You are on page 1of 93

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

HỢP ĐỒNG MANG THAI HỘ THEO QUY ĐỊNH


CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

HỢP ĐỒNG MANG THAI HỘ THEO QUY ĐỊNH


CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MẠNH THẮNG

Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG


MỤC LỤC

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MANG THAI
HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO.......................................................................9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và đối tượng của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo.................................................................................................................9
1.1.1. Khái niệm.....................................................................................................9
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mang thai hộ vì mực đích nhân đạo theo quy định
của pháp luật Việt Nam.......................................................................................12
1.1.3. Đối tượng của hợp đồng mang thai hộ......................................................19
1.2. Giao kết hợp đồng mang thai hộ..................................................................20
1.2.1. Chủ thể trong giao kết hợp đồng mang thai hộ.........................................20
1.2.2. Trình tự giao kết hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo..............26
1.2.3. Thời điểm giao kết hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo..........28
1.2.4. Kết quả của việc giao kết hợp đồng mang thai hộ.....................................29
1.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo...31
1.4. Vô hiệu hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo...............................32
1.5. Thực hiện hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo............................36
1.5.1. Nguyên tắc cơ bản trong quá trình thực hiện hợp đồng............................36
1.5.2. Nội dung của việc thực hiện hợp đồng mang thai hộ................................36
1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo...............................................................................................................37
1.6.1. Tranh chấp hợp đồng mang thai hộ...........................................................37
1.6.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo......38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG
MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO............................................41
2.1. Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo hiện nay................................................................................41
2.1.1. Hình thức của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành.......................................................................41
2.1.2. Nội dung của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành.......................................................................43
2.2. Đánh giá ưu điểm, nhược điểm về hợp đồng mang thai hộ dưới hình thức
thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và tầm quan trọng của hợp đồng
mang thai hộ trong thực tế đời sống....................................................................57
2.1.1. Những ưu điểm của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện
nay 57
2.1.2. Nhược điểm của hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành.....................................................................................................60
2.1.3. Tầm quan trọng của hợp đồng mang thai hộ trong quan hệ pháp luật mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo...............................................................................65
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO...............................68
3.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mặt hình thức của hợp đồng mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành 68
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mặt nội dung của hợp đồng mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................75
PHỤ LỤC.............................................................................................................78
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng:

Kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa được
sử dụng và công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Mọi việc giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình./.

Hà Nội, Ngày 30 tháng 09 năm 2018


Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phượng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HNGĐ Hôn nhân và Gia đình


MTH Mang thai hộ
BV Bệnh viện
KHKT Khoa học kỹ thuật
IVF In Vitro Fertilisation - Phương pháp
thụ tinh trong ống nghiệm
TTTON Thụ tinh trong ống nghiệm
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
THS Thạc sĩ
BS Bác sỹ
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Như chúng ta đã biết, trong giao dịch dân sự hay bất cứ giao dịch nào có
sự thoả thuận của các bên thì hợp đồng chính là căn cứ pháp lý cơ bản, là nền
tảng quan trọng nhất của quá trình thỏa thuận. Hợp đồng không chỉ là nơi thể
hiện mong muốn, nguyện vọng của các bên tham gia giao dịch, hợp đồng còn là
căn cứ để giải quyết những tranh chấp phát sinh nếu một trong các bên vi phạm
nghĩa vụ của mình trong quá trình trực hiện thỏa thuận.

Kể từ khi xuất hiện sơ khai cho đến nay, tùy vào nhu cầu, đặc điểm, đối
tượng, hay loại giao dịch... mà hợp đồng thay đổi và thể hiện ở nhiều hình thức
và nội dung khác nhau sao cho phù hợp với nhu cầu thiết lập thỏa thuận của con
người.

Trong đó, có một loại hợp đồng mới phát sinh gần đây mà tôi cho rằng
khá đặc biệt, tuy không mấy phổ biến nhưng lại mang một ý nghĩa nhân văn sâu
sắc và tính nhân đạo to lớn, đó là “hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo”.

Mong muốn có con là một mong muốn hoàn toàn chính đáng của vợ
chồng, nhưng do một số trường hợp đặc biệt mà người vợ không thể tự mình
mang thai và sinh con chính vì thế họ đã cậy nhờ tới mang thai hộ.

Trên thực tế, trước khi pháp luật của nước ta quy định về vấn đề này thì
việc mang thai hộ vẫn diễn ra ngoài đời sống xã hội, tuy nhiên đến năm 2014,
khi Luật HNGĐ mới được ban hành thay thế cho luật trước đây thì vấn đề này
mới được ghi nhận. Đây cũng được xem là một bước phát triển của pháp luật khi
ghi nhận và điều chỉnh một vấn đề xã hội tương đối đặc biệt và phức tạp nhưng
lại phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.

Kể từ khi ra đời, các quy định về vấn đề mang thai hộ đã nhận được nhiều
sự quan tâm từ dư luận cũng như từ phía các nhà nghiên cứu pháp luật. Sau khi

1
ban hành những quy định quan trọng và cơ bản về mang thai hộ trong Luật
HNGĐ 2014, Chính phủ còn giải thích rõ hơn các quy định này tại Nghị định
10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Mục đích ban hành nghị định
nhằm giải thích về các quy định của pháp luật về việc sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm và hơn hết nghị định góp phần làm rõ các quy định về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và điều kiện để mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo. Tại đây, nghị định ban hành kèm theo 07 loại biểu mẫu là các mẫu
công văn, biên bản, đơn, cam kết, báo cáo, thỏa thuận… có liên quan đến quá
trình tiến hành việc thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện để mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo. Đáng chú ý là tại nghị định này, Chính phủ đã ban hành một
dạng thỏa thuận quan trọng, có yếu tố quyết định đến quyền và lợi ích của các
bên trong quan hệ mang thai hộ đó là “thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo”, đây được xem như một hợp đồng soạn sẵn chứa đựng đầy đủ các
thông tin chủ thể, ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
mang thai hộ. Thỏa thuận này cũng là nơi thể hiện ý chí chủ chể của đôi bên về
các vấn đề liên quan đến quá trình thiết lập và thực hiện quan hệ pháp luật mang
thai hộ.

Do “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” còn là một vấn đề mới mẻ, nên
các vấn đề liên quan đến mang thai hộ hiện nay không nhiều, bên cạnh đó các
quy định về “hợp đồng” cũng còn gặp khá nhiều vướng mắc. Bởi lẽ, mang thai
hộ vốn dĩ là một vấn đề dân sự nhạy cảm và phức tạp, ngoài việc áp dụng đúng
các quy định của pháp luật thì việc thiết lập một hợp đồng dân sự chặt chẽ, đúng
pháp luật giữa đôi bên cũng chính là căn cứ pháp lý để bảo vệ các bên trong
quan hệ này. Tuy nhiên, hiện tại “thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo” ban hành kèm theo Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì theo ý kiến tác giả vẫn
chưa đáp ứng được những yêu cầu cần thiết để trở thành một hợp đồng mang
thai hộ tiêu biểu. Chính vì thế, tác giả xin phép lựa chọn đề tài “Hợp đồng mang
thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài nghiên

2
cứu cho luận văn thạc sĩ của mình để đưa ra những dẫn chứng nhằm làm rõ hơn
quan điểm trên.

1. Tình hình nghiên cứu đề tài

Mới chỉ được pháp luật ghi nhận vào Luật HNGĐ năm 2014 nên vấn đề
mang thai hộ vẫn còn nhiều mới mẻ. Dù cũng đã có nhận được sự quan tâm từ
các nhà làm luật, cũng như các luật gia nghiên cứu, tuy nhiên tất cả cũng mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về những vấn đề chung về mang thai hộ, chứ
chưa có bất cứ một nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu về vấn đề “hợp đồng”
trong lĩnh vực này.

Qua tìm hiểu, tác giả nhận thấy đề tài về hợp đồng mang thai hộ là đề tài
có tính lý luận đồng thời tính áp dụng trong thực tiễn khá cao nhưng các công
trình nghiên cứu lại không nhiều hầu như chỉ tập trung nguyên cứu về tổng thể
các quy định về mang thai hộ chứ chưa đề cập sâu vào vấn đề hợp đồng. Khi
nhắc đến các công trình nghiên cứu chung về mang thai hộ, nổi bật có thể kể đến
một số cuốn sách chuyên khảo, luận văn và các bài viết phân tích khá chuyên
sâu về vấn đề này như sau:

Đầu tiên, phải kể đến cuốn sách chuyên khảo của tác giả Trương Hồng
Quang “Tìm hiểu quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” được Nhà xuất bản chính trị Quốc gia –
Sự thật xuất bản năm 2015. Nội dung cuốn sách được thể hiện dưới hình thức
hỏi – đáp pháp luật, mà nội dung các câu hỏi và câu trả lời đều xoay quanh vấn
đề sinh con bằng kỹ thuật TTTON và mang thai hộ để người đọc dễ dàng nắm
bắt. Ngoài ra, cuốn sách còn bao gồm 7 biểu mẫu được trình bày ở phần Phụ lục
là các đơn, bản cam kết, thỏa thuận mẫu... được sử dụng trong lĩnh vực nêu trên.

Năm 2016, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Sự thật tiếp tục xuất bản
cuốn sách “Quy định pháp luật về thụ tinh nhân tạo và mang thai hộ” nhằm cung
cấp cho người đọc các văn bản pháp luật có nội dung liên quan đến nội dung
trên. Cuốn sách đã tập hợp hóa các quy định pháp luật về thụ tinh trong

3
ống

4
nghiệm và mang thai hộ có trong Luật HNGĐ 2014, Nghị định chính phủ số
10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Sau nghị định ban hành, Bộ Y
Tế đã ban hành Thông tư số 57/2015/TT-BYT ngày 30-12-2015 quy định chi
tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP. Cuốn sách nhằm cung cấp
cho người đọc những nội dung của những văn bản pháp luật trên. Ngoài ra, cuốn
sách cũng cung cấp những quy định pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội cho lao
động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.

Thứ hai, luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Quỳnh Hoa mang tên “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ”. Luận văn được viết và bảo vệ năm
2014, cũng chính là thời điểm lần đầu tiên vấn đề “mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo” được pháp luật công nhận. Trong luận văn của mình, tác giả đã nêu ra
gần như đầy đủ về các vấn đề lý luận về mang thai hộ bao gồm các quyền, nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ, điều kiện mang thai hộ, các vấn đề
xoay quanh đến mang thai hộ trong đó có thỏa thuận mang thai hộ. Tuy nhiên,
luận văn cũng mới dừng lại ở việc giới thiệu về thỏa thuận mang thai hộ như
một tiểu mục nhỏ chứ chưa trực tiếp đi sâu vào vấn đề này.

Năm 2015, tác giả Phạm Thị Hương Giang, cũng đã nghiên cứu và bảo vệ
thành công luận văn thạc sĩ “Mang thai hộ trong luật hôn nhân gia đình 2014”.
Cũng như hầu hết các công trình nghiên cứu về mang thai hộ cùng thời
điểm, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai
hộ và cụ thể là vấn đề mang thai hộ được quy định trong Luật HNGĐ 2014. Đồng
thời đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đối vấn đề này. Nhìn chung,
đối với một công trình nghiên cứu khái quát về lý luận và thực tiễn của vấn đề
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì cả hai luận văn đều là những công trình
nghiên cứu khá chuyên sâu từ cả hai tác giả, có tính lý luận và thực tiễn cao trong
đời sống xã hội về vấn đề mang thai hộ.

Thứ ba, về công trình nghiên cứu khoa học, có thể kể đến 2 công trình
nghiên cứu mang tên “Mang thai hộ – sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp

5
luật ở Việt Nam hiện nay” năm 2013 của Trường Đại học Luật Hà Nội và công
trình nghiên cứu “Vấn đề mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành” năm 2015 của Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội… đây là những
công trình khoa học nghiên cứu tiêu biểu phân tích các vấn đề mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo dưới góc độ pháp lý có đầy đủ cả lý luận lẫn thực tiễn.

Ngoài ra, vấn đề về mang thai hộ còn thu hút được khá nhiều tác
giả,chuyên gia đưa ra những ý kiến, tham luận, các bài báo, cũng như các góp ý
đăng trên các tạp chí chuyên ngành về pháp luật như công trình nghiên cứu” của
tác giả Nguyễn Thị Hương – Khoa luật dân sự, Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 13/02/2001
- “Một số vấn đề pháp lý về mang thai hộ”. Bài viết đã đề cập đến nhiều khía
cạnh pháp lý của việc mang thai hộ, từ những phân tích về việc xác định cha mẹ
cho con, hay việc thỏa thuận về điều kiện mang thai cũng như điều kiện của các
bên trong quan hệ mang thai hộ... đây cũng là một trong những công trình
nghiên cứu từ khá lâu, đi trước, nắm bắt được những nhu cầu của xã hội về lĩnh
vực này, nhìn thấy sự cần thiết phải thể chế hóa “mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo” vào pháp luật. Sau khi mang thai hộ được thể chế hóa vào pháp luật Tác
giả Nguyễn Thị Lan cũng có một bài viết khá sâu sắc với nội dung “Mang thai
hộ và những vấn đề phát sinh” đăng trên Tạp chí Luật học số 04/2015 phân tích
những vấn đề còn vướng mắc liên quan đến pháp luật về mang thai hộ và đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này… Tiếp theo đó,
TS. Nguyễn Văn Cừ cũng đã có bài viết đăng trên tạp chí Luật học số 06/2016
“Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam” giới thiệu một cách tổng quát hầu hết
các vấn đề liên quan đến mang thai hộ tại Việt Nam; Trên Tạp chí Kiểm sát số
04/2016, tác giả Nguyễn Văn Lâm cũng có nêu quan điểm của mình về vấn đề
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với bài viết “Bàn về mang thai hộ theo quy
định của pháp luật Việt Nam”; Gần đây nhất vào tháng 10/2018, TS. Nguyễn
Hải an và Ths. Lê Thị Thu Thủy cũng có bài viết đăng trên hai kỳ của Tạp chí
Tòa án nhân dân điện tử về “Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình

6
mang thai hộ” và “Về điều kiện của việc mang thai hộ đối với người mang thai
hộ và một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình mang thai
hộ” phân tích một cách đầy đủ chi tiết tất cả các vấn đề liên quan đến mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết chuyên sâu khác
được đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành về pháp luật. Việc có khá nhiều
bài viết liên quan đến mang thai hộ chứng tỏ sức hút không hề nhỏ của vấn đề
này đối với các nhà luật học, các nhà nghiên cứu, cũng như sự quan tâm từ phía
dư luận.

Ở các công trình nghiên cứu trên, tập thể các tác giả đều tập trung nghiên
cứu một cách cơ bản, sâu sắc, có hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, khái
niệm bản chất của việc mang thai hộ, đồng thời đưa ra định hướng xây dựng
pháp luật ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đều tập trung
nghiên cứu ở khía cạnh vấn đề pháp lý và phân tích cụ thể các quy định của
pháp luật đề khái niệm, đặc điểm, những bất cập, vướng mắc của quy định mang
thai hộ theo quy định của pháp luật hiện hành, chứ chưa có công trình nào tập
trung nghiên cứu thỏa thuận mang thai hộ của các bên. Hay nói cách khác, “hợp
đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ và theo ý
kiến tác giả cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu tập trung làm rõ vấn đề này.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và
đi sâu làm rõ hợp đồng mang thai hộ.

- Nêu ra thực trạng của việc xác lập và thực hiện hợp đồng mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo ngoài đời sống thực tế.

- Nêu, phân tích, nhận xét đánh giá những quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề hợp đồng thai hộ vì mục đích nhân đạo.

- Đưa ra kiến nghị, đề xuất, hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

7
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Phạm vi nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu trong phạm vi pháp
luật của Việt Nam, thực tiễn diễn ra trong đời sống thực tế của xã hội nước ta
hiện nay về vấn đề hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Từ những lý luận trên cơ sở luật pháp và thực tiễn cuộc sống của hợp
đồng mang thai hộ ở nước ta hiện nay, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về vấn đề hợp đồng mang thai hộ.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận của đề tài là phương pháp nghiên cứu khoa học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa khoa học Mac – Lê Nin, và hệ
thống quan điểm lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Để đạt được những mục đích nghiên cứu đã đề ra, trong quá trình nghiên
cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp bình luận khi sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu vấn
đề chung về khái niệm, ý nghĩa của việc xác lập và thực hiện hợp đồng mang
thai hộ, những yếu tố ảnh hưởng tới việc xác lập và thực hiện hợp đồng mang
thai hộ.

- Phương pháp liệt kê, nêu ví dụ ở chương 2 khi đưa ra những trường hợp
xảy ra trong quá trình xác lập và thực hiện hợp đồng mang thai hộ diễn ra ngoài
thực tế cuộc sống, những vướng mắc từ quyền và nghĩa vụ của đôi bên trong
việc mối quan hệ của người mang thai hộ và người nhờ mang thai.

8
- Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp... được sử dụng ở chương 3 khi
xem xét, đánh giá những quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề
xác lập và thực hiện hợp đồng mang thai hộ, từ đó đưa ra kiến nghị về hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Nêu và làm rõ những vấn đề lý luận hợp đồng mang thai hộ.

- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành của việc xác
lập thỏa thuận mang thai hộ trên cơ sở hợp đồng.

- Việc áp dụng các quy định của pháp luật, thể hiện trong hợp đồng mang
thai hộ vào thực tế cuộc sống hiện nay, những thành tự đạt được và những hạn
chế bất cập.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, nêu ra phương hướng hoàn thiện các
quy định của pháp luật về hợp đồng mang thai hộ.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tác giả bố trí luận
văn thành 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo

Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo

9
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MANG THAI HỘ
VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO

1.1. Khái niệm, đặc điểm và đối tượng của hợp đồng mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo

1.1.1. Khái niệm

Hợp đồng có những tên gọi khác nhau như thỏa thuận, khế ước, giao kèo,
thỏa ước... dù rất gần gũi thiết yếu và quen thuộc với mọi người, nhưng khi hỏi
nó là gì thì không phải ai cũng có thể định nghĩa được.

Tại cuốn từ điển pháp luật nổi tiếng của Hoa Kỳ, có đưa ra 2 định nghĩa
khác nhau về hợp đồng.

Định nghĩa thứ nhất: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều
người, mà tạo lập nên một nghĩa vụ, làm hoặc không làm một việc cụ thể”

Định nghĩa thứ hai: “Hợp đồng là một sự hứa hẹn hoặc tập hợp sự hứa
hẹn mà đối với việc vi phạm nó, pháp luật đưa ra một chế tài, hoặc đối với việc
thực hiện nó, pháp luật, trong đó một số phương diện, thừa nhận như là một
trách nhiệm” [22].

Tại Bộ luật dân sự Queébec (Canada) 1994 cũng định nghĩa: “Hợp đồng
là một sự thỏa thuận các ý chí mà bởi nó hoặc một số người tự ràng buộc mình
với một hoặc một số người khác để thực hiện một cam kết” (Điều 1378).

Theo Bộ luật dân sự Pháp 1804, “Hợp đồng là sự thỏa thuận mà theo đó
một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều nguời khác chuyển giao một
vật, làm hoặc không làm một việc nào đó” (Điều 1101).

Bộ luật dân sự Nga cho rằng: “Hợp đồng được thừa nhận như một thỏa
thuận đuợc giao kết bởi hai hoặc nhiều người về việc phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420 khoản 1).

10
Theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự”.

Qua các khảo sát trên ta thấy rằng, định nghĩa hợp đồng đều thể hiện ở 2
vấn đề lớn. Thứ nhất: sự trao đổi và thống nhất giữa các ý chí hay sự thỏa thuận.
Thứ hai, việc tạo lập nên hợp đồng là tạo lập nên một hậu quả pháp lý”[3, tr10 -
11].

