You are on page 1of 95

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN


NHÂN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự

Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan, đề tài: “Chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là công trình
nghiên cứu của riêng em, có sự hỗ trợ và giúp đỡ của giảng viên hướng
dẫn TS. Nguyễn Thị Lan. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài này là
trung thực được trình bày dựa trên sự hiểu biết của bản thân, cộng với
việc tra cứu, cập nhật, tìm hiểu nguồn tài liệu dựa trên các bài viết của các
thầy cô trong trường, các báo cáo, sách chuyên khảo và website đã được
liệt kê ở danh mục tài liệu tham khảo.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HỌC VIÊN THỰC HIỆN


HƯỚNG DẪN

TS. Nguyễn Thị Lan Nguyễn Thị Hồng Vân


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình


BLDS : Bộ Luật Dân sự
BLDS&TM : Bộ Luật Dân sự và Thương mại
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ..................................................................... 8
1.1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ....................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm tài sản chung............................................................................ 8
1.1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân ...................................................................... 9
1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ........ 12
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ..................................................................... 15
1.3. SƠ LƯỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH VIỆC CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ........................ 17
1.3.1. Sơ lược pháp luật Việt Nam về căn cứ, phương thức chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ...................................................................... 18
1.3.2. Sơ lược pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ...................................................................... 23
1.4. PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ....................................... 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................... 35
Chương 2
CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH ....................................................................................... 36
2.1. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ................................................ 36
2.1.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực khi
không thuộc trường hợp chia tài sản bị coi là vô hiệu ....................................... 36
2.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải tuân theo
hình thức nhất định ........................................................................................... 43
2.1.3. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân ...................................................................................................... 46
2.1.4. Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân ........................................................................................................... 48
2.2. PHƯƠNG THỨC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN.................................................................................... 49
2.3. HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN....................................................... 55
2.3.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân ................................................................. 55
2.3.2. Hậu quả pháp lý về tài sản ...................................................................... 56
2.4. CHẤM DỨT HIỆU LỰC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ..................................................................... 59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................... 62
Chương 3
VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA
TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN CỦA VỢ CHỒNG VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 63
3.1. VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA
TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ........ 63
3.1.1. Vướng mắc trong quy định về các trường hợp vô hiệu khi chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ............................................................ 63
3.1.2. Vướng mắc về chủ thể có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân...................................................................................... 67
3.1.3. Vướng mắc về xác định trách nhiệm của vợ chồng sau khi chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân ........................................................................... 68
3.1.4. Vướng mắc trong phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân75
3.1.5. Vướng mắc về nghĩa vụ thông báo của vợ chồng khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân...................................................................................... 77
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN ........................ 78
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát
triển của xã hội, là nơi những người có quan hệ huyết thống, hôn nhân và
nuôi dưỡng cùng chung sống. Gia đình hoà thuận hạnh phúc sẽ góp phần
vào sự phát triển bền vững và phồn thịnh chung của xã hội. Quan điểm này
được Ph.Ăngghen nhấn mạnh như một nguyên lý của nội dung lý luận
Macxit về HN&GĐ trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước”. Sự ổn định và phát triển lành mạnh của
gia đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ xã hội. Đánh giá
cao tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội nói riêng cũng như
trong việc xây dựng, phát triển đất nước nói chung, Đảng và Nhà nước ta
luôn chú trọng quan tâm đến việc xây dựng gia đình văn hoá, hạnh phúc.
Khi nam nữ kết hôn cùng nhau xây dựng một gia đình thì sự bền
vững của quan hệ hôn nhân là mong muốn của hai bên vợ chồng. Mục đích
của kết hôn là nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, cùng nhau chung sống
suốt đời nhưng cuộc sống gia đình không phải lúc nào êm đềm, hòa thuận.
Trong mối quan hệ vợ chồng, yếu tố tình cảm đóng vai trò quan trọng hàng
đầu, không có sự phân biệt rạch ròi về nguồn gốc tài sản hay tài sản này
của ai. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại nhu cầu sử dụng riêng tài sản là
rất lớn, vì lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà vợ chồng có nhu cầu
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Chính vì vậy, việc quy định chế
định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trở thành một
nhu cầu tất yếu, một mặt giải tỏa được những xung đột trong gia đình, mặt
khác giúp cho Tòa án giải quyết nhanh chóng các vụ việc.
Trong quá trình xã hội hoá và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay,
Việt Nam đã thực sự chuyển mình và có những thay đổi toàn diện, sâu sắc
về mọi mặt của đời sống. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế mở đó đã tạo
2

cho mọi người đều có cơ hội làm giàu cũng như tự khẳng định mình. Đời
sống gia đình được cải thiện đồng nghĩa với khối tài sản vợ chồng tăng lên,
nhu cầu riêng cũng nhiều hơn, đa dạng hơn, theo đó nhu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng là rất cần thiết và hữu ích, có nhiều ưu điểm.
Trên cơ sở kế thừa Luật HN&GĐ 2000, việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng tại Luật HN&GĐ 2014 có
những bước thay đổi tích cực, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Các
quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đã từng bước đi vào cuộc
sống, phát huy được hiệu quả điều chỉnh, Luật HN&GĐ 2014 có nhiều quy
định mở hơn so với luật Hôn nhân và Gia đình 2000, giúp cho việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đạt được kết quả tốt nhất.
Bởi lẽ đó, việc nghiên cứu về chế định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân là hết sức cần thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài:
“Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực
HN&GĐ đã có nhiều công trình, bài viết về tài sản của vợ chồng nói chung
và chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nói riêng, chẳng
hạn như luận án tiến sỹ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân
và Gia đình Việt Nam” đã được tác giả Nguyễn Văn Cừ bảo vệ thành công
năm 2005; “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Nguyễn Phương Lan đăng trên Tạp chí
Luật học số 6 năm 2002; “Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ chồng
trong pháp luật cộng hoà Pháp và pháp luật Việt Nam” của tác giả Bùi
Minh Hồng đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009… và rất nhiều
công trình nghiên cứu khác. Đây thật sự là những công trình khoa học có
giá trị rất lớn trong khoa học, lý luận và thực tiễn.
3

