You are on page 1of 161

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG


QUYỀN ĐƢỢC CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA TRẺ EM TẠI VIỆT
NAM

Chủ nhiệm: ThS. PHẠM THỊ PHƢƠNG THẢO

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Diễn giải

1. CRC Công ước về quyền trẻ em 1989


2. ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị 1966
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế,
3. ICESCR xã
hội và văn hóa 1966
4. UBND Ủy ban nhân dân
5. WHO Tổ chức y tế thế giới
MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN ĐƢỢC CHĂM


SÓC SỨC KHỎE CỦA TRẺ EM

1.1. Khái quát về trẻ em và quyền của trẻ em....................................................1

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của trẻ em.........................................................1

1.1.2. Đặc điểm quyền của trẻ em................................................................3

1.1.3. Nội dung quyền của trẻ em.................................................................5

1.2. Khái niệm và nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em...........8

1.2.1. Khái niệm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.......................8

1.2.2. Nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.......................11

1.2.3. Mối liên hệ giữa quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em và các
quyền khác của trẻ em................................................................................14

1.3. Cơ sở pháp lý về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em...................16

1.3.1. Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức

khỏe của trẻ em...........................................................................................16

1.3.2. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƢỢC CHĂM SÓC SỨC KHỎE
CỦA TRẺ EM TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe

của trẻ em.................................................................................................24

2.1.1. Quy định pháp luật về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của

trẻ em..........................................................................................................27

2.1.2. Cơ chế pháp lý đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của

trẻ em..........................................................................................................37

2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về quyền được chăm sóc

sức khỏe của trẻ em tại Việt Nam............................................................46

2.3. Nhận xét, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về quyền được

chăm sóc sức khỏe của trẻ em...................................................................55

2.3.1. Đánh giá chung về thực trạng quy định pháp luật về quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em...........................................................55

2.3.2. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện quy định pháp luật...........58

2.3.2. Nguyên nhân của thực trạng trên.....................................................62

2.4. Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức

khỏe của trẻ em.........................................................................................64

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người luôn là mục tiêu phấn đấu của loài người để đạt đến văn
minh, tiến bộ. Chính vì thế mà mỗi thành tựu của khoa học pháp lý về quyền con
người là những chỉ dấu, là kết quả của quá trình đấu tranh của cả nhân loại để đạt
đến sự tự do và hạnh phúc thật sự. Trong quyền con người thì trẻ em là một đối
tượng đặc biệt, được xem là nhóm dễ bị tổn thương vì những đặc trưng về thể
chất và tinh thần nên rất cần thiết phải có sự quan tâm và bảo vệ một cách hữu
hiệu

Khi Công ước về quyền trẻ em (Convention on the Rights of the Child-
CRC) được Liên hợp quốc thông qua thì Việt Nam ta đã nhanh chóng phê chuẩn
Công ước này, khẳng định sự quan tâm sâu sát của Đảng và Nhà nước đối với
quyền của trẻ em. Không chỉ dừng lại ở việc phê chuẩn mà cơ quan lập pháp ở
nước ta đã có sự thể chế hóa một cách nhanh chóng các quy định của Công ước
và các quy định trong Hiến pháp thành các quy định pháp luật cụ thể có khả
năng đi vào cuộc sống. Đặc biệt đối với quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em, một lĩnh vực quyền rất quan trọng và thiết yếu đối với nhóm đối tượng này
đã rất được chú trọng. Nước ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật tương
đối hoàn thiện trong việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em cả
ở việc ghi nhận quyền và đảm bảo bằng cơ chế pháp lý cụ thể.
Thực tiễn thực hiện các quy định cho thấy trẻ em ở nước ta đã được chăm
sóc sức khỏe một cách khá tốt với nhiều thành tựu nổi bật, từ trung ương cho đến
địa phương. Trẻ em được tiếp cận với các dịch vụ y tế, đặc biệt là các dịch vụ y
tế kỹ thuật cao, được chăm sóc sức khỏe ban đầu… Tuy nhiên, thực tiễn đó cũng
không thể phủ nhận những hạn chế còn tồn tại ảnh hưởng đến số lượng và chất
lượng tiếp cận một môi trường chăm sóc sức khỏe tốt nhất cho trẻ em. Nói cách
khác, trẻ em vẫn chưa được đảm bảo trọn vẹn việc thực hiện quyền này vì nhiều
nguyên nhân khác nhau.

Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cần thiết phải có sự nghiên cứu một cách toàn
diện, rõ ràng để có những luận cứ khoa học chắn chắn và đề ra các giải pháp
hoàn thiện các

1
quy định pháp luật trong việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em nói chung. Vì thế, đề tài “Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em tại Việt
Nam” nhằm mục tiêu tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành, thực tiễn thực
hiện các quy định về quyền chăm sóc sức khỏe của trẻ em ở nước ta để không
chỉ đảm bảo cho quyền này mà còn hướng đến đảm bảo cho quyền của trẻ em
nói chung một cách hiệu quả nhất, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn khách quan
và của pháp luật quốc tế

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Việc nghiên cứu về quyền của trẻ em là một nội dung quan trọng trong
pháp luật quốc tế và cả pháp luật quốc gia. Ở nước ta trong những năm qua,
quyền của trẻ em nói chung là một đối tượng quan trọng trong khoa học pháp lý.
Tuy nhiên, các tác giả tập trung nghiên cứu về quyền của trẻ em nói chung hoặc
ở những nội dung tư pháp đối với trẻ em và việc đảm bảo quyền cho trẻ em. Đó
là các tham luận tại các hội thảo khoa học, các bài viết trên các tạp chí khoa học.
Ví dụ như: Quyền trẻ em của Viện thông tin khoa học và trung tâm nghiên cứu
quyền con người- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1999; “Những
điều cần biết về quyền trẻ em” của Nhà xuất bản chính trị quốc gia; “Bảo vệ
quyền trẻ em và người chưa thành niên bằng pháp luật hình sự” luận văn
Thạc sỹ luật học của Đỗ An Bình, “Pháp luật hành chính về quyền của ngƣời
chƣa thành niên” luận văn Thạc sỹ luật học của Lê Thị Ngọc Thanh, “Những
điều cần biết về quyền của trẻ em” của Vũ Ngọc Bình…

Có thể thấy, các tác giả tiếp cận quyền trẻ em ở những góc độ khác nhau
nhưng chủ yếu là quyền trẻ em một cách chung nhất. Tuy nhiên về quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em- một lĩnh vực quyền cụ thể rất quan trọng trong rất
nhiều quyền mà trẻ em được hưởng thì cho đến nay ở nước ta chưa có một quyển
sách chuyên khảo hay một công trình nghiên cứu mang tính khái quát nào về
thực trạng pháp luật ở nước ta, cả trong quy định lẫn thực tiễn để có thể đánh giá
và tìm ra giải pháp hoàn thiện.

2
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài

Đề tài nhằm mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến
quyền của trẻ em nói chung và quyền được chăm sóc sức khỏe nói riêng. Trong
đó xuất phát điểm của vấn đề là nhu cầu thực tế phải bảo đảm cho quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em vì những đặc trưng về thể chất- vấn đề đã được
thừa nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia

Trên cơ sở lý luận trên, đề tài đi vào tìm hiểu thực trạng các quy định pháp
luật

ở nước ta trong việc đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Từ đó đề tài
đánh giá về quá trình thể chế hóa các cam kết quốc tế trong pháp luật của nước
nhà, tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại. Trên cơ sở phân tích đánh giá một
cách tổng thể, đề tài đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật tại Việt Nam trong việc bảo đảm quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em.

3.2 Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đề tài nghiên cứu pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em,
trong đó bao gồm các quy định pháp luật và việc thực hiện các quy định pháp
luật này trên thực tế. Tuy nhiên, đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về thực
trạng quy định pháp luật hiện hành ở nước ta về vấn đề này vì pháp luật là tiền
đề quan trọng nhất cho việc thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
trên thực tế.

3.3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em trong pháp luật quốc tế. Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành ở nước ta trong việc ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em và thực trạng thực hiện các quy định pháp
luật này.

Trong phạm vi nghiên cứu này, đề tài không đề cập đến kinh nghiêm bảo
đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em ở các nước trên thế giới, cũng
như không so

3
sánh việc thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em ở nước ta với các
quốc gia khác.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng,

phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Tác giả còn sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để tìm hiểu các vấn đề.
Trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp khi nghiên cứu về
cơ sở lý luận, pháp lý của quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Đồng thời
tác giả sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê khi nghiên cứu về thực trạng các
quy định pháp luật hiện hành của ở nước ta trong lĩnh vực quyền này của trẻ em.
Từ đó tác giả có sự phân tích, so sánh và đánh giá các quy định pháp luật hiện
hành nhằm đưa ra các phương hướng hoàn thiện.

5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống các
khía cạnh lý luận, pháp lý và thực trạng pháp luật hiện hành ở Việt Nam về
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em; từ đó đưa ra giải pháp cụ thể hoàn
thiện pháp luật về quyền của đối tượng đặc thù này.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu hoàn thiện các quy
định pháp luật ở nước ta về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Đây cũng
sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành luật và những ai quan tâm
đến nội dung này.

6. Bố cục của đề tài

Nội dung của đề tài gồm hai phần:

Phần mở đầu: Tính cấp thiết của đề tài, tình hình nghiên cứu đề tài, mục
đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương pháp
nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài.
4
Phần nội dung: được trình bày trong hai chương

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ

em.

Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật và thực trạng quy định pháp luật
về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em tại Việt Nam và một số giải pháp
hoàn thiện.

Kết luận
5
CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN ĐƢỢC CHĂM SÓC

SỨC KHỎE CỦA TRẺ EM

1.1. Khái quát về trẻ em và quyền của trẻ em

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của trẻ em

“Trẻ em” không phải là một khái niệm xa lạ nhưng lại có rất nhiều quan
điểm khác nhau trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Sự ra đời của
Công ước về quyền trẻ em 1 (Convention on the Rights of the Child- CRC) được
xem là một bước ngoặt lớn trong việc bảo vệ quyền trẻ em, là thành quả của một
quá trình đấu tranh liên tục của nhân loại. Với việc gia nhập CRC thì Việt Nam
đã sớm tiếp cận với khái niệm quyền trẻ em được ghi nhận trong Công ước. Điều
1 CRC xác định rõ: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Như vậy khái
niệm trẻ em theo Công ước có các đặc trưng sau:

- Về độ tuổi: là người dưới 18 tuổi. Đối tượng điều chỉnh của Công ước rất
rộng.

Tuy nhiên, Công ước cũng quy định rất rõ là tùy thuộc vào luật pháp áp
dụng với trẻ em quy định tuổi thành niên sớm hơn. Như vậy, Công ước đã
mở rộng quyền cho các quốc gia thành viên được quy định độ tuổi của trẻ
em thấp hơn
18 tuổi tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia.

- Về thể chất: trẻ em là những người còn non nớt cả về thể chất và trí tuệ.

Do các đặc trưng trên mà trẻ em cần thiết phải được bảo vệ và chăm sóc
đặc biệt. Khái niệm này cũng khẳng định rõ trẻ em không chỉ được ghi nhận
trong pháp

1Công ước về quyền của trẻ em (Convention on the Rights of the Child- CRC)
đã được Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989, có hiệu lực từ ngày 02-9-
1990. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước mà không bảo
lưu vào ngày 28-02-1990. Sự ra đời của Công ước để ngỏ cho các quốc gia tham
gia ký kết, phê chuẩn. Hiện nay đã có 197 quốc gia thành viên tham gia – là
Công ước có số thành viên tham gia đông đảo nhất (Hoa Kỳ chưa tham gia Công
ước này).

6
luật quốc tế mà còn được điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia. Tuy nhiên trong một
số văn bản pháp luật quốc tế khác cũng đưa ra khái niệm quyền trẻ em chính là
quyền của người chưa thành niên. “Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít
tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một
phương thức khác với việc xét xử người lớn” 2. Như vậy, khái niệm trẻ em trong
pháp luật quốc tế được xây dựng chủ yếu thông qua việc xác định độ tuổi với
giới hạn là người dưới 18 tuổi. Pháp luật quốc tế chưa xem xét đến các yếu tố
khác như các đặc điểm về thể chất, tinh thần và các đặc điểm về tâm sinh lý của
lứa tuổi này. Với cách quy định như trên, pháp luật quốc tế đồng thời đưa ra cách
thức để các quốc gia trong quá trình thể chế hóa pháp luật nước mình có thể quy
định độ tuổi của trẻ em thấp hơn tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể của mỗi quốc
gia.

Ngay sau khi gia nhập CRC, nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật để
thể chế hóa Công ước này đồng thời bảo đảm cho quyền của trẻ em. Sự ra đởi
của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã đánh dấu bước tiến quan
trọng này. Tại Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy
định:“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Khái niệm trẻ em trong pháp
luật nước ta không phân biệt về giới tính hay bất kỳ đặc điểm thể chất, tinh thần
mà chỉ căn cứ vào độ tuổi và là công dân Việt Nam. So với quy định trong CRC
thì độ tuổi trong luật của nước ta thấp hơn, hay nói cách khác là chúng ta quy
định độ tuổi thành niên sớm hơn. Vì thế mà sẽ có quan điểm cho rằng có sự
không tương thích khi thể chế hóa cam kết của Công ước vào trong pháp luật
quốc gia. Tuy nhiên, quy định của Việt Nam không hề trái với tinh thần và nội
dung của Công ước bởi vì Công ước cho phép các quốc gia được quy định độ
tuổi khác tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo phát triển tốt
nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội.
Như vậy, trẻ em được hiểu là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi, chưa có sự
phát triển hoàn thiện cả về thể chất và tinh thần, chưa có sự nhận thức đầy đủ về
cuộc sống,

2 Mục a Quy tắc số 2.2, Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng
pháp luật đối với người chưa thành niên (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh)

7
về các vấn đề xã hội. Trẻ em là một trong số các đối tượng dễ bị tổn thương nhất
trong xã hội, là nạn nhân của những tiêu cực nhưng lại không có khả năng tự bảo
vệ. Do đó trẻ em cần thiết phải được nhận sự quan tâm, chăm sóc, bảo vệ một
cách chặt chẽ và hiệu quả từ Nhà nước, gia đình và xã hội.

1.1.2. Đặc điểm quyền của trẻ em

Quyền của trẻ em là một nội dung quan trọng trong quyền con người.
Quyền trẻ em rất gắn kết và là một bộ phận của quyền con người vì trước hết trẻ
em là một con người, một chủ thể đặc biệt, một thành viên trong xã hội loài
người. Lịch sử đấu tranh cho quyền con người nói chung cũng chính là quá trình
đấu tranh cho quyền của trẻ em. Trẻ em còn là một công dân đặc biệt của mỗi
quốc gia vì là một trong những đối tượng dễ bị tổn thương nhất với những đặc
trưng về thể chất và tinh thần.

Trẻ em là một bộ phận quan trọng của xã hội loài người, là thế hệ kế thừa,
là tương lai của nhân loại. Vì vị trí và đặc trưng đó mà việc bảo vệ cho quyền và
lợi ích của trẻ em trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia và
của toàn thế giới. Việc chăm lo cho trẻ em cũng chính là bước chuẩn bị quan
trọng cho sự phát triển của con người nói chung. Trong thế giới hiện đại, cộng
đồng thế giới đang phải đối mặt với những thách thức lớn như nghèo đói, bệnh
tật, vô gia cư… và trẻ em lại là một bộ phận không nhỏ phải gánh chịu những
thiệt thòi đó. Trẻ em là đối tượng rất dễ bị xâm hại, bị tổn thương bởi rất nhiều
tác nhân, nhiều chủ thể trong xã hội. Họ có thể là nạn nhân của chiến tranh, bạo
lực, đói khát và những căn bệnh hiểm nghèo như HIV/AIDS... Chính vì thế mà
việc bảo vệ quyền trẻ em nói chung càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Suy
cho cùng, bảo vệ cho quyền trẻ em cũng chính là sự bảo vệ cho quyền con người
nói chung, đảm bảo cho tương lai của cả nhân loại.

Quyền của trẻ em là quyền của một chủ thể đặc biệt vì trẻ em có các đặc
trưng về thể chất và tinh thần. Về mặt thể chất: trẻ em còn yếu ớt, non nớt, là độ
tuổi đang phát triển thể chất, đang trong quá trình dần hoàn thiện. Tuy nhiên, các
đặc điểm sinh lý đang dần hình thành nên trẻ em bắt đầu bước vào giai đoạn
khám phá và có ý thức về mặt giới tính. Về mặt tâm lý thì đây là giai đoạn mà
tâm lý còn rất nhiều điều chưa
8
ổn định, là giai đoạn kéo dài giữa tâm lý trẻ con và tâm lý của một người chưa
trưởng thành về mặt nhận thức 3. Cho nên trẻ em luôn có những biểu hiệm tâm lý
đặc biệt khi bước vào giai đoạn dậy thì, trẻ em luôn tò mò, thích khám phá. Đây
cũng chính là giai đoạn hình thành nhân cách của mỗi trẻ, do đó đòi hỏi phải có
sự quan tâm sâu sát với mỗi trẻ để đảm bảo trẻ luôn có xu hướng vận động tâm
lý theo đúng đường hướng đã định đã có thể hướng đến những gì tốt đẹp, có giá
trị. Với đặc điểm tâm lý luôn muốn chứng tỏ bản thân, thường chỉ tin vào bản
thân và bạn bè rất dễ bị kích động, bị kích động. Trong giai đoạn này trẻ em có
sự nhận thức non nớt và thiếu kinh nghiệm sống nên rất khó ứng biến với các
mối quan hệ xã hội, chịu sự tác động của các yếu tố bên ngoài. Vì thế trẻ em
thường khó tránh khỏi những cám dỗ và rất dễ bị lôi kéo vào những hành vi vi
phạm pháp luật.

Quyền của trẻ em mang tính đặc thù và trẻ em không thể tự thực hiện
được. Trẻ em được thụ hưởng rất nhiều quyền và có những quyền chỉ có trẻ em
mới có như quyền được khai sinh, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được
học tập... Các quyền của trẻ em hầu như được đảm bảo thực hiện thông qua vai
trò, trách nhiệm của cha mẹ, người giám hộ, gia đình, xã hội và các cơ quan quản
lý nhà nước. Bản thân trẻ em chưa thể tự mình thực hiện được tất cả các quyền
mà mình được thụ hưởng, bảo vệ.

1.1.3. Nội dung quyền của trẻ em

Quyền trẻ em là quyền con người nên trẻ em được hưởng tất cả các quyền
của con người nói chung. Đó là các quyền về kinh tế, chính trị, văn hóa đã được
ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966
(International Covenant on Civil and Political Rights- ICCPR) và Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 (International Covenant on
Economic, Social and Cutural Rights-ICESCR). Ngoài ra với những đặc thù của
mình, trẻ em còn được hưởng các quyền

3 Đỗ An Bình (2002), Bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên bằng pháp
luật hình sự - Lý luận và thực tiễn, tr.15

9
được ghi nhận trong CRC. Theo CRC này, quyền của trẻ em có rất nhiều nội
dung và có thể phân chia thành bốn nhóm quyền cơ bản sau4:

- Nhóm quyền sống còn: Đây là quyền cơ bản của mỗi cá nhân, là tiền đề
quan trọng cho việc đảm bảo các quyền khác của con người. Nhóm quyền
này bao gồm quyền được bảo vệ bởi cha mẹ, quyền được sống, quyền
được chăm sóc sức khỏe, quyền được hưởng các bảo đảm xã hội, quyền có
mức sống đầy đủ cho sự phát triển toàn diện...