Như vậy, dựa trên các định nghĩa mà tác giả có nêu ra ở trên, thì có thể
tổng kết rằng: “Hợp đồng là thỏa thuận ý chí của các bên khi tham gia quan hệ
dân sự”. Yếu tố thỏa thuận chính là yếu tố quyết định tạo nên hợp đồng. Thỏa
thuận là sự bàn bạc, tham luận, cân nhắc, trao đổi đi đến thống nhất ý chí của đôi
bên, kết hợp với các nhóm quyền và nghĩa vụ khi bàn bạc, thỏa thuận này sau đó
được gọi chung là hợp đồng.

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện,
không vì mục đích thương mại, giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh
sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh
trong ống nghiệm sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai
để người này mang thai và sinh con [19, tr9]. Cặp vợ chồng có nhu cầu mang
thai hộ cung cấp noãn và tinh trùng, chính là cha mẹ sinh học thật sự của đứa
trẻ, được gọi là “vợ chồng nhờ mang thai hộ”. Cặp vợ chồng có người vợ là
người nhận mang thai hộ gọi là “vợ chồng người mang thai hộ” [21].

Từ hai khái niệm trên, ta có thể định nghĩa về hợp đồng mang thai hộ như
sau: Hợp đồng mang thai hộ là một văn bản chứa đựng sự thỏa thuận, thống
nhất ý chí của bên nhờ mang thai hộ là cặp vợ chồng vô sinh với bên mang thai
hộ là người phụ nữ tự nguyện mang thai vì mục đích nhân đạo, nhằm thực hiện
các quyền và nghĩa vụ với nhau trong quan hệ pháp luật về mang thai hộ. Hợp
đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam là biên bản thỏa thuận

11
việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được tạo nên từ ý chí của bên nhờ mang
thai hộ với bên mang thai hộ một cách tự nguyện, thiện chí và dựa trên các quy
định của pháp luật.

Trong mang thai hộ, trước khi các chủ thể tiến hành hoạt động mang thai
hộ thì việc đầu tiên đó là các bên phải thỏa thuận với nhau những nội dung trong
suốt quá trình mang thai hộ. Nói nôm na, đó chính là sự bàn thảo để tạo nên một
hợp đồng dân sự mang tên hợp đồng mang thai hộ.

Thực chất, hợp đồng mang thai hộ đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện vào
năm 1979 tại Hoa Kỳ, khi bác sỹ M.Levin đã thấu hiểu nguyện vọng của một
cặp vợ chồng không thể có con vì người vợ không thể mang thai. Ông đã có ý
tưởng, cậy nhờ một người phụ nữ khác mang thai hộ người mẹ, mà phôi thai vẫn
lấy từ trứng và tinh trùng của cặp vợ chồng. Bước đầu thực hiện ý tưởng này,
ông đã vấp phải khá nhiều vấn đề về pháp lý khi chưa có một văn bản pháp luật
nào cụ thể quy định rõ về trường hợp này. Phải mất khá lâu vị bác sỹ, cùng với
các nhà luật sư cũng như các nhà nghiên cứu mới có thể tìm hiểu hết và lập ra
một “hợp đồng” kín kẽ đảm bảo mối quan hệ cũng như quyền lợi của các bên
tham gia quan hệ pháp luật khá nhạy cảm này. Đây cũng được coi là ‘Hợp đồng
mang thai hộ” hợp pháp đầu tiên trên thế giới [4, tr14].

Khác với các nước trên thế giới, ở Việt Nam, hợp đồng mang thai hộ
không được thể hiện dưới tên gọi “hợp đồng” mà thể hiện ở một tên gọi khác có
ý nghĩa tương tự là “thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ”. Tuy có
khác nhau về cách đọc cách viết nhưng nội dung của thỏa thuận mang thai hộ
cũng chứa đựng các thông tin chủ thể, các quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia quan hệ mang thai hộ, các thông tin thương lượng của đôi bên trong quá
trình hỗ trợ mang thai, giao nhận con và các thỏa thuận khác…Thỏa thuận mang
thai hộ cũng chính là căn cứ xác lập có tồn tại sự việc mang thai hộ, phân định
rõ trách nhiệm cũng như quyền lợi của các bên trong quan hệ mang thai hộ.
Đồng thời cũng là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ
này.

12
Dựa trên sự tương đồng về nội dung cũng như nhiệm vụ của “Thỏa thuận
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và “Hợp đồng mang thai hộ”. Để đảm bảo
sự thống nhất về nội dung nghiên cứu, cũng như tính xuyên suốt trong quá trình
thực hiện đề tài này. Kể từ đây, tác giả xin phép nghiên cứu về “Thoả thuận
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” dưới góc độ của một “Hợp đồng mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo” và phân tích nó dưới cái nhìn của một hợp đồng mang
thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Cụm từ “Hợp đồng
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” cũng xin được ngắn gọi lại là “hợp đồng
mang thai hộ”.

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mang thai hộ vì mực đích nhân đạo theo
quy định của pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, hợp đồng mang thai hộ là hợp đồng song vụ

Pháp luật Việt Nam từ trước tới nay, tỏ ra đồng nhất trong việc phân loại
hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ là phân loại đầu tiên được nhắc đến trong
bộ luật dân sự [3, tr190].

Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau
[10, tr186].

Có nghĩa là, hợp đồng song vụ là sự ràng buộc của hai bên, hay song
phương, khi các bên tự ràng buộc mình một cách qua lại, mỗi bên đối với bên
kia, để nghĩa vụ của một bên, ứng với nghĩa vụ của bên kia [3, tr190].

Trong hợp đồng mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của các bên được thể
hiện đối xứng với nhau ở các mặt sau đây:

“Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ
như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con
cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho
bên nhờ mang thai hộ. Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm
khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào

13
thai theo quy định của Bộ Y tế. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản
theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm
giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến
thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì
người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày.
Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của
thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp
tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm
sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong trường
hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu
cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con” [12, tr67].

Tương xứng với các quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ, bên nhờ mang
thai hộ cũng có các quyền và nghĩa vụ như sau:

“Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế. Quyền, nghĩa vụ
của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời
điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản
theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận
con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối
nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm
nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan;
nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường hợp
bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp
luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp bên mang thai
hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên
mang thai hộ giao con.”[12, tr68]

Mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam là mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo, không vì bất cứ lợi ích kinh tế, hay vật chất nào khác. Tuy

14
nhiên, điều đó không làm ảnh hưởng đến tính chất song vụ của hợp đồng này.
Bởi lẽ, nghĩa vụ của đôi bên khi tham gia vào quan hệ mang thai hộ không chỉ
dừng lại ở nghĩa vụ kinh tế, nghĩa vụ vật chất. Mà đối với hợp đồng mang thai
hộ, nghĩa vụ của đôi bên còn thể hiện tương xứng với nhau và với đứa trẻ.

Như vậy, có thể thấy trong hợp đồng mang thai hộ, song song với quyền
lợi của bên này, chính là trách nhiệm của bên kia. Tồn tại sự đối xứng về quyền
và lợi ích của các bên trong quan hệ mang thai hộ. Sự đối xứng này không phải
là sự đối xứng tuyệt đối, nhưng nó sự cân bằng về lợi ích của các bên. Sự cân
bằng này cũng tạo nên tính chất song vụ trong hợp đồng mang thai hộ.

Thứ hai, hợp đồng mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự đặc biệt.

Khác với những dạng hợp đồng dân sự thông thường khác, khi đối tượng
hướng đến của các hợp đồng này hầu hết là những lợi ích vật chất liên quan đến
tài sản hoặc những giá trị vật chất phục vụ cho đời sống con người. Còn hợp
đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì khác, điểm đặc biệt của loại hợp
đồng này được thể hiện ở chỗ đối tượng mà các bên tham gia thỏa thuận hướng
tới ở đây chính là đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp mang thai hộ. Xác định
được đối tượng hướng tới của hợp đồng này là con người hơn thế lại còn là một
đứa trẻ đòi hỏi pháp luật phải đưa ra rất nhiều biện pháp phòng tránh những bất
lợi có thể xảy đến đối với đối tượng đặc biệt này, phải có những quy phạm pháp
luật đảm bảo đầy đủ các quyền lợi hợp pháp đáng có của trẻ em theo quy định
của pháp luật và các điều ước quốc tế về bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em.

Bên cạnh đó, bằng một cách nhân văn hợp đồng mang thai hộ là sự biểu
hiện của khát khao được làm cha mẹ của bên nhờ mang thai hộ và mong muốn
được giúp đỡ của bên mang thai hộ để tạo ra đứa con cùng huyết thống cho cặp
vợ chồng vô sinh hiếm muộn. Yêu cầu mang thai hộ phải vì mục đích nhân đạo,
và không vì lợi ích vật chất hay bất kỳ lợi ích nào khác. “Mục đích nhân đạo”
chính là cái đích cuối cùng, xuyên suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng.

15
Thứ ba, hợp đồng mang thai hộ ở Việt Nam không được phép tạo lập vì
mục đích thương mại.

Không chỉ có ở Việt Nam mà ở đại đa số các quốc gia, thiết lập hợp đồng
mang thai hộ vì mục đích thương mại là một hành vi bị cấm.

Tại Australia, mang thai hộ đã được pháp điển hóa thành pháp luật và có
sự khác biệt tại các tiểu bang. Mang thai hộ được thừa nhận hợp pháp tại
Queenland kể từ ngày 01/06/2010, tuy nhiên, mang thai hộ vì mục đích thương
mại là hoàn toàn bị cấm ở quốc gia này. Tương tự như vậy, tại 2 bang New
South Wales và Australia Capital Teritory, các hợp đồng mang thai hộ phải đáp
ứng được các điều kiện về độ tuổi thích hợp và từng mang thai sinh con theo đạo
luật số 34, đạo luật mang thai hộ và đạo luật mang thai hộ sửa đổi, luật số 31 về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Trong đạo luật mang thai hộ 2010 của
Australia tại thỏa thuận mang thai hộ của các bên chủ thể có điều khoản, "đứa
trẻ ra đời là con của người nhờ mang thai hộ, chuyển giao quyền nuôi duỡng,
giám hộ cho người nhờ mang thai hộ từ sau khi sinh đến suốt đời còn lại của đứa
trẻ". Luật này cũng quy định, cặp vợ chồng mang thai hộ cũng là bố mẹ hợp
pháp của đứa trẻ từ lúc bắt đầu mang thai đến khi chuyển giao đứa trẻ. Trong
quá trình mang thai, tính mạng đứa trẻ do người phụ nữ mang thai hộ quyết
định. Nếu có bất kỳ tranh chấp nào, thì Toà Vị thành niên sẽ là tòa có thẩm
quyền giải quyết. Những quy định này, tương đối giống với các quy định về
mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.

Tại Ukraine, mang thai hộ đuợc công nhận hợp pháp kể từ năm 2002, việc
ban hành và thực thi pháp luật mang thai hộ có ý nghĩa to lớn trong việc góp
phần hỗ trợ đầy đủ quyền sinh sản của cá nhân.

Hunggari, Hà Lan, Bỉ, Canada, Nam Phi, Anh, Hy Lạp... cũng là một
trong những quốc gia tiêu biểu cho phép mang thai hộ nhưng phải vì mục đích
nhân đạo. Nghiêm cấm việc mang thai hộ vì mục đích thương mại. Kể cả pháp
luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng quy định rất chặt chẽ, bao gồm

16
cả các thỏa thuận mang thai hộ hay còn gọi là hợp đồng cũng không được phép
thể hiện mục đích thương mại, hay bất kỳ mục đích vật chất nào khác [9, tr23-
29].

Quay trở lại với các quy định của pháp luật Việt Nam. Ở nước ta, pháp
luật nghiêm cấm hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại. Để bảo
vệ chế độ hôn nhân và gia đình pháp luật cấm thực hiện sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại
[12, tr14]. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định cả chế tài xử phạt đối với hành
vi “tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại” với nội dung như sau “Người
nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000
đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt
tù từ 03 tháng đến 02 năm. Bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm khi thuộc một trong
các trường hợp: Đối với 02 người trở lên; Phạm tội 02 lần trở lên; Lợi dụng
danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; Tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra, người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm” [11, tr142].

Sở dĩ pháp luật nghiêm cấm hành vi mang thai hộ vì mục đích thương
mại, cũng như trong hợp đồng mang thai hộ không được phép quy định về lợi
ích kinh tế hay lợi ích vật chất khác bởi vì: không thể xem đứa trẻ như một món
hàng trao tay, cũng như không thể xem việc mang thai hộ hay thỏa thuận mang
thai hộ chỉ là một hợp đồng “thuê tử cung” đơn thuần. Nếu pháp luật cho phép
mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì không khác nào nhà nước đang tạo
điều kiện cho dịch vụ "đẻ thuê" trở nên phát triển, điều đó không chỉ gây ảnh
hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục mà còn là điều kiện
thuận lợi để tội phạm buôn bán người có cơ hội hoạt động, gây ra hậu quả khôn
lường cho xã hội. Vậy nên, nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại là
việc làm cần thiết để nhà nước kiểm soát được tình trạng mang thai hộ diễn ra

17
trên thực tế, cũng như có những chế tài răn đe đối với những trường hợp cố tình
vi phạm.

Thứ tư, hợp đồng mang thai hộ luôn phải đảm bảo các nguyên tắc chung
trong giao kết hợp đồng dân sự

Về bản chất, hợp đồng mang thai hộ là hợp đồng dân sự, chính vì thế, như
bao hợp đồng dân sự khác, hợp đồng mang thai hộ phải tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc của một hợp đồng dân sự thông thường bao gồm: Nguyên tắc bình
đẳng; Nguyên tắc thiện chí trung thực; Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự;
Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; Nguyên tắc tôn trọng lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật; Nguyên tắc hoà giải; … Ngoài ra còn có một
nguyên tắc hết sức quan trọng mà cả hai bên cần phải nắm rõ đó là nguyên tắc
tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân,
chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Khi quyền dân sự của
một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của
Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: Công nhận quyền dân
sự của mình; Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; Buộc bồi thường thiệt hại…

Trong thực tế đời sống, mang thai hộ đã tồn tại từ lâu, kể từ khi phương
pháp thụ tinh trong ống nghiệm được áp dụng thành công. Duới tên gọi “đẻ
mướn” mang thai hộ chỉ được hiểu đơn thuần là việc một người phụ nữ mang
nặng đẻ đau hộ nguời phụ nữ khác. Sự việc này vẫn xảy ra ngoài thực tế mà
không có bất cứ điều khoản hay chế tài nào bảo vệ nếu có tranh chấp xảy ra.
Nhận thấy sự cần thiết của việc cần có một bộ các quy tắc xử sự chung điều
chỉnh về vấn đề này nên pháp luật đã cho ra đời chế định về mang thai hộ nhằm
đảm bảo cho các quyền dân sự của các chủ thể trong quan hệ này được đảm bảo.
Việc nắm rõ các nguyên tắc trong hợp đồng nhằm đảm bảo cho hợp đồng mang
thai hộ được thiết lập đúng trình tự pháp luật, đúng các quyền và nghĩa vụ. Tôn
trọng đạo đức và pháp luật, phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và

18
bảo đảm ý nghĩa nhân văn to lớn của quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo.

Thứ năm, hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một hợp đồng
trọng hình thức.

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định “Thỏa thuận về việc mang thai
hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên
nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền
cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công
chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý.

Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và
bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực
hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác
nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này”[12, tr66].

Pháp luật không chỉ quy định về hình thức của thỏa thuận mang thai hộ
mà còn định hướng xây dựng các nội dung chính của thỏa thuận này. Bởi lẽ
mang thai hộ là một quan hệ có tính chất phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, đối
tượng của hợp đồng lại vô cùng đặc biệt. Chính vì thế, thỏa thuận mang thai hộ
phải được lập thành văn bản với những nội dung cụ thể.

Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận bắt buộc phải được công chứng, chứng
thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi lẽ, khi văn bản này được công
chứng hoặc chứng thực thì đồng nghĩa với việc nhà nước đã thể hiện ý chí chấp
nhận và bảo vệ thỏa thuận này, đảm bảo cho việc thực hiện thỏa thuận này của
các bên. Đó cũng chính là cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên, trong đó có quyền của người nhờ mang thai hộ được mặc
nhiên công nhận là bố mẹ của đứa trẻ khi đăng ký khai sinh và các giấy tờ hộ
tịch khác, tránh những tranh chấp không cần thiết.

19
Trong trường hợp một trong các bên vợ chồng của người mang thai hộ
hoặc người nhờ mang thai hộ không thể trực tiếp thỏa thuận về văn bản thì bên
vợ chồng con lại phải ủy quyền cho nhau và việc ủy quyền nhất thiết phải lập
văn bản có công chứng. Quy định này nhằm đảm bảo cặp vợ chồng của mỗi bên
đều, biết và đồng ý với việc mang thai hộ, tránh trường hợp một bên vợ chồng tự
thực hiện thỏa thuận dẫn đến tình trạng tranh chấp phát sinh sau này. Đồng thời,
việc ủy quyền chỉ được thực hiện giữa hai vợ chồng của bên mang thai hộ và
bên nhờ mang thai hộ mà không phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba nào
khác.

1.1.3. Đối tượng của hợp đồng mang thai hộ

Đối tượng của hợp đồng thông thường là thứ mà các bên tham gia giao
dịch hướng tới và mong muốn đạt được. Đối tượng này có thể là tài sản, có thể
là tiền hoặc những giá trị vật chất khác mà trước khi tham gia giao dịch các chủ
thể đã đặt ra và mong muốn có được.

Khác với những hợp đồng giao dịch thông thường, hợp đồng mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo là một hợp đồng dân sự đặc biệt. Theo ý kiến tác giả, thừa
nhận mang thai hộ là hợp pháp cũng chính là lần đầu tiên pháp luật thừa nhận
con người là đối tượng của hợp đồng. Quan điểm này dẫu còn đang vướng phải
nhiều tranh cãi, bởi nhiều người cho rằng, xem đối tượng là đứa trẻ thì có vẻ
không phù hợp với quan niệm truyền thống của nước ta, bởi vì nếu xem đứa trẻ
là đối tượng của một hợp đồng dân sự thì không khác mấy với việc đứa trẻ chính
là “món hàng” trong giao dịch “thuê tử cung”. Cũng chính vì điều này, mà
pháp luật Đức và một số quốc gia khác cấm việc mang thai hộ dưới mọi hình thức
với quan điểm, “việc làm này vi phạm nhân phẩm con người”[8]. Nhưng theo ý
kiến tác giả, việc xem đứa trẻ chính là đối tượng chính của hợp đồng mang thai
hộ không phải là hành vi vi phạm đạo đức hay đi ngược với truyền thống, văn
hóa mà xác định được đúng đối tượng của hợp đồng, hiểu rõ được bản chất của
đối tượng mới có thể áp dụng những quy chế bảo vệ đặc biệt để đảm bảo an toàn
nhất cho cả bà mẹ và trẻ em. Bởi đứa trẻ là một thực thể đặc biệt, dễ gánh chịu

20
những tổn thương về thể chất cũng như tinh thần. Cũng có nghĩa, đối tượng
đặc biệt này luôn cần sự che chở bảo vệ về cả mặt pháp lý cũng như trong đời
sống tình cảm, tránh tối đa sự thiệt thòi cho đứa trẻ, cũng như hạn chế đến mức
thấp nhất việc đứa trẻ ra đời vấp phải sự chối bỏ của những người thân gây tổn
hại đến sự phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần của đứa trẻ sau này.

Nhìn thẳng vào thực tế, xác định được chính xác đối tượng, tìm hiểu được
những tính chất riêng biệt của đối tượng mới có thể có những biện pháp bảo đảm
cần thiết từ pháp luật nhằm bảo vệ cho đối tượng đặc biệt này.

1.2. Giao kết hợp đồng mang thai hộ

Giao kết hợp đồng mang thai hộ là việc bên nhờ mang thai hộ và bên
mang thai hộ bày tỏ ý chí với nhau theo nguyên tắc và trình tự nhất định để qua
đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ trong quan hệ mang thai hộ.

Bản chất của giao kết hợp đồng mang thai hộ là sự thỏa thuận, trong đó
các bên thực hiện sự bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích
nhất định. Mà lợi ích ở đây là mong muốn được giúp đỡ bên nhờ mang thai hộ
có đứa con ruột thịt của mình chứ không vì các lợi ích vật chất thông thường.