Bên cạnh đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu như: “Bàn
thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác
giả Nguyễn Hồng Hải; “Một số vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000” của tác giả Nguyễn Thị Bích
Vân. Nhìn chung, các công trình này đã nghiên cứu một cách khá toàn diện
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật
HN&GĐ 2000.
Mặc dù vậy, với xu hướng ly hôn và các vụ chia tài sản chung của vợ
chồng ngày càng tăng và việc Luật HN&GĐ 2014 đã được áp dụng thì việc
nghiên cứu các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân theo quy định của Luật HN&GĐ 2014 là rất quan trọng và cần
thiết, cần có cái nhìn tổng quan về những tiến bộ trong Luật HN&GĐ 2014
đồng thời chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng các quy
định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và một số công trình
nghiên cứu cũng như những vụ việc cụ thể có liên quan đến vấn đề này.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong một số văn bản pháp luật
như: Luật HN&GĐ 2000; Luật HN&GĐ 2014; BLDS 2005 và các văn bản
pháp luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu về
các quy định của Luật HN&GĐ 2014 về chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân.
4

Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số
nước điều chỉnh về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam, qua đó học hỏi, tiếp
thu và chọn lọc những quan điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các quy
định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật
HN&GĐ 2014. Nội dung nghiên cứu không bao gồm việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Luận văn cũng đưa những khó khăn, bất cập còn tồn tại và đóng góp
những ý kiến hoàn thiện các quy định của pháp luật về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân kể từ khi Luật HN&GĐ 2014 có hiệu
lực, từ đó thấy được tầm quan trọng của việc chia tàn sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: căn cứ chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; phương thức chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; hệ quả pháp lý của chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân; chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đưa ra
những kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luận văn nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
- Khái quát chung về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân theo pháp luật hiện hành, làm rõ khái niệm chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân; sơ lược pháp luật Việt Nam về căn cứ, phương
thức chia tài sản và hậu quả pháp lý khi chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
- Xác định hiệu lực pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong
5

thời kỳ hôn nhân và hệ quả pháp lý của chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
- Tìm hiểu thực trạng về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân; những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn vấn đề này và tìm ra
phương hướng giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Với các mục tiêu hướng tới như đã nên ở trên, luận văn đi vào giải
quyết các câu hỏi sau:
1. Thế nào là chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân?
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có ý
nghĩa gì?
3. Luật HN&GĐ 2014 khác gì so với Luật HN&GĐ năm 2000?
4. Pháp luật một số nước trên thế giới quy định như thế nào về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Việt Nam có thể học
hỏi gì từ pháp luật của những nước đó?
5. Luật HN&GĐ 2014 còn những vướng mắc, khó khăn gì trong việc
áp dụng các quy định của pháp luật trong việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân?
6. Hướng giải quyết trong thời gian tới để hạn chế những vướng mắc
và hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ như thế nào?
6. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết
học Mác-LêNin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực
HN&GĐ. Ngoài ra để đạt được mục đích nghiên cứu luận văn còn vận
dụng, kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê.
6

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn


Luận văn phân tích các căn cứ về lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ sự
cần thiết quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, nghiên cứu cũng như bổ sung, làm phong
phú thêm cho lý thuyết về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân.
Về thực tiễn, gia đình được coi là hạt nhân của xã hội. Sự phát triển
bền vững của gia đình là nền tảng phát triển xã hội. Do đó, trong sự phát
triển và biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường hiện nay, gia đình
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự thúc đẩy và phát triển kinh tế, xã
hội. Như một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những
quan hệ về tài sản, nhân thân nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát
triển của gia đình. Nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng để nâng khối
tài sản riêng của mỗi người nhằm xác lập những giao dịch riêng cũng có
chiều hướng tăng. Kéo theo đó, là những vấn đề không dễ giải quyết về hậu
quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung. Nghiên
cứu cũng chỉ ra những khó khăn trong việc xác định căn cứ chia, phương
thức chia cũng như hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện thuận lợi và
nâng cao ý thức, trách nhiệm cho các cặp vợ chồng trong việc đưa ra các
thoả thuận chia tài sản chung cũng như những vấn đề phát sinh sau đó, góp
phần giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh
doanh, quản lý cũng như các vấn đề về chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
cái và các thành viên khác trong gia đình.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 03 chương:
7

Chương 1: Khái quát chung về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
Chương 2: Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật
hiện hành.
Chương 3: Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng và một số kiến nghị.
8

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.1.1. Khái niệm tài sản chung
Tài sản theo nghĩa từ điển học là “của cải, vật chất dùng vào mục
đích sản xuất và tiêu dùng” trong khi đó theo quy định tại BLDS 2005:
“tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 163).
Nhìn nhận trên phương diện khách quan, tài sản chung của vợ chồng có thể
hiểu là toàn bộ những quy định của pháp luật về việc hình thành khối tài
sản chung của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài
sản chung. Trong quan hệ hôn nhân, vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí
tạo dựng khối tài sản chung nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống chung của vợ
chồng, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất - sở hữu
chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không
được xác định đối với tài sản chung…(Khoản 1 Điều 217 BLDS 2005). Sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng là sở hữu chung có thể phân chia khi vợ
chồng có lý do chính đáng hay khi quan hệ hôn nhân chấm dứt.
Theo Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 thì tài sản chung bao gồm:
Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân trừ trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia
vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
9

Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung
và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được
dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ
chồng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ,
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được
coi là tài sản chung.
Như vậy, tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thuộc
khối tài sản chung của vợ chồng.
1.1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân
Thời kỳ hôn nhân theo quy định của luật thực định: “Thời kỳ hôn
nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký
kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân” (Khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ
2014).
Thời kỳ hôn nhân ở đây được hiểu là khoảng thời gian mà quan hệ
vợ chồng còn tồn tại, tức là hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Thời điểm
bắt đầu thời kỳ hôn nhân được tính như sau:
Theo thủ tục đăng ký kết hôn, ngày đăng ký kết hôn sẽ được tính từ
ngày hai bên nam nữ ký vào giấy chứng nhận kết hôn, cán bộ Tư pháp hộ
tịch ghi vào sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận kết hôn. Ngày này
cũng là ngày tổ chức đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận kết hôn cho
hai bên nam nữ để họ trở thành vợ chồng. Đó chính là thời điểm bắt đầu
thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên trong trường hợp kết hôn trái pháp luật thì
việc xác định thời kỳ hôn nhân như thế nào cho phù hợp? Khoản 2 Điều 11
10

Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Trong trường hợp tại thời điểm Toà án giải
quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có
đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên
yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ
hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy
định của Luật này”. Như vậy, nếu tại thời điểm có yêu cầu huỷ mà các bên
kết hôn trái pháp luật không còn vi phạm điều kiện kết hôn, cuộc sống
chung bình thường, hạnh phúc, có con chung, tài sản chung thì không nhất
thiết phải áp dụng máy móc là xử huỷ. Như vậy, trường hợp này thời điểm
bắt đầu thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn, hay chính là
từ thời điểm các bên không còn vi phạm điều kiện kết hôn.
Trường hợp kết hôn không đúng thẩm quyền, theo quy định tại Điều
13 Luật HN&GĐ 2014 thì trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không
đúng thẩm quyền khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi,
huỷ bỏ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ
tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác
lập từ ngày đăng ký kết hôn trước. Như vậy, thời kỳ hôn nhân trong trường
hợp kết hôn không đúng thẩm quyền được xác định kể từ ngày đăng ký kết
hôn trước, vì kể từ thời điểm đó đã tồn tại quan hệ hôn nhân.
Trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng theo quy định
tại Điều 14 Luật HN&GĐ 2014 và hướng dẫn xử lý tại Khoản 4 Điều 3
Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ thì
nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ 2014
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Vì vậy, quan hệ hôn nhân
trong trường hợp này được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn, tức là thời
11

kỳ hôn nhân của vợ chồng trong trường hợp này được xác định từ thời
điểm đăng ký kết hôn.
Thời kỳ hôn nhân trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết
hoặc có quyết định của Toà án tuyên bố vợ, chồng chết mà sau đó người bị
tuyên bố chết trở về và theo yêu cầu của người này hoặc người có quyền,
lợi ích liên quan mà việc người đó còn sống là xác thực thì Toà án ra quyết
định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết (theo quy định tại
Điều 83 BLDS 2005) và theo quy định tại Điều 67 Luật HN&GĐ 2014 thì
khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố một người mà đã chết mà vợ
hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn
nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn, thời kỳ hôn nhân được tính
từ thời điểm kết hôn. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian người vợ hoặc
chồng còn sống thì tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định
của Toà án về việc tuyên bố vợ, chồng đã chết có hiệu lực đến khi quyết
định huỷ bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực thì tài sản trong khoảng
thời gian này là tài sản riêng của người vợ, chồng không bị tuyên bố chết.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc xác định tài sản phát sinh trong
thời kỳ vợ, chồng bị Toà án tuyên bố chết gặp phải nhiều khó khăn, và nếu
trường hợp sau khi vợ chồng đã chết trở về và được Toà án huỷ bỏ quyết
định tuyên bố vợ, chồng đã chết mà có yêu cầu chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản chung của vợ chồng là tài sản được
xác lập trước khi vợ hoặc chồng bị Toà án tuyên bố chết, việc xác định tài
sản chung theo các quy định của pháp luật hiện hành về tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân.
Thời điểm chấm dứt hôn nhân được xác định khi có các sự kiện sau:
Chấm dứt hôn nhân do vợ, chồng chết. Như vậy, ngày một trong hai bên vợ
chồng chết được xác định là ngày chấm dứt hôn nhân, xác định theo ngày
thực tế vợ hoặc chồng chết được ghi trong giấy chứng tử.
12