- Nhóm quyền được phát triển: Nhóm quyền này không chỉ ghi nhận sự
phát triển về thể chất mà còn cả về trí tuệ, tình cảm và đạo đức xã hội, bao
gồm quyền được tiếp nhận thông tin, quyền được học hành, quyền được
vui chơi, giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa nghệ thuật, ...

- Nhóm quyền được bảo vệ: Đây là nhóm quyền thể hiện sự bảo vệ trẻ em
khỏi bị phân biệt đối xử, thoát khỏi sự bóc lột, bao gồm quyền có tên và
quốc tịch, quyền riêng tư, quyền không bị đưa đi nước ngoài bất hợp pháp,
quyền được bảo vệ khỏi các hình thức bạo lực, quyền không bị tham gia
vào các cuộc chiến tranh...

- Nhóm quyền tham gia: Đây là nhóm quyền bao gồm tất cả các quyền giúp
trẻ em được bày tỏ ý kiến trong mọi vấn đề liên quan đến bản thân, đảm
bảo cho trẻ em có điều kiện tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến, bao gồm
quyền thể hiện ý kiến, quyền tự do bày tỏ, quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, quyền tự do giao kết, hội họp...

Như vậy, theo quy định của CRC, quyền của trẻ em thể hiện ở nhiều lĩnh
vực khác nhau, thể hiện một cách trọn vẹn quyền của một con người và các
quyền đặc thù chủ thể. Khi thể chế hóa Công ước, Việt Nam cũng đã ghi nhận và
xây dựng các quy định phù hợp. Trong hệ thống pháp luật nước ta, nội dung
quyền của trẻ em được ghi nhận trong Hiến pháp- văn bản pháp lý có giá trị cao
nhất và các văn bản pháp luật có

4 Vietnamese research center for human rights, Children’s rights, Hanoi, 2000,
tr. 52

10
liên quan trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì thế mà việc tiếp cận ở những góc
độ khác nhau sẽ hình thành nên nội dung quyền trẻ em là khác nhau.

Thứ nhất, nếu tiếp cận nội dung quyền của trẻ em theo lĩnh vực pháp luật
thì có quyền trẻ em trong lĩnh vực dân sự, quyền trẻ em trong lĩnh vực hành
chính, quyền trẻ em trong lĩnh vực hình sự, quyền trẻ em trong lĩnh vực kinh tế-
lao động, quyền trẻ em trong lĩnh vực văn hóa, quyền trẻ em trong lĩnh vực xã
hội. Các lĩnh vực pháp luật về quyền trẻ em này tạo ra một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh ở nhiều phương diện khác nhau và cùng thống nhất với nhau trong
việc tạo tiền đề pháp lý cho việc đảm bảo có hiệu quả quyền của trẻ em nói
chung.

Thứ hai, nội dung quyền của trẻ em có thể được xác định căn cứ vào quy
định của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Đây là văn bản pháp lý
cụ thể điều chỉnh về việc đảm bảo cho quyền trẻ em và ghi nhận vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức cá nhân. Theo các
quy định của Luật này thì quyền của trẻ em có các nội dung được thể hiện một
cách khái quát nhất bao gồm:

- Quyền được khai sinh và có quốc tịch (Điều 11)

- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng (điều 12)

- Quyền sống chung với cha mẹ (điều 13)

- Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự
(Điều 14).
- Quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 15).

- Quyền được học tập (Điều 16).

- Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao
(Điều 17).

- Quyền được phát triển năng khiếu (Điều 18).

- Quyền có tài sản (Điều 19).

- Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội
(Điều 20).

11
Như vậy, việc thể chế hóa các nội dung quyền trẻ em ghi nhận trong CRC
vào hệ thống pháp luật Việt Nam cho thấy: hầu hết các nội dung quyền đều đã
được ghi nhận trong pháp luật quốc gia, đặc biệt là những quyền thuộc nhóm
quyền được sống còn, quyền được bảo vệ, quyền được phát triển. Điều này đã
tạo ra một sự nhất quán trong việc hiểu và vận dụng các quy định pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia vào quá trình đảm bảo cho quyền của trẻ em nói chung
khi mà những quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất của trẻ em được thừa nhận
trong các quy định pháp luật cụ thể. Từ đó, các quyền này sẽ được đảm bảo về
mặt pháp lý và được đảm bảo thực hiện trên thực tế.

Tuy nhiên, trong nhóm quyền được tham gia thì Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em 2004 chỉ mới ghi nhận quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý
kiến và tham gia hoạt động xã hội mà chưa ghi nhận thành nội dung riêng biệt
của quyền trẻ em các quyền tự do bày tỏ, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
quyền tự do giao kết, hội họp...

Những quyền này, pháp luật quốc gia thừa nhận trong quy định của Hiến pháp
và các văn bản pháp luật có liên quan như là một quyền cơ bản của công dân.
Trẻ em, trước hết là một công dân nên chắc chắn sẽ được thụ hưởng quyền này.
Điều này cũng đảm bảo tính thống nhất và toàn diện của hệ thống pháp luật mà
vẫn đảm bảo được quyền của đối tượng đặc thù. Một số quyền trong nhóm
quyền được bảo vệ chưa được ghi nhận cụ thể như quyền riêng tư, quyền không
bị đưa đi nước ngoài bất hợp pháp, quyền được bảo vệ khỏi các hình thức bạo
lực, quyền không bị tham gia vào các cuộc chiến tranh... Các quyền này cũng
được quy định trong các quy định pháp luật có liên quan như pháp luật hình sự;
luật phòng, chống bạo lực gia đình... Để có thể đảm bảo hiệu quả hơn nữa quyền
của trẻ em thì cần thiết phải có sự nhất quán trong quá trình xây dựng pháp luật
về quyền của trẻ em và cần ghi nhận tất cả quyền cơ bản của trẻ em trong quy
định pháp luật về quyền trẻ em.

1.2. Khái niệm và nội dung quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe của trẻ em.

1.2.1. Khái niệm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em

12
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam thì chăm sóc sức khỏe là chăm sóc
nhằm duy trì, điều chỉnh và lúc cần thiết phục hồi được các khả năng hoạt động
bình thường của cơ thể, tạo được trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần cho
mọi người dân5. Trong các nội dung quyền của trẻ em thì quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em là một nội dung quyền quan trọng thuộc nhóm quyền sống
còn của trẻ. Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em đã được ghi nhận trong
các văn kiện pháp lý quốc tế từ rất lâu. Quyền được chăm sóc sức khỏe được nêu
ra trong tuyên bố Alma Ata năm 1978 và tuyên ngôn Y tế thế giới phê chuẩn bởi
hội đồng Y tế thế giới năm 19986. Quyền được chăm sóc sức khỏe là quyền có
được các điều kiện xã hội, các qui tắc, pháp luật, chế tài và một môi trường trợ
giúp mà có thể đảm bảo đạt được quyền này.

Quyền được chăm sóc sức khỏe là một nội dung trong nội hàm của quyền
được có mức sống thích đáng nêu ở Điều 25 Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người 1948 (Universal Declaration of Human Rights) 7. Theo đó, “mọi người có
quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và sự yên
vui của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các
dịch vụ xã hội cần thiết”. “Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm
sóc và giúp đỡ đặc biệt”8. Quyền được chăm sóc sức khỏe không chỉ là vấn đề
chăm sóc sức khỏe phù hợp và kịp thời mà còn gồm các yếu tố khác quyết định
sức khỏe tiềm ẩn, như tiếp cận với nước sạch và điều kiện vệ sinh phù hợp, việc
cung cấp thực phẩm hợp lý, chế độ dinh dưỡng và nhà cửa, nghề nghiệp, môi
trường an toàn cho sức khỏe, và tiếp cận với giáo dục, thông tin về các vấn đề
liên quan tới sức khỏe, bao gồm sức khỏe sinh sản và sức khỏe giới tính.

Từ khái niệm quyền được chăm sóc sức khỏe nêu ở Điều 25 Tuyên ngôn
thế giới về quyền con người 1948, có thể hiểu quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em là
5Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách Khoa
Việt Nam, Hà Nội, năm 1995, tr. 406.

6 , WTO, 25 câu hỏi và đáp về Vấn đề sức khỏe và nhân quyền, 2002, tr 11.

7 http://nhanquyen.vn/modules.php?
name=News&op=detailsnews&mid=101&mcid=7

8 Điều 25 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.

13
quyền được thụ hưởng những cơ sở vật chất, hàng hóa, dịch vụ và điều kiện cần
thiết để đạt được tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể. Quyền được chăm sóc sức
khỏe của trẻ em là quyền trẻ em có được chế độ chăm sóc sức khỏe phù hợp,
được tiếp cận với nước sạch và điều kiện vệ sinh, được cung cấp chế độ dinh
dưỡng hợp lý, được sống trong môi trường an toàn cho sức khỏe, tiếp cận với
giáo dục, thông tin về các vấn đề sức khỏe, bao gồm sức khỏe sinh sản và sức
khỏe giới tính.

Điều 12 ICESCR cũng đưa ra khái niệm về quyền được chăm sóc sức
khỏe. Quyền được chăm sóc sức khỏe được hiểu là quyền có thể đạt tới tiêu
chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể có được. Quyền
được chăm sóc sức khỏe được thực hiện đầy đủ khi thi hành biện pháp nhằm
giảm bớt tỉ lệ sẩy thai, tử vong của trẻ sơ sinh và nhằm đạt được sự phát triển
lành mạnh của trẻ em; cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trường và vệ sinh công
nghiệp; ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh ngoài da, bệnh nghề
nghiệp và các loại bệnh khác; tạo điều kiện bảo đảm mọi dịch vụ và sự chăm sóc
y tế khi đau yếu.

Công ước về quyền trẻ em 1989 dành Điều 24 để quy định về quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em “là quyền của trẻ em được hưởng mức độ sức
khỏe cao nhất có thể đạt được và các phương tiện chữa bệnh và phục hồi sức
khỏe”9. Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được nhà nước đảm bảo thực
hiện bằng các biện pháp cần thiết và phù hợp để trẻ em đạt được mức độ sức
khỏe cao nhất có thể. Trẻ em được sử dụng các phương tiện chữa bệnh và phục
hồi sức khỏe khi cần thiết. Để trẻ em đạt được những mức độ và tiêu chuẩn như
Công ước đề cập đến thì nhà nước phải thi hành các biện pháp thích hợp sao cho
“giảm tỷ lệ tử vong trẻ em và trẻ sơ sinh, đảm bảo dành sự giúp đỡ y tế và chăm
sóc sức khỏe cần thiết cho tất cả trẻ em, chú trọng phát triển công tác công tác
chăm sóc sức khỏe ban đầu; chống bệnh tật và suy dinh dưỡng trong khuôn khổ
công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, chẳng hạn qua việc áp dụng các công nghệ
sẵn có và qua việc cung cấp đầy đủ thức ăn bổ sung và nước uống sạch, có tính
đến những nguy cơ ô nhiễm môi trường; đảm bảo chăm sóc sức khỏe thích hợp
cho

9 Khoản 1 Điều 24 CRC.

14
người mẹ trước và sau khi sinh đẻ; đảm bảo rằng tất cả các tầng lớp xã hội, đặc
biệt với những người làm cha mẹ và trẻ em, được thông tin, được tiếp thu giáo
dục và được hỗ trợ trong việc sử dụng kiến thức cơ bản về sức khoẻ và dinh
dưỡng của trẻ em, những ưu điểm của việc nuôi con bằng sữa mẹ, vệ sinh, vệ
sinh môi trường và phòng ngừa tai biến; phát triển công tác phòng bệnh, hướng
dẫn cha mẹ, giáo dục và các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình”10.

Trong pháp luật Việt Nam, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
được ghi nhận trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 “Trẻ
em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe” (khoản 1 Điều 15 Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004). Tuy nhiên trong quy định của Luật này
không đưa ra khái niệm về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em có thể được hiểu theo những định hướng mà
CRC đã đưa ra. Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em là quyền được hưởng
mức độ sức khỏe cao nhất có thể và các phương tiện chữa bệnh, phục hồi sức
khỏe. Điều này có nghĩa là trẻ em không chỉ được sử dụng các phương tiện chữa
bệnh và phục hồi sức khỏe cần thiết cho quá trình chữa trị và phục hồi mà trẻ em
còn được đảm bảo chế độ dinh dưỡng, điều kiện vệ sinh phù hợp, việc cung cấp
thực phẩm hợp lý, được sống trong môi trường an toàn cho sức khỏe, được giáo
dục và tiếp cận với giáo dục, thông tin về các vấn đề liên quan đến sức khỏe, bao
gồm sức khỏe sinh sản.

Như vậy, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em có thể hiểu một cách
khái quát nhất là quyền được hưởng một chế độ chăm sóc sức khỏe tốt nhất,
không chỉ là sự chăm sóc về mặt y tế mà quan trọng là đảm bảo tất cả các điều
kiện cần thiết cho việc đạt được sức khỏe tốt nhất. Các điều kiện đó bao gồm cả
điều kiện về chất lượng cuộc sống, điều kiện về chế độ dinh dưỡng và tiếp cận
thông tin về sức khỏe
10 Khoản 2 Điều 24 CRC.

15
1.2.2. Nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em

Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em là một nội dung cơ bản trong
quyền của trẻ em nói chung. Trẻ em chỉ có thể phát triển tốt về thể chất và tinh
thần khi được chăm sóc và bảo đảm tốt về sức khỏe. Đó là điều kiện tiên quyết
để tồn tại với tư cách là một con người trong xã hội. Do đó để có thể đảm bảo tất
cả các nội dung quyền của trẻ em thì trẻ em cần thiết phải được đảm bảo chăm
sóc về sức khỏe. Nó là một quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm, không ai được
phép tước đoạt hay xâm hại đến sức khỏe của trẻ em. Bản thân trẻ em hầu như
không có khả năng tự bảo vệ nên quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em chỉ
được đảm bảo thực hiện khi được pháp luật thừa nhận và có cơ chế bảo đảm thực
hiện. Việc xác định nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe rất quan trọng vì
đây là tiền đề để xây dựng, thể chế hóa các quy định pháp luật phù hợp với các
cam kết quốc tế.

Điều 24 CRC xác nhận quyền của trẻ em được chăm sóc y tế và được
hưởng trạng thái sức khỏe ở mức độ tốt nhất có thể nên để đảm bảo quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em thì các quốc gia thành viên phải chú trọng đến
việc giành sự giúp đỡ y tế và chăm sóc sức khỏe cần thiết cho mọi trẻ em, thể
hiện ở một số nội dung cơ bản sau:

- Chăm sóc sức khỏe ban đầu;

- Chăm sóc sức khỏe thích hợp cho bà mẹ trước và sau khi sinh;

- Chống bệnh tật và suy dinh dưỡng;

- Thông tin, giáo dục về chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em;
- Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em;

- Phát triển công tác phòng chống bệnh tật,

- Hướng dẫn cha mẹ cũng như các hoạt động giáo dục và dịch vụ kế hoạch
hóa gia đình;

- Xóa bỏ những tập tục có hại cho sức khỏe trẻ em.

Liên quan đến Điều 24 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Ủy ban
quyền trẻ em đã có bình luận chung số 4 thông qua tại phiên họp lần thứ 33 năm
2003 trong đó nêu ra nhiều khuyến nghị cụ thể về các biện pháp mà các quốc gia
thành viên cần tiến
16
hành để đảm bảo sức khỏe và sự phát triển của trẻ em 11. Theo Ủy ban, để đảm
bảo sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ em, các quốc gia thành viên phải
thực thi các nghĩa vụ bao gồm:

- Tạo ra một môi trường an toàn và cảm thông cho trẻ em kể cả trong gia
đình, nhà trường, các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em và trong toàn xã hội.

- Đảm bảo cho trẻ em được tiếp cận những thông tin cần thiết cho sức khỏe
và sự phát triển của chính mình, kỹ năng sống và có cơ hội tham gia vào
quá trình ra những quyết định ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ em.

- Đảm bảo cung cấp các phương tiện, hàng hóa và dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, bao gồm các dịch vụ hướng dẫn và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
tinh thần và sức khỏe sinh sản, với chất lượng phù hợp cho trẻ em và các
bậc cha mẹ.

- Đảm bảo rằng mọi trẻ em đề có cơ hội tham gia tích cực vào việc lập kế
hoạch, lên chương trình cho sự phát triển và sức khỏe của chính các em.

- Bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức lao động nguy hại thông qua việc loại
bỏ tất cả các hình thức lao động trẻ em và điều chỉnh môi trường, tạo điều
kiện làm việc theo các tiêu chuẩn quốc tế.

- Bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức tai nạn, thương tích cố ý hoặc vô ý, kể
cả những thương tích do bạo lực và tai nạn giao thông.

- Bảo vệ các em khỏi mọi hủ tục truyền thống có hại như tảo hôn, giết trẻ
em gái vì danh dự và cắt bộ phận sinh dục nữ;
- Đảm bảo trẻ em trong các nhóm đặc biệt dễ bị xâm hại được quan tâm
thích đáng.

- Thực thi các biện pháp phòng tránh những bất ổn về tinh thần và tăng
cường sức khỏe tinh thần cho các em.

Với tư cách là thành viên của CRC, Việt Nam sớm ghi nhận và ban hành
nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.
Văn bản

11 Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, (2009), Giáo trình Lý luận và
pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.355.

17
pháp lý quan trọng, nền tảng là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004.
Quyền được chăm sóc bảo vệ sức khỏe của trẻ em được quy định

“Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe” và

“Trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh,
chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập”.

Cụ thể, nội dung quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em trong pháp
luật Việt Nam bao gồm tất cả các nội dung ghi nhận trong quy định tại Điều 24
CRC. Tuy nhiên, Việt Nam còn thể chế hóa nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu
thành nội dung cụ thể bao gồm giáo dục sức khỏe, dinh dưỡng, môi trường, nước
sạch, sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng mở rộng,
phòng chống bệnh dịch địa phương, chữa bệnh và chấn thương thông thường,
thuốc thiết yếu, quản lý sức khỏe, xây dựng và củng cố mạng lưới y tế cơ sở 12.
Điều này cho thấy nỗ lực của nước ta trong việc ghi nhận và thể chế các cam kết
quốc tế vào hệ thống pháp luật nhằm tạo ra một sự nhất quán trong việc hiểu và
áp dụng CRC, đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Đồng
thời, nhà nước đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến lĩnh vực quyền rất đặc thù
này của trẻ em khi đề ra những nội dung cụ thể trong các nội dung quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Việc ghi nhận quyền là cơ sở cho việc áp dụng
các biện pháp bảo đảm trên thực tế.