Việc giao kết hợp đồng mang thai hộ cũng được xác lập trên cơ sở của sự
thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên.

1.2.1. Chủ thể trong giao kết hợp đồng mang thai hộ

Như chúng ta đã biết, tuy là một quan hệ pháp luật đặc biệt nhưng quan hệ
mang thai hộ vẫn là một quan hệ pháp luật dân sự và chủ thể tham gia hợp đồng
mang thai hộ là chủ thể tham gia quan hệ dân sự.

Theo định nghĩa trong giáo trình Luật Dân sự Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì chủ thể của quan hệ dân sự là những “người” tham gia vào
các quan hệ đó. Phạm vi “người” tham gia vào quan hệ pháp luật bao gồm: cá
nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch), pháp
nhân [4, tr64].

21
Chủ thể tham gia quan hệ mang thai hộ phải đảm bảo có đầy đủ năng lực
chủ thể. Năng lực chủ thể ở đây là khả năng có quyền dân sự và khả năng chịu
trách nhiệm dân sự. Trong hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, chủ thể
của hợp đồng này là người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ. “Người” ở
đây bao gồm vợ, chồng bên mang thai hộ, và vợ, chồng bên nhờ mang thai hộ.
Bởi vì, trong hợp đồng mang thai hộ, yêu cầu phải có sự đồng ý của cả hai bên
vợ chồng, hợp đồng mới có hiệu lực. Pháp luật Việt Nam không cho phép phụ
nữ chưa có gia đình và chưa mang thai lần nào được phép mang thai hộ, chính vì
thế, trong hợp đồng mang thai hộ, tuy nói rằng có 2 bên chủ thể, tuy nhiên có
đến bốn người có quyền và nghĩa vụ và thực hiện việc ký tên trong hợp đồng
này.

Ngoài việc đáp ứng được những điều kiện về chủ thể như các hợp đồng
dân sự khác thì chủ thể của hợp đồng mang thai hộ còn phải đáp ứng được
những điều kiện đặc biệt khác như sau:

Điều kiện chủ thể của bên nhờ mang thai hộ

Một là, đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa cặp vợ chồng
nhờ mang thai hộ.

Đây là quy định nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng với
nhau cũng như đối với đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ. Quy định này
giúp đứa đứa trẻ sinh ra có đầy đủ cả cha lẫn mẹ. Được hưởng tình yêu thương,
sự chăm sóc và bảo vệ từ cả hai người như bất kỳ đứa trẻ nào khác được sinh ra
theo tự nhiên.

Cũng từ quy định này, ta có thể ngầm hiểu, đối với những người phụ
nữ đang độc thân mà có nguyên nhân vô sinh giống như nguyên nhân vô sinh của
người vợ trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ thì những người phụ nữ này
cũng không thể là chủ thể của một hợp đồng mang thai hộ và không được pháp
luật công nhận hợp pháp. Ngoài ra, đối với nhóm đồng tính, song tính, dị tính …
muốn sinh con bằng hình thức mang thai hộ thì cũng không được xem là hợp
pháp do pháp luật Việt Nam hiện tại cũng chưa công nhận việc kết hôn đồng

22
giới nên hôn nhân giữa họ cũng không được xem là hôn nhân hợp pháp. Chính
vì thế, những đối tượng này không được xem là chủ thể của hợp đồng mang thai
hộ. Tuy nhiên, ở mỗi nền kinh tế khác nhau, điều kiện kinh tế, văn hóa, những
vấn đề phong tục tập quán, những quan niệm về đạo đức và những giá trị khác
nhau thì pháp luật cũng có những cách ghi nhận và điều chỉnh khác nhau, nhưng
đích cuối cùng cũng là vì con người, vì quyền cơ bản của con người [16]. Có
nhiều ý kiến cho rằng, nên mở rộng đối tượng được phép nhờ mang thai hộ bằng
cách bỏ đi điều kiện này. Tuy nhiên, để đảm bảo việc cấm mang thai hộ một
cách tràn lan và đảm bảo lợi ích tốt nhất cho đứa trẻ khi sinh ra được có đầy đủ
cả bố và mẹ thì đây vẫn còn là một quy định đảm bảo tính nhân đạo của loại hợp
đồng đặc biệt này.

Hai là, vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đang không có con chung.

Việc quy định này nhằm hạn chế việc mang thai hộ một cách tràn lan,
đảm bảo rằng việc mang thai hộ chỉ là phương án cuối cùng dành cho những cặp
vô sinh mong muốn có đứa con mang huyết thống của mình. Tuy nhiên, bởi quy
định này hiện vẫn chưa được giải thích rõ ràng nên vẫn đang tồn tại những cách
hiểu khác nhau như: trường hợp vợ chồng chưa có con chung nhưng bên vợ
hoặc chồng đã có con riêng thì vẫn có thể là chủ thể của hợp đồng mang thai hộ.
Bên cạnh đó, việc cặp vợ chồng dù đã có con chung nhưng đứa trẻ mắc những
ăn bệnh không thể chữa khỏi như bệnh Down, các chứng bệnh về trí tuệ, các
chứng bệnh tâm thần, các chứng bệnh liệt toàn thân… thì họ vẫn không thể là
chủ thể trong quan hệ mang thai hộ hợp pháp. Đây cũng chính là một trong
những quy định còn nhiều bất cập của điều kiện chủ thể của mang thai hộ. Chính
vì thế, đòi hỏi cần có sự điều chỉnh bổ sung về vấn đề này trong chế định mang
thai hộ của pháp luật nước ta trong tương lai.

Ba là, phải được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

Điều kiện này là rất cần thiết để các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ hình
dung được toàn bộ quá trình mang thai hộ, những vấn đề phát sinh xung quanh
việc mang thai hộ, đó có thể là việc thực hiện sẽ mất những chi phí tốn kém, khả

23
năng thành công chỉ chiếm khoảng 50%, những bất trắc có thể xảy ra trong quá
trình nhờ mang thai hộ. Ngoài ra, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ còn được tư
vấn về quyền và nghĩa vụ của mình trong việc nhờ mang thai hộ. Từ đó, họ
quyết định được có nên thực hiện việc nhờ mang thai hộ hay không, điều này
cũng là tiền đề để đảm bảo cho việc đứa trẻ ra đời là xuất phát từ mong muốn
thật sự của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ.

Bốn là, người vợ không thể mang thai và đẻ con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản.

Theo quy định này, có nghĩa là cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải rơi
vào tình trạng vô sinh. Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống,
có quan hệ tình dục 2 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ
vẫn không có thai [2]. Mà nguyên nhân vô sinh có thể do vợ hoặc chồng nhưng
người vợ không thể mang thai ngay cả khi có sự can thiệp của các biện pháp hỗ
trợ sinh sản song vẫn đảm bảo điều kiện người chồng có tinh trùng, người vợ có
noãn có đủ chất lượng để thụ tinh. Đây chính là điều kiện để đảm bảo việc đứa
trẻ sinh ra chính là đứa con cùng huyết thống của cả vợ và chồng, cũng chính là
việc nhằm hạn chế tối đa việc từ chối nhận con của cặp vợ chồng nhờ mang thai
hộ. Đây cũng là quy định thu hẹp lại đối tượng có thể nhờ mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo bởi lẽ, tình trạng vô sinh hiếm muốn hiện nay rất phổ biến, nhưng
rất ít các cặp vợ chồng mắc chứng vô sinh mà vẫn đảm bảo được điều kiện chất
lượng của trứng và tinh trùng vẫn tốt để thụ thai. Chính vì thế, điều kiện chủ thể
của người nhờ mang thai hộ hiện nay vẫn rất khắt khe.

Điều kiện chủ thể của người mang thai hộ

Một là, người mang thai hộ là người thân thích cùng hàng với bên vợ
hoặc chồng nhờ mang thai hộ.

Nghị định của chính phủ số 10/2015/NĐ – CP ngày 28/01/2015 quy định
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo quy định “người thân thích cùng hàng vợ chồng mang thai
hộ bao gồm anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha,

24
anh chị em con bác, con cô, con cậu, con dì của họ. Anh rể, em rể, chị dâu của
người cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ”

Trong khi đó theo luật HNGĐ thì thuật ngữ người thân thích không bao
gồm chị dâu, em dâu… có thể thấy việc giải thích như nghị định có phần rộng
hơn và không đồng nhất so với luật HNGĐ. Theo tác giả cần thiết có sự thay đổi
kịp thời theo hướng mở rộng đối với những người được phép mang thai hộ. Bởi
hiện nay, tỷ lệ dân số trong các gia đình cũng chỉ có từ một đến hai con, bên
cạnh đó tỷ lệ nam đang nhiều hơn nữ, việc cho phép chị dâu, em dâu có thể
mang thai hộ cho anh chị em trong gia đình là mở rộng cơ hội làm mẹ cho
những cặp vợ chồng hiếm muộn mà vẫn đảm bảo tính chất thân thích chứ không
phải là người ngoài. Bên cạnh đó, trong quy định này lại tồn tại cả chủ thể là
“anh, anh rể, em rể” mà theo khả năng thiên phú để làm mẹ thì nam giới không
thể là người mang thai hộ. Vậy nên, theo ý kiến tác giả, pháp luật cần có những
điều chỉnh sao cho phù hợp câu chữ trong điều luật này.

Việc yêu cầu chủ thể mang thai hộ phải là người thân thích nhằm đảm bảo
cho việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, tránh thương mại hóa việc mang
thai hộ, khiến cho những kẻ môi giới có thể biến bất cứ người phụ nữ nào cũng
có thể là đối tượng của hoạt động thương mại bất hợp pháp và vô nhân đạo này.
Tuy nhiên, quy định này cũng là một trong những rào cản không nhỏ cho những
cặp vợ chồng vô sinh muốn thực hiện mang thai hộ mà không tìm được người
mang thai hộ phù hợp theo đúng quy định của pháp luật.

Hai là, chủ thể mang thai hộ phải từng sinh con và chỉ được mang thai
hộ một lần.

Điều kiện này nhằm đảm bảo sự trải nghiệm của người mẹ mang thai hộ,
đảm bảo sự ổn định về tâm lý ổn định cho cả hai bên khi đón chờ đứa trẻ ra đời.
Ngoài ra, việc pháp luật chỉ đồng ý cho người mang thai hộ được mang thai một
lần nhằm đảm bảo sức khỏe sinh sản cho cả bà mẹ và trẻ em.

Ba là, chủ thể mang thai hộ phải đạt độ tuổi phù hợp và có các nhận của
tổ chức y tế có thẩm quyền về việc có khả năng mang thai hộ.

25
Hiện cũng vẫn chưa có văn bản nào quy định rõ về độ tuổi mang thai hộ
nhưng chắc chắn rằng người mang thai hộ phải đảm bảo đạt yêu cầu nằm trong
độ tuổi sinh sản nói chung nhằm đảm bảo sự an toàn cho người mang thai hộ,
thai nhi, và đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.

Bốn là, được tư vấn y tế, pháp lý, tâm lý.

Giống như bên nhờ mang thai hộ, việc được tư vấn y tế, pháp lý, tâm lý
giúp cho người mang thai hộ cân nhắc có nên mang thai hộ cho người khác hay
không.

Năm là, người phụ nữ mang thai hộ thì phải có sự đồng ý của người
chồng bằng văn bản.

Đây là điều kiện về ý chí của các bên trong việc mang thai hộ, bởi lẽ việc
mang thai hộ lúc này không phải là việc riêng của người vợ hoặc chồng mà nó
liên quan đến lợi ích của cả hai vợ chồng và cả gia đình họ. Lúc người vợ mang
thai hộ, cũng như những người phụ nữ khác, rất cần có sự quan tâm, chăm sóc từ
người chồng. Thêm nữa, điều kiện này cũng nhằm tránh những bất đồng quan
điểm về mang thai hộ làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình người mang thai
hộ.

Có thể nói, điều kiện chủ thể trong quan hệ mang thai hộ chính là điều
kiện khắt khe nhất mà các nhà làm luật đặt ra nhằm hạn chế việc mang thai hộ
tràn lan và không theo nguyên tắc nhân đạo. Ngoài việc đáp ứng được các điều
kiện chủ thể chủ quan về tình hình sức khỏe, về tình trạng hôn nhân, chủ thể còn
phải đáp ứng được các điều kiện khách quan về mối quan hệ gia đình của các
bên và đảm bảo về việc tư vấn tâm lý kỹ càng chi cả hai bên. Sở dĩ, pháp luật
quy định cụ thể những điều kiện về chủ thể này nhằm đảm bảo cho sự phát triển
của thai nhi trong thời kỳ mang thai hộ, cũng như việc đảm bảo cho đứa bé ra
đời bằng mang thai hộ phải được hưởng trọn tình yêu thương, sự quan tâm từ
cha mẹ cả hai bên như những đứa trẻ bình thường khác. Ngoài ra, các điều kiện
này còn nhằm giúp hạn chế việc thương mại hóa mang thai hộ trong thực tế cuộc
sống, rời xa mục đích căn bản của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

26
1.2.2. Trình tự giao kết hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Trình tự giao kết hợp đồng mang thai hộ là một quá trình mà trong đó các
bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến rồi đi đến thỏa thuận
trong việc cùng nhau xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau, xác
định từng nội dung cụ thể của hợp đồng.

Cũng như trình tự giao kết hợp đồng thông thường, trình tự giao kết
hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng thông qua 2 giai đoạn: đề nghị
giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Đề nghị giao kết hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:

Đề nghị giao kết hợp đồng mang thai hộ là việc một bên biểu hiện ý chí,
muốn bày tỏ cho bên kia ý muốn tham gia giao kết hợp đồng với họ. Thông
thường, trong quan hệ mang thai hộ, bên nhờ mang thai hộ sẽ thể hiện ý chí của
mình trước, mong muốn nhờ bên mang thai hộ giúp mình thực hiện các thủ thuật
y khoa, để mang thai hộ giúp mình có được đứa con cùng huyết thống.

Một lời đề nghị được coi là đề nghị giao kết hợp đồng mang thai hộ thì
phải chứa đựng một số yếu tố cơ bản sau:

Thể hiện rõ được nguyện vọng muốn đi đến giao kết hợp đồng của nhờ
mang thai hộ.

Phải có chứa toàn bộ mọi điều kiện cơ bản của hợp đồng, điều kiện này đã
được pháp luật quy định.

Phải xác định rõ bên mình muốn nhờ mang thai hộ là ai.

Có rất nhiều cách để đề nghị giao kết hợp đồng, tuy nhiên đối với hợp
đồng mang thai hộ việc đề nghị giao kết hợp đồng thường được thực hiện bằng
cách người đề nghị (bên nhờ mang thai hộ) trực tiếp (đối mặt) với người được đề
nghị (bên mang thai hộ ) để trao đổi, thỏa thuận. Cũng có trường hợp, họ chỉ

27
cần trao đổi với nhau qua điện thoại, thư từ bởi vì theo quy định của pháp luật về
mang thai hộ, bên mang thai hộ phải là người “thân thích” của bên nhờ mang
thai hộ nên hầu hết họ đều biết rõ về nhau. Ai cũng biết rằng, mang thai hộ là
một vấn đề nhạy cảm chứa đựng nhiều rủi ro về sức khỏe, tốn kém nhiều về kinh
tế, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và công việc của cả hai bên nhất là bên
mang thai hộ. Chính vì thế, việc tìm thấy người đồng ý mang thai hộ lại đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật là khong dễ dàng. Nên trước khi đi đến được
việc chấp nhận giao kết hợp đồng mang thai hộ thì quá trình đề nghị giao kết là
một quá trình dài và nhiều thử thách đối với bên nhờ mang thai hộ.

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mang thai hộ vì muc đích nhân
đạo:

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mang thai hộ là việc bên được đề
nghị (bên mang thai hộ) chấp nhận lời đề nghị và tiến hành việc giao kết hợp
đồng với bên đã đề nghị (bên nhờ mang thai hộ).

Câu trả lời của bên mang thai hộ không phải trong mọi trường hợp đều
được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng. Câu trả lời được coi là chấp nhận giao
kết hợp đồng khi bên mang thai hộ chấp nhận toàn bộ và vô điều kiện các nội
dung đề nghị mà bên nhờ mang thai hộ đã nêu. Nếu câu trả lời của bên mang
thai hộ không đáp ứng được một trong hai yêu cầu đó thì sẽ được coi là lời đề
nghị mới và cần có câu trả lời của bên nhờ mang thai hộ. Quá trình này có thể
lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi có được chấp nhận giao kết hợp đồng đúng
yêu cầu thì hợp đồng sẽ được coi là giao kết. Nếu như bên mang thai hộ không
trả lời đề nghị thì sự im lặng đó được coi là lời từ chối giao kết hợp đồng mang
thai hộ.

Thông thường, đối với hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ở
Việt Nam, khi mà lợi ích vật chất không được đặt lên hàng đầu thì các nội dung
liên quan đến việc giao kết hợp đồng diễn ra khá nhanh chóng. Với mong muốn

28
giúp đỡ cho bên nhờ mang thai hộ nên hầu hết các đề nghị đều được chấp nhận
và không có thêm nhiều điều kiện khác ngoài việc tập trung đáp ứng các điều
kiện mà pháp luật đã quy định. Tuy nhiên, trước khi đạt được những thỏa thuận
này thì quá trình thuyết phục người mang thai hộ đồng ý mang thai cũng không
hề dễ dàng bởi hiện tại ở Việt Nam mang thai hộ vẫn còn là một vấn đề mới mẻ
khiến người ta vẫn còn e ngại khi mang thai hộ người khác. Cần thiết có thêm
thời gian cũng như việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật để nhiều
người được hiểu rõ hơn về vấn đề này.

1.2.3. Thời điểm giao kết hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Thời điểm giao kết hợp đồng thường là thời điểm các bên thỏa thuận xong
nội của hợp đồng, hay khi bên đề nghị đã nhận được trả lời chập nhận hợp lệ của
bên được đề nghị. Như đã phân tích, pháp luật Việt Nam xác định thời điểm
giao kết hợp đồng dựa trên nguyên tắc tuyên bố ý chí, tức dựa vào hình thức
công bố ý chí thể hiện sự thỏa thuận. Cụ thể:

Hợp đồng được thỏa thuận trực tiếp bằng lời thì hợp đồng giao kết vào
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận của bên kia;

Nếu hợp đồng giao kết bằng văn bản thì thời điểm giao kết là thời điểm
bên sau cùng ký vào văn bản;

Nếu hợp đồng giao kết bằng thư tín, qua bưu điện thì hợp đồng được giao
kết vào ngày bên đề nghị nhận được thư trả lời chấp nhận hợp lệ;

Nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định im lặng là đồng ý
giao kết hợp đồng, thì hợp đồng cũng được xem là đã giao kết tại thời điểm hết
thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng.

Đối với các hợp đồng dân sự thông thường, thời điểm giao kết được phân
loại thành hai loại dựa trên hợp đồng đó giao kết bằng miệng hay hợp đồng đó
giao kết bằng văn bản. Thời điểm giao kết hợp đồng miệng là thời điểm các

29
bên

30
đã trực tiếp thỏa thuận xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Tuy nhiên, như
đã phân tích ở trên, đối với hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một
loại hợp đồng đặc biệt, và là hợp đồng bằng văn bản có yêu cầu công chứng
chứng thực thì thời điểm giao kết hợp đồng mang thai hộ là được công chứng
nhà nước hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền công chứng, chứng thực.
Yếu tố tự nguyện là yếu tố vô cùng quan trọng trong hợp đồng mang thai hộ nên
nếu trong trường hợp hai bên đã ký thỏa thuận, đã công chứng chứng thực
nhưng một trong hai bên đổi ý thì bất cứ lúc nào các bên đều có thể thỏa thuận
lại hoặc dừng hẳn việc thực hiện hợp đồng mà không cần bất cứ bồi thường nào.
Nhất là trong mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, những người thỏa thuận với
nhau thực hiện hợp đồng lại là người thân thích thì vấn đề thuyết phục, thỏa
thuận, thống nhất... đều được thực hiện nhiều bởi cái tình hơn là cái lý. Chính vì
thế, thời điểm giao kết hợp đồng mang thai hộ cũng vì thế mà không phải lúc
nào cũng rõ ràng như trình tự ký giao kết một hợp đồng dân sự thông thường.