Chấm dứt hôn nhân khi có quyết định của Toà án tuyên bố vợ, chồng
chết. Việc xác định ngày nào là ngày chấm dứt hôn nhân được xác định
theo quy định tại Điều 81 BLDS 2005, ngày chết sẽ được tính tuỳ từng
trường hợp cụ thể, nếu bị tai nạn, thảm hoạ thiên tai thì ngày chết thông
thường là ngày xảy ra tai nạn thảm hoạ thiên tai đó, nhưng nếu không xác
định được ngày chết của người đó thì ngày chết sẽ là ngày quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật và ngày này cũng được xác định là ngày chấm
dứt hôn nhân.
Chấm dứt hôn nhân do ly hôn. Ngày chấm dứt hôn nhân sẽ là ngày
bản án xử cho ly hôn hoặc quyết định thuận tình ly hôn của Toà án có hiệu
lực pháp luật. Do vậy, đối với bản án sơ thẩm có thể chưa có hiệu lực pháp
luật ngay và đương sự có quyền kháng cáo. Trường hợp này, thời kỳ hôn
nhân còn tiếp tục kéo dài cho đến khi hết thời hạn kháng cáo, mà đương sự
không kháng cáo, viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị hoặc cho đến
khi có bản án ly hôn tại cấp phúc thẩm.
1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân
Ở Việt Nam, qua mỗi giai đoạn phát triển, chế độ tài sản của vợ
chồng đều thể hiện những nét đặc thù riêng. Trên cơ sở nền kinh tế thị
trường, sự phát triển của xã hội và gia đình, Luật HN&GĐ 2014 đã có quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân gồm chế độ tài
sản chung và chế độ tài sản riêng. Như một tất yếu của cuộc sống chung,
sau khi kết hôn đòi hỏi vợ chồng phải cùng đồng lòng, chung ý chí để vun
đắp hạnh phúc gia đình. Do đó, tài sản chung hay tài sản riêng của vợ
chồng đều cần được khai thác nhằm đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại
của gia đình. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, cùng với việc hội
nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh quan hệ giao thương với các
nước trong khu vực và trên thế giới đã làm phát sinh nhiều nghĩa vụ về tài
13

sản mà vợ chồng phải gánh vác. Theo đó, nhu cầu có tài sản riêng để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ riêng là rất cần thiết. Vậy chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân là gì?
Để hiểu thế nào là chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì trước
tiên cần hiểu như nào là chia, chia theo định nghĩa tại từ điển Tiếng Việt là
“phân ra, san ra từng phần từ một chỉnh thể” vậy chia tài sản chung của
vợ chồng hiểu đơn giản là phân tài sản ra thành hai phần từ khối tài sản
chung của vợ chồng. Vậy, theo quy định của pháp luật thì chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân được hiểu như nào?
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân lần đầu tiên được
nhắc tới trong Luật HN&GĐ 1986. Trước đó, do phong tục tập quán cũng
như tư duy của gia đình Việt là “của chồng công vợ” sự phân chia rạch ròi
tài sản trong thời kỳ hôn nhân là không hề có. Trước đó Luật HN&GĐ
1959 vấn đề này cũng không được đề cập tới bởi Nhà nước ta quy định chế
độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản, toàn bộ tài sản vợ
chồng có trước khi kết hôn hoặc được tạo ra, có được trong thời kỳ hôn
nhân không phân biệt nguồn gốc tài sản, công sức đóng góp đều thuộc tài
sản chung của vợ chồng. Từ cơ sở đó, Luật HN&GĐ 1959 chỉ dự liệu hai
trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng là khi vợ chồng chết trước
hoặc khi vợ chồng ly hôn. Luật HN&GĐ 1986 ra đời vào thời kỳ đầu của
sự nghiệp đổi mới với nhiều quy định khác về căn bản so với Luật
HN&GĐ 1959 để phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội. Theo đó, Luật
HN&GĐ 1986 quy định chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng
tạo sản, vợ chồng có tài sản chung và có quyền có tài sản riêng và đặc biệt
còn ghi nhận việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn
tại nếu có lý do chính đáng. Kế thừa Luật HN&GĐ 1986, Luật HN&GĐ
2000 tiếp tục quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân tại Điều 29 và Điều 30. Theo quy định của Luật HN&GĐ 2000
14

thì khi hôn nhân đang tồn tại, trong trường hợp đầu tư, kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì có thể
thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Luật
HN&GĐ 2014 tiếp thu những ưu điểm của luật cũ và quy định chi tiết hơn,
giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Điều 38 Luật HN&GĐ 2014 quy định trong thời kỳ
hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản
chung, trừ các trường hợp chia tài sản chung để: trốn tránh nghĩa vụ nuôi
dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi
bị Tòa án tuyên bố phá sản…(Điều 42 Luật HN&GĐ 2014). Nếu không
thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy nhìn một
cách tổng quát, chia tài sản chung của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh việc vợ chồng thỏa thuận hoặc
yêu cầu Tòa án nhân dân quyết định các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng dựa trên điều kiện và
nguyên tắc Luật định nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng
đối với tài sản chung. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành
văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc
theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì
Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định của
Luật này về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Khái niệm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa được ghi
nhận trong bất kỳ văn bản pháp luật nào nhưng qua phân tích ở trên có thể
hiểu:
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc vợ
chồng thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án chuyển một phần hoặc toàn bộ tài
sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng cho mỗi bên vợ, chồng dựa trên các
căn cứ luật định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ,
15