1.2.3. Mối liên hệ giữa quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em và các
quyền khác của trẻ em
Quyền được chăm sóc sức khoẻ của trẻ em là một quyền trẻ em cơ bản, là
tiền đề cho việc thực hiện các quyền khác của trẻ em. Với mong muốn bảo vệ trẻ
em, bảo vệ sự phát triển bình thường về tinh thần và thể chất cho trẻ em nên trẻ
em được đảm bảo quyền với tư cách là một con người trong xã hội. Quyền được
chăm sóc sức khoẻ của trẻ em được xây dựng và bảo vệ bởi hệ thống pháp luật
quốc gia cũng như quốc tế. Thế

12 Tuyên ngôn Alma- Ata 1978 đề ra 8 nội dung trong việc chăm sóc sức
khỏe ban đầu và Việt Nam bổ sung thêm hai nội dung

18
nhưng, để trẻ có thể phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, để trẻ em có
thể được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ về quyền con người của
mình thì điều kiện tiên quyết là trẻ em phải tồn tại và có đầy đủ sức khỏe. Trẻ em
phải còn sống, còn tồn tại thì có thể đề cập đến việc làm thế nào để đảm bảo cho
trẻ em một sự phát triển bình thường và toàn diện. Vì thế, quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em là một quyền trẻ em cơ bản và nền tảng. Chỉ khi quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em được thực hiện và đảm bảo thực hiện trên thực tế
thì các quyền khác của trẻ em mới có thể được thực hiện. Điều đó thể hiện mối
quan hệ chặt chẽ gắn thiết giữa quyền trẻ em nói chung và quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em.

Quyền được chăm sóc sức khoẻ của trẻ em liên quan mật thiết và phụ thuộc
vào việc hiện thực hoá các quyền khác của trẻ em. Quyền của trẻ em là bao gồm
nhiều nhóm quyền như quyền sống, lương thực, nhà ở, giáo dục, nhân phẩm,
bình đẳng, không phân biệt đối xử, cấm tra tấn, bảo vệ đời tư, tiếp cận thông tin,
và các quyền tự do lập hội, hội họp, đi lại... Đây là những quyền cần thiết để trẻ
em có thể sống và phát triển lành mạnh, tạo môi trường sống có lợi nhất cho sự
phát triển về thể chất và tinh thần cho trẻ em, thúc đẩy sự phát triển về trí não
cũng như là thể chất của trẻ.

Trẻ em cần được phát triển toàn diện nên việc đảm bảo quyển không chỉ
chú trọng đến việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ em mà cần quan tâm phát triển các
nội dung quyền khác của trẻ phù hợp với xu hướng của thời đại. Việc chỉ đề cao
hay chú mục đến phát triển sức khỏe thể chất của trẻ mà không quan tâm đến
những lĩnh vực khác của quyền con người của trẻ sẽ tạo nên sự lệch lạc trong sự
phát triển về thể chất và tinh thần; hình thành nhân cách của trẻ. Tuy nhiên, sức
khỏe lại là điều kiện tiên quyết để trẻ em có thể phát triển tốt nhất trên mọi lĩnh
vực.
Quyền được chăm sóc sức khoẻ của trẻ em sẽ được đảm bảo một cách hiệu
quả và thiết thực khi các quyền khác của trẻ cũng được đảm bảo thực hiện. Cá
quyền của trẻ em là một tổng thể, bản thân các nhánh quyền khác của trẻ em
cũng có sự tác động trở lại đối với quyền được chăm sóc sức khỏe. suy cho cùng,
trong tổng thể quyền,

19
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em có mối liên hệ rất chặt chẽ với các
quyền khác của trẻ em.

1.3. Cơ sở pháp lý về quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe của trẻ em

1.3.1. Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức
khỏe của trẻ em

Việc chăm sóc sức khỏe của trẻ em đã trở thành một mối quan tâm đặc
biệt của không chỉ riêng một quốc gia, một tổ chức hay cá nhân nào. Trẻ em là
một trong các nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, với đặc trưng thể chất và
tinh thần chưa hoàn thiện. Bản thân trẻ em không thể tự chăm sóc, bảo vệ cho
mình, đặc biệt là chăm sóc về sức khỏe; mà ngược lại việc chăm sóc sức khỏe
cho trẻ em là biểu hiện cho tình yêu thương của gia đình, xã hội dành cho trẻ em
và cũng là sự thể hiện trách nhiệm của mình. Việc chăm sóc trẻ em đặc biệt về
sức khỏe là xuất phát từ tình yêu thương, lòng nhân đạo; chưa phải là một nghĩa
vụ phải tuân thủ.

Chính vì điều này mà khái niệm “quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em đã được đề cập đến khi cộng đồng thế giới bắt đầu dành sự quan tâm đặc biệt
cho trẻ em với việc thừa nhận “quyền” của trẻ em. Sự ra đời của “quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em” - một nội dung quan trọng trong “quyền trẻ em”
đã đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức và xử sự của con người. Khi đã thừa
nhận đây là “quyền” và ghi nhận trong pháp luật thì đồng thời sẽ có “nghĩa vụ”
phát sinh. Nói cách khác, với những đặc trưng vốn có của mình, pháp luật đã trở
thành công cụ đặc biệt quan trọng trong việc ghi nhận “được chăm sóc sức khỏe”
là một quyền cơ bản của trẻ em. Pháp luật cũng đồng thời buộc các chủ thể có
liên quan thể hiện trách nhiệm của mình trong việc hành động bảo vệ cho quyền
này của trẻ em.

Với các thuộc tính riêng của mình như phổ biến và bắt buộc chung, việc
pháp luật thừa nhận quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em đã đảm bảo
những nội dung quyền này được thực hiện, được đảm bảo. Bao giờ cũng vậy, để
có thể thực hiện được

20
quy định thì pháp luật đồng thời đặt ra cơ chế pháp lý để bảo đảm thực hiện.
Không phải ngẫu nhiên mà cộng đồng quốc tế mặc dù đã có nhiều điều ước quốc
tế hay tuyên ngôn về việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948, ICCPR, ICESCR… nhưng
vẫn thông qua CRC. Điều này chỉ có thể lý giải được rằng cộng đồng thế giới
nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan trọng của một văn bản pháp lý mang
tính chuyên biệt, đặc thù cho một đối tượng “rất dễ bị tổn thương”. Khi sự quan
tâm này đã được ghi nhận bằng một quy định pháp luật, nó không chỉ mang tính
thừa nhận mà sẽ đặt ra trách nhiệm các quốc gia thành viên sẽ phải tuân thủ và
thể chế hóa trong hệ thống pháp luật quốc gia. Nói cách khác, dù là pháp luật
quốc tế hay pháp luật quốc gia thì văn bản pháp lý ghi nhận về quyền bao giờ
cũng là sự bảo đảm toàn diện nhất.

Ở nước ta, việc chăm sóc sức khỏe của trẻ em là trách nhiệm của toàn xã
hội vừa là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa là quan điểm chính sách xuyên
suốt của

Đảng và Nhà nước. Pháp luật cũng trở thành phương tiện quan trọng nhất trong
quá trình chuyển hóa quan điểm truyền thống tốt đẹp đó trở thành quy tắc xử sự
chung cho tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội và các cơ quan nhà nước.
Pháp luật cũng là sự ghi nhận quá trình thể chế hóa các cam kết quốc tế mà Việt
Nam là thành viên về việc đảm bảo cho quyền của trẻ em. Xuyên suốt tất cả các
bản Hiến pháp, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em luôn được ghi nhận.
Đặc biệt là Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) đã ghi nhận “Công dân có
quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe” (điều 61) và “Trẻ em được gia đình,
nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” (điều 65). Sự ghi nhận này đã
hình thành nên nguyên tắc hiến định mang tính nền tảng cho toàn bộ hoạt động
xây dựng và ban hành pháp luật về lĩnh vực quyền này của trẻ em.
Nhà nước thừa nhận đây là quyền cơ bản của trẻ em và ban hành hàng loạt
các văn bản có liên quan. Trong đó sự ra đời của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em 2004 là minh chứng cụ thể nhất cho quyết định xây dựng nên một
hành lang pháp lý vững chắc cho việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em. Luật đã ghi nhận quyền này trong một điều khoản riêng biệt “Trẻ em
có quyền được chăm sóc, bảo
21
vệ sức khỏe” (Điều 15). Điều 15 cũng quy định “trẻ em dưới 6 tuổi được chăm
sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ
sở y tế công lập”.

Cụ thể hóa quy định này Chính phủ đã ban hành Nghị định 36/2005/NĐ-
CP ngày 17/3/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004; Nghị định 71/2011/NĐ- CP ngày
22/8/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em (thay thế cho Nghị định 36/2005/NĐ- CP và bắt đầu
có hiệu lực từ ngày 10/10/2011); Luật Bảo hiểm y tế 2008; Luật Bảo vệ sức khỏe
nhân dân 1989… các quy định pháp luật này là cơ sớ pháp lý vững chắc cho việc
triển khai thực hiện và đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em trên
thực tế vì không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền mà còn quy định rõ ràng về
trách nhiệm của các chủ thể khác trong xã hội.

Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em còn được đảm bảo thông qua
các chương trình hành động quốc gia, các chiến lược quốc gia qua các giai đoạn,
các thời kỳ khác nhau. Các chương trình này là một chính sách đúng đắn trong
việc đảm bảo cho quyền một cách hiệu quả khi đòi hỏi mục tiêu cụ thể cần đạt
được qua một giai đoạn nhất định cụ thể. Chính phủ sẽ giữ vai trò trọng tâm
trong việc triển khai các chương trình này và sẽ thúc đẩy quá trình thực thi quy
định trong các văn bản pháp luật một cách nhanh chóng và thiết thực hơn.

Như vậy, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em cần thiết phải được
ghi nhận bằng các quy định pháp luật, thể hiện ý chí của nhà nước trong việc
thừa nhận quyền và quy định trách nhiệm cho các chủ thể liên quan. Có thể
khẳng định, ở đâu và khi nào quyền này được ghi nhận như là một quyền pháp lý
cơ bản thì mới thể hiện được sự toàn diện trong việc đảm bảo cho quyền của trẻ
em và quyền con người nói chung.

22
1.3.2. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em

1.3.2.1. Khái niệm cơ chế pháp lý đảm bảo thực hiện quyền của phụ nữ

Theo từ điển Việt Nam thì cơ chế được hiểu là “cách thức sắp xếp tổ chức
để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”13, còn theo cách hiểu phổ biến
thì cơ chế là sự vận động nhịp nhàng và ăn khớp của một hệ thống nào đó và của
các bộ phận cấu thành của hệ thống đó14. Như vậy, có thể hiểu cơ chế là hệ thống
các biện pháp, cách thức sắp xếp, tổ chức để làm cơ sở cho việc thực hiện một
công việc nào đó có tính phức tạp. Nó đòi hỏi phải có một cơ cấu, tổ chức để
thực hiện và hoạt động của nó phải có sự phối hợp một cách nhịp nhàng, đồng
bộ, không có mâu thuẫn với nhau nhằm đạt mục tiêu chung.

Ở góc độ pháp lý, các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng quy định pháp
luật, tức là bảo đảm thực hiện bằng hệ thống các cách thức, các biện pháp tổ
chức của các

cơ quan nhà nước và các biện pháp ngăn ngừa những hành vi vi phạm. Để thực
hiện được thì cần có một hệ thống các cơ quan chức năng hoạt động theo một
quy trình nhất định mang tính đồng bộ. Như vậy, cơ chế pháp lý bao hàm những
quy định để các cơ quan chức năng thực hiện từ việc đề ra chính sách pháp luật
đến việc đề ra các biện pháp nhằm đảm bảo việc thực thi các chủ trương, chính
sách, pháp luật trong thực tế cũng như kiểm tra, giám sát, xử lý việc thực hiện
các quy định trong pháp luật một cách nhất quán.

Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em là một quyền cơ bản của trẻ em
nên luôn cần có một cơ chế pháp lý để đảm bảo. Pháp luật không chỉ là sự thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội mà nó còn
được xem là một công cụ rất hiệu quả của Nhà nước trong việc ghi nhận và bảo
đảm cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Khi quyền này được pháp
luật ghi nhận nó sẽ trở thành

13 Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, (2008), Đại tự điển tiếng
Việt, NXB Văn hóa thông tin,

Hà Nội, tr. 252

14 Nguyễn Cửu Việt, (2003), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 161

23
các quyền mang tính pháp định, được xã hội thừa nhận, mang tính bắt buộc
chung và được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước thông qua bộ máy nhà nước.
Nếu có sự vi phạm thì hành vi đó sẽ sớm được phát hiện để có cách thức can
thiệp kịp thời, thậm chí bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Khi đó, quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em không còn đơn thuần là một giá trị mang
tính xã hội thông thường mà trở thành quyền thực sự.

Như vậy, cơ chế đảm bảo thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em được xem là hệ thống các quy định pháp luật nhằm ghi nhận, bảo đảm cho
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em và cách thức để các quy đinh đó được
thực hiện trong thực tế. Cơ chế này được triển khai theo những trình tự, thủ tục
khác nhau. Về mặt pháp lý, cơ chế này được ghi nhận trong hệ thống pháp luật ở
nước ta từ Hiến pháp cho đến các văn bản pháp luật cụ thể.

1.3.2.2. Nội dung cơ chế pháp lý bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em

Thứ nhất, pháp luật quy định các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bảo đảm
cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được thực hiện; quy định thẩm
quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức; quyền và nghĩa vụ của
mọi cá nhân, gia đình trong việc bảo đảm quyền này cho trẻ em. Nói cách khác,
cơ chế pháp lý bảo đảm cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em trước hết
được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, từ quá trình xây
dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật.
 Hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội, Hội đồng nhân
dân ban hành ra chính sách pháp luật ghi nhận về quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em để từ đó các cơ quan quản lý nhà nước thực thi. Lập hiến và lập pháp
là cơ sở ban

đầu, tiền đề cho các hoạt động bảo đảm cho quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ em.

 Hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Đây là cơ quan đóng vai trò
trực tiếp trong việc thực hiện các nội dung quyền trẻ em nói chung và quyền
được chăm sóc

sức khỏe của trẻ em nói riêng. Các cơ quan quản lý nhà nước bao gồm: Chính phủ, Bộ,

24
cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân, các cơ quan tổ chức, đơn vị sự nghiệp của nhà nước trực thuộc
trung ương đóng tại địa phương…Ở đây chủ yếu đề cập đến hoạt động của
Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn
của Ủy ban nhân dân.

Chính phủ là cơ quan đóng vai trò chủ đạo trong việc nghiên cứu chính
sách, trình Quốc hội ban hành văn bản pháp luật về quyền trẻ em nói chung, tổ
chức thực hiện và kiểm tra giám sát việc thực hiện văn bản pháp luật đó. Bộ Lao
động- Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm chính trong việc bảo đảm cho
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Bộ đã thành lập ra Cục Bảo vệ, chăm
sóc trẻ em- cơ quan có trách nhiệm giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý
nhà nước trong quá trình triển khai bảo đảm quyền cho trẻ em trong phạm vi cả
nước.

Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về đảm
bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em trong phạm vi địa phương
của mình. Sở Lao động Thương binh và Xã hội giữ vai trò là cơ quan chuyên
môn chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em trong phạm vi địa phương. Đồng thời Sở phân cấp cho các cơ quan
chuyên môn cấp dưới của mình thực hiện công tác vì nhiệm vụ chung.

Như vậy, thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ
quan quản lý nhà nước nói riêng, chúng ta có thể khái quát về cơ chế pháp lý bảo
đảm quyền quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em như sau:

- Chính phủ là cơ quan trình Quốc hội ban hành văn bản pháp luật liên quan
đến quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em và tổ chức thực hiện, kiểm
tra giám sát việc thực hiện pháp luật. Trong phạm vi thẩm quyền của
mình, các Bộ sẽ chịu trách nhiệm quản lý và bảo đảm cho trẻ em được
thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe của mình trong lĩnh vực cụ thể thông
qua việc ban hành các văn bản pháp luật, đánh giá, kiểm tra, xử lý các vi
phạm. Giữ vai trò trọng tâm là Bộ Lao

động Thương binh và Xã hội và cơ quan giúp việc của mình là Cục Bảo
vệ, chăm sóc trẻ em.

25
- Ủy ban nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và bảo
đảm

quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em trong phạm vi địa phương. Sở
Lao động Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm
vụ quyền hạn của mình với tư cách là cơ quan chuyên môn của Ủy ban
nhân dân.

Thứ hai, pháp luật quy định trình tự, thủ tục khi thực hiện các nội dung cụ
thể của quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em thông qua hoạt động của các
chủ thể có liên quan.

Thứ ba, pháp luật đặt ra hình thức xử lý các hành vi vi phạm quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Việc xử lý có thể bằng các biện pháp cưỡng chế
khác nhau tùy thuộc vào tính chất và mức độ. Hình thức xử lý phổ biến là áp
dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, thông qua cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo trình tự nhất định. Ngoài ra việc vi phạm quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em có thể áp dụng các biện pháp xử lý khác.

Tóm lại, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em là một nội dung rất
quan trọng trong quyền trẻ em nói chung, được ghi nhận trong các điều ước quốc
tế như là một cam kết của cộng đồng thế giới về sự cần thiết phải bảo đảm ở
nhiều lĩnh vực khác nhau. Trẻ em có một vị thế, vai trò rất quan trọng cho tương
lai của mỗi quốc gia và chưa có sự phát triển hoàn thiện về thế chất tinh thần nên
rất cần nhận được sự quan tâm chăm sóc bảo vệ của gia đình, Nhà nước và xã
hội. Nhận thức sâu sắc điều này, cả pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đã
xây dựng nhiều văn kiện pháp lý, làm cơ sở cho việc bảo đảm quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em một cách hiệu quả và thiết thực nhất. Đồng thời các quy
định pháp luật còn xây dựng cơ chế pháp lý cụ thể đảm bảo cho quyền của trẻ
em thông qua quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.

26
CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƢỢC CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA TRẺ
EM TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe
của trẻ

em

Đảng và Nhà nước ta luôn quan niệm trẻ em chính là tương lai của đất
nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn là mối quan tâm hàng đầu,
là chính sách xuyên suốt và thống nhất trong quá trình xây dựng hệ thống pháp
luật. Với quan điểm đó, Việt Nam đã sớm gia nhập các điều ước quốc tế về
quyền trẻ em, đặc biệt là đã trở thành thành viên thứ hai gia nhập vào CRC 15.
Điều này cho thấy, nước ta đã đưa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
trở thành hành động trên thực tế, thông qua hoạt động cụ thể, đánh dấu một bước
phát triển và khẳng định với các nước trên thế giới về sự quan tâm của Nhà nước
đối với việc đảm bảo các quyền và lợi ích cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương
này.

Sau khi gia nhập CRC, Việt Nam đã có hàng loạt các văn bản pháp luật
được ban hành đảm bảo cho quyền của trẻ em nhằm thể chế hóa các cam kết ghi
nhận trong CRC, đồng thời là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước về vấn đề này trong bối cảnh xây dựng một nhà nước pháp quyền
XHCN. Các quy định pháp luật về quyền của trẻ em nói chung và quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em nói riêng đã được chú trọng xây dựng và hoàn
thiện. Bởi lẽ, trong số các quyền của trẻ em,

15 Việt Nam là quốc gia thứ hai phê chuẩn CRC trên thế giới. Việt Nam
cũng đồng thời phê chuẩn Nghị

định thư (không bắt buộc) về việc sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ
trang và Nghị định thư

(không bắt buộc) về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu
dâm trẻ em vào ngày 20/12/2001.

27
quyền được chăm sóc sức khỏe là một nội dung quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của mỗi trẻ em và để có thể đảm bảo được thì đòi hỏi phải được sự
tham gia, chăm sóc, qua vai trò, trách nhiệm của gia đình, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và cả xã hội.