1.2.4. Kết quả của việc giao kết hợp đồng mang thai hộ

Giao kết hợp đồng là việc các bên liên quan bày tỏ ý chí, nguyện vọng của
mình qua đó để xác lập hợp đồng dân sự với nội dung, hình thức phù hợp với ý
chí của các bên.

Giao kết hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là khoảng thời gian
để các bên trong quan hệ pháp luật mang thai hộ đưa ra những đề nghị, cùng
nhau thỏa thuận và chấp nhận các điều khoản có trong hợp đồng mang thai hộ.
Thời gian giao kết hợp đồng là khoảng thời gian quan trọng để các bên tìm hiểu
các quy định của pháp luật, để xem bản thân người mang thai hộ và người nhờ
mang thai hộ có phải là đối tượng được pháp luật cho phép mang thai hộ hay
không? Đây cũng là thời gian để hai bên bàn thảo, cân nhắc và đi đến quyết định
có nên đi đến thực hiện quan hệ mang thai hộ hay không. Bởi ai cũng biết, mang
thai hộ là quá trình dễ phát sinh những rủi ro cho sức khỏe của thai phụ, cũng
như đây là một quá trình tốn kém nhiều chi phí mà không phải lúc nào cũng đạt

31
kết quả như mong đợi. Chính vì thế, trước khi đi đến kết luận có nên thực hiện
việc mang thai hộ hay không thì cần thiết phải có những thỏa thuận kỹ càng từ
cả hai phía.

Kết quả của việc giao kết hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
có thể xảy ra hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, hợp đồng không được xác lập do một trong hai bên,
hoặc cả hai bên không đáp ứng được những điều là chủ thể của quan hệ pháp
luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định. Hoặc hợp đồng không thể xác
lập do một trong hai bên, hoặc cả hai bên không đồng ý với đề nghị giao kết hợp
đồng. Đây là trường hợp tương đối dễ thấy bởi lẽ, theo quy định của pháp luật
nước ta, điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo là không hề dễ dàng. Chưa nói đến những điều kiện bản thân của
người nhờ mang thai hộ, mà những điều kiện về chủ thể của người mang thai hộ
cũng là rất khó để đáp ứng khi mà giới hạn của điều kiện này là người thân
thích, ruột thịt là khá hạn hữu. Hơn thế nữa, sức khỏe là vốn quý giá nhất của
mỗi con người mà mỗi lần sinh nở đối với phụ nữ là mỗi lần sức khỏe của họ
suy sụp rất lớn. Không phải chị em ruột thịt nào cũng có thể bỏ sức khỏe, thời
gian, tâm sức để mang thai hộ người khác. Hơn thế nữa, người phụ nữ đó lại còn
phải đã có chồng và đã từng sinh con. Áp lực tâm lý từ phía chồng và gia đình
chồng cũng là rào cản không nhỏ để họ quyết định không mang thai hộ được cho
người khác. Chính vì thế, có rất nhiều lý do dẫn đến việc không dễ dàng xác lập
một hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Cho nên, việc không thể giao
kết được hợp đồng mang thai hộ là một điều dễ thấy.

Tuy nhiên, còn một trường hợp nữa khi hai bên đã hiểu rất rõ về nhau,
thấu hiểu được mong muốn có một đứa con ruột thịt của người nhờ mang thai
hộ. Nên bên mang thai hộ đồng ý với lời đề nghị của bên nhờ mang thai hộ.
Thiết lập một hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có đầy đủ ý chí của
các bên thông qua sự thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong

32
hợp đồng. Và kết quả là một hợp đồng mang thai hộ hoàn chỉnh ra đời dựa trên
cơ sở quan trọng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên.

1.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo

Do hợp bản chất của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một
hợp đồng dân sự nên điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại
Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 cũng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mang
thai hộ, đó là: “Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự. Mục đích
và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội. Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. Hình thức của
hợp đồng phải phù hợp với các quy định của pháp luật”. Dựa vào các quy định
của pháp luật về hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có thể hiểu điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng mang thai hộ như sau.

Người tham gia hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải là
người có năng lực hành vi dân sự. Mà theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì
năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Phải là người thành niên từ đủ
mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy
định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật dân sự 2015. Đó là trừ các trường hợp
người mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi; người hạn chế năng lực hành vi dân sự; Bên cạnh đó, người tham gia
vào hợp đồng mang thai hộ còn phải đáp ứng được những điều kiện về chủ thể
mà Luật HNGĐ quy định tại Điều 65, và các quy định về chủ thể được pháp luật
quy định tại Nghị định số 10/2015/NĐ-CP.

Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội. Điểm đặc biệt trong điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mang thai hộ là việc mang thai hộ phải vì mục đích nhân đạo. Pháp
luật nghiêm cấm hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại. Thậm chí những

33
vi phạm về hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại còn có thể bị xử lý về
hình sự. Quy định cụ thể tại Bộ luật hình sự 2015 đã quy định việc xử lý hình sự
đối với hành vi này. Theo quy định tại khoản 1 điều 187 Bộ luật hình sự: người
nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50 triệu
đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ
3 tháng đến 2 năm. Bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm khi thuộc một trong các
trường hợp: đối với 2 người trở lên, phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
1 năm đến 5 năm”. Nếu vi phạm điều kiện này, thì hợp đồng mang thai hộ cũng
không có hiệu lực.

Người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. Với bản chất là một hợp
đồng dân sự, nên yếu tố tự nguyện là yếu tố quan trọng trong việc giao kết hợp
đồng. Tự nguyện cũng như là yếu tố đảm bảo cho điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Trong thỏa thuận mang thai hộ vì mực
đích nhân đạo, các bên tham gia hợp đồng ngoài việc tự nguyện còn phải thực sự
thiện chí tham gia, bởi mang thai hộ là một quá trình vất vả về thể chất, áp lực
về tâm lý cũng như tốn kém không ít các chi phí, cho nên, một khi đã tham gia,
các bên cần có sự bàn bạc kỹ lưỡng, chắc chắn và hoàn toàn tự nguyện.

Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với các quy định của pháp luật.
Như đã lý giải ở phần trên, hợp đồng mang thai hộ là một hợp đồng trọng hình
thức. Hợp đồng mang thai hộ phải công chứng, chứng thực theo quy định tại
Khoản 2, Điều 96 Luật HNGĐ 2014. Trong hợp đồng mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo, vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau nhưng việc ủy quyền với bên thứ
ba không có giá trị pháp lý. Quy định chặt chẽ về hình thức của hợp đồng mang
thai hộ cũng là một quy định hợp lý để bảo vệ các bên trong quan hệ pháp luật
nhạy cảm này.

1.4. Vô hiệu hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

34
Hợp đồng mang thai hộ về bản chất là hợp đồng dân sự. Vì vậy, những
nguyên nhân khiến cho hợp đồng dân sự vô hiệu cũng là nguyên nhân vô hiệu
của hợp đồng mang thai hộ.

Hợp đồng vô hiệu chia thành 2 loại: vô hiệu toàn phần và vô hiệu một
phần.

Trường hợp vô hiệu toàn phần khi:

Giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội.

Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật nghiêm cấm hành vi mang thai hộ vì mục
thương mại bởi lẽ điều đó ảnh hưởng xấu đến đạo đức xã hội khi biến người phụ
nữ trở thành cái máy phục vụ cho việc “đẻ thuê” và biến đứa trẻ trở thành món
hàng trong mua bán. Cho phép mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi
tiếp tay cho hoạt động “buôn người” trá hình. Chính vì thế, nghiêm cấm mang
thai hộ vì mục đích thương mại là một điều đúng đắn và đồng nghĩa với việc tất
cả những hợp đồng mang thai hộ vì mục đích thương mại đều bị tuyên vô hiệu.

Giao dịch vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.

Trong mang thai hộ, người chưa thành niên cũng không được phép là chủ
thể trong quan hệ mang thai hộ bởi yêu cầu người mang thai hộ phải đáp ứng
được điều kiện là người phụ nữ đang nằm trong độ tuổi sinh sản theo khuyến
cáo của bác sỹ chuyên khoa. Điều này nhằm đảm bảo sức khỏe cho phụ nữ trong
quá trình mang thai đồng thời đảm bảo an toàn cho đứa trẻ được sinh ra nhờ
người mẹ mang thai hộ. Các trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự, bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng thì hợp đồng mang thai hộ họ ký kết cũng
bị tuyên vô hiệu khi có yêu cầu.

Giao dịch vô hiệu do giả tạo; do bị lừa dối, đe dọa.

35
Lừa dối trong giao dịch mang thai hộ là hành vi cố ý của một bên hoặc
của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của
đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch mang thai hộ là hành vi cố ý của một
bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự
nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản
của mình hoặc của người thân thích của mình.

Khi một bên tham gia quan hệ pháp luật mang thai hộ do bị lừa dối hoặc
bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là
vô hiệu.

Giao dịch vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình.

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập quan hệ mang thai hộ
vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.

Nếu hợp đồng mang thai hộ được xác lập mà thuộc vào các trường hợp
trên thì hợp đồng đó đương nhiên vô hiệu và nếu có yêu cầu của bất cứ người
nào thì hợp đồng sẽ bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Khi một hợp đồng vô hiệu,
người ta xem nó như chưa bao giờ tồn tại, có nghĩa là hiệu lực của nó bị coi như
không có cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai [4, tr353]. Đối với những hợp
đồng vô hiệu toàn bộ dẫn tới hiệu quả là hủy bỏ toàn bộ hợp đồng, hai bên trao
trả cho nhau những gì đã nhận, phục hồi lại hiện trạng ban đầu. Trường hợp phát
sinh thiệt hại, bên có lỗi phải bồi thường cho bên bị thiệt hại.

Trường hợp hợp đồng mang thai hộ vô hiệu một phần khi:

Hợp đồng mang thai hộ vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của hợp
đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp
đồng.

36
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

Trường hợp hợp đồng mang thai hộ sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm
cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch
thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Hợp đồng mang thai hộ được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong
trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các
bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập
hợp đồng vẫn đạt được.

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Hợp đồng vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô
hiệu, trừ trường hợp sau đây:

Hợp đồng đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất
hai phần ba nghĩa vụ trong hợp đồng thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của hợp đồng đó. Trong trường hợp
này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Có thể thấy rằng, đối với các hợp đồng kinh tế bình thường, việc giải
quyết hậu quả khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu đã là một vấn đề khó thì đối với
hợp đồng mang thai hộ, điều đó còn khó khăn gấp nhiều lần. Bởi lẽ, trong quan
hệ mang thai hộ, tiền hay vật chất không phải là yếu tố quyết định đến mục đích
của đôi bên, chính vì thế khi có yếu tố khiến cho hợp đồng vô hiệu thì các bên
cũng rất khó trong việc khôi phụ hiện trạng ban đầu bởi ngoài những thiệt hại về
vật chất thì những mất mát về tinh thần cũng là điều không dễ gì bù đắp. Giả sử
trong trường hợp, một người bị ép ký kết và thực hiện một hợp đồng mang thai
hộ. Khi đã thực hiện xong hợp đồng, sinh ra đứa trẻ thì việc tuyên bố hợp đồng
vô hiệu giữa hai bên sẽ giải quyết như thế nào? Hai bên thực hiện việc trao trả

37
cho nhau những gì đã nhận ra sao? Đứa trẻ sẽ giao cho bên nào nuôi dưỡng khi
nó đã được sinh ra trên cuộc đời. Và còn rất nhiều những khó khăn khác khi xử
lý hợp đồng mang thai hộ vô hiệu, dù là vô hiệu toàn bộ hay vô hiệu một phần.

1.5. Thực hiện hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Thực hiện hợp đồng mang thai hộ là những hành vi của các chủ thể tham
gia quan hệ mang thai hộ nhằm làm cho các điều khoản, nội dung đã cam kết
trong hợp đồng trở thành hiện thực.

1.5.1. Nguyên tắc cơ bản trong quá trình thực hiện hợp đồng

Việc thực hiện hợp đồng phải diễn ra với tinh thần trung thực, hợp tác và
cùng có lợi, bảo đảm sự tin cậy lẫn nhau giữa các bên trong quan hệ hợp đồng.
Đối với quan hệ pháp luật mang thai hộ thì tinh thần nhân đạo luôn là mục đích
xuyên suốt cả quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng.

Thực hiện đúng các điều khoản, nội dung của hợp đồng mà các bên cam
kết về đối tượng, thời hạn thực hiện hợp đồng; thời hạn và phương thức hỗ trợ
quá trình mang thai và sinh con cùng các thỏa thuận khác;

Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tùy theo tính chất của từng loại hợp
đồng, mà pháp luật quy định việc thực hiện hợp đồng.

1.5.2. Nội dung của việc thực hiện hợp đồng mang thai hộ

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ được pháp
luật quy định rõ trong Điều 97, Điều 98 của luật Hôn nhân và Gia đình 2014

Khi thực hiện hợp đồng mang thai hộ, các bên tham gia hợp đồng phải
thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản về đối tượng, địa điểm, thời hạn, phương
thức và các thoả thuận khác mà nội dung của hợp đồng đã xác định. Ngoài ra,

38
việc thực hiện hợp đồng mang thai hộ còn phải tuân theo những cách thức mà
pháp luật đã quy định đối với từng loại hợp đồng cụ thể.

Hợp đồng mang thai hộ là một hợp đồng song vụ. Trong hợp đồng song
vụ, mỗi bên đều phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến thời hạn. Các bên đều
không được lấy lí do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình mà hoãn việc
thực hiện nghĩa vụ (trừ trường hợp việc không thực hiện nghĩa vụ của bên kia
làm cho bên này không thể thực hiện được nghĩa vụ). Ví dụ, trong thời gian
mang thai, bên mang thai hộ có nghĩa vụ thăm khám thường xuyên để kiểm tra
sự phát triển của thai nhi. Việc này là một điều khoản trong hợp đồng cần phải
thực hiện nghiêm túc từ người mang thai hộ. Người mang thai hộ không thể vì
lý do người nhờ mang thai hộ chậm chi trả chi phí thăm khám mà trì hoãn nghĩa
vụ này của mình, trừ trường hợp đó là nguồn chi phí duy nhất để phục vụ việc
thăm khám…

Nếu trong hợp đồng mang thai hộ thì không xác định bên nào phải thực
hiện nghĩa vụ trước thì cùng một lúc, các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ
đối với nhau. Nghĩa vụ này có thể là nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ chăm sóc sức
khỏe cho sản phụ cũng như nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe cho thai nhi trong bụng
người mang thai hộ. Hầu hết các nghĩa vụ trong hợp đồng mang thai hộ đều
được thực hiện trên tinh thần tự nguyện, không bị ép buộc nên các bên các bên
rất thiện chí trong quá trình thực hiện hợp đồng.

1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo

1.6.1. Tranh chấp hợp đồng mang thai hộ

Tranh chấp hợp đồng mang thai hộ được hiểu là những xung đột, bất
đồng, mâu thuẫn giữa bên nhờ mang thai hộ vớ bên mang thai hộ về việc thực
hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng.

39
Tranh chấp hợp đồng mang thai hộ phải có đủ các yếu tố sau:

Có hợp đồng giữa các bên, hợp đồng được giao kết dưới hình thức bằng
văn bản có công chứng cứng thực theo quy định của pháp luật.

Có sự vi phạm nghĩa vụ hoặc cho rằng là vi phạm nghĩa vụ của một bên
trong quan hệ hợp đồng.

Có sự bất đồng giữa các bên về sự vi phạm hoặc xử lý hậu quả của sự vi
phạm đó.

Thông thường, các tranh chấp trong hợp đồng mang thai hộ thường phát
sinh trong các vấn đề như việc giao nhận con giữa các bên trong quan hệ mang
thai hộ, chi phí cấp dưỡng do bên nhờ mang thai hộ không chu cấp hoặc chậm
chu cấp, chi phí thăm khám bệnh và các chi phí khác trong quá trình mang
thai…

Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng mang thai hộ:

Các bên chủ thể trong quan hệ mang thai hộ có quyền cao nhất trong định
đoạt việc giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận của các bên là căn cứ cao nhất để
giải quyết việc giải quyết các tranh chấp nếu có phát sinh.

Tranh chấp hợp đồng luôn gắn với lợi ích của các bên tranh chấp, lợi ích
đó có thể là lợi ích vật chất, có thể là ích về tinh thần. Thông thường, các vấn đề
tranh chấp vẫn thường xoay quanh các vấn đề về giao nhận con sau khi sinh, các
chi phí cấp dưỡng trong quá trình mang thai, các chi phí chi trả hỗ trợ quá trình
hậu sản và các vấn đề khác...

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ là tự nguyện
bình đẳng và thỏa thuận, đặt lợi ích của đứa trẻ sinh ra từ mang thai hộ lên hàng
đầu.

1.6.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

40
Tranh chấp hợp đồng mang thai hộ có thể được giải quyết bằng các
phương thức sau:

Thương lượng là quá trình hai bên chủ thể trong quan hệ mang thai hộ tự
tiến hành trao đổi, thỏa thuận về các mối quan tâm chung và những đặc điểm bất
đồng và đi đến một thỏa thuận thống nhất. Thương lượng không có sự xuất hiện
của bên thứ ba, mà do hai bên tự bàn bạc thỏa thuận.

Hòa giải cũng là một quá trình các bên chấm dứt xung đột. Hòa giải khác
với thương lượng là có sự can thiệp của bên thứ ba. Người trung gian là người
đứng ra giàn xếp xung đột giữa các bên. Thông thường, các bên chủ thể trong
quan hệ mang thai hộ là những người thân thích đã quen biết lẫn nhau, vậy nên
trường hợp này có thể nhờ người nhà trong gia đình, dòng họ đứng ra giàn xếp,
giải quyết tranh chấp trong trường hợp này.

Tổ chức tài phán: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ. Đây là điều đã được
luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định tại Điều 99 Luật này.

Có thể nói rằng, quan hệ pháp luật về mang thai hộ là một quan hệ đặc
biệt bởi đặc tính nhân văn sâu sắc của nó. Ngay từ lúc xác lập quan hệ mang thai
hộ cho đến khi chấm dứt quan hệ này thì yếu tố tình cảm luôn là yếu tố tồn tại
xuyên suốt cả quá trình thực hiện hợp đồng. Đó là tình cảm của những người
trong quan hệ mang thai hộ với nhau, cũng như tình cảm của các bên dành cho
đứa trẻ. Chính vì thế ngoài yếu tố “lý” thì “tình” cũng là khía cạnh quan trọng
ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp giữa các bên. Chính vì vậy, nếu ngay
từ ban đầu các bên có sự thỏa thuận cụ thể về các quyền và nghĩa vụ, về các
trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết, về
cách thức giải quyết các tranh chấp, về vấn đề bồi thường... thì sẽ tạo điều kiện
rất tốt cho quá trình giải quyết tranh chấp của tòa án, là căn cứ để tòa án đưa ra
phán quyết hợp tình hợp lý và đúng pháp luật. Mặt khác, xét về hợp đồng mang

41
thai hộ vì mục đích nhân đạo như chúng ta đã thấy, về bản chất hợp đồng mang
thai hộ cũng như hầu hết các hợp đồng dân sự khác đều xuất phát từ ý chí tự
thỏa thuận của các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật này, về cách thức
giao kết, hay phương hướng giải quyết tranh chấp khi có các vấn đề phát sinh
cũng không có gì khác biệt. Tuy nhiên, khi đi sâu vào phân tích những yếu tố
liên quan đến con người, những yếu tố về quan hệ nhân thân của những người
tham gia vào quan hệ pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mới thấy đây
là một quan hệ cần thiết phải có sự điều chỉnh chặt chẽ từ pháp luật. Để quyền
lợi của bà mẹ, trẻ em và những người tham gia vào quan hệ pháp luật này được
bảo vệ tốt nhất. Do mới ra đời, và cũng không phải là quan hệ pháp luật phổ
biến ngoài đời sống xã hội nên quan hệ pháp luật về mang thai hộ và hợp đồng
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế, và cũng càng không thể phủ nhận tầm quan trọng của hợp đồng mang thai
hộ trong thực tế đời sống. Tại chương II của luận văn, tác giả sẽ đi sâu phân tí ch
về thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo hiện nay.