chồng và người thứ ba có liên quan mà không làm chấm dứt quan hệ giữa
vợ và chồng trước pháp luật.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
Pháp luật HN&GĐ 1986 bắt đầu có quy định về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 18: “Khi hôn nhân tồn tại,
nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung
của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này”. Kế thừa và phát huy
quy định này, Luật HN&GĐ 2000 tiếp tục hoàn thiện quy định trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Việc pháp luật
thừa nhận vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
có ý nghĩa hết sức to lớn đối với bản thân mỗi vợ chồng nói chung và với
những người có quyền và lợi ích liên quan nói riêng.
Thứ nhất, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là
cơ sở để vợ chồng tham gia vào các quan hệ xã hội, nâng cao đời sống gia
đình, ngoài lợi ích đạt được, vợ chồng phải có nghĩa vụ tài sản đối với
người thứ ba có quan hệ giao dịch liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Chế
định này cũng tạo cơ sở pháp lý để phân định rõ trách nhiệm của vợ, chồng
trong quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản phù hợp với pháp luật, đạo đức
xã hội và xây dựng gia đình hạnh phúc, hòa thuận.
Thứ hai, tình hình kinh tế - xã hội nước ta ngày càng phát triển, hội
nhập sâu rộng nhất là khi đã ký kết hiệp định TTP - hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương. Nền kinh tế càng phát triển kéo theo nhu cầu kinh tế của
các gia đình cũng tăng cao, việc vợ chồng có ý định đầu tư kinh doanh
riêng hay tự chủ trong kinh tế riêng cũng ngày càng nhiều. Chính vì vậy, để
bảo vệ quyền và lợi ích chung của gia đình cũng như tôn trọng quyền tự do
định đoạt của cá nhân, quyền tự do kinh doanh được pháp luật công nhận,
16

các quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân tất yếu cũng được công nhận.
Thứ ba, cuộc sống chung của vợ chồng khó tránh được những xung
đột, mâu thuẫn, nhiều trường hợp các bên vợ chồng chỉ yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà không muốn ly hôn. Hơn
nữa, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân quan hệ hôn nhân
vẫn còn tồn tại nên vợ chồng vẫn có đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ nhân
thân với nhau và với gia đình. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân không phải là gián tiếp quy định về ly thân nên không đương nhiên
dẫn đến chế độ biệt sản. Do đó, việc duy trì đời sống chung là nghĩa vụ,
trách nhiệm của cả hai vợ chồng. Đáp ứng nhu cầu này của vợ chồng và
nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình êm ấm, hòa thuận, pháp luật cho phép
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ tư, quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có ý
nghĩa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, trường
hợp do vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng (những khoản nợ mà
vợ chồng vay từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân mà sử dụng
vào mục đích riêng) trong trường hợp này nếu tài sản riêng không có hoặc
không đủ mà vợ chồng không thỏa thuận được về việc lấy tài sản chung để
trả nợ riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân để vợ chồng dùng phần tài sản đã chia đó thực hiện
nghĩa vụ riêng.
Những quy định này tạo điều kiện cho vợ chồng được tự do tham gia
vào các quan hệ xã hội, nâng cao đời sống gia đình. Tuy nhiên, ngoài
những lợi ích đạt được vợ, chồng cũng phải có nghĩa vụ tài sản đối với bên
thứ ba có quan hệ giao dịch liên quan đến tài sản của vợ, chồng; bên cạnh
đó, chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn
tạo cơ sở pháp lý để phân định rõ trách nhiệm của vợ chồng trong quản lý,
17

sử dụng và định đoạt tài sản phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và xây
dựng gia đình hạnh phúc, hòa thuận. Chính nhờ có quy định này mà giảm
thiểu được tối đa các mâu thuẫn phát sinh xuất phát từ khối tài sản chung
của vợ chồng.
Thứ năm, quan hệ vợ chồng là một quan hệ thiêng liêng và nhạy cảm,
có lúc êm đềm, có lúc sóng gió. Đôi khi vì những lý do cá nhân nào đó mà
vợ chồng chia tài sản chung. Vì vậy việc quy định về chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân khi chia sẽ giúp tránh được một số tranh chấp phát
sinh giữa vợ và chồng. Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,
mỗi bên vợ chồng cần xác định được quyền và nghĩa vụ của mình đối với
gia đình, tránh tình trạng trốn tránh trách nhiệm đối với con cái và gia đình.
Từ đó duy trì đời sống chung, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và ngày
càng phát triển hơn nữa.
Mặt khác, quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất
quan trọng. Nó giúp hai bên vợ chồng dễ dàng giải quyết các vấn đề phát
sinh sau khi chia tài sản và hạn chế tranh chấp xảy ra về hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản sau chia trong trường hợp chia một nửa khối tài sản
chung. Tóm lại, chế định chia tài chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ
chồng đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết.
1.3. SƠ LƯỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH VIỆC CHIA TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.3.1. Sơ lược pháp luật Việt Nam về căn cứ, phương thức chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Pháp luật dưới các triều đại phong kiến Việt Nam và thời kỳ pháp
thuộc không có quy định về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
đình, giữa vợ và chồng và đặc biệt là chia tài sản chung của vợ chồng. Bộ
Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) dưới triều Lê chỉ dự liệu một số
trường hợp chia tài sản của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước còn
18

Bộ luật Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) dưới triều Nguyễn không có
quy định nào về chia tài sản chung của vợ chồng. Đến giai đoạn 1945-
1954, Việt Nam ban hành sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL cũng
không có quy định cụ thể nào về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân mà hiểu theo tinh thần của hai sắc lệnh thì có thể suy luận tài
sản chung của vợ chồng phải được chia đôi, mỗi bên vợ, chồng được chia
một nửa giá trị tài sản chung.
Giai đoạn 1954-1975, dưới chế độ miền nam cộng hoà từ năm 1949
đến 1955 pháp luật dưới thời kỳ Ngô Đình Diệm không quy định về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định về chế
độ ly thân và dự liệu về chế độ tài sản khi vợ chồng ly thân. Luật HN&GĐ
1959 quy định một chế độ tài sản duy nhất là chế độ tài sản chung. Khi một
bên vợ, chồng chết hoặc khi hai vợ chồng ly hôn tài sản chung sẽ được chia
“căn cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và
tình trạng cụ thể của gia đình” (Điều 29), Luật HN&GĐ 1959 không quy
định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy
định về chia tài sản khi ly hôn. Sắc luật 15/64 chỉ dự liệu chia tài sản chung
khi vợ, chồng ly thân hoặc ly hôn. Như vậy tính cho đến thời điểm này,
pháp luật chỉ mới có những quy định sơ đẳng đầu tiên về chia tài sản chung
khi vợ chồng ly thân, ly hôn, tức là khi quan hệ hôn nhân không tồn tại
hoặc chỉ tồn tại theo pháp luật, vợ chồng không còn muốn cùng chung sức
xây dựng gia đình, cùng chung kinh tế, cùng nhau nuôi dạy con cái. Trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân khi mà cả hai
bên vợ chồng muốn việc chia tài sản chỉ tác động thuần túy đến tài sản chứ
không phải quan hệ hôn nhân không được quan tâm đến và không hề xuất
hiện trong bất cứ quy định nào của pháp luật.
Khi BLDS 1972 ra đời dưới chế độ Miền nam Cộng hòa, lần đầu tiên
trong lịch sử pháp luật Việt nam, việc chia tài sản chung của vợ chồng
19