Quyền trẻ em, với tư cách là một bộ phận quan trọng của quyền con
người, quyền công dân nên được ghi nhận trong văn bản pháp lý có giá trị cao
nhất mang tính nguyên tắc, đó là Hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung 2001) quy định tại Điều 61 “Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ
sức khỏe”. Đây là một sự khẳng định quan trọng khi việc hưởng chế độ bảo vệ
sức khỏe được ghi nhận là một “quyền” và việc ghi nhận này không có sự phân
biệt đối xử giữa người thành niên hay trẻ em. Trẻ em trước hết là “công dân Việt
Nam”16 nên nguyên tắc Hiến định này đã bao hàm chủ thể được hưởng chế độ
bảo vệ sức khỏe là trẻ em- một chủ thể đặc biệt được hưởng quyền. Điều này lại
càng khẳng định quyền được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe là một quyền cơ
bản của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng.

Việc ghi nhận trong Hiến pháp là minh chứng rõ nét nhất cho đường lối
chính sách của Nhà nước, đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của công dân
cũng chính là đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước qua việc đảm
bảo sự phát triển của nguồn nhân lực. Không chỉ dừng lại ở nguyên tắc hiến định
trên mà Hiến pháp còn ghi nhận quyền được chăm sóc sức khỏe trong quy định
“Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ
và trẻ em”17 và “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục”18. Các quy định này lại càng khẳng định quyền được chăm sóc của trẻ
em trong đó có chăm sóc sức khỏe là một nội dung quan trọng. Hiến pháp không
chỉ ghi nhận bằng quy định về quyền mà còn ghi
16 Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em quy
định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”.

17 Điều 40 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

18 Điều 65, tlđd số 17.

28
nhận thông qua quy định về qua vai trò, trách nhiệm hay có thể gọi là “nghĩa vụ”
của các chủ thể: Nhà nước, xã hội, gia đình và mỗi công dân trong việc đảm bảo
quyển của trẻ em. Nói cách khác, vì đặc trưng về thể chất và tinh thần của mình
mà trẻ em phải được nhận sự quan tâm và chăm sóc từ các thành viên còn lại của
xã hội. Các quyền của trẻ em đặt ra nghĩa vụ từ phía các chủ thể khác, đòi hỏi
phải có các biện pháp thích hợp để bảo đảm một cách hữu hiệu nhất.

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 có hiệu lực từ ngày 01/01/2005. Văn bản này
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em. Điều 15 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ghi nhận:
“Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Trẻ em dưới sáu tuổi được
chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại
các cơ sở y tế công lập.” Quy định này thể hiện rõ nội dung của nguyên tắc Hiến
định về quyền “hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe” của trẻ em, đồng thời chú
trọng đến quyền của trẻ em dưới 6 tuổi qua việc chăm sóc sức khỏe ban đầu và
khám chữa bệnh không phải trả tiền tại cơ sở y tế công lập.

Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em còn được ghi nhận trong Luật
Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 “Trẻ em được y tế cơ sở quản lý sức khỏe, được
tiêm chủng phòng bệnh, phòng dịch, được khám chữa bệnh” 19. Cụ thể hóa quyền
khám chữa bệnh miễn phí của trẻ em, cũng như được quy định trong Luật Bảo
hiểm y tế năm 2008 đã có các quy định cụ thể về việc cấp thẻ bảo hiểm cho trẻ
em dưới 6 tuối. Quyền này còn được ghi nhận trong Luật phòng chống vi rút gây
ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải 2008, Luật người khuyết tật 2010….
là các văn bản ghi nhận quyền được

chăm sóc sức khỏe cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
19 Xem thêm Điều 46 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989.

29
Hệ thống pháp luật không chỉ dừng lại ở quy định về quyền mà còn đặt ra
cơ chế pháp lý cho việc đảm bảo các quyền này trên thực tế thông qua vai trò của
các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Thông qua việc quy định về trình tự
thủ tục để trẻ em có thể thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của mình, pháp
luật đã đặt ra cơ chế đảm bảo, giám sát hoạt động của các cơ quan này để quyền
của trẻ em trong lĩnh vực quan trọng này có thể được thực thi một cách hiệu quả
nhất. Như vậy, về mặt quy định pháp luật, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em tập trung chủ yếu ở việc ghi nhận về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em và cơ chế pháp lý để đảm bảo cho quyền này.

2.1.1. Quy định pháp luật về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ em

Trước khi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 ra đời thì
quyền được chăm sóc sức khỏe của công dân nói chung đã được ghi nhận trong
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 “Công dân có quyền được bảo vệ sức
khoẻ”. Như vậy, từ rất sớm, pháp luật của nước ta đã dành sự quan tâm cho vấn
đề đảm bảo quyền đối với sức khỏe cho công dân nói chung và trẻ em nói riêng.
Trẻ em thì được y tế cơ sở quản lý về sức khỏe, được tham gia tiêm chủng phòng
bệnh…Việc chăm sóc sức khỏe của trẻ em là một chính sách mang tính xuyên
suốt, thống nhất của Nhà nước được ghi nhận trong một điều khoản riêng biệt.
Trẻ em được bảo vệ sức khỏe tốt nhất, phòng chống lại bệnh tật thông qua các
chương trình tiêm ngừa, khám chữa bệnh. Quyền này được đảm bảo thông qua
vai trò của y tế cơ sở, của ngành y tế nói chung và của bản thân từng cá nhân, gia
đình. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 đã thể hiện sự quan tâm sâu sát thông
qua quy định rất quan trọng này.

Tuy nhiên, Luật chưa có quy định nào đề ra cơ chế pháp lý cụ thể cho việc
thực hiện quyền này, chưa có sự ghi nhận cách thức để thực hiện quyền hay quy
định về trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan, Nhà nước trong việc đảm
bảo cho quyền. Cho nên nhìn chung quy định này chỉ mới dừng lại ở mức độ đề
ra nguyên tắc chung,
30
chưa đi vào chi tiết, cụ thể hóa, nhưng nó đã khẳng định một điều rất quan trọng,
từ rất sớm quyền của trẻ em đã là đối tượng quan trọng trong chính sách bảo vệ
chăm sóc sức khỏe của công dân nói chung.

Tiếp tục khẳng định việc đảm bảo quyền của trẻ em là một nội dung quan
trọng trong chính sách lập pháp ở nước ta, nhất là trong bối cảnh Hiến pháp 1992
đã có nhiều quy định về vấn đề này và thực tiễn đòi hỏi phải có quy định riêng
cho chủ thể đặc thù này, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ra đời.
Việc ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em là bước phát triển
về mặt pháp lý, là sự cụ thể hóa các nguyên tắc hiến định của Hiến pháp 1992, là
sự tiếp nối nguyên tắc xuyên suốt của Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989, đồng
thời là sự nội luật hóa Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê
chuẩn vào ngày 20/2/1990. Như vậy, đây chính là sự khẳng định cho các cam kết
quốc tế, đồng thời là quy định thể hiện cho chính sách đảm bảo quyền và lợi ích
cho đối tượng mang tính đặc thù này. Bởi lẽ, trẻ em không thể tự bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe của mình mà điều này phải được đảm bảo thực hiện thông qua vai
trò chủ đạo của Nhà nước và các cơ quan hữu quan.

Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã khẳng định nguyên tắc
“Trẻ em có quyền được chăm sóc sức khỏe”. Quy định này khẳng định đây là
quyền của trẻ em và mọi trẻ em đều được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Trẻ em
ở đây là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới
tính hay các đặc điểm về mặt thể chất tinh thần khác. Nói cách khác, mọi trẻ em
đều bình đẳng với nhau trong việc thụ hưởng quyền được hưởng chế độ chăm
sóc sức khỏe từ Nhà nước và các tổ chức xã hội. Quy định này mang tính nguyên
tắc và được kế thừa trong các quy định pháp luật khác có liên quan về việc bảo
đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Theo các nội dung của quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em thì việc hưởng quyền này bao gồm cả việc
đảm bảo môi trường sống một cách tốt nhất.

Quyền được đảm bảo sức khỏe của trẻ em còn được khẳng định qua quy
định tại khoản 10 Điều 7 nghiêm cấm việc “Đặt cơ sở sản xuất, kho chứa thuốc
trừ sâu, hoá

31
chất độc hại, chất dễ gây cháy, nổ gần cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, cơ sở giáo dục, y
tế, văn hoá, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em.”. Quy định này được cụ thể hóa ở
Điều 12 Nghị định 36/2005/NĐ- CP, theo đó thuốc trừ sâu, hóa chất độc hại,
chất dễ gấy cháy nổ gồm các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, đất đèn, chất thạch
tín, thuốc diệt chuột, xăng dầu, khí ga, chất nổ, chất phóng xạ và các loại hóa
chất khác theo quy định của pháp luật hiện hành. Điều 12 cũng đồng thời nghiêm
cấm đặt cơ sở sản xuất kinh doanh có chất thải độc hại, có tiếng ồn lớn trong
phạm vi gây ảnh hướng đến cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn
hóa, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em.

Đối với trẻ em trong độ tuổi đến trường thì được chăm sóc sức khỏe thông
qua chương trình y tế học đường. Ngoài ra trẻ trong giai đoạn này cũng là đối
tượng tham gia bảo hiểm y tế, được cấp phát thẻ bảo hiểm y tế để khám bệnh,
chữa bệnh tại các cơ sở y tế. Trẻ em trong giai đoạn này được ngân sách Nhà
nước hỗ trợ một phần mức đóng Bảo hiểm y tế và khi thực hiện việc khám chữa
bệnh, trẻ được thanh toán 80% chi phí khám chữa bệnh (điểm d khoản 1 Điều 22
Luật Bảo hiểm y tế 2008)

Với nguyên tắc thứ hai ghi nhận tại Điều 15 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em 2004 “Trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu,
được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập”. Quy
định này bao gồm việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ em tức là chuẩn bị và
cho trẻ tiếp cận các điều kiện tốt nhất về sức khỏe và y tế trong những năm tháng
đầu đời. Chăm sóc sức khỏe ban đầu trong đó chú trọng đến việc triển khai tiêm
chủng mở rộng, chế độ dinh dưỡng, phòng chống dịch bệnh, môi trường sống và
cả sức khỏe của bà mẹ và trẻ em.
Trẻ em dưới 6 tuổi còn được hưởng chế độ khám bệnh, chữa bệnh miễn
phí tại các cơ sở y tế công lập. Nhà nước thể hiện sự quan tâm đối với sức khỏe
của trẻ em và chia sẻ với gia đình xã hội trách nhiệm chăm sóc và đảm bảo cho
trẻ được chăm sóc về y tế một cách tốt nhất. Khác với các chủ thể còn lại trong
xã hội, trẻ em đòi hỏi phải được yêu thương và chăm sóc đặc biệt vì còn rất non
nớt và khả năng thích ứng với xã hội còn yếu ớt. Quy định này hướng đến việc
bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe

32
cho đối tượng trẻ em có độ tuổi rất thấp: dưới sáu tuổi, là độ tuổi cần một sự
chăm sóc về mặt y tế, sức khỏe đặc biệt để đảm bảo cho sự phát triển tốt về mặt
thể chất sau này. Đây chính là biểu hiện cho sự quan tâm đến sức khỏe của trẻ
nhỏ trong những năm tháng đầu đời: được chăm sóc sức khỏe và quan trọng là
được khám chữa bệnh miễn phí. Việc được khám chữa bệnh miễn phí tạo ra cơ
hội chăm sóc sức khỏe cho trẻ em được tốt hơn.

Cụ thể hóa quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 36/2005/NĐ-
CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nghị định đã cụ thể hóa quy
định tại Điều 15 của Luật 2004. Trong đó khẳng định “ trẻ em dưới 6 tuổi là trẻ
em dưới 72 tháng tuổi” và “các cơ sở y tế công lập thực hiện việc khám chữa
bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi gồm cơ sở y tế thuộc Bộ y tế, các Bộ, cơ quan, đơn
vị ở trung ương và địa phương”20. Trong một khoảng thời gian dài kể từ khi ra
đời, Nghị định 36/20005/NĐ- CP đã xây dựng một cơ sở pháp lý quan trọng tạo
điều kiện thuận lợi cho trẻ em được tiếp cận với các dịch vụ y tế miễn phí. Tuy
nhiên quy định này lại xuất hiện một hạn chế nhất định, đó là trẻ em chỉ được
khám bệnh, chữa bệnh nếu đúng tuyến (trừ trường hợp cấp cứu có thể vượt tuyến
hoặc trái tuyến) và với các dịch vụ, kỹ thuật thông thường. Quy định này lại hạn
chế quyền tiếp cận với các dịch vu y tế kỹ thuật cao, điều mà trẻ em xứng đáng
phải được hưởng để đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần; mặt
khác trẻ em nếu không phải là thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh trong tình
thế cấp cứu thì sẽ không được miễn phí khi khám,chữa bệnh vượt tuyến, trái
tuyến.

Nghị định 36/2005/NĐ- CP đã bị bãi bỏ và thay thế bởi Nghị định


71/2011/NĐ-CP ngày 22/8/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, có hiệu lực từ ngày
10/10/2011. Nghị định 71/2011/NĐ- CP không quy định về quyền được khám
bệnh, chữa bệnh miễn phí của trẻ em trong một điều khoản riêng biệt nữa vì
trách nhiệm này đã được chuyển giao

20 Xem thêm Điều 18 Nghị định 36/2005/NĐ- CP.

33
sang cho cơ quan Bảo hiểm xã hội và được quy định trong các văn bản pháp luật
về bảo hiểm y tế.

Để thực hiện chính sách phát triển y tế cộng đồng được hiệu quả và mở
rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cũng như đảm bảo cho quyền lợi cho
công dân, Quốc hội đã ban hành Luật Bảo hiểm y tế 200821, trong đó quy định
“trẻ em dưới 6 tuổi”22 là đối tượng tham gia bảo hiểm y tế và trẻ sẽ được cấp
phát thẻ bảo hiểm y tế có giá trị đến khi trẻ đủ 72 tháng tuổi 23. Việc cấp phát thẻ
bảo hiểm y tế thay cho thẻ khám chữa bệnh trước đây được xem là một bước tiến
bộ trong việc đơn giản hóa và thống nhất quy trình quản lý về mặt y tế; tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho trẻ em tiếp cận với các chính sách của bảo hiểm y tế. Luật
cũng khẳng định trẻ em là một đối tượng đặc biệt được hưởng các chế độ và
chính sách bảo hiểm y tế với quy định trẻ em dưới 6 tuổi tham gia bảo hiểm y tế
được thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh 24 và nếu có sử dụng dịch vụ, kỹ
thuật cao, chi phí lớn thì quỹ bảo hiểm y tế cũng được thanh toán 100% chi
phí25 . Trẻ em được cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Công tác chăm sóc sức
khỏe cho trẻ em bằng chế độ bảo hiểm y tế là một xu hướng đúng đắn và tất yếu
của xã hội hiện đại, trong đó công dân được bảo đảm sức khỏe bằng chế độ bảo
hiểm. Luật cũng cho phép các cơ sở y tế ngoài công lập đủ điều kiện chuyên
môn kỹ thuật theo luật định được ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh cho người
bệnh có thẻ bảo hiểm y tế. Quy định của luật cũng mở rộng việc đăng ký khám
bệnh, chữa bệnh ban đầu ở tuyến huyện, xã và trẻ em có quyền đăng ký cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh y

21 Luật Bảo hiểm y tế 2008 được Quốc hội thông qua vào ngày 14/11/2008
và có hiệu lực thi hành từ 01/07/2009
22 Khoản 17 Điều 12, tlđd số 21.

23 Điểm c khoản 3 Điều 16 “Đối với trẻ em dưới 6 tuổi thì thẻ bảo hiểm y
tế có giá trị sử dụng đến ngày trẻ đủ 72 tháng tuổi”, tlđd số 21.

24 Điểm a khoản 1 Điều 22, tlđd số 21.

25 Điểm a khoản 2 Điều 7 Nghị định 62/2009/NĐ- CP ngày 27/7/2009 quy


định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế 2008.

34
tế ban đầu. Việc khám bệnh, chữa bệnh của trẻ em được thuận lợi hơn, trẻ có thể
được khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế cấp trên thay vì chỉ được tham gia ở cơ
sở y tế cấp cơ sở như trước đây. Như vậy, Luật Bảo hiểm y tế ra đời đã thay
phương thức khám chữa bệnh của trẻ em dưới 6 tưởi từ sử dụng thẻ khám chữa
bệnh miển phí sang hình thức sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế được thanh toán 100%
chi phí khám bệnh, chữa bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em lựa chọn cơ sở
y tế thích hợp với hoàn cảnh để đăng ký nơi khám bệnh, chữa bệnh ban đầu.
Việc khám bệnh, chữa bệnh của trẻ cũng không bị hạn chế trong phạm vi các cơ
sở y tế công lập như trước đây là mở rộng đến cả các cơ sở y tế ngoài công lập
có đủ điều kiện và có đăng ký. Ngoài ra, trẻ em còn có cơ hội được thụ hưởng
các dịch vụ y tế kỹ thuật cao trong quá trình điều trị và cũng không phải chịu chi
phí cho việc thụ hưởng này.

Những nội dung của Luật bảo hiểm y tế 2008 được hướng dẫn thi hành
trong Nghị định 62/2009/NĐ- CP ngày 27/7/2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế. Nghị định này
cũng đánh dấu bước chuyển giao trách nhiệm thực hiện công tác khám bệnh,
chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sang
cho cơ quan Bảo hiểm xã hội. Việc chuyển giao được thể hiện rõ ràng trong
Công văn số 3940/LĐTBXH- BVCSTE ngày 19/10/2009 của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội nhưng Nghị định 62/2009/NĐ-CP có quy định chuyển
tiếp. Theo đó quyền lợi của trẻ em dưới 6 tuổi vẫn tiếp tục được bảo đảm theo
các quy định của Nghị định 36/2005/NĐ- CP “Tiếp tục thực hiện chế độ khám,
chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi theo hình thức thực thanh, thực chi
theo quy định tại Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em cho đến khi Nghị định này có hiệu lực” (Điều 16 Nghị định
62/2009/NĐ-CP). Tất cả các quy định này đã tạo nên một quy trình tương đối
hoàn thiện chặt chẽ nhằm một mục đích để công tác khám bệnh chữa bệnh theo
chế độ bảo hiểm y tế mang lại hiệu quả tốt nhất; đặc biệt là đối với đối tượng trẻ
em dưới 6 tuổi, bảo đảm cho các mục tiêu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ
em.

35
Thông tư liên tịch 09/2009/TTLT- BYT- BTC ngày 14/8/2009 của Bộ Tài
chính và Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện Luật Bảo hiểm y tế được ban hành, đã quy
định về độ tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Thông tư cũng có các quy
định đối với việc trẻ được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe miễn phí. Trẻ em
dưới 6 tuổi là đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm y tế do nhà nước chi trả.
Như vậy, trẻ em đã được ghi nhận là đối tượng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm
y tế và sẽ được miễn phí chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế khi có thẻ bảo
hiểm y tế.