42
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG
MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO

2.1. Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay.

Hiện nay các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo chủ yếu tập trung ở 03 văn bản quy phạm pháp luật đó là
Luật HNGĐ 2014, Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo. Sau nghị định ban hành, Bộ Y Tế đã ban hành Thông tư số 57/2015/TT-
BYT ngày 30-12-2015 quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-
CP. Tại luận văn của mình, tác giả sẽ tập trung phân tích các quy định của pháp
luật Việ Nam hiện nay dựa trên 02 khía cạnh đó là về mặt hình thức và mặt nội
dung của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của Việt Nam hiện hành.

2.1.1. Hình thức của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Hiện nay hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt nam
hiện hành đang tồn tại dưới dạng thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Biểu mẫu 06 chính là thỏa thuận này được ban hành kèm theo Nghị định
10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Thỏa thuận được chia thành 05
mục bao gồm các nội dung chính như: thông tin về chủ thể tham gia vào thỏa
thuận mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ
pháp luật.

Về hình thức của thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Luật
HNGĐ 2014 quy định “Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành
văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy

43
quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc
thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy
quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý.

Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và
bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực
hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác
nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này”[12, tr66].

Pháp luật quy định về hình thức của thỏa thuận mang thai hộ. Bởi lẽ mang
thai hộ là một quan hệ có tính chất phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, đối tượng
của hợp đồng lại vô cùng đặc biệt. Chính vì thế, thỏa thuận mang thai hộ phải
được lập thành văn bản với những nội dung cụ thể.

Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận bắt buộc phải được công chứng, chứng
thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi lẽ, khi văn bản này được công
chứng hoặc chứng thực thì đồng nghĩa với việc nhà nước đã thể hiện ý chí chấp
nhận và bảo vệ thỏa thuận này, đảm bảo cho việc thực hiện thỏa thuận này của
các bên. Đó cũng chính là cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên, trong đó có quyền của người nhờ mang thai hộ được mặc
nhiên công nhận là bố mẹ của đứa trẻ khi đăng ký khai sinh và các giấy tờ hộ
tịch khác, tránh những tranh chấp không cần thiết. Trong trường hợp một trong
các bên vợ chồng của người mang thai hộ hoặc người nhờ mang thai hộ không
thể trực tiếp thỏa thuận về văn bản thì có thể ủy quyền cho nhau để thỏa thuận,
tuy nhiên việc ủy quyền nhất thiết phải lập văn bản có công chứng. Quy định
này nhằm đảm bảo cặp vợ chồng của mỗi bên đều, biết và đồng ý với việc mang
thai hộ, tránh trường hợp một bên vợ chồng tự thực hiện thỏa thuận dẫn đến tình
trạng tranh chấp phát sinh sau này. Cũng là một cách để ràng buộc trách
nhiệm với đứa trẻ sinh ra nhờ Mng thai hộ, bởi ai cũng biết, mang thai là một quá
trình không hề dễ dàng, luôn cần có sự quan tâm chăm sóc từ chồng. Sự đồng
lòng nhất trí từ tất cả các bên. Tránh tình trạng vì mang thai hộ mà dẫn đến mâu

44
thuẫn, gây ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình. Đồng thời, pháp luật còn quy định
việc ủy quyền chỉ được thực hiện giữa các cặp vợ chồng với nhau chứ không
phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba nào khác.

Nhìn chung, các quy định về mặt hình thức của hợp đồng mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo hiện tại đã khá chặt chẽ khi quy định từ biểu mẫu soạn sẵn
đến việc công chứng chứng thực và các vấn đề khác liên quan đến việc ủy quyền
trong quan hệ pháp luật này. Tuy nhiên, việc quy định quá cụ thể về biểu mẫu
lại là một rào cản khác cho các bên khi tham gia vào quan hệ mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo. Đối với những trường hợp hợp đồng mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo không tuân thủ theo biểu mẫu 06 mà Nghị định 10/2015/NĐCP
thì có bị tuyên là vô hiệu không? Hoặc trường hợp các bên không đáp ứng điều
kiện công chứng hợp đồng thì khi xảy ra tranh chấp, hợp đồng đó có được coi là
căn cứ để giải quyết tranh chấp trước tòa hay không? Trường hợp hợp đồng
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bị tuyên vô hiệu thì phải xử lý như thế nào?
Ai cũng biết trong giao dịch dân sự, khi bị tuyên vô hiệu thì hai bên hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận, nhưng trong quan hệ pháp luật mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo thì không thể xử lý đơn giản như vậy, bởi đối tượng chịu ảnh hưởng
lúc này là đứa trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ. Vậy, trong trường hợp này cần phải
xử lý như thế nào? Trên đây là những phân tích dựa trên những lát cắt về mặt
pháp lý về hình thức của hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành. Có những ưu điểm, có những nhược điểm và cần nhiều
hơn sự điều chỉnh từ pháp luật trong thời gian sắp tới.

2.1.2. Nội dung của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Nội dung của hợp đồng mang thai hộ (thỏa thuận mang thai hộ) vì mục
đích nhân đạo giữa bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ được quy định tại
Khoản 1, Điều 96 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 bao gồm những vấn đề
cơ bản sau:

45
Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các
điều kiện có liên quan quy định tại điều 95 luật này.

Nội dung của hợp đồng mang thai hộ chứa đựng các quy định về quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ, quy định tại Điều 97 và Điều
98 của luật này.

Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa, hỗ trợ để
đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và
sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai
bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho người mang thai hộ và
các quyền nghĩa vụ khác có liên quan...

Trách nhiệm dân sự của cả hai bên trong trường hợp vi phạm các cam kết
đã thỏa thuận.

Quy định nội dung hợp đồng chặt chẽ là điều vô cùng quan trọng nhằm
đảm bảo tính pháp lý cho hợp đồng mang thai hộ đồng thời là căn cứ để giải
quyết các tranh chấp phát sinh trước tòa.

Hiện tại, pháp luật nước ta đã ban hành Mẫu số 06 thỏa thuận mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo, ban hành kèm theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy
định về sinh con bằng kỹ thuật TTTON và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Như đã khẳng định ở phần đầu đầu luận văn, thỏa thuận mang thai hộ này cũng
được xem như một hợp đồng mang thai hộ mẫu được pháp luật ban hành sẵn để
các bên chủ thể dựa vào đó, có căn cứ cũng như các điều khoản mẫu tiếp tục
hoàn thiện những thỏa thuận của mình. Chính vì thế, để đảm bảo tính nhất quán,
thống nhất xuyên suốt trong đề tài của mình, tác giả sẽ phân tích nội dung của
hợp đồng mang thai hộ dựa trên thỏa thuận mẫu này.

a. Thông tin chủ thể trong hợp đồng mang thai hộ

Sau khi đảm bảo đáp ứng được đầy đủ các điều kiện về chủ thể trong hợp
đồng mang thai hộ thì các bên chủ thể trong hợp đồng phải điền thông tin đầy đủ
của mình vào mục I, II trong biểu mẫu 06, thông tin bao gồm:

46
Thông tin vợ, chồng người nhờ mang thai hộ.

Bên nhờ mang thai hộ phải điền đầy đủ thông tin vào hợp đồng mang thai
hộ bao gồm họ tên cả vợ chồng, ngày tháng năm sinh, hộ khẩu, nơi ở hiện tại, số
CMND… đây là những thông tin cơ bản của công dân nhằm mục đích xác định
rõ đối tượng tham gia hợp đồng mang thai hộ và đảm bảo cho việc giải quyết
các vấn đề phát sinh sau này. Ngoài việc điền đầy đủ thông tin cá nhân, cặp vợ
chồng nhờ mang thai hộ cũng cần thiết biểu lộ ý chí của mình trên hợp đồng
mang thai hộ bao gồm nêu tình trạng hiện tại của bản thân như là “chưa có con
chung”, “đã được cơ sở … (ghi rõ tên cơ sở) thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm xác nhận… (tên người vợ bị bệnh …. (tên bệnh) không thể mang
thai ngay cả khi áp dụng những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, với nguyện vọng có
một con chung của vợ chồng. Chúng tôi đã nhờ chị …. (viết đầy đủ họ tên người
mang thai hộ) mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Chị …..đã đồng ý mang thai
hộ giúp vợ chồng chúng tôi (chúng tôi đã viết cam kết tự nguyện mang thai hộ).
Chúng tôi đã được tư vấn về ý tế, pháp lý, tâm lý đầy đủ[1].

Thông tin vợ, chồng người mang thai hộ.

Cũng như bên nhờ mang thai hộ, cặp vợ chồng mang thai hộ cũng
phải điền đầy đủ những thông tin cá nhân của cả vợ lẫn chồng bao gồm ngày
tháng năm sinh, hộ khẩu, số CMND... vào hợp đồng mang thai hộ. Ngoài ra, tại
hợp đồng mang thai hộ, bên mang thai hộ cũng phải thể hiện ý chí của mình
trong hợp đồng và những thông tin thể hiện bản thân hoàn toàn thỏa mãn những
yêu cầu mà pháp luật quy định đủ điều kiện mang thai hộ như: “Tôi là
chị, em
……………….. (người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ). Tôi đã sinh ……….. con (số con) và chưa mang thai hộ lần nào.
Được biết ……… (vợ chồng nhờ mang thai hộ) bị bệnh …………… không thể
mang thai và sinh con. Nên sau khi được …………….. (vợ chồng nhờ mang thai)
nhờ mang thai giúp, với tình cảm họ hàng, tôi đồng ý mang thai hộ
……………… (tên vợ chồng nhờ mang thai). Tôi đã được cơ sở thực hiện kỹ

47
thuật thụ tinh trong ống nghiệm xác nhận có khả năng mang thai và sinh con.
Ngoài ra, tôi cũng đã được tư vấn đầy đủ về y tế, pháp lý, tâm lý”[1].

Phần thông tin chủ thể trong hợp đồng mang thai hộ là phần đầu tiên và
có ý nghĩa khá quan trọng. Phần này giúp các bên nắm rõ thông tin cá nhân của
nhau. Xác định lại lần nữa địa điểm nơi chốn cư trú của đối phương. Ngoài ra,
nắm được ý chí ban đầu về sự mong muốn nhận được sự giúp đỡ và ý chí sẵn
sàng giúp đỡ của đôi bên dành cho nhau. Phần thông tin cũng đồng thời là căn
cứ để cơ quan tham tiến hành tố tụng xác minh hoặc thực hiện hoạt động thi
hành án sau này nếu có tranh chấp xảy ra.

b. Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ

Tại điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có quy định chi tiết về quyền
và nghĩa vụ của bên mang thai hộ, theo đó:

Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ
như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc con cho đến thời
điểm giao lại đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.

Trước thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ thì cặp vợ chồng
mang thai hộ được xác định là cha mẹ hợp pháp của đứa trẻ cho nên giữa cặp vợ
chồng này và đứa trẻ phát sinh tất cả các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con.
Theo đó người mang thai hộ, người chồng mang thai hộ có nghĩa vụ yêu thương,
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của con,
không được phân biệt đối xử, không được lạm dụng sức lao động, không được
ép buộc con làm những điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội…

Người mang thai hộ có nghĩa vụ phải giao con cho cặp vợ chồng nhờ
mang thai hộ theo đúng như cam kết giữa ai bên ghi nhận trong thỏa thuận mang
thai hộ. Người mang thai hộ không thực hiện việc giao con đúng như thỏa thuận
cho bên nhờ mang thai hộ thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án
buộc người mang thai hộ giao con. Quy định này giúp cho mong muốn của

48
người nhờ mang thai hộ được đảm bảo, đứa trẻ là con của cặp vợ chồng người
nhờ mang thai hộ chính vì thế, việc giao lại đứa trẻ cho cha mẹ chúng là hoàn
toàn hợp tình hợp lý.

Không thể phủ nhận rằng, việc phát sinh tình cảm cha mẹ con trong suốt
quá trình mang thai là một trong những nguyên nhân khiến cho nhiều trường
hợp bên mang thai hộ không muốn giao con. Tuy nhiên nếu không có sự quy
định chặt chẽ trong văn bản pháp luật, đồng thời cũng không có sự thỏa thuận cụ
thể trong hợp đồng thì rất có thể quyền lợi được nhận đứa con ruột của cặp vợ
chồng nhờ mang thai hộ sẽ không được đảm bảo.

Người mang thai hộ phải tuân thủ các quy định về thăm khám, các quy
trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy
định của Bộ Y Tế. Đây vừa là nghĩa vụ, cũng đồng thời là quyền lợi chính đáng
của người mang thai hộ. Khi họ phải đảm bảo điều kiện tốt nhất về sức khỏe để
đảm bảo khả năng mang thai suốt 9 tháng của mình. Thêm vào đó, việc thăm
khám sức khỏe định kỳ, thường xuyên cũng đảm bảo cho chất lượng và sức
khỏe của thai nhi luôn trong tình trạng tốt nhất, tránh những trường hơp thai nhi
có dị tật hay có sức khỏe yếu không thể trào đời lành lặn, gây ra những nỗi đau
không nhỏ cho gia đình và gánh nặng cho toàn xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, có
nhiều trường hợp thai phụ không tuân thủ các quy định về thăm khám bởi có thể
họ tự tin vào sức khỏe của mình, mặt khác, có người cho rằng việc thăm khám
sẽ ảnh hưởng không tốt đến thai nhi nên lơ là, chủ quan. Đối với những trường
hợp này, tiết nghĩ, cần có những chế tài hợp lý cũng như giáo dục cần thiết để
người mang thai hộ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Đảm bảo sức khỏe cho
bản thân họ, cũng như đảm bảo sức khỏe cho thai nhi.

Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp
luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ
mang thai hộ.“Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai,
sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ sinh con
cho
49
đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt
quá thời gian quy định tại khoản 1, điều 34 của Luật này”[14].

Theo đó, người mang thai hộ sinh con sẽ được nghỉ việc hưởng chế độ
thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp người mang thai hộ
sinh đôi trở lên, cứ mỗi con người mang thai hộ sẽ được nghỉ thêm 01 tháng,
Trong trường hợp, kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà chưa đủ 60
ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60
ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ tết và nghỉ hằng tuần.

Mang thai và sinh con là một quá trình vất vả, khó khăn và đau đớn nhất
của phụ nữ. Đối với những người phụ nữ mang thai, chế độ nghỉ ngơi ăn uống
và dinh dưỡng là khá quan trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của
người mẹ mà nó còn trực tiếp ảnh hưởng đến đứa con trong bụng họ. Nếu không
được nghỉ ngơi và ăn uống hợp lý, hoạt động quá sức hay ăn không đủ chất sẽ
để lại những hậu quả đáng tiếc. Đặc biệt sau sinh, người phụ nữ mất đi một
lượng máu rất lớn, cơ thể người phụ nữ rất yếu, nếu không được nghỉ ngơi kiêng
cữ cẩn thận người phụ nữ dễ mắc phải những hội chúng hậu sản như: trầm cảm,
sụt cân, rối loạn tiểu tiện, sản dịch… chính vì thế, quy định nghỉ thai sản cho
phụ nữ mang thai hộ là một quy định mang tính nhân văn sâu sắc. Vừa đảm bảo
sức khỏe cho người mẹ mang thai hộ, vừa tạo tâm lý an tâm để người phụ nữ
mang thai hộ sẵn sàng đối mặt với đau đớn vất vả để mang mang nặng đẻ đau
đứa con của người khác [6, tr30-33].

Đồng thời, chính sách dân số có ràng buộc về số con của Việt Nam cũng
xem mang thai hộ là một trường hợp ngoại lệ. Con mang thai hộ không tính
trong tổng số con của cặp vợ chồng mang thai hộ. Điều này tạo nên tâm lý thoải
mái cho cặp vợ chồng muốn mang thai hộ cho người thân của mình mà còn e
ngại chính sách dân số của nước ta hiện nay.

50
Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc
hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Đây là một quy định hoàn toàn hợp lý, do
việc chăm sóc thai nhi là một việc làm không dễ dàng, ngoài việc thăm khám
thường xuyên, sản phụ còn phải chú ý đến chế độ dinh dưỡng của mình hợp lý
để đảm bảo cho đứa trẻ trong bụng phát triển khỏe mạnh. Với phụ nữ bình
thường đã khó khăn, với phụ nữ mang thai hộ càng vất vả hơn do phải thực hiện
nhiều thủ thuật y học trong suốt quá trình cấy thai nhi và nuôi dưỡng bào thai.
Chính vì thế, quy định này giúp bên mang thai hộ có thể yêu cầu bên nhờ mang
thai hộ san sẻ bớt gánh nặng lúc mang thai. Sự san sẻ này có thể từ cả hai khía
cạnh cả về vật chất lẫn tinh thần. Đảm bảo sự chăm sóc tối đa đối với cả bà mẹ
và trẻ em.

Dù việc mang thai hộ xuất phát từ ý chí tự nguyện của bên mang thai hộ.
Khi đồng ý việc mang thai hộ, người mang thai hộ đặt mình vào cương vị của
người hỗ trợ, giúp đỡ mà không màng tới lợi ích vật chất hay các lợi ích kinh tế
khác. Tuy nhiên, đối với các chi phí hỗ trợ cho việc chăm sóc thai nhi thì cho
phép người mang thai hộ được quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ hỗ trợ chi
phí chính đáng này. Bởi lẽ, trong quá trình mang thai, để đảm bảo sức khỏe tốt
nhất cho cả người mẹ và đứa trẻ thì cần rất nhiều các chi phí như tiền mua sữa,
thực phẩm, dược phẩm… các sản phẩm cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát
triển của người mẹ và trẻ em. Để đảm bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của trẻ,
người phụ nữ mang thai hộ cần được quan tâm, chăm sóc về chế độ dinh dưỡng
và các nhu cầu thiết yếu khác của họ trong thời gian quan trọng này. Tuy nhiên,
bởi pháp luật chưa có những định khung cần thiết cho những chi phí này nên
hợp đồng sẽ là nơi thỏa thuận về những chi phí phát sinh cần thiết hỗ trợ cho quá
trình mang thai hộ của người phụ nữ. Chính bởi xuất phát từ sự thỏa thuận nên
sẽ có nhiều mức giá khác nhau tùy vào điều kiện của bên nhờ mang thai hộ,
cũng như yêu cầu đòi hỏi của bên mang thai hộ. Chính điều đó dễ dẫn đến sự
biến tướng khó kiểm soát “núp bóng nhân đạo” nhưng thực chất ra là một giao
dịch thương mại ẩn giấu phía sau đó. Chính vì thế, thiết nghĩ pháp luật cần thiết

51
phải đưa ra những định mức tối đa bằng những con số cụ thể dựa trên những
nghiên cứu khách quan trên cơ sở điều tra thực tế để đảm bảo cho tính chất nhân
đạo trong việc mang thai hộ là điều kiện tiên quyết.

Trong trường hợp, vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát
triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định số lượng bào thai,
việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật
về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Quy
định này nhằm đảm bảo sức khỏe của người phụ nữ mang thai hộ đồng thời
cũng hạn chế những hậu quả không hay xảy ra đối với quan hệ mang thai hộ
tránh trường hợp đứa trẻ sinh ra mắc các dị tật bẩm sinh, hay việc người phụ nữ
nếu cứ tiếp tục mang thai sẽ ảnh hưởng đến tính mạng hoặc sức khỏe lâu dài …

Thông thường, đối với các trường hợp được bác sỹ xác định là mắc các
bệnh hiểm nghèo như tim bẩm sinh, hội chứng Down hoặc các dị tật bẩm sinh
khác thường được tư vấn nên cân nhắc để chấm dứt thai kỳ thì cha mẹ của đứa
trẻ sẽ là người quyết định. Tuy nhiên, trong trường hợp mang thai hộ thì người
mang thai hộ lại có quyền quyết định đến số phận bào thai. Trong lúc đó, người
chịu trách nhiệm nuôi dưỡng em bé kể từ thời điểm đưa trẻ được sinh ra lại là
cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Vì vậy, quy định này của pháp luật có khả năng
dẫn đến việc người mang thai hộ vẫn muốn giữ lại bào thai dù có dị tật và đứa
trẻ vẫn được sinh ra đời dẫn đến những nỗi đau cho gia đình và gánh nặng cho
xã hội.