trong thời kỳ hôn nhân được nhắc đến. Bộ Luật này đã dự liệu cả ba trường
hợp chia tài sản đó là khi vợ, chồng chết; khi vợ chồng ly thân và ly hôn.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể làm đơn yêu cầu Toà án tuyên
phán sự biệt sản trong một số trường hợp được luật dự liệu. Các quy định
về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bước đầu được nhắc đến
nhưng rất ít, rất sơ sài và chỉ quy định một số rất nhỏ các trường hợp vợ
chồng được chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân mà không có thêm hướng
dẫn khác, bó buộc vợ chồng trong các trường hợp hạn chế mà pháp luật
quy định.
Từ năm 1975 đến nay, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Luật
HN&GĐ 1986 có hiệu lực trên phạm vi cả nước, pháp luật Việt Nam bắt
đầu có quy định cụ thể đầu tiên về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân tại Điều 18 “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu
và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy
định ở Điều 42 của Luật này”. Theo đó, chia tài sản chung khi hôn nhân
còn tồn tại được chia như khi ly hôn tại Điều 42: “Tài sản chung của vợ
chồng được chia đôi, nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài
sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên”, tức
là việc chia tài sản chung phụ thuộc vào tình hình thực tế về tài sản, nhân
thân cụ thể và công sức đóng góp của vợ chồng. Quy định này khá hợp lý
và có nhiều ưu điểm, bảo vệ được quyền lợi cho gia đình, đặt lợi ích gia
đình nên trước. Như vậy, Luật HN&GĐ 1986 đã đánh dấu một bước tiến
dài của pháp luật Việt Nam về chế định chia tài sản vợ chồng trong thời kì
hôn nhân khi bắt đầu có quy định về căn cứ chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân. Tuy nhiên, những quy đinh này vẫn còn sơ
khai, căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng dựa trên yêu cầu của một bên
vợ hoặc chồng, lý do chia chỉ quy định chung chung là “có lý do chính
đáng” nhưng chưa có quy định hướng dẫn thế nào là “lý do chính đáng”.
20

Kế thừa và phát triền các quy định của Luật HN&GĐ 1986, Luật
HN&GĐ 2000 đã có những quy định cụ thể hơn về căn cứ và phương thức
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản
chung của vợ chồng được quy định tại các điều 27, 28 Luật HN&GĐ 2000
là chế độ tài sản pháp định với hình thức chế độ cộng đồng tạo sản (tài sản
mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản
chung, trừ những tài sản theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng
của vợ, chồng). Về nguyên tắc, khi hôn nhân tồn tại thì vẫn còn chế độ tài
sản chung, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt
pháp lý (ly hôn; một bên vợ, chồng chết).
Căn cứ chia tài sản trong thời kì hôn nhân được quy định tại khoản 1
Điều 29 Luật HN&GĐ 2000:
“1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh
doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng
khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản
chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Theo đó, các căn cứ để chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân theo
Luật này bao gồm: Vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ
dân sự riêng và các lý do chính đáng khác. Trong trường hợp vợ chồng đầu
tư kinh doanh riêng, việc kinh doanh buôn bán cần tận dụng thời cơ để đạt
hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, việc đầu tư cần có vốn lớn mà mà người vợ
hoặc người chồng không muốn mạo hiểm toàn bộ tài sản chung của cả gia
đình, hoặc một trong hai vợ hoặc chồng muốn đầu tư kinh doanh nhưng vì
rủi ro cao nên người còn lại không đồng ý… Khi đó vợ hoặc chồng hoặc cả
vợ và chồng có quyền thỏa thuận để chia tài sản trong thời kì hôn nhân, nếu
không thể thỏa thuận thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết với mục đích
lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung để làm vốn đầu tư kinh
21