Như vậy, việc cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí thay cho thẻ khám chữa
bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi cũng đã cho thấy điểm tích cực trong việc
đảm bảo tốt hơn quyền khám chữa bệnh của trẻ và giảm đi tiêu cực “thực thanh
nhưng chưa thực chi” tại một số cơ sở khám chữa bệnh trước đây. Việc xây dựng
mô hình khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế cũng chính là sự đồng nhất
trong tiến trình hướng đến việc chăm sóc sức khỏe của công dân nói chung bằng
chế độ bảo hiểm y tế. Việc cấp phát thẻ bảo hiểm y tế cũng như thủ tục khám
chữa bệnh cũng được hoàn thiện dần theo hướng tạo điều kiện thuận lợi và tốt
nhất cho trẻ có cơ hội tiếp cận, đăng ký sử dụng thẻ. Muốn được cấp thẻ Bảo
hiểm y tế, trẻ em chỉ cần có giấy khai sinh; hoặc giấy chứng sinh; hoặc xác nhận
của UBND cấp xã. Việc lập danh sách cấp thẻ BHYT được thực hiện theo từng
quý, đảm bảo sự chăm sóc cho trẻ được kịp thời, nhanh chóng. Nơi cấp thẻ
BHYT có thể là nơi thường trú của trẻ hoặc nơi mà cha hoặc mẹ của trẻ thường
trú hoặc tạm trú…

Với quan điểm nhất quán là việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ em phải được
thực hiện từ khi trẻ còn là bào thai, pháp luật đã có nhiều quy định về việc chăm
sóc sức khỏe cho bà mẹ trong quá trình mang thai, sinh đẻ, chăm sóc trẻ sơ sinh.
Đây cũng chính là một trong những nội dung của việc chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho trẻ em, đã được quy định ngay ở Điều 63 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi,
bổ sung 2001). Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 cũng quy định về việc “phụ
nữ được khám bệnh, chữa bệnh phụ khoa, chăm sóc được theo dõi sức khỏe
trong thời kỳ thai nghén, được phục vụ y tế khi sinh con tại các cơ sở y tế” (Điều
44) và Điều 45 có quy định về trách nhiệm của

36
Bộ Y tế “củng cố, phát triển mạng lưới chuyên khoa phụ sản và sơ sinh đến tận
cơ sở để đảm bảo phục vụ y tế cho phụ nữ”. Việc chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ
cũng được ghi nhận trong các quy định pháp luật liên quan như pháp luật lao
động và được triển khai thực hiện qua nhiều chương trình hành động quốc gia
như Chiến lược quốc gia về sức khỏe sinh sản 2001- 2010, Chiến lược dân số
Việt Nam giai đoạn 2001- 2010…

Đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Tại điều 40 Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em 2004 quy định “Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em
mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là
nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc
nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia
đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em
vi phạm pháp luật”. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là những trẻ có các nhược
điểm về thể chất, tinh thần rất cần nhận được sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt.
Vì lẽ đó mà trong Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã dành một phần riêng để quy định về chủ thể đặc biệt này.
Cơ quan lập pháp và các cơ quan quản lý nhà nước cũng hết sức chú trọng trong
việc đảm bảo cho quyền của các chủ thể này trong quá trình hoạch định chiến
lược và tổ chức thực hiện pháp luật. Với quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em thì những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt lại càng cần thiết phải được quan tâm
và đảm bảo một cách triệt để hơn.

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đương nhiên được thụ hưởng quyền được
chăm sóc sức khỏe như bất kỳ trẻ em nào khác. Trẻ dưới 6 tuổi thì được chăm
sóc sức khỏe với những quy định cụ thể như chăm sóc sức khỏe ban đầu, được
cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh miễn phí. Tuy nhiên vì một số
nhược điểm về thể chất, tinh thần nên trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn được
đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe

ở một số khía cạnh khác. Đối với trẻ khuyết tật thì được “chăm sóc sức khỏe và
phục hồi chức năng”. Cụ thể trẻ em khuyết tật được chăm sóc sức khỏe ban đầu
ở nơi cư

37
trú26, được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Trẻ em khuyết tật là đối tượng tham gia
bảo hiểm y tế “được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật
về bảo hiểm y tế” (khoản 2 Điều 22). Khi khám bệnh, chữa bệnh thì trẻ khuyết
tật là đối tượng ưu tiên. Ngoài ra, để đảm bảo cho trẻ khuyết tật được chăm sóc
sức khỏe tốt hơn thì trẻ khuyết tật được thực hiện việc chỉnh hình, phục hồi chức
năng27. Đây là hoạt động rất quan trọng để đảm bảo sức khỏe cho trẻ khuyết tật,
nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng của trẻ.

Đối với trẻ em ở vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn về kinh tế, nhà nước có
các chính sách hỗ trợ về y tế và điều kiện sống như chương trình nước sạch để
đảm bảo cho sức khỏe của trẻ em. Đối với trẻ bị nhiễm HIV/AIDS thì luật đã
khẳng định “Được điều trị và chăm sóc sức khỏe”; cụ thể trẻ em là đối tượng ưu
tiên hàng đầu trong việc được điều trị bằng thuốc kháng HIV do ngân sách nhà
nước chi trả28. Ngoài ra trẻ bị nhiễm HIV/AIDS còn được cấp phát thẻ Bảo hiểm
y tế và được cơ quan y tế chi trả các chi phí khám bệnh, chữa bệnh.

Như vậy, với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ngoài việc hưởng chế độ chăm
sóc sức khỏe chung của trẻ em thì trẻ còn được tiếp cận với các biện pháp chăm
sóc sức khỏe đặc thù phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể. Nhà nước luôn có
chính sách chăm sóc sức khỏe tốt nhất cho trẻ em và có các biện pháp để hỗ trợ
trẻ có thể hòa nhập, tái hòa nhập với cộng đồng xã hội, thúc đẩy hoạt động chăm
sóc sức khỏe cho từng đối tượng cụ thể.

Hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ em còn được triển khai thực hiện
trên thực tế thông qua các chương trình hành động quốc gia, các chiến lược quốc
gia qua các giai
26 Điều 21 Luật người khuyết tật 2010, được Quốc hội thông qua ngày
17/6/2010 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.

27 Điều 24, 25, 26, tlđd số 26.

28 Điểm a khoản 3 Điều 39 Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) 2006

38
đoạn. Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001- 2010, Chương
trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011- 2015, Chiến lược chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân, Chiến lược dinh dưỡng quốc gia 2011- 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030, Chương trình tiêm chủng mở rộng... thật sự đã mang lại nhiều kết
quả cho việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Mặc dù không
phải là các văn bản quy phạm pháp luật nhưng việc triển khai các đề án, các
chương trình hành động là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện pháp luật trên
thực tế. Điều quan trọng là các chương trình đề án được xây dựng trong từng giai
đoạn cụ thể, phù hợp tình hình thực tế và mang lại những hiệu quả thiết thực
trong việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.

Như vậy, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em đã được đảm bảo
bằng một hệ thống các quy định pháp luật cụ thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau,
trong đó việc ghi nhận quyền này ngày càng cụ thể, rõ ràng để có thể dễ dàng
thực hiện. Pháp luật ghi nhận theo hướng ngày càng mở rộng điều kiện để thực
hiện quyền và mang tính đầy đủ hơn. Tuy nhiên, không dừng lại ở việc ghi nhận
quyền, các quy định pháp luật còn quy định về cơ chế pháp lý đảm bảo cho việc
thực hiện quyền. Đây chính là sự ghi nhận và trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ
thể khác nhau trong xã hội trong việc triển khai thực hiện pháp luật để quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em trở thành một quyền thật sự, hiệu quả trên
thực tế.

2.1.2. Cơ chế pháp lý đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em
Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em đã được ghi nhận như là một
quyền quan trọng trong các quyền của trẻ em nói chung thông qua các quy định
trong hệ thống pháp luật. Nhưng không chỉ dừng lại ở các quy định pháp lý, Nhà
nước đảm bảo thực hiện thông qua cơ chế pháp lý cụ thể, thể hiện vai trò và
trách nhiệm của Nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng. Các cơ
quan này trong hoạt động

39
của mình thể hiện vai trò đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
được thực thi trong thực tế.

Thứ nhất, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được đảm bảo qua
việc hoạch định chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về quyền của trẻ em
nói chung.

Với vai trò là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, Chính phủ giữ vai
trò “thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” 29.
Chính phủ là cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo cho các quyền của
trẻ em nói chung và quyền được chăm sóc sức khỏe nói riêng. Để thực hiện vai
trò của mình, Chính phủ tham gia hoạch định chiến lược, chính sách cho việc
đảm bảo quyền của trẻ em. Chính phủ đã ban hành hàng loạt các quyết định phê
duyệt chương trình hành động quốc gia vì quyền của trẻ em nói chung như:
Quyết định 23/2001/QĐ/TTg phê duyệt chương trình hành động quốc gia vì trẻ
em Việt Nam giai đoạn 2001- 2010; Quyết định 65/2005/QĐ- TTg phê duyệt đề
án “Chăm sóc trẻ em mố côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị tàn
tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học và trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS
dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005- 2010; Quyết định 267/2011/QĐ- TTg về phê
duyệt chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2011- 2020; Quyết
định 267/ QĐ- TTg phê duyệt chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn
2011- 2015.

Như vậy, Chính phủ đã thể hiện được vai trò của một cơ quan hoạch định
chiến lược chính sách thông qua việc xây dựng và triển khai thực hiện các
chương trình hành động quốc gia, các chiến lược, các đề án nhằm đảm bảo một
cách tốt nhất và hữu hiệu nhất quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Đây
đồng thời là định hướng cho việc xây dựng và ban hành pháp luật về quyền của
trẻ em- tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu cho việc bảo đảm quyền của trẻ em.

29 Khoản 1 Điều 8 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.

40
Thứ hai, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được đảm bảo thông
qua hoạt động xây dựng pháp luật.

Đây là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thể chế
hóa các chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về quyền của phụ nữ trở thành
các quy định pháp luật cụ thể. Hoạt động này được thực hiện thông qua quá trình
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước như
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân từ các dự án luật do
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trình. Trong quá trình hoạt động của mình
thì các cơ quan quản lý nhà nước được giao nhiệm vụ bảo đảm cho quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em như Chính Phủ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã
hội ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quyền của phụ nữ trong phạm vi
thẩm quyền của mình. Ngoài ra các Bộ, cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền ban
hành ra các văn bản pháp luật quy định về việc đảm bảo cho quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em trong phạm vi lĩnh vực, ngành phụ trách.

Ở cấp chính quyền địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã
ban

hành ra văn bản quy phạm pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em theo thẩm quyền nhằm triển khai thực hiện các mục tiêu quốc gia, các
chương trình hành động quốc gia, các đề án về quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em. Đây là những văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh ở các cấp chính
quyền cơ sở, phù hợp với điều kiện tình hình tại mỗi địa phương.

Thứ ba, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được đảm bảo thông qua
việc tổ chức thực hiện pháp luật
Đây là quá trình đưa các văn bản pháp luật vào trong thực tế, là giai đoạn
rất quan trọng để quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em không chỉ tồn tại
như là những nguyên tắc, những quy định trên văn bản mà được thực hiện trong
đời sống xã hội. Quá trình tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
được thể hiện qua chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước từ cấp
chính quyền trung ương đến địa phương một cách xuyên suốt, nhất quán. Chính
phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ trong
phạm vi cả nước. Thông qua hoạt động
41
của mình, Chính phủ tạo cơ sở cho hoạt động thực hiện pháp luật của các Bộ,
ngành, các cơ quan chuyên môn; đồng thời trách nhiệm, vai trò của Chính phủ
cũng được đảm bảo bằng hoạt động của các cơ quan này.

Điều 27 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã ghi nhận trách
nhiệm đảm bảo quyền cho trẻ em thông qua vai trò của các quy định về trách
nhiệm của các chủ thể có liên quan. Quy định này xuất phát từ việc trẻ em không
thể tự mình thực hiện các quyền, mà việc đảm bảo quyền được thực hiện thông
qua trách nhiệm, nghĩa vụ của gia đình, các cơ quan nhà nước, cơ sở y tế30.

Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội là cơ quan chịu trách nhiệm chủ yếu
trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước bảo đảm cho quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về quyền
được chăm sóc

30 Điều 27. Trách nhiệm bảo vệ sức khỏe

1. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra
sức khỏe, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em.

2. Cơ sở y tế công lập có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện việc chăm
sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, chữa bệnh cho trẻ em.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tổ chức y tế học đường.


Bộ Y tế có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc hướng
dẫn thực hiện các biện pháp phòng tránh bệnh học đường và các bệnh khác cho
trẻ em.

4. Nhà nước có chính sách phát triển sự nghiệp y tế, đa dạng hoá các loại hình
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; có chính sách miễn, giảm phí khám bệnh, chữa
bệnh và phục hồi chức năng cho trẻ em; bảo đảm kinh phí khám bệnh, chữa bệnh
cho trẻ em dưới sáu tuổi.

Trong cân đối kế hoạch ngân sách hàng năm của Bộ Y tế và của Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh), Chính phủ dành riêng một khoản ngân sách để bảo đảm cho việc
khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền cho trẻ em dưới sáu tuổi ở các cơ sở y
tế công lập trung ương và địa phương.

5. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân hoạt động nhân đạo, từ thiện ủng hộ
kinh phí chữa bệnh cho trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo.

42
sức khỏe của trẻ em kể từ khi nhận chuyển giao nhiệm vụ bảo vệ chăm sóc trẻ
em từ Ủy ban Dân số Gia đình Trẻ em. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược, chương trình, kế
hoạch, biện pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở trung ương tổ chức thực
hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, biện pháp, mô hình về bảo vệ, chăm sóc
trẻ em; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, chính sách về bảo vệ và chăm
sóc trẻ em; tổ chức thu thập, xử lý và công bố thông tin, số liệu về bảo vệ, chăm
sóc trẻ em và thực hiện quyền trẻ em trong phạm vi cả nước theo quy định của
pháp luật; tổ chức nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học và chuyển
giao công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em và thực hiện quyền trẻ
em; thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ, chăm sóc trẻ em và thực hiện quyền trẻ
em trong phạm vi quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật; phối hợp với
các cơ quan có liên quan kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chính sách
về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo thẩm quyền31….

Để có thể đưa các quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em vào thực tiễn, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã thành lập Cục
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo Quyết định 168/LĐTBXH ngày 24/01/2008 về
việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bảo
vệ, chăm sóc trẻ em. Cục có trách nhiệm giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ em trong phạm vi cả nước theo quy
định của pháp luật. Cụ thể, Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em thực hiện việc nghiên
cứu trình Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về chiến lược, chương trình, quy
hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm, các dự án, đề án về bảo vệ, chăm sóc trẻ
em; các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ, chăm
sóc trẻ em; chế độ, chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn
31 Xem thêm Điều 29 Nghị định 71/2011 hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004.

43
cảnh đặc biệt; chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quy định của Nhà
nước, của Bộ về bảo vệ, chăm sóc trẻ em được Bộ phân công32….

Là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp tiến
hành tổ chức thực hiện pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em,
tổ chức chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em cho nhân dân trong địa phương 33. Hoạt động này được Ủy
ban nhân dân triển khai cho các Sở, ngành, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân để đưa pháp luật vào thực tế. Ở các địa phương, quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em được đảm bảo thông qua hoạt động của các Sở, Phòng
Lao động Thương binh và xã hội.

Ngoài ra, việc thực hiện pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ em còn được triển khai tại các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị- xã hội. Các cơ quan này đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ em thông qua công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan khác trong việc
đảm bảo quyền của trẻ em trong phạm vi lĩnh vực, ngành nghề phụ trách, tạo
điều kiện phát triển các cơ sở phúc lợi xã hội, các dịch vụ hỗ trợ nhằm đảm bảo
quyền này được thực hiện trên thực tế. “Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm
tổ chức y tế học đường”.

“Bộ Y tế có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc
hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng tránh bệnh học đường và các bệnh
khác cho trẻ em. Ngoài ra, Cơ sở y tế công lập có trách nhiệm hướng dẫn và tổ
chức thực hiện việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, chữa bệnh cho trẻ
em”.34
Quá trình tổ chức thực hiện pháp luật không chỉ thông qua hoạt động của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức mà pháp luật còn đi vào thực tế qua hoạt động
tuân thủ,

32 Xem thêm Điều 2 Quyết định 168/QĐ- LĐTBXH ngày 24/01/2008 về


việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bảo
vệ, chăm sóc trẻ em.

33 Xem Điều 28 Luật Bình đẳng giới 2006.

34 Điều 27, tlđd số

44
thực thi pháp luật của bản thân mỗi gia đình, mỗi công dân. “Cha mẹ, người
giám hộ có trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra sức khỏe, tiêm
chủng, khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em”. Công dân và gia đình phải nghiêm
chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe
của trẻ em vì trên hết, môi trường tốt nhất, thuận lợi nhất đảm bảo cho quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em và quyền trẻ em nói chung là bản thân của
mỗi gia đình, là trách nhiệm sự yêu thương của các bậc cha mẹ. Điều này xuất
phát từ sự gắn bó mật thiết của bản thân trẻ em với gia đình, trẻ em chưa thể tự
lập tự tồn tại hay chăm sóc sức khỏe của bản thân nếu như không có sự chăm lo
của gia đình- tế bào xã hội.

Việc tổ chức thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em còn
nhận được sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội, đặc biệt là thông qua vai
trò của Hội Bảo vệ trẻ em Việt Nam được thành lập theo Quyết định 464/QĐ-
BNV ngày 08/402008 về việc cho phép thành lập Hội bảo vệ trẻ em Việt Nam.
Ngoài ra ở các địa phương sự tham gia của các Chi hội, các trung tâm trực thuộc
hội. Mặc dù đây là một tổ chức dân sự nhưng có sự đóng góp rất lớn cho việc
đảm bảo quyền của trẻ em đồng thời thể hiện chính sách xã hội hóa công tác bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe của trẻ em là thích đáng. Để có thể đảm bảo cho quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được toàn diện thì “Nhà nước khuyến khích
tổ chức, cá nhân hoạt động nhân đạo, từ thiện ủng hộ kinh phí chữa bệnh cho trẻ
em mắc bệnh hiểm nghèo”35

Thứ tư, hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải
quyết khiếu nại, tố cáo về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em

Việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại tố
cáo về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được thực hiện bởi các cơ
quan quản lý nhà nước về quyền của trẻ em nói chung. Đó là vai trò của Chính
phủ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội; Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân
dân các cấp và các Sở, Phòng Lao động Thương binh và xã hội ớ các địa
phương. Các cơ quan này thực hiện việc thanh tra quá trình thực thi pháp luật,
việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc

35 Khoản 5 Điều 27, tlđd

45
gia về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em, các biện pháp bảo đảm quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em cũng như giải quyết khiếu nại, tố cáo về theo
quy định của pháp luật.

Ngoài ra để đảm bảo việc tuân thủ các quy định pháp luật về quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em thì hàng loạt các văn bản về xử lý vi phạm hành
chính về quyền của trẻ em nói chung đã được ban hành. Đây là biện pháp ngăn
chặn các hành vi

vi phạm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em nói chung bằng các biện pháp
xử lý

vi phạm hành chính36. Xử lý vi phạm hành chính thực chất là thực hiện sớm một
bước công tác phòng ngừa tội phạm xâm hại đến quyền của trẻ em nói chung,
bao gồm xử

phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả. Trình tự thủ tục
trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính về quyền của trẻ em được thực hiện
theo quy trình trong pháp luật xử lý vi phạm hành chính nhằm đảm bảo tính hiệu
quả trong việc ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi phạm ở các lĩnh vực quyền
khác nhau.

Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007,
2008) là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc áp dụng các biện pháp xử lý vi
phạm hành chính. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm
2006 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em.
Từ ngày 02/12/2011 Nghị định 91/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 quy định xử
phạt hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hiệu lực đã trở thành
văn bản pháp lý quan trọng trong việc đảm bảo sự tuân thủ các quy định pháp
luật về việc bảo đảm cho quyền của trẻ em nói chung37. Hoạt động

36 Vi phạm hành chính là hành vi (hành động hay không hành động) trái
pháp luật, có lỗi (cố ý hay vô

ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực
hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của nhà nước,
của tổ chức và của cá nhân, xâm phạm các

quyền, tự do, và lợi ích hợp pháp của công dân mà theo quy định của pháp luật
phải chịu trách nhiệm hành chính36. Việc xử lý vi phạm hành chính được áp dụng
cho các chủ thể vi phạm hành chính nhưng nó bao gồm cả việc áp dụng các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả, cũng như
toàn bộ các biện pháp tiến hành trong thủ tục xử lý. (Nguyễn Cửu Việt, tlđd số 8,
tr.393).

37 Hành vi vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là
những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách

46
xử phạt vi phạm hành chính về quyền của trẻ em nói chung và quyền được chăm
sóc sức khỏe nói riêng được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền trong các
cơ quan quản lý nhà nước về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em bao gồm
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp,
Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, cơ quan Thuế,
Quản lý thị trường và Thanh tra chuyên ngành khác.

Theo Điều 8 Nghị định 91/2011/NĐ- CP thì hành vi cản trở, không khám
bệnh chữa bệnh cho trẻ em có thể bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền
và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả 38. Quy định này nhằm xử lý các
hành vi vi phạm

cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính.(khoản 1 Điều 2 Nghị định 91/2011/NĐ- CP, ttđd)

38 Điều 8. Hành vi cản trở, không khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với
người đang chăm sóc, nuôi dưỡng, trông nom, dạy học cho trẻ em phát hiện ra
trẻ em bị bệnh hoặc có dấu hiệu bị bệnh mà không thông báo kịp thời cho gia
đình hoặc không đưa ngay trẻ em đến khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế
gần nhất dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với trẻ em.

2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau đây:
a)Từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em theo quy định hoặc trong trường
hợp cấp cứu;

b)Thu tiền khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi trái với quy định của
pháp luật;

c) Không sử dụng trang thiết bị, phương tiện khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em
trong khi có điều kiện và được phép sử dụng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối
với trẻ em.

3. Hình thức xử phạt bổ sung:

Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề từ ba tháng đến sáu tháng
đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này.

4. Biện pháp khắc phục hậu quả:

47
quyền được tiếp cận, được chăm sóc sức khỏe của trẻ em một cách nhanh chóng
và hiệu quả vì trẻ em là một chủ thể có sự phát triển về thể chất và tinh thần chưa
hoàn thiện.

2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về quyền đƣợc chăm sóc
sức khỏe của trẻ em tại Việt Nam

Xây dựng một hệ thống pháp luật có khả năng đảm bảo cho quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em là một cố gắng của các cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, quyền đặc thù này của trẻ em nếu dừng lại ở việc ghi nhận trong các văn
bản pháp luật thì sẽ chỉ là quyền pháp lý, không phải là quyền thực tế. Vì thế mà
xây dựng pháp luật không là việc quan trọng nhưng quá trình triển khai, thực thi
lại càng là một việc khó. Với nền tảng pháp lý khá vững chắc đã xây dựng, việc
đảm bảo qcho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em đã đạt được những
thành tựu nhất định.

Chăm lo cho sức khỏe của trẻ em trước hết được chú trọng ở việc chăm
sóc sức khỏe ban đầu của trẻ. Trong đó, Đảng, Nhà nước và các cơ quan y tế hết
sức lưu ý về việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ sơ sinh. Việc triển khai các quy định
pháp luật và các chương trình quốc gia chú trọng vào một số lĩnh vực cụ thể. Đó
là giảm tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ và thực
hiện viêc tiêm chủng mở rộng cho trẻ em.
Quá trình thực hiện các quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức
khỏe của trẻ em đã đạt được thành tựu khả quan, cụ thể là trong việc giảm tỷ lệ
tử vong trẻ

a) Buộc cá nhân, tổ chức chịu mọi chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em do
thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này;

b) Buộc cá nhân, tổ chức trả lại số tiền do thực hiện hành vi quy định tại điểm b
khoản 2 Điều này.

48
sơ sinh, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ và chế độ chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ mang
thai được tăng cường trong giai đoạn 2001- 2010.

Đơn vị tính: %

Mục
tiêu
giai đoạn 2001- Mức thực Tỷ lệ
STT Các mục tiêu
2010 hiện 2010 %

2000 2005 2010

DINH DƢỠNG, SỨC KHỎE

1 Tử vong:

* Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi


trên 1.000 trẻ sinh ra 36,7 30 <25 <16 Vượt
sống

* Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 5 tuổi


trên 1.000 trẻ sinh ra 42 36 <32 <25,5 Vượt
sống

2 Tỷ lệ tử vong mẹ trên 100.000 100 80 <70 70 Đạt


trẻ sinh ra sống
3 Dinh dƣỡng

* Tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi


3.1 33,1 25 <20 18,9 Vượt
(cân nặng/tuổi)

* Tỷ lệ SDD trẻ em (chiều


29,6 31,9 31,9 Đạt
cao/tuổi)

Tỷ lệ phụ nữ được chăm sóc khi


3.2
mang thai

* Giảm tỷ lệ phụ nữ ở lứa tuổi


sinh đẻ thiếu năng lượng trường 30 25 25 Đạt
diễn

* Tiêm phòng uốn ván cho phụ


nữ Vượt
90 >90 93,7
có thai

* Giảm tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ


<25 <20 < 20 Vượt
khi mang thai

Bảng 1: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu về sức khỏe, dinh dƣỡng giai
đoạn
2001-2010

49
(Nguồn: Bộ y tế)

Qua mười năm thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ em thì trẻ em
đã thật sự được đảm bảo quyền không chỉ bằng sự ghi nhận mà là sự đảm bảo
thực tế. Việc giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh và trẻ em dưới năm tuổi tử vong là điều kiện
cơ bản và quan trọng để có thể tiến hành các biện pháp, chương trình chăm sóc
sức khỏe ban đầu khác. Bên cạnh đó, các cơ quan và chủ thế có liên quan cũng
rất quan tâm đến việc đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ. Nói cách khác, một trong
những mục tiêu quan trọng của ngành y tế và cả xã hội là hướng đến việc chăm
sóc sức khỏe dinh dưỡng của trẻ. Khoa học đã cho thấy việc suy dinh dưỡng ở
trẻ nhỏ làm cho trẻ không có sự phát triển toàn diện và hoàn thiện về mặt thể
chất và tinh thần cũng như ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe trong tương lai
của trẻ. Quá trình triển khai thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
cũng chính là quá trình phấn đấu để làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em. Các
quy định pháp luật và các chiến lược, đề án quốc gia đã đảm bảo rằng trẻ em
luôn đảm bảo về sức khỏe dinh dưỡng tốt hơn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi
(chiều cao/ tuổi) của trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể. Đồng thời, tỷ lệ suy
dinh dưỡng thể thiếu cân (cân nặng/ tuổi) cũng đã giảm đáng kể, từ 34,8% năm
2001 xuống còn 31,9% năm 2009. Sự suy giảm này không quá lớn, thậm chí tỷ
lệ suy dinh dưỡng thể thiếu cân năm 2009 còn cao hơn năm 2004, 2005. Như
vậy, Nhà nước đã có sự quan tâm nhưng suy dinh dưỡng thể thấp còi vẫn thật sự
là một thách thức trong quá trình thực hiện chính sách làm giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ. Trong 9 năm, tỷ lệ này đã giảm từ 31,9% năm 2001 xuống còn 18,
9% năm 2009. Đối với tỷ lệ suy dinh dưỡng thể coi cọc thì tỷ lệ này đã giảm
đáng kể. Đây là sự tiến bộ thể hiện tính đúng đắn của chính sách chăm sóc sức
khỏe của trẻ em của Nhà nước.
50
200
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 9
Suy dinh dƣỡng
thể 31.9 30.1 28.4 26.6 25.2 23.4 21.2 19.9 18.9
thiếu cân
Suy dinh dƣỡng
thể 34.8 33.0 32.0 30.7 29.6 35.2 34.9 32.6 31.9
thấp còi
Suy dinh dƣỡng
thể 9.0 7.9 7.2 7.7 6 .9 7.0 6.9 7.0 6.9
còi cọc
Bảng 2: Xu hƣớng giảm suy dinh dƣỡng trẻ em dƣới 5 tuổi năm 2001 –
200939
(Nguồn: Hệ thống giám sát dinh dưỡng toàn quốc. Tổng cục Thống kê

Viện Dinh dưỡng)

Trong quá trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ em thì việc thực hiện
tiêm chủng thật sự rất quan trọng. Trong thời gian qua, việc triển khai các quy
định pháp luật cũng như thực hiện các chương trình quốc gia về tiêm chủng đã
mang lại những hiệu quả thật sự. Có thể nói việc thực hiện tốt chương trình tiêm
chủng đã làm giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em tử vong do dịch bệnh cũng như ngăn
ngừa tốt các dịch bệnh phổ biến và nguy hiểm. Đây là một hoạt động hoàn toàn
phù hợp với xu thế của thế giới. Đó là ngăn ngừa bệnh tật bằng các loại vacxin
qua việc tiêm chủng, đặc biệt là đối với trẻ em vì trẻ em còn rất non nớt và yếu
ớt về mặt thể chất. Hiện nay, UNICEF đã đánh giá: “Việt Nam là điểm sáng về
tiêm chủng mở rộng”. Đó là kết quả của một quá trình hoạt động tích cực, nỗ lực
lớn của Nhà nước và cả xã hội. Chương trình tiêm chủng mở rộng đã phòng
chống 6 loại bệnh cơ bản: lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván, sởi, bại liệt. Ngoài ra
những vùng có nguy cơ cao thì vacxin phòng viêm não Nhật Bản, tả và thương
hàn cũng đã được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng. Hiện nay, theo

39 http://viendinhduong.vn/FileUpload/Documents/So%20lieu%20DD
%202000-2009.pdf

51
báo cáo thì Việt Nam đã thanh toán được bệnh đậu mùa, bại liệt, loại trừ bệnh
uốn ván sơ sinh và tiến đến loại trừ bệnh sởi vào năm 201240.

Cùng với việc chăm sóc trẻ sơ sinh thì việc chăm sóc sức khỏe ban đầu còn
được chú trọng đến việc chăm sóc phụ nữ mang thai. Thực tiễn việc chăm sóc
cho phụ nữ mang thai là rất quan trọng đảm bảo cho sức khỏe của cả bà mẹ và
trẻ em. Trẻ em khi còn trong bụng mẹ nếu được thực hiện tiêm ngừa đầy đủ,
chăm sóc toàn diện thì khi sinh ra sẽ được bảo vệ khỏi một số bệnh tật và việc
chăm sóc trong những năm tháng đầu đời được thuận lợi và hiệu quả hơn. Chiến
lược chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em trong 10 năm đã đánh dấu sự chuyển
biến trong nhận thức của toàn xã hội. Tỷ lệ phụ nữ tiếp cận với những chính sách
chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng, sự quan tâm đối với sức khỏe sinh sản cũng
được chú trọng.

Trong quá trình mang thai và sinh con, phụ nữ được chăm sóc tốt nhất cho
thiên chức làm mẹ. Do đó tỷ lệ tử vong ở bà mẹ sau khi sinh con đã giảm đáng
kể. Số lần khám thai trung bình của phụ nữ có thai đã tăng từ 1,9 vào năm 1999
lên 2,5 lần vào năm 2003; tỷ lệ phụ nữ có thai được tiêm phòng uốn ván lớn hơn
tăng từ 85,4% lên 91% vào năm 2003. Tỷ lệ phụ nữ sinh con được cán bộ y tế
chăm sóc hiện đã đạt khá cao trên 90%, thậm chí ở khu vực thành thị, tỷ lệ này
lên đến 98%41.

Việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ không đồng đều giữa các khu
vực, các vùng miền, giữa nông thôn và thành thị. Tỷ lệ phụ nữ nông thôn không
được chăm sóc sức khỏe sinh sản gấp 3 lần so với phụ nữ ở thành thị, cho nên họ
là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe như khám thai, chăm sóc sức khỏe khi sinh con… đặc biệt là các phụ nữ
sinh nhiều con. Phụ nữ một số dân tộc thiểu số còn có thể trở thành nạn nhân của
các hủ tục lạc hậu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe sinh sản của họ, thậm
chí có thể dẫn đến cái chết trong quá trình

40 Thành quả của chương trình tiêm chủng mở rộng


(http://www.nihe.org.vn/new-vn/chuong-trinh-tiem-chung-mo-rong-quoc-gia/
51/Thanh-qua-dat-duoc-cua-Chuong-trinh-Tiem-chung-mo-rong.vhtm)

41 Bộ Ngoại giao, (2009), Sách trắng “Thành tựu bảo vệ và phát triển
quyền con người”,
http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns050819141225
#vHBO3vHB5TcK

52
mang thai và làm mẹ. Bên cạnh đó phụ nữ mang thai có xu hướng bị nhiễm HIV
ngày càng tăng, trong chín tháng đầu năm 2009 đã phát hiện 453 phụ nữ mang
thai nhiễm HIV42.

Đối với trẻ em dưới 6 tuổi được hưởng chế độ khám bệnh, chữa bệnh miễn
phí bằng thẻ Bảo hiểm y tế, trong thời gian qua quyền này của trẻ em đã có
những thay đổi đáng kể. Các cơ sở y tế công lập đã hoàn toàn thực hiện chính
sách khám bệnh, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em. Số lượng trẻ em được cấp phát
thẻ Bảo hiểm y tế và được chăm sóc sức khỏe qua việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế
ngày càng tăng. Từ tháng 10/2009 khi chuyển từ việc cấp thẻ khám chữa bệnh
miễn phí sang cấp thẻ Bảo hiểm y tế thì cả nước có gần 10 triệu trẻ em được đảm
bảo quyền này.

Đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em còn lien quan đến vấn
đề bảo đảm điều kiện về nước sạch và vệ sinh môi trường, nhất là môi trường ở
nông thôn. Một trong những những quyền cơ bản của con người và đặc biệt là trẻ
em đó là sống trong một môi trường trong lành và được sử dụng nước sạch. Nhìn
chung với những nỗ lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tỷ lệ trẻ được
tiếp cận với nước sạch đã tăng đáng kể. Điều này cũng liên quan mật thiết đến
việc giảm tỷ lệ trẻ bị tử vong do tiêu chảy mà nguyên nhân chủ yếu là sử dụng
nước nhiễm bẩn.

Đơn vị tính:%

Mục tiêu
Mức
STT Các mục tiêu giai đoạn 2001- thực hiện Tỷ lệ
%
2010
2010

2000 2005 2010

NƢỚC SẠCH, VỆ SINH MÔI TRƢỜNG

1 Nƣớc sạch

* Tỷ lệ người dân nông thôn 37 80 85 83 Chưa

53
được sử dụng nước sạch (20-25 đạt
người/nguồn)

* Tỷ lệ người dân thành thị được


73 85 90 90 Đạt
sử dụng nước sạch

2 Vệ sinh môi trƣờng

* Tỷ lệ hộ gia đình ở nông thôn Chưa


32 50 70 63
được sử dụng thiết bị vệ sinh đạt

* Tỷ lệ hộ gia đình ở thành thị


70 90 90 Đạt
được sử dụng thiết bị vệ sinh

* Tỷ lệ trường học có nước sạch Chưa


66 85 100 90
và thiết bị vệ sinh Đạt

Bảng 3: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu về nƣớc sạch vệ sinh môi
trƣờng

(Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn)


Đối với trẻ em trên 6 tuổi: Trẻ trong độ tuổi này đi học tại các cấp thì
được đảm bảo sức khỏe thông qua chương trình y tế học đường. Ở hầu hết các
trường trên cả nước đều có cán bộ chăm sóc y tế, đảm bảo sự can thiệp và chăm
sóc cũng như là tư vấn về sức khỏe một cách hiệu quả nhất. Đây là bước đầu tiên
nhưng rất quan trọng trong quá trình chăm sóc sức khỏe cho trẻ em. Điều quan
trọng là việc học tập, sinh hoạt của trẻ em phải được thực hiện trong môi trường
trong lành. Qua 5 năm thực hiện Chỉ thị số 23/2006/CT- TTg, số lượng cán bộ
làm công tác y tế trường học đã tăng lên. Số cán bộ y tế học đường năm 2011
tăng hơn 22,19% so với năm 2006. Tỷ lệ cán bộ y tế chuyên trách tại các trường
học ở tất cả các cấp học từ 33,9% năm 2006 tăng lên 54,5% vào năm 2011, trong
đó các trường mầm non và phổ thông tăng từ 17,38% năm 2006 lên 36,72% năm
2011. Một kết quả đáng khích lệ là trong khi tỷ lệ cán bộ chuyên trách về y tế
trường học năm 2011 tăng gần gấp đôi so với năm 2006, thì tỷ lệ cán bộ

54
kiêm về y tế trường học năm 2011 là 45,5% giảm rõ rệt so với tỷ lệ 66,1% của
năm 200643.

Tuy nhiên, việc chăm sóc y tế học đường vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Ngoài
ra, trong giai đoạn vị thành niên, trẻ em cần thiết phải được chăm sóc sức khỏe
đặc biệt là sức khỏe sinh sản. Trên thực tế, một số trường học trong cả nước đã
đưa chương trình môn học giáo dục giới tính vào để đảm bảo trẻ có những kiến
thức cơ bản nền tảng cho việc chăm sóc sức khỏe và bảo vệ bản thân. Tuy nhiên,
số lượng các trường thực hiện việc giảng dạy cũng như thật sự quan tâm đến vấn
đề này không nhiều hay có sự lúng túng nhất định vì sức khỏe sinh sản vẫn bị
xem là lĩnh vực khá nhạy cảm cho cả người dạy và người học.

Đối với trẻ em là học sinh tại các cấp học trong cả nước thì quyền được
chăm sóc sức khỏe còn được đảm bảo thông qua việc tham gia bảo hiểm y tế.
Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm học 2011 – 2012 là năm học thứ 3 triển
khai bảo hiểm y tế bắt buộc với học sinh, sinh viên thay vì tự nguyện như trước
đây. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế năm học 2010 – 2011 đạt 95% với khoảng hơn
10 triệu trong tổng số gần 11 triệu học sinh, sinh viên. So với tỉ lệ chung của cả
nước, tỉ lệ học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế ở hầu hết các địa phương
khu vực ĐBSCL còn thấp. Năm học 2010, tỉ lệ này

ở Kiên Giang trên 50%, Đồng Tháp – 50,89%...; trong đó khu vực nông thôn đạt
tỉ lệ thấp hơn khu vực đô thị. 44. Thế nhưng trên cả nước việc triển khai BHYT
lại còn nhiều vấn đề khó khăn nan giải vì mức đóng Bảo hiểm y tế tăng theo
lương tối thiểu của Nhà nước làm cho khoản phí này trở thành gánh nặng cho
bản thân học sinh sinh
viên và gia đình. Đồng thời việc quy định mức đóng Bảo hiểm không có sự phân
biệt giữa các khu vực, các vùng miền nên ở những nơi đời sống còn khó khắn,
khoản phí này là một nỗi lo cho các gia đình khi cho con em đi học.