Ở một giả định khác trong trường hợp này là việc do có quyền quyết định
đến số phận bào thai nên không thể loại trừ trường hợp người phụ nữ mang thai
hộ vì một lý do nào đó dùng đứa trẻ uy hiếp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đáp
ứng những yêu cầu của mình. Mà yêu cầu đó có thể liên quan đến lợi ích kinh tế
hoặc một lợi ích khác trái với ý muốn của người nhờ mang thai hộ. Nhưng vì
muốn đảm bảo cho sự an toàn của con mình, họ buộc phải đáp ứng. Thiết nghĩ,
trong trường hợp này pháp luật nên có những quy định, chế tài cụ thể thì trong

52
hợp đồng, cần thiết phải có những điều khoản ràng buộc rõ ràng. Chỉ có thể
được bỏ đứa trẻ trong những trường hợp nào? để tránh những trường hợp ngoài
ý muốn xảy ra.

Trong trường hợp người nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang
thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.

Dù được sinh ra bởi người mang thai hộ nhưng thực chất đứa trẻ là con
của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Do đó bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ
của cha mẹ đối với con ngay từ thời điểm con được sinh ra. Vì vậy nếu bên
mang thai hộ chậm nhận con, hoặc vi phạm về các nghĩa vụ về nuôi dưỡng,
chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp
luật HNGĐ 2014. Lúc này cặp vợ chồng cần đóng góp tiền và tài sản để đáp ứng
những nhu cầu cần thiết của đứa trẻ khi đứa trẻ không chung sống với họ. Do
pháp luật chưa quy định rõ về mức cấp dưỡng, thời gian nhận con. Vậy nên,
trong hợp đồng mang thai hộ, các bên chủ thể cần thiết bổ sung điều khoản thỏa
thuận này nhằm đảm bảo các thảo thuận được thực thi trên thực tế, đồng thời
cũng là căn cứ giải quyết tranh chấp nếu có vi phạm xảy ra. Tất nhiên, việc thỏa
thuận về thời gian giao nhận con, và mức độ cấp dưỡng trong thời gian chậm
nhận con phải dựa trên thu nhập thực tế của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, nhu
cầu cần thiết của đứa trẻ và phù hợp với các quy định về cấp dưỡng.

c. Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ.

Đối với bên nhờ mang thai hộ, Luật HNGĐ 2014 đã quy định cho họ
những quyền và nghĩa vụ cụ thể tại Điều 98 như sau:

Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.

Nhằm đảm bảo quyền lợi của người mang thai hộ trong quá trình mang
thai và sinh con pháp luật quy định bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các
chi phí để đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, chi phí đó phải là chi phí

53
thực tế theo quy định của Bộ Y Tế. Chi phí thực tế được hiểu là chi phí phát sinh
thực tế trong quá trình mang thai và sinh con, là những chi phí cần thiết nhất, cơ
bản nhất mà mỗi phụ nữ trong thời gian mang thai và sinh con đều phải chi trả
để đảm bảo cho sức khỏe và sự an toàn cho mẹ và em bé như: chi phí khám thai
thường xuyên, chi phí tiêm phòng, tiêm vắc xin, chi phí về chế độ sinh dưỡng,
ăn uống, nghỉ ngơi...

Quy định như vậy nhằm tránh trường hợp người mang thai hộ đưa ra
những đòi hỏi vô lý, vượt quá khả năng chi trả của người nhờ mang thai hộ.
Trên thực tế, việc người nhờ mang thai hộ chi trả những chi phí này cũng là điều
hoàn toàn chính đáng, ngoài việc gánh vác phần trách nhiệm đáng ra là của mình
cho người mang thai hộ thì việc chi trả này cũng đồng thời giúp chính con của
họ được hưởng điều kiện chăm sóc tốt hơn.

Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối
với con phát sinh từ thời điểm đứa trẻ được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ
được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo
hiểm xã hội kể từ thời điểm nhận con cho đến khi đứa trẻ đủ 06 tháng tuổi.

Việc quy định người nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản là rất
cần thiết bởi mặc dù không trực tiếp sinh ra đứa trẻ tuy nhiên đứa trẻ sinh ra vẫn
là huyết thống của họ chính vì thế việc quan tâm chăm sóc đứa trẻ trong thời
gian này cũng là trách nhiệm của họ. Việc làm này không chỉ là cần thiết với các
bên trong quan hệ mang thai hộ mà còn là việc làm quan trọng đối với đứa trẻ.
Về thời điểm bên mang thai hộ giao lại đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ còn
phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên, có thể giao nhận ngay, có thể lâu hơn,
vậy nên việc quy định thời gian nghỉ thai sản 06 tháng cho người mẹ nhờ mang
thai hộ là đảm bảo cho người mẹ nhờ mang thai hộ có thời gian bên cạnh, chăm
lo, quan tâm đứa trẻ một cách chu đáo để đứa trẻ cảm nhận được tình cảm từ
người mẹ cùng huyết thống của mình.

54
Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp
bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng,
chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật
này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho
bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ
chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của
bên nhờ mang thai hộ.

Đây là một trong những quy định quan trọng nhất nhằm phòng tránh
trường hợp đứa trẻ sinh ra không đúng mong muốn, nguyện vọng của cặp vợ
chồng nhờ mang thai hộ (đứa trẻ bị dị tật, đứa trẻ không được khỏe mạnh…) thì
họ cũng không được phép viện dẫn những lý do này để từ chối nhận đứa trẻ.
Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm về nghĩa
vụ nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy
định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật khác có liên quan; nếu
gây hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trường hợp cha mẹ từ chối
nhận đứa trẻ do có khuyết tật, về lâu về dài sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của
người mang thai hộ ví dụ như thời gian chăm sóc, chi phí chăm sóc, thậm chí
ảnh hưởng đến việc làm của người mang thai hộ... trong các trường hợp này, bên
mang thai hộ có thể yêu cầu bên nhờ mang thai hộ bồi thường những thiệt hại do
việc chậm trễn nhận con gây ra. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì
con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ
mang thai hộ. Vì theo quy định của pháp luật, con sinh ra bằng phương pháp
mang thai hộ là con của người nhờ mang thai hộ, chính vì thế đứa trẻ hoàn toàn
có quyền hưởng di sản thừa kế của người thân mình theo quy định của pháp luật
về thừa kế.

Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác trong gia
đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền ,nghĩa vụ theo quy định của Luật này,
Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan [6, tr35-37].

55
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con được quy định tại Mục I, Chương V
Quan hệ giữ cha mẹ và con trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, và Quan hệ
giữa các thành viên khác trong gia đình được quy định tại Chương VI của Luật
này.

Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang
thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.

Người mang thai hộ có nghĩa vụ phải giao con cho vợ chồng nhờ mang
thai hộ theo đúng như hai bên giao kết ghi nhận trong thỏa thuận mang thai hộ.
Người mang thai hộ không thực hiện giao con đúng như sự thỏa thuận cho bên
nhờ mang thai hộ thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Toà án buộc người
mang thai hộ giao con. Đây là quy định giúp cho mong muốn của người nhờ
mang thai hộ được đảm bảo. Đứa trẻ là con của bên nhờ mang thai hộ nên phải
giao đứa trẻ này cho bên nhờ mang thai hộ chăm sóc nuôi dưỡng.

Trong hợp đồng mang thai hộ, hai cặp vợ chồng phải cam kết cùng nhau
thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định tại điều 97, 98 của Luật HNGĐ. Biểu
mẫu 06, mẫu thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ban hành kèm theo
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã trích dẫn nguyên hai điều luật này trong thỏa
thuận nhằm đảm bảo cho các bên đều nắm được các quyền và nghĩa vụ của mình
và nghiêm túc thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật.

d. Thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo và các quyền nghĩa vụ khác có liên quan

Thỏa thuận về việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản
khoa

Như đã xác định, mang thai hộ là một hoạt động khá đặc biệt khi mà tỷ lệ
thành công chỉ chiếm khoảng 50% tổng số ca thực hiện. Bên cạnh đó, khi mang
thai người phụ nữ phải gánh chịu khá nhiều áp lực về sức khỏe của đứa trẻ cũng

56
như là sức khỏe của chính mình. Trong những năm gần đây, khi tỷ lệ biến chứng
sản khoa đang dần giảm xuống tuy nhiên vẫn không ít trường hợp đáng tiếc xảy
ra. Theo thống kê tại bệnh viện Từ Dũ, một trong những bệnh viện lớn nhất và
tốt nhất về phụ sản thì trong năm 2017, tại bệnh viện Từ Dũ có 68.921 ca sinh
con, trong đó có 3.390 trường hợp tiền sản giật (sản phụ bị tăng huyết áp, nguy
cơ sản giật), 1.617 trường hợp băng huyết sau sinh (mất máu nhiều sau sinh do
cơ tử cung gò kém, tổn thương đường sinh dục…), 2.086 trường hợp thai suy
trong khi chuyển dạ, 1.291 trường hợp bé sinh đủ tháng có vàng da cần can thiệp
y tế...[7]. Như vậy có thể thấy, nguy cơ xảy ra những biến chứng sản khoa là khá
lớn. Một câu hỏi đặt ra là ai sẽ là người chi trả cho những chi phí y tế phát sinh
phục vụ cho việc điều trị sau sinh cho bà mẹ và trẻ em? Nắm được những tâm tư
đó, Pháp luật có quy định điều khoản thỏa thuận này trong hợp đồng mang thai
hộ. Tuy nhiên, thỏa thuận thế nào tùy thuộc vào sự bàn bạc và thống nhất ý chí
của cả hai bên trong quan hệ mang thai hộ. Theo ý kiến tác giả, đây là vấn đề
khá quan trọng, liên quan đến sức khỏe tính mạng của bà mẹ mang thai hộ, cần
được thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng nhằm là căn cứ cho việc thực hiện nghĩa
vụ khi sự việc không may xảy ra, cũng như là căn cứ để tòa án giải quyết khi có
tranh chấp phát sinh.

Thỏa thuận về hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai
hộ trong thời gian mang thai và sinh con.

Trong thời gian mang thai và sinh con, người phụ nữ cần sự quan tâm rất
lớn về cả vật chất và tinh thần từ những người xung quanh. Chế độ dinh dưỡng
cũng như chăm sóc về y tế cũng là điều cần thiết cho người phụ nữ mang thai hộ
thời kỳ này. Chính vì thế, cần thiết có thỏa thuận về các chi phí trong thời gian
mang thai, bao gồm các chi phí về dược phẩm, các chi phí thăm khám, chi phí
dinh dưỡng, thực phẩm cho bà mẹ và em bé và các chi phí khác... Thông
thường, pháp luật quy định bên nhờ mang thai hộ sẽ là người chịu những khoản
chi phí này. Tuy nhiên mức độ chi trả là bao nhiêu? Thời gian chi trả như thế

57
nào, một lần hay định kỳ? Và chi trả đến thời điểm nào thì chấm dứt, là những
điều khoản mà hai bên cần thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng mang thai hộ.

Thỏa thuận về việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và
nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên
nhờ mang thai hộ và các quyền nghĩa vụ khác có liên quan.

Pháp luật không có quy định rõ về thời gian giao nhận đứa trẻ trong
trường hợp mang thai hộ mà để các bên tự thỏa thuận. Thông thường, khi mới
chào đời, đứa trẻ rất cần sự chăm sóc từ người mẹ sinh ra, có rất nhiều trường
hợp, bên nhờ mang thai hộ vẫn tiếp tục nhờ người mẹ mang thai hộ chăm sóc
đứa trẻ đến một thời điểm nhất định thì mới đón về để đảm bảo đứa trẻ được sử
dụng nguồn sữa mẹ tự nhiên từ mẹ mang thai hộ và sự chăm sóc cần thiết. Tuy
nhiên, thực tế không ít trường hợp, do tình cảm phát sinh giữa người mẹ mang
thai hộ và đứa trẻ mà người mẹ mang thai hộ không muốn giao con, hoặc vì lý
do nào đó mà bên nhờ mang thai hộ không muốn nhận con về. Chính vì thế cần
thiết có điều khoản thỏa thuận cụ thể của thời hạn giao nhận con, quá thời hạn
này, bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ giao - nhận con, nếu vẫn chưa
thực hiện có thể nhờ đến sự can thiệp của pháp luật.

Trong quá trình đứa trẻ ở với bên mang thai hộ, những chi phí liên quan đến
việc cấp dưỡng, chi phí y tế, sức khỏe chi trả cho đứa trẻ cũng nên được thỏa
thuận rõ trong hợp đồng nhằm đảm bảo có căn cứ để giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong thời gian bên nhờ mang thai hộ chưa đón con về.

e. Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm
cam kết theo thỏa thuận

Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính cưỡng chế
được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi
phạm. Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp có tính cưỡng chế
áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho người

58
khác, người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu quả xấu
xảy ra bằng tài sản của mình (trong đó có bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
hoặc ngoài hợp đồng).

Như ban đầu nhận định, hợp đồng mang thai hộ là một hợp đồng dân sự,
có sự thỏa thuận của đôi bên chủ thể về quyền và nghĩa vụ liên quan đến vấn đề
mang thai hộ. Chỉ cần có sự vi phạm từ một bên, bên còn lại hoàn toàn có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, để chắc
chắn rằng quyền lợi của mình được đảm bảo, các bên trong hợp đồng cần thiết
có sự thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng như: nếu xảy ra vi phạm đã cam kết thì
bên gây ra vi phạm sẽ phải bồi thường như thế nào? Mức bồi thường là bao
nhiêu? Bồi thường một lần hay nhiều lần? Bồi thường trực tiếp hay gián tiếp?...
Ngoài ra, đối với hợp đồng dân sự, các bên được phép lựa chọn tòa án sẽ giải
quyết vụ việc của họ nếu có tranh chấp phát sinh. Đó có thể là tòa án nơi nguyên
đơn – bị đơn cư trú, cũng có thể là tòa án nơi xảy ra vụ việc... tất cả đều có thể
được đôi bên thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng mang thai hộ của mình. Có
thỏa thuận cụ thể mới có căn cứ để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình và buộc các bên chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai
bên vi phạm các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng.

2.2. Đánh giá ưu điểm, nhược điểm về hợp đồng mang thai hộ dưới
hình thức thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và tầm quan
trọng của hợp đồng mang thai hộ trong thực tế đời sống
2.1.1. Những ưu điểm của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
hiện nay

Kể từ khi pháp luật về mang thai hộ đi vào thực tế cuộc sống, các quy
định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được nghị định chính phủ hướng dẫn
cụ thể rõ ràng đã có rất nhiều cặp vợ chồng kém may mắn thực hiện được ước
mơ của mình. Góp phần là cầu nối cho những cặp vợ chồng kém may mắn đến
được với những người tình nguyện, hợp đồng mang thai hộ là sợi dây kết nối họ

59
với nhau. Bước đầu sử dụng và đi vào thực tế đời sống, hợp đồng mang thai hộ
đã thể hiện được những ưu điểm sau đây.

Thứnhất, hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạogiúp các bên xác
định được chính xác người tham gia cùng mình trong quan hệ mang thai hộ.

Trong hợp đồng mang thai hộ, các bên chủ thể phải ghi rõ thông tin của
mình. Bao gồm họ tên 2 cặp vợ chồng, thông tin chứng minh nhân dân, địa chỉ
thường trú... mối quan hệ thân thích của các bên chủ thể. Điều này giúp hai bên
biết rõ về nhau, nắm vững thông tin đối phương, tạo cảm giác an toàn trong suốt
quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng thời, thông tin chủ thể rõ ràng cũng tạo điều
kiện cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc giải quyết tranh chấp nếu có,
cũng như hỗ trợ quá trình thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự sau khi
quyết định, bản án có hiệu lực. So với những trường hợp mang thai hộ vì mục
đích thương mại, khi mà hợp đồng giữa họ có thể “có” có thể “không”. Có
những trường hợp chỉ thông qua bên môi giới dẫn đến việc nếu bên nhờ mang
thai hộ giữa chừng chấm dứt hợp đồng, thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho bên mang
thai hộ. Lúc này, do trẻ ra đời không cùng huyết thống của họ, cũng không phụ
thuộc vào mong muốn của người phụ nữ mang thai hộ, sẽ không tránh khỏi sự
ruồng bỏ đứa trẻ từ người mẹ sinh ra. Đây cũng chính là sự thiệt thòi cho đứa
trẻ, cũng là vấn nạn lớn của xã hội khi không biết chủ thể thật sự phải chịu trách
nhiệm ở đây là ai. Chính vì thế, hợp đồng mang thai hộ đã khắc phục được
nhược điểm này, khi quy định rất cụ thể phần thông tin chủ thể ở ngay mục I; II
của hợp đồng.

Thứ hai, hợp đồng mang thai hộ giúp các bên xác định được rõ quyền và
nghĩa vụ của mình trong quan hệ mang thai hộ.

Thông thường, trong một hợp đồng dân sự bình thường, các bên tự mình
thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ của mình sao cho phù hợp. Chỉ cần không trái
đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật là hoàn thoàn hợp pháp.
Tuy nhiên, trong thỏa thuận mang thai hộ thì cụ thể hơn. Để đảm bảo cho các

60
bên biết rõ, cũng như nghiêm túc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, chính
phủ đã ban hành biểu mẫu 06 trong đó ghi rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tại
mục III của thỏa thuận mang thai hộ. Đây là một điều khoản có sẵn trong hợp
đồng nhằm giúp các bên xác định được rõ quyền và lợi ích của mình trong quan
hệ mang thai hộ. Đây là điều vô cùng ý nghĩa, bởi không phải ai cũng biết và
hiểu về luật nhất là đối với mang thai hộ vẫn còn là một vấn đề mới mẻ. Trong
mang thai hộ vì mục đích thương mại, đối tượng mang thai hộ thường là những
người yếu thế, thiếu thốn vật chất và thiếu hiểu biết về pháp luật, vậy nên việc
gánh chịu những thiệt thòi là điều khó tránh khỏi. Pháp luật đã dự liệu sẵn điều
này nên ở hợp đồng mang thai hộ, những điều khoản về quyền và nghĩa vụ được
quy định rõ trong hợp đồng, tránh vì thiếu hiểu biết mà bất cứ bên nào phải gánh
chịu những thiệt thòi không đáng có khi tham gia quan hệ mang thai hộ này.
Đây quả thực là một ưu điểm nữa của hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo.

Thứ ba, hợp đồng mang thai hộ tạo điều kiện cho các chủ thể tự do thỏa
thuận các vấn đề liên quan đến hợp đồng, cách thức giải quyết tranh chấp nếu
có và các vấn đề khác trong quan hệ mang thai hộ.

Mang thai hộ là một vấn đề mới cho nên những vấn đề phát sinh trong
quan hệ mang thai hộ thường không phải là ít, thậm chí còn khá rắc rối bởi nó
liên quan đến cả lý lẫn tình. Chính vì thế, nếu không có những thỏa thuận ban
đầu thì khi giải quyết nếu có tranh chấp phát sinh sẽ gặp phải không ít khó khăn.
Hợp đồng mang thai hộ cho phép các bên tự do thể hiện ý chí của mình thông
qua sự thỏa thuận tự nguyện. Tại mục IV; V của hợp đồng bỏ trống nhằm tạo
điều kiện cho các bên tự quyết định những vấn đề quan trọng trong hợp đồng
như thời hạn giao con? Khoản tiền cấp dưỡng? cách thức tính cũng như chi trả
chi phí thăm khám trong quá trình mang thai? Chế tài xử phạt và bồi thường khi
có vi phạm?… đó là những vấn đề vô cùng quan trọng để các bên cùng thực
hiện và cũng chính là căn cứ giải quyết những tranh chấp phát sinh sau này. Bên
cạnh đó, hợp đồng mang thai hộ bằng chứng, chứng mình về việc có sự tồn tại

61
quan hệ mang thai hộ giữa hai bên. Có quan hệ tồn tại mới có căn cứ để giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ chính quan hệ đó.