doanh. Trong trường hợp vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự
riêng, nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thỏa
thuận được về việc dùng tài sản chung để trả nợ thì vợ, chồng có quyền yêu
cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản riêng của
mình thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với người thứ ba. Trường hợp có lý
do chính đáng khác, chẳng hạn như vì lý do nào đó mà vợ, chồng có mâu
thuẫn nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, chia tài sản để dùng
riêng (sợ ảnh hưởng đến con cái, ảnh hưởng đến danh dự,…), hoặc vợ
chồng từng có nhiều tài sản riêng nhưng sau đó phần lớn tài sản riêng đã
được chuyển thành tài sản chung, nay vợ, chồng muốn khôi phục lại khối
tài sản riêng của mình để có thể chủ động trong các giao dịch riêng, hoặc
trường hợp vợ hoặc chồng thường có hành vi phá tán tài sản gia đình,
người còn lại cũng có thể yêu cầu Tòa án hoặc thỏa thuận với vợ, chồng để
chia tài sản chung nhằm đảm bảo sự ổn định của kinh tế gia đình.
Luật HN&GĐ 2000 đồng thời quy định việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu trong một số trường hợp sau:
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan thì việc chia tài sản
chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau
đây bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu: Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người
khác theo quy định của pháp luật; Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; Nghĩa vụ
thanh toán khi bị Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp; Nghĩa vụ nộp thuế
và nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; Nghĩa vụ trả nợ cho người
khác; Các nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của pháp luật (Điều 11
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành
Luật HN&GĐ). Quy định này nhằm đã bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người thứ ba khi bị vi phạm các quyền, lợi ích chính đáng, giúp cho quy
định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng chặt chẽ
hơn.
22

Có thể thấy Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tương đối rõ ràng về
căn cứ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, nhưng lại không có quy
định về phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên
chính sự quy định rõ ràng về căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân lại vô hình chung hạn chế vợ chồng khi quyết định chia
tài sản chung. Vợ hoặc chồng chỉ được phép chia tài sản chung khi có một
trong các căn cứ nói trên, nếu thuộc trường hợp lí do chính đáng khác thì
phải chứng minh được tính chính đáng khi thỏa thuận hay yêu cầu Tòa án
chia tài sản chung. Hơn nữa, pháp luật cũng chưa có hướng dẫn cụ thể thế
nào là lý do chính đáng và trong những trường hợp nào thì được chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi có lý do chính đáng? Và có phải
trường hợp nào có lý do chính đáng cũng được chia theo quy định của luật
này?
Ngày 19 tháng 06 năm 2014, Quốc hội chính thức thông qua Luật
HN&GĐ mới, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Luật
HN&GĐ 2014 đã khắc phục hạn chế của Luật HN&GĐ 2000 về các căn cứ
chia tài sản trong thời kì hôn nhân khi bỏ đi quy định về các trường hợp
chia tài sản cố định mà luật dự liệu, mở ra nhiều sự lựa chọn hơn cho các
cặp vợ chồng khi có nguyện vọng chia tài sản trong thời kì hôn nhân. Thay
vào đó, quy định các giới hạn cần thiết để đảm bảo gia đình vẫn phát triển
bền vững và hạnh phúc, quyền và lợi ích hợp pháp của con cái vẫn được
thực hiện đầy đủ, quyền và lợi ích của người thứ ba không bị xâm phạm
được quy định bằng các trường hợp dẫn đến vô hiệu của việc chia tài sản
chung tại Điều 42 Luật này. Các quy định khác về hậu quả pháp lí và
phương thức chia tài sản, cách thức chia khối lượng tài sản chung của vợ
chồng cũng có nhiều thay đổi nhằm khắc phục các hạn chế của Luật cũ, và
đảm bảo tốt hơn cho quyền và lợi ích của người có quyền và lợi ích liên
quan. Như vậy Luật HN&GĐ 2014 đã có những tiến bộ đáng kể so với
23

Luật HN&GĐ 2000. Tính đến nay, đây là Luật có những quy định đầy đủ
nhất, hoàn thiện nhất về chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kì hôn nhân.
1.3.2. Sơ lược pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Giống với căn cứ và phương thức chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật dưới các triều đại phong kiến Việt Nam,
thời kỳ pháp thuộc và dưới chế độ Việt Nam cộng hòa không có quy định
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như hậu
quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Pháp luật về HN&GĐ trong giai đoạn từ năm 1945-1954 và 1954-
1975 cũng không có quy định nào về hậu quả pháp lý của chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật HN&GĐ 1986 bước đầu quy định về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân nhưng không quy định về hậu quả pháp lý
của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng. Luật
HN&GĐ 2000 khi quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân đã quy định hậu quả pháp lý khi chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau: “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần còn lại không
chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.
Như vậy, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì quan
hệ nhân thân của vợ chồng vẫn được giữ nguyên như trước khi chia tài sản
chung của vợ chồng, nói cách khác việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa hai vợ
chồng.
Có thể thấy, trong quan hệ hôn nhân, quyền và nghĩa vụ nhân thân
giữa vợ và chồng là rất quan trọng, được pháp luật HN&GĐ quy định khái
24

quát và điều chỉnh những quan hệ mang tính chất cơ bản nhất, chung nhất
trong quan hệ vợ chồng. Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng thể
hiện quan hệ vợ chồng trong thực tiễn đời sống. Trong thực tế vợ chồng
thực hiện quyền và nghĩa vụ về nhân thân một cách đa dạng, phong phú,
bằng nhiều hình thức khác nhau mà pháp luật không thể điều chỉnh toàn
diện hết mọi mối quan hệ của vợ chồng trong xã hội.
Hậu quả pháp lý về tài sản: theo quy định tại Điều 29 và Điều 30
Luật HN&GĐ 2000 thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có thể chỉ chia
một phần hoặc chia toàn bộ khối tài sản chung của vợ chồng hiện có. Trong
cả hai trường hợp trên việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ dẫn đến hậu
quả sau: khối tài sản chung của vợ chồng bị giảm sút hoặc không còn
(trường hợp chia toàn bộ) và được chuyển hóa thành tài sản riêng của vợ
chồng; vợ, chồng là chủ sở hữu riêng đối với tài sản được chia cho mình
cũng như đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản được chia; đối với
phần tài sản chưa chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Ngoài ra,
Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính
phủ quy định “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và
những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là
tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”.
Xét trong mối liên hệ giữa Luật HN&GĐ 2000 và Nghị định số
70/2001/NĐ-CP của Chính phủ có thể thấy quy định tại hai văn bản này là
mâu thuẫn nhau, hiểu theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính Phủ thì
sau khi chia tài sản chung của vợ chồng thì hầu hết các tài sản do vợ, chồng
tạo ra thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa
thuận khác. Vậy, hậu quả của chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân có làm chấm dứt chế độ cộng đồng tài sản và chuyển sang
thực hiện chế độ tách riêng tài sản?
25