43 Báo cáo Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 23/2006/CT- TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác y tế trong các trường học.
(http://www.t5g.org.vn/?u=dt&id=3217)

44 http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Hoc-sinh-sinh-vien-tham-gia-bao-hiem-y-
te/56847

55
2.3. Nhận xét, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về quyền đƣợc
chăm

sóc sức khỏe của trẻ em

2.3.1. Đánh giá chung về thực trạng quy định pháp luật về quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em

Có thể thấy, hệ thống pháp luật nước ta đã tạo ra hành lang pháp lý hữu
hiệu cho việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em và thể chế hóa
được cam kết quốc tế. Sự ra đời của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
2004 là một bước đánh dấu cho sự phát triển của hoạt động lập pháp liên quan
đến quyền của trẻ em và quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em nói riêng.
Pháp luật không dừng lại ở việc ghi nhận quyền mà còn hình thành cơ chế pháp
lý để đảm bảo thực hiện quyền. Tuy nhiên, hệ thống các quy định về quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em vẫn còn một số hạn chế nhất định.

Một là, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 vẫn chưa có sự
nhất quát trong một số quy định. Cụ thể tại khoản 1 Điều 3 quy định “Trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc
tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hoà nhập với gia
đình, cộng đồng”. Đây là một điều khoản định nghĩa, không liệt kê. Nhưng trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt lại được xác định một lần nữa tại Điều 40 “Trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em
nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất
độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại
tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật . Như vậy, ở đây điều
40 đã thực hiện việc liệt kê các chủ thể được xác định là trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt nhưng việc liệt kê này không đầy đủ. Vì một số đối tượng phù hợp với quy
định tại khoản 1 Điều 3 như trẻ em là nạn nhân của bạo lực, trẻ em của các gia
đình

56
nghèo, trẻ em bị buôn bán, trẻ em bị lạm dụng… nhưng không được xem là trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt theo Điều 40. Điều này sẽ dẫn đến việc pháp luật chưa
ghi nhận quyền cho các đối tượng phải được nhận quyền.

Hai là, luật quy định về chế độ khám bệnh chữa bệnh miễn phí cho trẻ em
dưới

6 tuổi và trẻ em bắt đầu đi học tiểu học thì được hưởng chế độ chăm sóc sức
khỏe y tế

học đường và chế độ bảo hiểm y tế có sự hỗ trợ một phần của ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên đối với trẻ không có điều kiện đi học, lại không thuộc nhóm các
đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thì pháp luật chưa có ghi nhận cụ thể nào về
quyền của trẻ.

Ba là, trẻ em được thực hiện chế độ chăm sóc sức khỏe đầu đời, trong đó
nhà nước rất chú trọng việc giảm tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở trẻ ơ sinh. Vì
thế mà Nhà nước rất khuyến khích việc các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ. Các cơ
quan y tế có rất nhiều khuyến cáo về lợi ích của việc nuôi còn hoàn toàn bằng
sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời. Thực chất điều này xuất phát từ những lợi ích của
sữa mẹ và không có sản phẩm nào thay thế được. Thế nhưng quy định của Luật
lại không thống nhất với quy định của pháp luật lao động. Bộ luật Lao động quy
định thời gian nghỉ thai sản là 4 tháng. Vì thế trẻ em sẽ không được đảm bảo lợi
ích, không được chăm sóc sức khỏe ban đầu một cách toàn diện.

Bốn là, việc cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi là một chủ
trương, quy định pháp luật đúng đắn, phù hợp xu thế phát triển của xã hội. Tuy
nhiên Luật Bảo hiểm y tế quy định trẻ em được khám bệnh, chữa bệnh miễn phí
khi có thẻ Bảo hiểm y tế. Ngược lại, nếu không có thẻ Bảo hiểm y tế thì trẻ em
sẽ không được hưởng quyền này.

Năm là, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 qui định các cơ sở
y tế công lập có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện chăm sóc sức khỏe
ban đầu của trẻ45. Qui định này giao cho các cơ sở y tế quyền giải thích và thực
hiện hoạt động

45 Xem khoản 2 Điều 27 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004

57
chăm sóc sức khỏe ban đầu là chưa hợp lý. Các cơ sở y tế công lập gồm các cơ
sở y tế thuộc Bộ Y Tế, các Bộ, cơ quan đơn vị ở địa phương 46. Do các cơ sở y tế
không cùng trực thuộc một cơ quan nào cụ thể nên sự thống nhất khi hướng dẫn
và thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ khó đảm bảo.

Sáu là, việc quy định về trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em theo Điều 27 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
2004 không làm rõ được cơ chế chịu trách nhiệm cụ thể của từng đối tượng trong
quá trình đảm bảo thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Đồng
thời, cơ chế giám sát cũng chưa được đề cập đến cụ thể, điều này cần có sự thay
đổi cho phù hợp. Như vậy, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ghi
nhận và đảm bảo các điều kiện thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ
em, nhưng luật chỉ dừng lại ở qui định nghĩa vụ một cách chung mà không chỉ ra
nghĩa vụ và trách nhiệm cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền. Công tác chăm
sóc và đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe cho trẻ em đòi hỏi sự phối hợp
thực hiện giữa các ngành, các cấp. Do đó, nếu không chỉ rõ được quyền và nghĩa
vụ cụ thể thì việc đảm bảo thực hiện quyền sẽ gặp nhiều khó khăn.

2.3.2. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện quy định pháp luật

Quá trình triển khai thực hiện các quy định pháp luật về quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em bước đầu đã đạt được một số thành quả khả quan. Trẻ
em đã được đảm bảo quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền
được chăm sóc sức khỏe của mình. Những thành tựu đạt được đó là động lực
mạnh mẽ cho việc tiếp tục duy trì những điểm tích cực và ngược lại tìm ra những
hạn chế còn đang tồn tại để có hướng khắc phục phù hợp.

46 Xem khoản 2 Điều 18 Nghị định 36/2005/NĐ-CP

58
Mặc dù tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm nhưng tỷ
lệ này vẫn còn khá cao và cho thấy việc chăm sóc sức khỏe ban đầu của trẻ em
chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh chiếm gần 60%
tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi và 40% tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi.
Có rất nhiều nguyên nhân để việc giảm tỷ lệ tử vong này không đạt như mong
đợi trong đó điều kiện sống của trẻ em, sự chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ trước
khi sinh chưa được đảm bảo.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn cao đặc biệt là suy dinh dưỡng ở thể
thấp còi. So với các nước láng giềng, trẻ em Việt Nam vẫn được đánh giá là
“thấp bé, nhẹ cân” hơn rất nhiều. Nước ta là một trong số 20 quốc gia có tỷ lệ
thấp còi cao nhất thế giới. Theo các báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) thì
chiều cao trung bình của trẻ em nữ tuổi 15 thấp hơn so với chuẩn thế giới là 9
cm, còn nam tuổi 15 thì trung bình thấp hơn so với chuẩn là 8 cm.

Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu của trẻ em còn bị hạn chế khi mà trẻ em
không được nuôi bằng sữa mẹ trong suốt 6 tháng đầu đời. Quy định của Bộ luật
Lao động chỉ cho phép phụ nữ nghỉ thai sản 4 tháng. Ngoài ra, việc xuất hiện
nhiều sản phẩm thay thế sữa mẹ đã làm thay đổi tư tưởng của người mẹ về việc
chăm sóc và nuôi con bằng sữa mẹ. Chính vì thế, mà tỷ lệ trẻ mắc bệnh do thiếu
sức đề kháng- những chất đề kháng có trong sữa mẹ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe của trẻ.

Về điều kiện vệ sinh và môi trường sống thì trên 30% hộ gia đình không
được thụ hưởng môi trường trong lành, được sử dụng nước sạch. Cho nên tỷ lệ
trẻ bị tiêu chảy do sử dụng nguồn nước bẩn và thực phẩm không đảm bảo điều
kiện vệ sinh vẫn cao và là một thách thức cho ngành y tế.
Trẻ chưa được chăm sóc sức khỏe đúng mực nên tỷ lệ tai nạn và thương
tích đối với trẻ vẫn tăng cao. Trẻ em chủ yếu bị các tai nạn liên quan đến chết
đuối, tai nạn giao thông, bỏng… Theo báo cáo của các địa phương trong 2 năm
2008- 2009 khoảng 126.000 trẻ em bị tai nạn thương tích và trong 6 tháng đầu
năm 2010 có khoảng 35000

59
trẻ em bị tai nạn thương tích. Hiện nay, mỗi ngày cả nước có hơn 20 trẻ em tử
vong do tai nạn thương tích, trong đó nhiều em bị thương tật, tổn thương về tâm
lý vĩnh viễn. Tai nạn thương tích trẻ em đang thực sự trở thành một gánh nặng
lớn của nhiều gia đình và cả cộng đồng 47.Một trong những nguyên nhân dẫn đến
thương tích là do môi trường sống của trẻ em luôn bị đe dọa, dễ dẫn đến tai nạn.
Trẻ em bị đặt vào một số nguy cơ cố hữu về môi trường, như: mạng lưới ao hồ,
sông suối dày đặc; đường sá xây dựng chất lượng kém, giao thông nguy hiểm,
thiếu những khu vui chơi an toàn; nguy cơ từ thuốc trừ sâu, ổ cắm điện hỏng,
khu vực nấu nướng thiếu an toàn trong nhà… Bên cạnh đó, do thiếu kiến thức về
các nguyên nhân và nguy cơ tai nạn thương tích trẻ em nên nhiều người, đặc biệt
là cha mẹ trẻ vẫn đang đặt sự an toàn của trẻ vào rủi ro một cách vô thức dẫn đến
xem thường những mối hiểm họa tiềm ẩn xung quanh môi trường sống.

Tỷ lệ trẻ em bị nhiễm HIV vẫn tăng cao. Khả năng lây truyền HIV từ mẹ
sang con tại Việt Nam là 25 – 35%; tỷ lệ nhiễm HIV ở bà mẹ mang thai là 0,35 –
0,5%, thậm chí có vùng tỷ lệ này lên đến 2%. Hiện mỗi năm ở nước ta có khoảng
6.000 bà mẹ mang thai nhiễm HIV, như vậy cũng sẽ có khoảng 2.000 trẻ bị
nhiễm HIV được sinh ra mỗi năm48.

Theo các quy định pháp luật, trẻ em khuyết tật có thể nhận được sự chăm
sóc y tế miễn phí nhưng trên thực tế nhận thức của gia đình về chăm sóc và bảo
vệ trẻ khuyết tật còn rất hạn chế. Rất nhiều gia đình không nhận thấy nhu cầu
cần được chăm sóc nhiều hơn cho trẻ khuyết tật hoặc không biết nên chăm sóc
trẻ khuyết tật như thế nào. Nguyên nhân là do các gia đình chưa được trang bị
những kiến thức cần thiết về trẻ khuyết tật, nhận thức của nhiều gia đình trẻ
khuyết tật còn hạn chế. Đồng thời, chúng ta
47 http://vov.vn/Home/Tai-nan-thuong-tich-tre-em-co-xu-huong-gia-tang/
20106/145783.vov

48 Hội nghị triển khai quy trình chăm sóc và điều trị dự phòng lây truyền
HIV từ mẹ sang con”

(http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-vn/75/43/7/7/21/25021/Default.aspx)

60
chưa có những biện pháp tuyên truyền vai trò, trách nhiệm của gia đình xã hội
đối với việc chăm sóc trẻ khuyết tật.

Bên cạnh đó, Việt nam thiếu một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện, vẫn
còn nhiều trẻ có hoàn cảnh đặc biệt chưa tiếp cận được chăm sóc sức khỏe, thiếu
những phương tiện cơ sở và thiết bị phục hồi chức năng đưa đến kết quả là rất ít
trẻ được chăm sóc sức khỏe chuyên biệt. Do đó, mức độ tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe và phục hồi phù hợp của trẻ có hoàn cảnh đặc biệt vẫn còn
thấp, và hiểu biết của các gia đình có trẻ tàn tật về các dịch vụ phục hồi chức
năng ở địa phương còn rất hạn chế. Khoảng 1/3 số gia đình có trẻ tàn tật trong
các cộng đồng dân cư chưa bao giờ tìm đến các dịch vụ điều trị cho trẻ. Tỷ lệ số
gia đình tìm tới các cơ sở điều trị cho trẻ em tàn tật
ở các vùng khác nhau ở nông thôn và thành thị dao động rất lớn, 90% gia đình có
trẻ

tàn tật ở đồng bằng sông Hồng tìm đến các dịch vụ phục hồi này trong khi con số
tương ứng là 29% ở vùng Tây Nguyên. Chỉ khoảng 1/5 số trẻ tàn tật được sử
dụng các thiết bị, bộ phận hỗ trợ phục hồi như chân tay giả, thiết bị chỉnh hình,
trợ thính, trợ thị và xe lăn. Chưa đến 10% trẻ em khuyết tật vận động và 2% trẻ
em khiếm thính được sử dụng các thiết bị, bộ phận hỗ trợ, phục hồi49.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt vốn dĩ đã phải gánh chịu nhiều thiệt thòi hơn
những trẻ em khác cùng trang lứa trong xã hội do tật bệnh, điều kiện hoàn cảnh
mang lại. Do vậy, các em rất cần sự quan tâm chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng
của gia đình, công đồng và cần thiết phải được hưởng sự chăm sóc sức khỏe phù
hợp.

Tuy là đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm y tế, song tỉ lệ học sinh, sinh
viên
ở ĐBSCL tham gia còn thấp. Theo cơ quan Bảo hiểm xã hội Đồng Tháp, tỉ lệ
tham gia thấp có nhiều nguyên nhân: Thu nhập của người dân còn thấp; đầu năm
học phụ huynh phải chi nhiều khoản cho con em đi học... Đáng chú ý là vẫn còn
một bộ phận không

49 Bộ LĐTB&XH và UNICEF, Khảo sát tình hình trẻ em khuyết tật tại
Việt nam 1998: Báo cáo cuối

cùng; Hà nội; Tháng 1 năm 2000; UNICEF và Bộ LĐTB&XH, 2004, Phân tích
tình hình trẻ em

khuyết tật tại Việt Nam.

61
nhỏ phụ huynh chưa thấy rõ lợi ích của việc học sinh, sinh viên (ảnh) tham gia
bảo hiểm y tế ...

Theo Vụ bảo hiểm y tế, hiện nay trong cả nước có khoảng 2 triệu trẻ em
dưới 6 tuổi chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Việc cấp thẻ bảo hiểm y tế còn
chậm. Một trong những nguyên nhân là do sự phối hợp công tác giữa Sở Lao
động thương binh và xã hội với cơ quan bảo hiểm xã hội còn chậm, chưa thống
nhất. Mặt khác người dân vẫn chưa ý thức đầy đủ về giá trị cũng như sự cần thiết
tham gia bảo hiểm y tế nên một số gia đình không đăng ký thẻ bảo hiểm y tế cho
con em của mình. Việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế phải đúng tuyến cũng phần
nào làm hạn chế tính tích cực của thẻ Bảo hiểm y tế. Việc chờ đợi để được khám
bệnh, chữa bệnh bằng thủ tục Bảo hiểm y tế thường làm cho các bậc cha mẹ nản
lòng vì số lượng người cùng tham gia khám chữa bênh thường rất đông. Một số
gia đình có tư tưởng muốn tiếp cận dịch vụ y tế kỹ thuật cao nên không sử dụng
thẻ Bảo hiểm y tế khi thực hiện việc khám bệnh, chửa bệnh cho trẻ em.

Trên thực tế, việc tiến hành xử phạt vi phạm hành chính là rất ít, mặc dù
hành vi

vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quyền này là rất phổ biến. Ví dụ như hành
vi

bạo hành đối với trẻ em, mặc dù có thể xảy ra mỗi ngày nhưng nó vẫn được xem
là vấn đề quan trọng cần phải giải quyết. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thường chỉ can thiệp khi hành vi bạo hành đó để lại hậu quả nghiêm trọng và lúc
bấy giờ thông thường hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm và bị xử lý
hình sự. Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có số liệu thống kê chính thức nào về
số vi phạm hành chính và việc xử lý các vi phạm hành chính trong việc đảm bào
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Hoặc trong lĩnh vực y tế, cơ chế xử
phạt vi phạm hành chính chưa đạt được hiệu quả vì thực tế việc lựa chọn giới
tính thai nhi vẫn đang diễn ra và nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng
giới tính tự nhiên, đến quyền được chăm sóc sức khỏ của trẻ em nhưng trên thực
tế vẫn chưa thể áp dụng triệt để các biện pháp chế tài.

62
2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng trên

Những quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
còn rất tản mạn, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Cho nên,
mặc dù các quy định đa dạng và khá toàn diện nhưng vẫn có những khó khăn
trong quá trình tìm hiểu. Bởi vì nó bao gồm nhiều nội dung khác nhau và đòi hỏi
phải có các cơ chế pháp lý phù hợp để đảm bảo thực hiện. Một số nội dung chỉ
mới dừng lại ở quy định chung chung, chưa đi vào chi tiết trẻ em sẽ được thụ
hưởng những quyền cụ thể nào. Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em chủ
yếu được triển khai thực hiện bằng các văn bản dưới luật như thông tư, nghị
định, cho nên sau khi ban hành vẫn còn tình trạng các cơ quan nhà nước phải chờ
hướng dẫn thi hành.

Một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng là sự thiếu đồng
bộ trong cơ chế pháp lý đảm bảo thực hiện. Nói cách khác quá trình triển khai
thực hiện chưa hiệu quả vì sự phối hợp giữa các chủ thể liên quan chưa được
thực hiện trên một tinh thần thống nhất. Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đảm
bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em chưa được bồi dưỡng đầy đủ
kiến thức và nghiệp vụ nên còn những hạn chế trong qua trình công tác, đặc biệt
là trong công tác cấp thẻ Bảo hiểm y tế. Đội ngũ cán bộ y tế tại các trường học
vẫn chưa thể đáp ứng hoàn toàn yêu cầu của

y tế học đường.

Nền kinh tế còn nhiều khó khăn, nước ta vẫn có một sự chênh lệch rất lớn
về điều kiện kinh tế giữa các vùng, miền nên việc đảm bảo quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em chưa thật sự công bằng, hiệu quả. Trình độ dân trí ở nước ta
còn thấp nên việc nhận thức về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em chưa
thật sự đúng đắn, chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc thực hiện các biện
pháp mà pháp luật quy định. Ví dụ như người dân vẫn không quan tâm đến việc
tham gia Bảo hiểm y tế, đặc biệt là đối với những vùng kinh tế khó khăn, đồng
bào dân tộc thiểu số.