Có thể nói, cách sắp xếp các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng mang
thai hộ khá hợp lý. Do mang bản chất của hợp đồng dân sự, theo đó pháp luật
hiện nay cũng có những quy định kế thừa từ những nội dung truyền thống của
một hợp đồng dân sự như: chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên,
các chế tài giải quyết tranh chấp hợp đồng… những quy định này có vai trò quan
trọng để các bên tự do thỏa thuận và thực hiện hợp đồng.Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm, hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay vẫn còn
tồn tại một số bất cập mà tác giả sẽ phân tích ở phần sau.

2.1.2. Nhược điểm của hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành.

Bên cạnh những ưu điểm, thì hợp đồng mang thai hộ hiện nay cũng không
tránh khỏi những nhược điểm như sau:

Thứ nhất, hợp đồng mang thai hộ hiện nay vẫn đang tồn tại dưới hình
thức thỏa thuận dân sự.

Xét về bản chất, thỏa thuận hay hợp đồng cũng đều thể hiện ý chí của các
bên tham gia giao dịch dân sự. Tuy nhiên, xét về khía cạnh pháp lý, hợp đồng đã
được định nghĩa, giải thích rõ ràng tại Điều 385, Bộ luật Dân sự (2015) còn thỏa
thuận thì không. Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về
thỏa thuận, chỉ xem thỏa thuận là một đặc tính của hợp đồng. Phải chăng, chỉ
được xem là thỏa thuận sẽ làm giảm đi giá trị pháp lý của quan hệ này? Tại sao
khi đã quy định đầy đủ các thành tố trong thỏa thuận để giống như một hợp
đồng lại không để tên là hợp đồng mang thai hộ? Khi để tên là “thỏa thuận” như
vậy, thì việc áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vi phạm liên quan đến
hợp đồng cho những vi phạm của thỏa thuận thì có hợp lý không? Vậy nên, theo
ý kiến tác giả, nên đổi tên của thỏa thuận mang thai hộ thành hợp đồng mang

62
thai hộ để vừa đảm bảo tính khách quan, chính xác khi áp dụng pháp luật, và
tăng tính pháp lý cho văn bản này.

Thứ hai, chưa có hướng dẫn cụ thể về cách thức thỏa thuận và nội dung
thỏa thuận tại mục IV của thỏa thuận mang thai hộ.

Tại Điều 96 Luật HNGĐ 2014 có quy định những nội dung phải có trong
thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Điều này được cụ thể hóa trong
Mẫu số 06 về bản thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ban hành kèm
theo Nghị định 10/2015/NĐ-CP. Theo đó mục I; II; III được trình bày rất cụ thể
rõ ràng, có hướng dẫn chi tiết nên các bên liên quan rất dễ dàng kê khai. Tuy
nhiên ở mục IV, bao gồm các nội dung liên quan về việc giải quyết hậu quả
trong trường hợp có tai biến sản khoa; bảo đảm sức khỏe cho người mang thai
hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai
hộ thì không có hướng dẫn cụ thể. Điều này sẽ khiến cho các cặp vợ chồng khó
khăn trong việc thỏa thuận [20]. Hơn thế nữa, mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo là nhằm mục đích nhân văn không hướng đến các lợi ích kinh tế, tuy nhiên,
để các bên tự thỏa thuận về các khoản tiền bồi dưỡng, các chi phí thăm khám thì
e rằng đây chính là kẻ hở cho những thỏa thuận bồi dưỡng lên đến hàng trăm,
thậm chí cả tỉ đồng. Như vậy, hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có
thể đang che dấu cho một sự trao đổi về tiền tài vật chất cho một thỏ thuận
thương mại về việc mang thai hộ “thuê”. Điều này cần thiết có những hướng dẫn
cụ thể hơn từ các nhà làm luật cho vấn đề này.

Thứ ba, khó khăn trong việc đủ điều kiện chủ thể để xác lập một hợp đồng
mang thai hộ hợp pháp.

Để có một hợp đồng mang thai hộ hợp pháp là một “hành trình” không dễ
dàng, có thể cần đến một năm hoặc nhiều hơn thế nữa để các bên trong hợp
đồng mang thai hộ đáp ứng được hết các tiêu chuẩn mà pháp luật đề ra nhằm
đảm bảo thỏa mãn được các điều kiện để được mang thai hộ hợp pháp. Nghị
định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 do Chính phủ ban hành quy định về

63
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo ra đời từ nhu cầu thực tế, được rất nhiều cặp vợ chồng hiếm
muộn ủng hộ. Tuy nhiên, các điều kiện để được thực hiện kỹ thuật này vô cùng
chặt chẽ, pháp luật quy định chỉ cho phép những người thân thích cùng hàng
mang thai hộ cho nhau nhằm tránh những sự thỏa thuận vụ lợi, trao đổi về mặt
kinh tế. Tuy nhiên, hai từ “thân thích” lại chính là rào cản khá lớn khi muốn
thiết lập một quan hệ mang thai hộ mà cũng chưa chắc đã đạt hiệu quả. Chúng ta
có vẻ “dị ứng” với những mối quan hệ gia đình, những mối quan hệ truyền
thống mà lại dính dáng đến kinh doanh, đến tiền bạc. Song thực tế, những thỏa
thuận rõ ràng, sòng phẳng thường lại là những thỏa thuận dễ điều chỉnh nhất,
dưới góc độ pháp lý, trong việc quản lý và hạn chế được việc mang thai hộ vì
mục đích thương mại [17]. Có nhiều trường hợp, những người thân thích là
những người họ hàng nhưng sống xa nhau, chưa hoặc ít tiếp xúc tạo nên tình
cảm xa cách, điều đó dẫn đến việc tranh chấp con, việc thỏa thuận phi nhân đạo
trong mang thai hộ vẫn có thể diễn ra như thường. Hoặc trường hợp những
người bạn bè thân hữu, những người thật tâm thành ý muốn giúp đỡ bạn bè của
mình không màng vụ lợi vẫn luôn tồn tại, tuy nhiên họ lại không được pháp luật
công nhận là đối tượng hợp pháp. Vậy, có phải những điều kiện về mang thai hộ
hiện nay vẫn đang còn quá khắt khe, dẫn đến việc nhu cầu thì lớn mà khả năng
đáp ứng được điều kiện lại tương đối nhỏ. Điều đó dẫn đến việc tất yếu tồn tại
những trường hợp mang thai hộ không hợp lệ, không đáp ứng được tiêu chuẩn
nhưng vẫn xảy ra trên thực tế. Và đương nhiên hợp đồng mang thai hộ trong
trường hợp này cũng như vậy, dẫu không hợp lệ nhưng vẫn thiết lập và trở thành
những hợp đồng vô hiệu. Lúc này, quyền và lợi ích của các bên đương nhiên lại
không được đảm bảo. Vậy nên, theo ý kiến tác giả, cần thiết phải có sự điều
chỉnh từ pháp luật trong vấn đề này để phù hợp với nhu cầu thực tế đời sống về
mang thai hộ.

Thứ tư, chưa có hướng dẫn cụ thể về cách thức thỏa thuận và nội dung
thỏa thuận tại mục V của thỏa thuận mang thai hộ.

64
Trong mẫu số 06 thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ban hành
kèm theo Nghị định 10/2015/NĐ-CP, tại mục V quy định về trách nhiệm dân sự
trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết trong thỏa thuận.
Cũng giống như mục IV thì mục V trong bản thỏa thuận cũng không được nghị
định hướng dẫn rõ ràng. Trong bất kỳ thỏa thuận dân sự nào, việc đảm bảo các
bên đều nghiêm túc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình là điều không dễ dàng
nhất là đối với một quan hệ nhạy cảm như quan hệ mang thai hộ. Chính vì thế,
theo ý kiến tác giả cần thiết phải có những hướng dẫn cụ thể tại mục V để các
bên trong thỏa thuận xác định được hậu quả pháp lý bất lợi mà mình có thể phải
gánh chịu khi vi phạm cam kết. Ví dụ như đối với trường hợp phạt vi phạm đối
với người bỏ rơi trẻ em quy định tại nghị định số 144/2013, NĐ-CP ban hành
ngày 29/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành về bảo trợ, cứu trợ xã hội và
bảo vệ chăm sóc trẻ em như sau: “mức phạt tiền từ 10 đến 15 triệu đồng được
áp dụng đối với trường hợp bỏ hoặc không chăm sóc, nuôi dưỡng con sau khi
sinh; cha mẹ, người giám hộ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cắt đứt quan
hệ tình cảm và vật chất với trẻ em, trừ trường hợp trẻ em làm con nuôi hoặc bị
buộc cách ly trẻ em theo quy định; cha, mẹ, người giám hộ cố ý bỏ rơi trẻ nơi
công cộng, bỏ mặc ép buộc không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh
sống, không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ em rơi vào hoàn cảnh
đặc biệt. Trong các trường hợp này, ngoài phạt tiền, cha mẹ người nuôi dưỡng
còn buộc phải thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em theo quy định
của pháp luật”. Vậy quy định trên có áp dụng với trường hợp trẻ em sinh ra nhờ
phương pháp “mang thai hộ” hay không? Người bị phạt là người sinh ra đứa trẻ
hay người nhờ mang thai hộ? Có thể nói, nếu không được hướng dẫn và giải
thích rõ ràng thì hậu quả dẫn đến chính là còn nhiều bất cập liên quan đến việc
thỏa thuận của đôi bên cũng như sự giải quyết của pháp luật nếu như có tranh
chấp phát sinh. Chính vì thế theo ý kiến tác giả, pháp luật cần có những quy định
và hướng dẫn cụ thể rõ ràng hơn trong mục này.

65
Thứ năm, chưa có quy định, công nhận những “hợp đồng mang thai hộ”
đúng pháp luật nhưng khác hình thức của biểu mẫu 06 là hợp pháp.

Như chúng ta đã biết, đặc tính của quan hệ dân sự chính là sự linh hoạt
dựa trên sự thỏa thuận của đôi bên. Và sự thỏa thuận đó được biểu hiện dưới
nhiều dạng thể thức, có thể là một hợp đồng thông thường ghi lại những thỏa
thuận của đôi bên chứ không nhất thiết phải là dạng biểu mẫu như Nghị định
10/2015/NĐ-CP đã ban hành. Nếu xét cả về nội dung lẫn hình thức, hợp đồng
mang thai hộ đó được soạn thảo chặt chẽ, không trái pháp luật về mang thai hộ
mà vẫn đáp ứng được những thông tin cần thiết, phù hợp với sự thỏa thuận của
hai bên thì thiết nghĩ nên có quy định công nhận những hợp đồng như vậy là hợp
pháp và được phép là căn cứ trước pháp luật nếu có tranh chấp xảy ra.

Thứ sáu, quy định về người ký thỏa thuận mang thai hộ (hợp đồng) vẫn
còn bất cập

Quy định “Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có
sự đồng ý bằng văn bản của người chồng” và phần ký kết trong hợp đồng cũng
ghi rõ là bốn người cùng ký. Đây là một quy định còn khá cứng nhắc bởi lẽ
trong trường hợp người chồng của người phụ nữ mang thai hộ là người mất năng
lực hành vi dân sự, là người mắc các chứng bệnh như thiểu năng, liệt toàn thân,
hoặc các chứng bệnh về thần kinh khác... thì rất khó để cho ý kiến và đồng ý
bằng văn bản trong trường hợp này. Thậm chí, việc ký vào hợp đồng của họ
cũng còn là một điều khó khăn. Chính vì thế cần có sự điều chỉnh từ pháp luật
trong vấn đề này.

Thứ bảy, chưa có quy định cụ thể về việc giải quyết hợp đồng mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo vô hiệu

Như chúng ta đã biết, hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tuy là
một dạng thỏa thuân dân sự đặc biệt nhưng cũng không thể tránh khỏi những
đặc trưng cơ bản của một giao dịch dân sự thông thường. Sẽ không có gì đáng
nói nếu hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đáp ứng được đầy đủ tất

66
cả các điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng dân sư thông thường. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình thiết lập
và thực hiện hợp đồng, hoặc chính các chủ thể đã cố tình làm trái dẫn đến hợp
đồng đó vô hiệu. Vậy, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo mà hợp đồng mà bị tuyên vô hiệu thì các bên sẽ giải quyết
hậu quả như thế nào. Liệu việc trao trả cho nhau những gì đã nhận hay việc bồi
thường bằng tiền, bằng vật chất như luật quy định có hợp lý khi áp dụng trong
trường hợp này. Điều này cần thiết có sự hướng dẫn cụ thể hơn từ pháp luật.

2.1.3. Tầm quan trọng của hợp đồng mang thai hộ trong quan hệ pháp luật
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Có thể thấy, trong bối cảnh hiện tại, việc cấm mang thai hộ đã không còn
phù hợp khi mà nhu cầu có một đứa con của mình ngày càng cao, khi tỉ lệ vô
sinh tăng cao và điều kiện kinh tế đã phát triển hơn trước rất nhiều, người ta sẵn
sàng chi tiền và làm đủ mọi biện pháp để có một đứa con cùng huyết thống.
Chính vì thế, “cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” là giải pháp an
toàn, dung hòa tối đa lợi ích của nhà nước, gia đình và mỗi cá nhân [15, tr13].
Nhìn chung, pháp luật hiện hành đã ban hành những quy định, những hướng dẫn
quan trọng, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ cho các bên trong quan
hệ mang thai hộ. Trong đó có việc ban hành thể thức, nội dung của hợp đồng
mang thai hộ. Không thể phủ nhận được tầm quan trọng của hợp đồng trong
quan hệ pháp luật mang thai hộ bởi những điểm sau.

Thứ nhất, hợp đồng mang thai hộ đã giúp các bên nắm rõ được thông tin
của đối phương bằng cách quy định nội dung về thông tin chủ thể ngay tại mục
I; II của hợp đồng. Hợp đồng mang thai hộ giúp các bên nắm vững quyền và
nghĩa vụ của mình thông qua nội dung các quyền và nghĩa vụ quy định ở mục III
của hợp đồng. Hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thể hiện được ý chí của
mình thông qua những điều khoản thỏa thuận tại mục IV bao gồm: việc giải
quyết hậu quả trong trường hợp tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe
của người mang thai hộ, trong thời gian mang thai, việc giao nhận con của các

67
bên trong quan hệ mang thai hộ...Cuối cùng, hợp đồng mang thai hộ giúp các
bên thỏa thuận với nhau trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai
bên vi phạm cam kết tại mục V của hợp đồng.

Thứ hai, hợp đồng mang thai hộ tạo ra một khung pháp lý an toàn, một cơ
chế đặc biệt khác biệt dựa trên các điều khoản trong chế định mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo. Hợp đồng là căn cứ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích của các
bên tham gia quan hệ mang thai hộ và đặc biệt quan tâm bảo vệ đến quyền lợi
của bà mẹ và trẻ em. Do quan hệ mang thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát
sinh tranh chấp và khó phân xử, nên hợp đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên
khỏi sự xâm phạm của bên kia và là cơ sở cho tòa án phân xử đúng sai nếu có
tranh chấp xảy ra.

Thứ ba, hợp đồng mang thai hộ là sợi dây ràng buộc cả đôi bên trong
quan hệ mang thai hộ, tránh tình trạng chỉ hưởng quyền lợi mà không thực hiện
các nghĩa vụ đã ghi trong thỏa thuận gây tổn hại đến đối phương. Pháp luật quy
định hợp đồng mang thai hộ là hợp đồng phải công chứng chứng thực. Điều này
thể hiện ý chí bảo vệ của nhà nước đối với quan hệ dân sự nhạy cảm này.

Có thể nói rằng, trong bất cứ quan hệ dân sự nào, sự thỏa thuận của các
bên chủ thể trong hợp đồng luôn được xem là quan trọng nhất bởi đó là sự thống
nhất ý chí của các bên một cách tự nguyện khi tham gia vào quan hệ dân sự.
Hợp đồng ra đời nhằm mục đích ghi lại những thỏa thuận đó, lấy đó làm căn cứ
để giải quyết những vấn đề về sau nếu một hoặc cả hai bên vi phạm những điều
mình đã cam kết. Thừa nhận mang thai hộ, cũng chính là việc thừa nhận con
người trở thành đối tượng của hợp đồng, một “đối tượng” đặc biệt, được nhà
nước bảo vệ, được toàn xã hội quan tâm. Chính vì thế, hợp đồng mang thai hộ
phải ghi nhận những điều khoản vừa đảm bảo được lợi ích của đôi bên, vừa bảo
vệ được đối tượng của hợp đồng và quan trọng phải phù hợp với các quy định
của pháp luật. Một hợp đồng mang thai hộ hợp pháp, hợp tình, hợp lý là “sợi dây
ràng buộc” tốt nhất để đôi bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Cũng
chính là căn cứ quan trọng để tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến

68
quan hệ pháp luật dân sự - mang thai hộ. Mới ra đời gần đây nên hợp đồng mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay cũng không tránh khỏi những thiếu sót,
tuy nhiên cũng không thể phủ nhận tầm quan trọng của hợp đồng mang thai hộ
hiện nay. Qua chứng minh thực tiễn cho thấy, cần nhiều hơn những điều chỉnh
từ pháp luật để hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trở nên hoàn thiện
hơn. Tại chương III của luận văn này, tác giả sẽ đưa ra một vài kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện hành.

69
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO

Một trong những chức năng cơ bản của gia đình, đó chính là chức năng tái
sản xuất ra con người. F. Engel, nhà duy vật lịch sử vĩ đại của nhân loại cũng
thừa nhận: “Nhân tố quyết định trong lịch sử suy cho cùng là... sự tái sản xuất ra
bản thân con người, là sự truyền nòi giống” [18]. Chức năng sinh sản của gia
đình là một giá trị trường tồn. Do đó việc nhà nước cho phép mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo chính là tạo cơ hộ cho những cặp vợ chồng hiếm muộn có cơ
hộ có được đứa con cùng huyết thống của mình, đáp ứng mong mỏi duy trì nòi
giống, vừa đảm bảo hạnh phúc gia đình, vừa duy trì sự phát triển bền vững của
xã hội.
Có thể nói, bên cạnh những quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì việc công bố biểu mẫu
về thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ban hành kèm theo nghị định
10/2015/NĐ-CP là một điều vô cùng thiết thực. Đây chính là cơ sở pháp lý quan
trọng nhằm bảo vệ các bên trong quan hệ mang thai hộ, cũng như là căn cứ để
tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh nếu có trong thỏa thuận. Sau 03 năm ban
hành, thỏa thuận mang thai hộ đã góp phần không nhỏ trong quan hệ mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo như đảm bảo tính pháp lý cũng như giúp các bên hợp
pháp hóa được các thỏa thuận của mình tránh những đáng tiếc giữa đôi bên. Tuy
nhiên, trong quá trình vận dụng cũng không tránh khỏi những bất cập, thiếu sót
mà tác giả có nêu lên ở phần trên. Chính vì thế, để hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này, cá nhân tác giả xin đề xuất những kiến nghị sau:
3.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mặt hình thức của hợp
đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành
Thứ nhất, đổi tên “thoả thuận mang thai hộ” thành “hợp đồng mang thai
hộ”.

