê Phương Thanh (2015), Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong TTHC
ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã
hội, Hà Nội.
8. Lê Tuấn Phong (2017), Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu của cải cách
tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học, Học Viện Chính trị quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh;
9. Minh Đạo, Kiểm sát các hoạt động tư pháp - chức năng quan trọng của
VKS nhân dân, Tạp chí kiểm sát, số 10, năm 2012.

94
10. Hoàng Thế Liên (chủ biên, 2015), Hiến pháp năm 2013 - Những điểm
mới mang tính đột phá (sách chuyên khảo); Nxb. Tư pháp, Hà Nội:
Chương III – Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân.
11. Hội đồng thẩm phán TANDTC (2016), Nghị quyết số 04/2016/NQ-
HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2016 về Hướng dẫn thi hành một số quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật tố tụng hành
chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và
cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.
12. Nguyễn Huy Hoàn (2005), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư
pháp, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
13. Nguyễn Văn Ban (2017), Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh trong xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn
thạc sỹ luật học, Học Viện Hành chính quốc gia;
14. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
15. Quốc hội (1992), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
16. Quốc hội (2002), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
17. Quốc hội (2010), Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội.
18. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
19. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
20. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội.
21. Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp (2016), Đề cương giới thiệu chi
tiết Luật Tố tụng hành chính 2015, Hà Nội.
22. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày
19/9/2016 giải đáp một số nghiệp vụ về tố tụng hành chính, tố tụng dân
sự, Hà Nội.

95
23. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC
ngày 07/4/2017 giải đáp một số nghiệp vụ, Hà Nội.
24. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày
19/9/2018 giải đáp một số nghiệp vụ về tố tụng hành chính, Hà Nội.
25. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 64/TANDTC-PC ngày
03/4/2019 về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về
hình sự, dân sự và tố tụng hành chính, Hà Nội.
26. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 212/TANDTC-PC ngày
13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về thông báo kết quả giải đáp
trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, Hà Nội.
27. Trần Hoàng Nhung (2015), Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền
công dân của Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát
nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.
28. Trần Thị Thu Hà (2014), Vai trò của Viện kiểm sát trong tổ tụng hành
chính, qua thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng hành
chính, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
30. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa – Nxb tư pháp, Hà Nội.
31. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tổng kết công
tác kiểm sát năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2018,
Quảng Bình.
32. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2018), Báo cáo tổng kết công
tác kiểm sát năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2019,
Quảng Bình.

96
33. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2019), Báo cáo tổng kết công
tác kiểm sát năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2020,
Quảng Bình.
34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), số: 04/CT-VKS Chỉ thị về tăng
cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của
pháp luật, Hà Nội.
35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ
kiểm sát, Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát - tập 6, lưu hành nội bộ,
Hà Nội 2016.
36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông
tư liên tịch 03/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC quy định việc phối hợp
giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành quy
định của Luật tố tụng hành chính
37. Vụ 10 – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Báo cáo sơ kết 03 năm
thực hiện Luật tố tụng hành chính năm 2015, Hà Nội.

97

You might also like