63
2.4. Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quyền đƣợc
chăm sóc

sức khỏe của trẻ em

Hoàn thiện các quy định pháp luật để bảo đảm cho quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em một cách hữu hiệu là một yêu cầu cấp bách trong toàn bộ
chủ trương chính sách của Nhà nước, đáp ứng sự thay đổi của các quan hệ xã hội
và cam kết trong các điều ước quốc tế. Song vấn đề này cũng cần phải có những
điều kiện nhất định thì mới thực hiện hiệu quả được, nói cách khác cần phải có
một lộ trình nhất định để hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em và để các quyền này đi từ các quy định pháp luật vào
thực tiễn. Quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em phải thể hiện ở một số nội dung cụ thể sau:

- Việc hoàn thiện pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
phải thật sự là một chủ trương, chính sách xuyên suốt và nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta thể hiện mục tiêu quan tâm và chăm lo cho thế hệ
tương lai của đất nước.

- Việc hoàn thiện pháp luật vê quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
phải

được hoàn thiện theo hướng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
hiện hành cho phù hợp với yêu cầu và tình hình thực tiễn. Thực chất
đây là quá trình điều chỉnh sự ghi nhận quyền phù hợp với các cam kết
quốc tế và tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ về quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Pháp luật cũng xây dựng một cơ
chế pháp lý hữu hiệu cho việc đảm bảo quyền trên thực tế thông qua
việc ghi nhận về vai trò trách nhiệm của các chủ thể có liên quan.

- Việc hoàn thiện pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
là quá trình tiếp tục thể chế hóa các cam kết trong các điều ước quốc tế
mà Việt

Nam là thành viên, đặc biệt là CRC.

Từ phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật, qua nghiên cứu về thực
trạng pháp luật bao gồm thực trạng quy định và thực trạng thực hiện quy định
pháp luật về
64
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em; đánh giá, tìm hiểu về các nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế còn tồn tại thực tế, đề tài đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.

Thứ nhất, tăng cường hoạt động rà soát các văn bản pháp luật về quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp
luật, phù hợp với mục tiêu bảo vệ cho quyền trẻ em nói chung.

Quá trình hoàn thiện pháp luật bắt đầu từ việc hoàn thiện văn bản pháp
luật mang tính trọng tâm là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Cụ
thể, cần phải sửa đổi, bổ sung Điều 3 và Điều 40 để đảm bảo tính thống nhất và
đồng bộ trong cùng một văn bản pháp luật. Ngoài ra, cần thiết bổ sung việc ghi
nhận quyền cho một số trẻ em có thể được xem là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
như trẻ em là nạn nhân của bạo hành, trẻ bị lạm dụng, trẻ bị tai nạn thương
tích… để có thể đảm bảo việc thực hiện quyền của trẻ em hiệu quả hơn.

Các quy định pháp luật về việc bảo vệ trẻ khỏi các tai nạn thương tật cũng
cần thiết được rà soát, chỉnh sửa và bổ sung để tăng cường tính hiệu quả của
pháp luật đồng thời tăng cường ý thức pháp luật của mỗi người dân trong quá
trình bảo vệ trẻ. Bên cạnh đó cần bổ sung và hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em trên 6 tuổi nhưng không có điều kiện
đến trường vì hoàn cảnh gia đình hoặc vì lý do gì khác. Việc bổ sung nhằm đảm
bảo nguyên tắc “trẻ em được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe”.

Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em và các quy định pháp luật có liên
quan phải được sửa đổi để đảm bảo sự thống nhất về mặt nội dung. Trong đó,
pháp luật lao động cần thiết phải được sửa đổi theo hướng tăng thời gian nghỉ
thai sản cho phụ nữ lên 6 tháng để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe ban
đầu của trẻ em. Trẻ em cần thiết phải được nuôi bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
đời theo khuyến cáo của Bộ Y tế nhằm phòng chống bệnh tật và tăng cường sức
đề kháng cho trẻ nhỏ.

Việc xây dựng và triển khai pháp luật liên quan đến quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em cần phải được tiến hành một cách nhanh chóng trên cơ sở
các chính
65
sách của Đảng cộng sản Việt Nam, tránh tình trạng luật đã ban hành nhưng
không thực hiện được vì chưa có văn bản hướng dẫn hoặc văn bản hướng dẫn thi
hành chậm ban hành. Mặt khác, trong quá trình ban hành pháp luật cần hạn chế
bớt việc ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành, vì đây không chỉ
là biểu hiện của luật khung, luật ống- một trong những yêu cầu cần đổi mới của
nền lập pháp nước nhà.

Thứ hai, phải hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực hiện quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em mà trước hết phải kiện toàn hệ thống tổ chức, cán bộ, cơ
quan quản lý nhà nước về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em từ trung
ương đến địa phương.

Việc hoàn thiện các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đảm bảo việc thực
hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em là yếu tố rất quan trọng để cơ chế
bảo đảm được vận hành một cách thông suốt. Trong đó Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội phải phát huy vai trò của một cơ quan quản lý nhà nước, tham
mưu cho Chính phủ ban hành ra các quy định phù hợp. Cơ quan chuyên môn của
Bộ là Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em phải được kiện toàn và phát huy vai trò của
mình.

Ở địa phương, cần thiết phải có sự thành lập Phòng Bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em thuộc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội ở tất cả các địa
phương chứ không lồng ghép trong chức năng nhiệm vụ các cơ quan chuyên
môn khác như hiện nay. Các Phòng Lao động thương binh và Xã hội cần thiết
phải có bộ phận chuyên trách bảo đảm cho quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ em. Bởi lẽ để có thể đảm bảo cho lĩnh vực quyền đặc thù này thì vai trò của
chính quyền cơ sở, cơ quan nhà nước ở địa phương là vô cùng quan trọng.
Song song đó, cần phải tổ chức đào tạo, đào tạo lại, bổ sung kiến thức về
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em cho đội ngũ cán bộ quản lý lĩnh vực,
cán bộ chuyên trách, các cộng tác viên chuyên nghiệp. Cụ thể là cần trang bị
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở để có thê đáp ứng
yêu cầu chăm sóc sức khỏe của trẻ em được hiệu quả, đồng thời giảm tải tình
trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên. Các cán bộ phụ trách việc cấp phát thẻ
Bảo hiểm y tế cần được trang bị kiến thức cũng như phối hợp hiệu quả với các
chủ thể có liên quan để việc ấp phát diễn ra nhong chóng, chính xác. Đội ngũ cán
bộ làm công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở
66
trẻ em cũng cần thiết được tập huấn nâng cao kỹ năng. Các cán bộ phụ trách y tế
trong các trường học không chỉ cần thiết được nâng cao trình độ nghiệp vụ mà
cần phải được trang bị kiến thức và kỹ năng sư phạm để có thể giữ vai trò tư vấn
và giáo dục về sức khỏe cho học sinh, nhất là sức khỏe sinh sản.

Cùng với việc hoàn thiện quy định về bồi dưỡng nâng cao trình độ thì các
chính sách đãi ngộ, các chế độ phụ cấp cho những cán bộ làm công tác chăm lo
cho sức khỏe của trẻ em cũng cần thiết phải được chú trọng và hoàn thiện. Có
như vậy thì họ mới có gắn bó lâu dài và giữ được long nhiệt huyết trong việc
đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em được thực thi hiệu quả.

Thứ ba, trong quá trình thực hiện thẩm quyền và trách nhiệm của mình,
các cơ quan quản lý nhà nước về quyền được chăm sóc của trẻ em cần tăng
cường hợp tác, phối hợp đồng bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực
phụ trách.

Việc phối hợp, liên kết trong công tác giữa các cơ quan chịu trách nhiệm
đảm bảo cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em là một yêu cầu cần phải
được thực hiện để hạn chế những vướng mắc phát sinh từ trách nhiệm của các cơ
quan này, để cơ chế pháp lý vận hành một cách nhịp nhàng, hiệu quả. Do đó cần
phải có sự liên kết giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với nhau, giữa các cơ
quan ở trung ương với địa phương một cách nhuần nhuyễn, hạn chế những cản
trở của quá trình đưa các quy định về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
từ văn bản vào đời sống. Đặc biệt là tăng cường sự phối hợp giữa Sở Lao động
Thương binh và Xã hội và cơ quan Bảo hiểm xã hội trong quá trình cấp phát thẻ
Bảo hiểm y tế nhằm đảm bảo cho quyền lợi cho tất cả trẻ em trong cả nước.
Quá trình phối hợp công tác không chỉ dừng lại giữa các cơ quan nhà nước
mà cần có sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội, các quỹ
bảo trợ xã hội… để tạo được một điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ em được thực
hiện quyền được chăm sóc sức khỏe trên thực tế. Nói cách khác, cần có sự phối
hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan chính phủ, các tổ chức, đoàn thể, gia đình
và nhà trường trong việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của mọi
người dân để thay đổi hành vi ứng xử trong công tác bảo vệ trẻ em.
67
Thứ tư, các ban ngành và cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần đổi mới
hoạt động và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong việc
thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.

Công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên, riêng biệt ở
các lĩnh vực cụ thể và ở các cơ quan nhà nước có trách nhiệm đảm bảo cho
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Bên cạnh đó phải hoàn thiện pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
và trình tự thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Pháp luật hành chính phải thật sự là
sự phòng ngừa trước một bước những vi phạm hình sự đối với việc thụ hưởng
quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.

Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.

Khi đã có hệ thống pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
thì một yêu cầu đặt ra cần phải được thực hiện một cách nhanh chóng là phải phổ
biến rộng rãi các văn bản đó trong cả nước, đặc biệt là tới những nhà hoạch định
chính sách

ở tất cả các lĩnh vực, các tổ chức quần chúng, xã hội dân sự và báo chí. Tăng
cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong lĩnh vực này phải xuất
phát từ cơ sở

bằng việc xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên. Việc tuyên truyền phổ biến phải
hướng đến mục tiêu người dân hiểu và tuân thủ quy định, đặc biệt là những vùng
dân tộc thiểu số, vùng sau vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
Ngoài các giải pháp trên thì việc hoàn thiện pháp luật về quyền được chăm
sóc sức khỏe của trẻ em có thể kết hợp các giải pháp khác như tăng cường hợp
tác với các cơ sở bảo trợ trẻ em, thực hiện chương trình nước sạch, khuyến khích
việc cung ứng dịch vụ y tế của các cơ sở y tế ngoài công lập…và đặc biệt là triển
khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình hành
động quốc gia vì sức khỏe của trẻ em.

68
KẾT LUẬN

Với tư cách là một chủ thể đặc biệt thuộc nhóm các đối tượng dễ bị tổn
thương nhất trong xã hội nên trẻ em luôn phải được đảm bảo quyền. Mặc dù các
quy định pháp luật luôn chú trọng đến việc bảo đảm quyền cho trẻ em trên mọi
lĩnh vực nhưng trẻ em vẫn luôn phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những
thiệt thòi nhất là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

Sức khỏe là vốn quý của con người. Điều này lại cảng được khẳng định một
cách mạnh mẽ hơn khi đối tượng đó là trẻ em. Hơn ai hết, trẻ em là người có
điều kiện về thể chất và tinh thần chưa phát triển hoàn thiện nên việc ghi nhận và
bảo đảm cho quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em càng trở nên cấp thiết.
Đây cũng chính là một chủ trương chính sách nhất quán và xuyên suốt của Đảng
và Nhà nước ta trong suốt thời gian qua.

Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước về quyền trẻ em
1989 vào năm, là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này. Nhà nước
đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em và điều này càng được khẳng
định thông qua hệ thống văn bản được ban hành nhằm thể chế hóa cam kết quốc
tế và ghi nhận quyền cho trẻ em phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Hàng loạt các
văn bản pháp luật về quyền được hăm sóc sức khỏe của trẻ em đã được ban
hành, cũng chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc Hiến định trong Hiến pháp 1992
(sửa đồi bổ sung năm 2001). Trong đó văn bản pháp lý giữ vị trí tung tâm là Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã có hàng loạt các văn bản pháp lý khác cụ thể hóa từng nội dung
cụ thể của quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em.
Các quy định này đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối hoàn thiện cho việc
đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em, không chỉ dừng lại ở việc
ghi nhận quyền mà thông qua việc đảm bảo bằng cơ chế pháp lý cụ thể. Trẻ em
được đảm bảo trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, chăm sóc chế độ dinh
dưỡng, tham gia Bảo

69
hiểm y tế, được khám bệnh, chữa bệnh miễn phí… Mặc dù vậy, các văn bản
pháp luật này cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định cần thiết phải được sửa đổi,
bổ sung.

Quá trình thực hiện pháp luật về đảm bảo quyền chăm sóc sức khỏe của trẻ
em đã đạt được một số thành tựu nhất định. Đó là việc trẻ em dưới 6 tuổi đã
được cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế để khám bệnh, chữa bệnh miễn phí; tỷ lệ suy
dinh dưỡng đã giảm; việc tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách hiệu
quả. Tuy nhiên thực tiễn đó cũng tiềm ẩn những hạn chế nhất định như trình tự
cấp thẻ Bảo hiểm y tế chưa thống nhất, nhiều trẻ vẫn chưa được cấp phát thẻ Bảo
hiểm y tế; tỷ lệ suy dinh dưỡng có giảm nhưng vẫn còn cao…

Thực tiễn đó đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp
luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Từ các quy định pháp luật và
thực tiễn thực hiện, đề tài đưa ra một số giải pháp sau:

- Thứ nhất, tăng cường hoạt động rà soát các văn bản pháp luật về quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung,
ban hành mới quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ
thống pháp luật, phù hợp với mục tiêu bảo vệ cho quyền trẻ em nói chung

- Thứ hai, phải hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực hiện quyền được chăm sóc
sức khỏe của trẻ em mà trước hết phải kiện toàn hệ thống tổ chức, cán bộ,
cơ quan quản lý nhà nước về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em từ
trung ương đến địa phương.

- Thứ ba, trong quá trình thực hiện thẩm quyền và trách nhiệm của mình,
các cơ quan quản lý nhà nước về quyền được chăm sóc của trẻ em cần
tăng cường hợp tác, phối hợp đồng bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
và lĩnh vực phụ trách.

- Thứ tư, các ban ngành và cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần đổi mới
hoạt động và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong
việc thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ em.

70
- Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền
được chăm sóc sức khỏe của trẻ em

Việc hoàn thiện quy định pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của
trẻ em là một quá trình lâu dài, cần phải tuân theo một lộ trình nhất định. Tuy
vậy, việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực quyền này đòi hỏi phải được triển
khai một cách đồng bộ, chính xác. Có như vậy thì việc đảm bảo cho quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em thật sự trở thành quyền pháp lý và cũng là quyền
thực tiễn.
71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

2. Công ước về quyền trẻ em 1989.

3. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966

4. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội 1966.

5. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948 (UDHR)

6. Bộ luật Lao động

7. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

8. Luật Bảo hiểm y tế 2008

9. Luật Bình đẳng giới 2006

10. Luật Hôn nhân và gia đình 2000

11. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007

12. Luật Phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (HIV/AIDS) 2006
13. Luật Người khuyết tật 2010

14. Công văn số 3940/LĐTBXH-BVCSTE ngày 19/10/2009 của Bộ Lao


động

Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện công tác khám bệnh, chữa bệnh cho
trẻ em dưới 6 tuổi

15. Công văn 1084/BHXH-CSYT về phối hợp chỉ đạo thực hiện bảo hiểm y tế
cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi do Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành

16. Chỉ thị 23/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công
tác y tế trong các trường học

17. Nghị định 36/2005/NĐ- CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết

hướng dẫn thi hành một số điều Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em

18. Nghị định 71/2011/NĐ- CP ngày 22/8/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004

72
19. Nghị định 62/2009/NĐ- CP ngày 27/7/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế 2008

20. Quyết định 589/QĐ-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
về việc phê duyệt Kế hoạch phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn
2009-2010 của

ngành Lao động - Thương binh và Xã hội

21. Quyết định 267/2011/QĐ-Ttg về phê duyệt Chương trình hành động quốc
gia vì trẻ em giai đoạn 2011-2020

22. Quyết định số 267/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em
giai

đoạn 2011-2015.

23. Quyết định 168/QĐ- LĐTBXH ngày 24/01/2008 về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

24. Thông tư 79/1997/TT- BTC ngày 6/11/1997 về việc hướng dẫn thực hiện
nghị định 23/1996/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ luật Lao động về những quy định riêng đối với lao động nữ

25. Thông tư 02/2005/TT-DSGDTE về hướng dẫn việc cấp, quản lý và sử dụng


Thẻ
khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi không phải trả tiền tại các cơ sở
y tế công lập do Ủy ban dân số gia đình và trẻ em ban hành

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

26. Báo cáo đánh giá Chương trình Tiêm chủng Mở rộng quốc gia - UNICEF,
WHO, GAVI (2009) National EPI Review Report

27. Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở Việt
Nam

28. Đỗ An Bình (2002), Bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên bằng
pháp luật hình sự - Lý luận và thực tiễn.

29. Wolfgang Bebedek, (2008), Tìm hiểu về quyền con người, NXB Tư pháp,
Hà Nội

30. Võ Bá- Yên Thảo, (2009), Báo động nạn xâm hại tình dục trẻ em, Báo Pháp
luật Tp.HCM, ngày 11/9/2009

73
31. Nguyễn Bá Diến, (2007), “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người”,
Khoa

học ĐHQGHN, Kinh tế- Luật, (03)

32. Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật
về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

33. Kết quả điều tra gia đình Việt Nam của Bộ văn hóa thể thao và du lịch,
Tổng cục thống kê, Viện gia đình và giới thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam
phối hợp với Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc công bố ngày 26/6/2008

34. Jacques Mougon, (1995), Quyền con người, NXB Đại học Pháp, Hà Nội,
tr.37

35. Từ Ninh, (2003), “Nạn buôn bán và bạo hành phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam-
nhìn từ quan điểm giới”, Dân chủ và pháp luật, (09)

36. Hoàng Thị Kim Quế, (2001), “Những đặc thù và sự phát triển của pháp luật
về

phụ nữ, hôn nhân và gia đình ở Việt Nam”, Nhà nước và pháp luật, (03)

37. Sách trắng “Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người”, Bộ Ngoại
giao, 2009, Lê Minh Thông, (2000), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyển
con người ở nước ta”, Nhà nước và pháp luật, (08)
38. Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách
Khoa Việt Nam, Hà Nội, năm 1995.

39. Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, (2008), Đại tự điển tiếng Việt,
NXB

40. Trung tâm nghiên cứu quyền con người -Học viện chính trị quốc gia Tp.
HCM, (2002), Tuyên ngôn thế giới và hai công ước 1966 về quyền con người.

41. Viện thông tin khoa học và trung tâm nghiên cứu quyền con người- Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1999), Vì quyền trẻ em và sự bình đẳng
của phụ nữ,

42. Nguyễn Cửu Việt, (2003), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

43. Nguyễn Cửu Việt, (2008), Giáo trình pháp luật hành chính Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội

74
44. United Nations, (2006), UNHCRH, Freequently Asked Questions on a
Human Rights based Approach to Development Cooperation. New York and
Geneva, tr. 8

45. Vietnamese research center for human rights, Children’s rights, Hanoi, 2000

46. WTO, 25 câu hỏi và đáp về Vấn đề sức khỏe và nhân quyền, 2002.

TÀI LIỆU INTERNET

47. www.gso.gov.vn

48. www.mofahcm.gov.vn

49. www.emolisa.vn

50. www.vnexpress.net

51. www.na.gov.vn

52. www.gov.vn

53. hoilhpn.org.vn
54. www.phunu.hochiminhcity.gov.vn
75

You might also like