70
Việc đổi tên “thoả thuận mang thai hộ” thành “hợp đồng mang thai hộ”
nhằm pháp lý hóa tối đa quan hệ pháp luật về mang thai hộ. Như đã phân tích ở
phần bất cập, việc để tên là “thỏa thuận” tuy không ảnh hưởng đến phần nội
dung của quan hệ mang thai hộ nhưng lại gây nên tính bất thống nhất khi giải
quyết thỏa thuận mang thai hộ theo hướng một hợp đồng dân sự. Khi hầu hết
những văn bản mang tính pháp lý để giải quyết tranh chấp đều sử dụng thuật
ngữ hợp đồng như: “giải quyết tranh chấp ngoài hợp đồng, bồi thường hợp
đồng.... v.v, Luật dân sự còn có hẳn một chế định về hợp đồng nhằm định nghĩa,
giải thích và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự. Chính vì
vậy, ngoài việc là một trong những vấn đề thuộc phạm trù giải quyết của luật
hôn nhân gia đình, thì thỏa thuận mang thai hộ cũng mang đầy đủ các yếu tố của
một hợp đồng dân sự bao gồm các quyền và nghĩa vụ, các thỏa thuận về giải
quyết hậu quả sau sinh, các thỏa thuận về trách nhiệm dân sự khi đôi bên vi
phạm cam kết... Vậy nên, theo ý kiến tác giả cần thiết thay đổi tên gọi thành hợp
đồng để tạo nên tính thống nhất trong các văn bản pháp luật.
Thứ hai, có quy định mở về những hợp đồng mang thai hộ khác nếu hợp
pháp vẫn được điều chỉnh bởi pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Hiện tại, như chúng ta đã thấy, nghị định số 10/2015/NĐ-CP ban hành,
ngoài việc quy định về các điều khoản hướng dẫn việc áp dụng thi hành các điều
khoản về quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều
kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thì còn ban hành các biểu mẫu đi kèm
liên quan đến vấn đề mang thai hộ trong đó có biểu mẫu số 06 về thỏa thuận
mang thai hộ. Về ưu điểm, biểu mẫu thỏa thuận chính là khuôn mẫu pháp lý để
các bên áp dụng, đưa những thỏa thuận của mình vào biểu mẫu nhằm pháp lý
hóa những thỏa thuận của mình. Tuy nhiên, biểu mẫu cũng mang tính cứng
nhắc, rập khuôn. Cần thiết phải mở rộng thêm các hình thức hợp đồng mang thai
hộ khác bởi bản chất của các hợp đồng dân sự chính là sự thỏa thuận của đôi
bên. Chính vì thế, theo ý kiến tác giả, pháp luật cũng nên có những quy định mở,
nhằm tạo điều kiện cho những hợp đồng mang thai hộ ở dạng khác với biểu
mẫu, nhưng vẫn giữ được những nội dung chính, bám sát quyền và nghĩa

71
vụ

72
theo quy định của pháp luật về mang thai hộ, và không trái pháp luật được phép
công nhận là hợp pháp. Để những dạng hợp đồng này có giá trị như là biểu mẫu
do pháp luật ban hành và đồng thời cũng đóng vai trò là căn cứ giải quyết của
tòa án khi có tranh chấp pháp sinh.
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mặt nội dung của hợp
đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành
Thứ nhất, có hướng dẫn rõ ràng hơn trong các văn bản hướng dẫn về
việc thực hiện các điều khoản tại mục IV và mục V của thỏa thuận mang thai
hộ.
Bởi mang thai hộ vốn dĩ là một vấn đề nhạy cảm, nên cần có sự can thiệp
sâu hơn của pháp luật chứ không đơn giản là các quyền và nghĩa vụ của các bên
để tránh xảy ra những tranh chấp không đáng có, cũng như việc để các bên tự
thỏa thuận dễ dẫn đến sự biến tướng thương mại trong quan hệ mang thai hộ.
Theo ý kiến tác giả, cần thiết phải bổ sung các quy định về cấp dưỡng cho người
mang thai hộ, chi phí thăm khám sức khỏe định kỳ, thời giạn giao nhận con... để
có một khung pháp lý cụ thể, thuận tiện cho các bên soạn thảo hợp đồng.
Thứ hai, mở rộng đối tượng được tham gia hợp đồng mang thai hộ bằng
cách mở rộng đối tượng được phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo một
cách hợp pháp.
Như đã phân tích ở trên, việc pháp luật chỉ cho phép những chị em là
người “thân thích cùng hàng” được phép mang thai hộ cho cặp vợ chồng vô
sinh, dẫn đến hạn chế quyền được có con của cặp vợ chồng mang thai hộ bởi đối
tượng “thân thích cùng hàng” thật sự không nhiều. Nhất là trong thời điểm các
chính sách kế hoạch hóa gia đình được đảm bảo, gia đình nào cũng chỉ có từ một
đến hai con, mà cán cân giới tính lại có tỉ lệ nam nhiều hơn trong mỗi gia đình
thì việc nhờ mang thai hộ là khá khó khăn dẫn đến nhiều cặp vợ chồng đành tìm
người mang thai hộ “chui” dẫu biết là bất hợp pháp. Vậy nên, mở rộng đối
tượng được phép mang thai hộ cũng là mở ra nhiều cơ hội hơn cho những cặp
vợ chồng vô sinh hiếm muộn. Đồng thời đảm bảo tinh pháp lý cho những

73
hợp

74
đồng mang thai hộ mà đối tượng không phải chỉ là những chị em “thân thích
cùng hàng”.
Thứ ba, thay đổi quy định về việc “người phụ nữ mang thai hộ có chồng
thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng”.
Có nhiều trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng nhưng chồng
của họ lại mắc các chứng bệnh về tâm thần, hạn chế trong khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi, các chứng bệnh khác như bại liệt... Đối với những trường
hợp này nên có quy định mở rộng về việc nếu thuộc các trường hợp nêu trêu,
người phụ nữ có thể tự mình quyết định việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
hộ người khác. Đồng thời, được phép bỏ trống mục chữ ký của người chồng
trong hợp đồng mang thai hộ trong trường hợp người chồng không có khả năng
ký vào văn bản do hạn chế về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi hoặc
các trường hợp khác tương tự. Đây là việc nhà làm luật nên dự liệu trước để
tránh tình trạng lúng túng trong quá trình thực hiện gặp phải những trường hợp
tương tự trên thực tế.
Thứ tư, có quy định đưa ra phương hướng giải quyết đối với hợp đồng
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bị tuyên vô hiệu.
Như chúng ta đã biết, tuy là một dạng hợp đồng dân sự đặc biệt nhưng
hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo vẫn có thể bị tuyên vô hiệu như
những hợp đồng dân sự bình thường khác khi không đáp ứng một trong các điều
kiện theo quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự. Trong trường hợp hợp đồng
mang thai hộ bị tuyên vô hiệu thì hậu quả pháp lý của hợp đồng mang thai hộ
cũng như các hợp đồng khác, xảy ra các trường hợp sau: Hợp đồng có thể bị vô
hiệu toàn bộ hoặc chỉ bị vô hiệu một phần. Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một
phần nội dung của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của
phần còn lại của hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập.
Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì
trị giá thành tiền để hoàn trả. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không

75
phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Tuy nhiên, đối với hợp đồng mang thai hộ thì không thể xử lý dễ dàng như vậy
bởi đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp khi một hợp đồng mang thai hộ bị tuyên vô
hiệu ngoài hai bên chủ thể còn có đứa trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ. Lúc này,
việc trao trả cho nhau những gì đã nhận là điều bất hợp lý. Vậy, trong trường
hợp này cần phải xử lý như thế nào? Pháp luật cần có những hướng dẫn cụ thể
trong trường hợp này để có phương hướng giải quyết cụ thể trong trường hợp
hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bị tuyên vô hiệu.
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền pháp luật về mang thai hộ nói chung
và sự cần thiết phải thiết lập một hợp đồng mang thai hộ hợp pháp nói riêng.
Hầu hết các quan hệ mang thai hộ ngoài thực tế đều không coi trọng việc
xác lập hợp đồng bởi những lý do chủ quan khác nhau. Có thể là do sự tin tưởng
lẫn nhau giữa các bên chủ thể trong quan hệ hợp pháp, cũng có thể là lòng tin
của họ với bên môi giới trong quan hệ mang thai hộ bất hợp pháp, chính vì thế,
mới xảy ra trường hợp họ ký hợp đồng với bên môi giới chứ không phải bên
trực tiếp mang thai hộ cho mình. Điều này vô hình chung làm cho bản hợp đồng
đó trở nên vô giá trị khi vi phạm điều cấm của pháp luật vì xác lập và thực hiện
hợp đồng mang thai hộ vì mục đích thương mại. Vì sao có sự bất cẩn này? một
phần là do họ ngại thực hiện các thủ tục hành chính phần khác là do sự thiếu
hiểu biết của họ dẫn đến việc xác lập những hợp đồng mang thai hộ trái pháp
luật. Chính vì thế, nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật sẽ giúp người dân
hiểu biết pháp luật và thực hiện đúng theo những quy định trên, tránh hậu quả
đáng tiếc xảy ra.

76
KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam nói chung hay các
vấn đề liên quan đến nó trong đó có “hợp đồng mang thai hộ” ở Việt Nam nói
riêng từ khi ra đời đã nhận được sự quan tâm rất lớn từ dư luận cũng như giới y
học. Việc ban hành pháp luật về một vấn đề mới cũng như là một vấn đề đang
mang nhiều tranh cãi từ các quốc gia trên thế giới dẫn đến việc không thể tránh
khỏi những sai sót và hạn chế. Từ những hạn chế bất cập đó cũng dẫn đến quá
trình thực thi pháp luật về vấn đề này gặp không ít khó khăn. Vậy nên, để giải
quyết được đòi hỏi cần có những quy định đầy đủ, chặt chẽ từ các cơ quan lập
pháp và nhất là các quy định liên quan đến hợp đồng mang thai hộ. Bởi lẽ, quan
hệ pháp luật về mang thai hộ là một quan hệ nhạy cảm và phức tạp, đó không
chỉ là một quan hệ pháp luật dân sự trao đổi đơn thuần, đó là một quan hệ dân sự
đặc biệt khi mà lần đầu tiên con người được xem là đối tượng của một hợp đồng
dân sự. Vậy nên, quy định thế nào để tạo nên một hợp đồng chặt chẽ, vừa đảm
bảo cho các bên đạt được những lợi ích mang tính nhân văn to lớn của mình,
vừa đảm bảo cho đối tượng là đứa trẻ của hợp đồng này được ra đời trong sự
bảo vệ tối đa của pháp luật còn là một câu hỏi khó cần đáp án thỏa đáng từ cơ
quan lập pháp.
Trong luận văn thạc sĩ của mình, tại chương 1 của luận văn, tác giả đã
khái quát chung về mang thai hộ và hợp đồng mang thai hộ. Tác giả nêu ra
những định nghĩa mang tính chất pháp lý về mang thai hộ ở Việt Nam. Bên cạnh
đó, tác giả tập trung vào việc giới thiệu về hợp đồng mang thai hộ và các nguyên
tắc, đặc điểm, ý nghĩa ... và các yếu tố tạo nên một hợp đồng mang thai hộ nhằm
mục đích giúp người đọc có cái nhìn khái quát về hợp đồng mang thai hộ ở Việt
Nam hiện nay hiện nay.
Ở chương 2, tác giả đưa ra thực trạng về tình hình vô sinh hiếm muộn tại
Việt Nam, thành tựu và hạn chế kể từ khi thể chế hóa mang thai hộ vào pháp
luật. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu những ưu điểm, nhược điểm của hợp đồng
mang thai hộ hiện nay và đánh giá tầm quan trọng của hợp đồng mang thai hộ

77
trong việc xác lập các quan hệ mang thai hộ. Đưa ra một số tình huống về tình
hình xác lập hợp đồng mang thai hộ ngoài thực tế đời sống.
Cuối cùng, ở chương 3, dựa vào những hạn chế trong lý luận và thực tiễn
về các quy định của pháp luật về hợp đồng mang thai hộ tác giả đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Trong quá trình viết luận văn, tác giả đã sử dụng một số công trình nghiên
cứu là luận văn thạc sĩ của các tác giả khác, cũng như các bài viết đăng trên báo
và tạp chí liên quan đến pháp luật làm tài liệu tham khảo của mình.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức cũng như kỹ năng viết nên công trình
nghiên cứu khoa học “Hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt
Nam” sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tác giả rất mong nhận
được sự đánh giá khách quan từ các chuyên gia cũng như sự góp ý chân thành từ
độc giả để hoàn thiện hơn vấn đề này./.

78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT

1. Chính phủ (2015), Biểu mẫu 06, Thỏa thuận mang thai hộ ban hành kèm
theo Nghị định số 10/2015/NĐ – CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
2. Chính phủ (2015), Nghị định số 10/2015/NĐ – CP quy định về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo.
3. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật hợp đồng, NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội.
4. Đại Học Luật Hà Nội (2012) Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập I, NXB
Công an nhân dân, Tr.64.
5. Đại học Luật Hà Nội (2014), “Mang thai hộ, sự cần thiết phải điều chỉnh
bằng pháp luật ở Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường.
6. Đại học Kiểm sát Hà Nội(2014), “vấn đề mang thai hộ theo quy định của
pháp luật hiện hành”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, trang 15-20;
37-39.
7. Văn Đức (2018), “Giật mình trước con số biến chứng khi sinh mà sản phụ
đối mặt”; http://dantri.com.vn/suc-khoe/ti-le-vo-sinh-o-viet-nam-dang-
vao-muc-canh-bao-20180405120937326.ht m
8. GS.TS. Christa Randzio – Plath, (2016) “Vấn đề mang thai hộ ở Đức –
các quy định và luận cứ”, Tài liệu tọa đàm “ Pháp luật Việt Nam và Liên
Minh Châu Âu về hiến, lấy, ghép mô, xác, các bộ phận cơ thể người và
mang thai hộ”,Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.1.
9. Bùi Quỳnh Hoa (2014), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai
hộ”, trang 37; 51; 55 – 60, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
10.Quốc Hội (2015), Bộ luật Dân sự, NXB Chính trị Quốc Gia – Sự thật, Hà
Nội 2016.

79
11.Quốc Hội (2015), Bộ luật Hình sự, NXB Chính trị Quốc Gia – Sự thật,
Hà Nội 2017.
12. Quốc Hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia Đình, NXB Chính trị Quốc Gia
– Sự thật, Hà Nội 2015.
13. Quốc Hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội.
14. Quốc Hội (1989), Luật bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân.
15.Nguyễn Thị Lan (2015), “mang thai hộ và những vấn đề phát sinh” Tạp
chí luật học, số 4/2015 trang 12-21.
16.Nguyễn Văn Lâm (2016), Bàn về mang thai hộ trong pháp luật Việt
Nam; Tạp chí kiểm sát, số 4 (Tháng 2/2016), trang 50-52.
17.Nga Lê (2014), “Mang thai hộ: Cửa đã mở, nhưng mới
‘hé’?”http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/mang-thai-ho-cua-da-mo-
nhung-moi-he-213927.html
18.Ph.Ăngghen, (2010). Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước,
NXB Sự Thật.
19.Trương Hồng Quang (2015). “Tìm hiểu quy định về sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
20.Ths. Trần Đức Thắng (2016), “Một số vấn đề thực hiện quy định của
pháp luật hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật, số
tháng 3/2016, Năm thứ Mười Một.
21.Ths.BS Hô ̀ Mạnh Tường,Nội san Y học sinh sản-
8/2014 https://vov.vn/suc-khoe/mang-thai-ho-nhung-dieu-can-biet-
343589.vov.

II. TIẾNG ANH

22. Deluxe Black’s Law Dictionary, West Publishing Co, 1990

80
81
PHỤ LỤC

Mẫu số 06

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

............., ngày ....... tháng...... năm 20....

THỎA THUẬN
MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO

I. THÔNG TIN CỦA VỢ, CHỒNG NHỜ MANG THAI HỘ (BÊN NHỜ
MANG THAI HỘ):

- Tên vợ: ..................................................................................... ……….

Ngày, tháng, năm sinh: ................................................................ ……….

Hộ khẩu: ..................................................................................... ……….

Nơi ở hiện nay: ............................................................................ …….....

Số CMND: .................................................................................. ……….

- Tên chồng:................................................................................. ……….

Ngày, tháng, năm sinh: ................................................................ ………..

Hộ khẩu ...................................................................................... ………..

Nơi ở hiện nay:............................................................................ ………..

Số CMND: .................................................................................. ……….

82
Vợ chồng tôi hiện nay chưa có con chung và đã được cơ sở thực hiện kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm ........................... xác nhận............................(tên người
vợ) bị bệnh ........................................ không thể mang thai và sinh con ngay cả
khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Với nguyện vọng có một con chung của vợ
chồng, chúng tôi đã nhờ chị .....................................(viết đầy đủ họ tên người
mang thai hộ) mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Chị....................................đã
đồng ý mang thai giúp cho vợ chồng tôi (chúng tôi đã viết cam kết tự nguyện
mang thai hộ).

Chúng tôi đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý đầy đủ.

II. PHẦN THÔNG TIN CỦA VỢ CHỒNG MANG THAI HỘ (BÊN MANG
THAI HỘ)

- Tên vợ: .................................................................................... ………..

Ngày, tháng, năm sinh: ................................................................ …….....

Hộ khẩu: .................................................................................... ………..

Nơi ở hiện nay: ........................................................................... ………..

Số CMND: ................................................................................. ………..

- Tên chồng:................................................................................. ……….

Ngày, tháng, năm sinh .................................................................. ……….

Hộ khẩu ....................................................................................... ……….

Nơi ở hiện nay:............................................................................. ……….

Số CMND:.................................................................................. ………..

83
Tôi là chị, em ................................... (người thân thích cùng hàng của bên vợ
hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ). Tôi đã sinh ..........................con (số con) và
chưa mang thai hộ lần nào. Được biết ............................ (vợ chồng nhờ mang
thai hộ) bị bệnh ................................không thể mang thai và sinh con. Nên sau
khi được....................................(vợ chồng nhờ mang thai) nhờ mang thai giúp, với
tình cảm họ hàng, tôi đồng ý mang thai hộ......................................(tên vợ chồng
nhờ mang thai). Tôi đã được cơ sở thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
xác nhận có khả năng mang thai và sinh con. Ngoài ra, tôi cũng đã được tư vấn
đầy đủ về y tế, pháp lý, tâm lý.

III. CHÚNG TÔI CAM KẾT THỰC HIỆN ĐẦY ĐỦ QUYỀN VÀ NGHĨA
VỤ NHƯ SAU:

1. Đối với bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:

a) Có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và
chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang
thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.

b) Tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị
các bất thường và những dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.

c) Có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức
khỏe sinh sản.

Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của
thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp
tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật y tế về
chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

d) Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai
hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.

84
2. Đối với bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:

a) Có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe
sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.

b) Có quyền và nghĩa vụ đối với con kể từ thời điểm con được sinh ra. Người
mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về
lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 6 tháng
tuổi.

c) Không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm
nhận con, hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa
vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và bị xử lý
theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ
thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được
hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.

d) Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình
bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình, Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan.

đ) Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ
có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.

IV. THỎA THUẬN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ TRONG


TRƯỜNG HỢP CÓ TAI BIẾN SẢN KHOA; HỖ TRỢ ĐỂ BẢO ĐẢM
SỨC KHỎE SINH SẢN CHO NGƯỜI MANG THAI HỘ TRONG THỜI
GIAN MANG THAI VÀ SINH CON, VIỆC NHẬN CON CỦA BÊN NHỜ
MANG THAI HỘ, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HAI BÊN ĐỐI VỚI
CON TRONG TRƯỜNG HỢP CON CHƯA ĐƯỢC GIAO CHO BÊN
NHỜ MANG THAI HỘ VÀ CÁC QUYỀN, NGHĨA VỤ KHÁC CÓ LIÊN
QUAN:

85
...............................................................................................................

V. TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG TRƯỜNG HỢP MỘT HOẶC CẢ


HAI BÊN VI PHẠM CAM KẾT THEO THỎA THUẬN

...............................................................................................................

NGƯỜI VỢ NGƯỜI CHỒNG NGƯỜI VỢ NGƯỜI


NHỜ MANG NHỜ MANG MANG THAI CHỒNG MANG
THAI HỘ THAI HỘ HỘ THAI HỘ
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên)

Lưu ý:

Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng.
Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ
chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền
phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không
có giá trị pháp lý.

Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ
mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của
người có thẩm quyền của cơ sở y tế này.

86

You might also like