Như vậy, theo quy định của Luật HN&GĐ thì sau khi chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mặc dù hôn nhân vẫn còn tồn
tại, sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân kéo
theo những thay đổi trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng đã
được quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ 2000. Sự thay đổi sẽ rất lớn nếu
chia toàn bộ số tài sản chung của vợ chồng, theo đó thu nhập của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu chung của vợ chồng và như vậy hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên cũng là tài sản chung.
Trong khi đó, tài sản mà mỗi bên vợ chồng nhận được khi chia tài sản
chung là tài sản riêng của họ, nhưng theo Điều 30 thì hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng khác vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Nhìn
chung, dù tài sản chung của vợ chồng được chia hết, chế độ cộng đồng tạo
sản của vợ chồng vẫn tiếp tục hoạt động với sự phát sinh của những tài sản
chung mới từ các nguồn theo quy định của Điều 27 Luật HN&GĐ 2000,
trừ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản mà vợ, chồng đã được chia.
Ngoài ra, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính Phủ còn quy định
về “khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng” tại Điều 9 và Điều 10
Nghị định này, theo đó sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
vợ chồng nếu muốn khôi phục lại chế độ tài sản như khi kết hôn, vợ chồng
phải có thỏa thuận bằng văn bản, thậm chí phải được công chứng hoặc
chứng thực theo quy định của pháp luật. Quy định này tiến bộ, tuy nhiên
thuật ngữ “khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng” dùng trong
trường hợp này không được chính xác bởi lẽ theo phân tích ở trên thì sau
khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chế độ cộng
đồng tạo sản của vợ chồng vẫn tiếp tục hoạt động, thuật ngữ này cần được
dùng một cách chuẩn xác hơn. Điều này Luật HN&GĐ 2014 đã thay thế
bằng quy định “chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân”.
26

1.4. PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ VIỆC CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
Mỗi quốc gia với những đặc điểm riêng về lịch sử, truyền thống và
địa lý…sẽ có những quy định khác nhau và tạo nên sự đa dạng về xã hội và
hệ thống pháp luật của những quốc gia này. Pháp luật HN&GĐ một số
nước trên thế giới cũng có nhiều điểm tương đồng với pháp luật HN&GĐ
Việt Nam. Sự giao lưu giữa các nền văn hóa, những điểm tương đồng về
lịch sử, truyền thống dân tộc của các quốc gia trong khu vực cũng như trên
toàn thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hệ thống pháp luật có những
điểm giống nhau:
Dưới đây là những hình thức giống hoặc tương tự như hình thức chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của một số nước:
BLDS Pháp có riêng Thiên V quyển thứ 3 để quy định về khế ước
hôn nhân và các chế độ tài sản của vợ chồng trong hôn nhân, theo pháp luật
Pháp thì chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản pháp định và
chế độ tài sản ước định. Theo đó, vợ chồng có quyền lựa chọn một chế độ
tài sản phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế gia đình.
Điều 1400 BLDS Pháp quy định: “chế độ tài sản chung được xác
lập khi không có khế ước hôn nhân hoặc khi vợ chồng lựa chọn kết hôn
theo chế độ tài sản chung” chế độ tài sản chung ở đây bao gồm hai khối tài
sản là khối tài sản có và khối tài sản nợ. Tài sản chung của vợ chồng được
xác định theo pháp luật nước Pháp như sau:
- Là tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản mà vợ chồng có được từ công việc của họ;
- Tài sản là những khoản tiếc kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài
sản riêng của vợ, chồng;
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung
hoặc được di tặng chung;
27

- Tài sản không chứng minh được là tài sản riêng.


Theo BLDS Pháp, căn cứ để chia tài sản được quy định tại Điều
1443 là một trong những căn cứ dẫn đến việc chấm dứt tài sản chung của
vợ chồng: “Nếu do sự xáo trộn trong công việc làm ăn của vợ hoặc chồng,
do vợ hoặc chồng quản lý kém hoặc thiếu đạo đức, mà việc duy trì chế độ
tài sản chung gây phương hại đến lợi ích của người kia, thì người có lợi
ích bị phương hại có thể yêu cầu Tòa án cho tách riêng tài sản. Mọi trường
hợp tự tách riêng tài sản đều vô hiệu”.
Có thể thấy quy định này của pháp luật Pháp khá tương đồng với quy
định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam. Luật HN&GĐ Việt Nam mặc dù
không quy định rõ ràng từng trường hợp chia tài sản chung như lại mở rộng
hơn các trường hợp được chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân. Trường hợp được quy định ở BLDS Pháp có thể hiểu thành việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được chia làm hai
trường hợp. Thứ nhất, trường hợp công việc làm ăn của vợ chồng có sự
thay đổi; thứ hai, vợ hoặc chồng quản lý kém hoặc thiếu đạo đức, chẳng
hạn như có hành vi phá tán tài sản chung hoặc tự mình thực hiện những
giao dịch dân sự làm tổn thất khối tài sản chung, ảnh hưởng đến quyền lợi
của gia đình và bên kia.
Luật HN&GĐ Việt Nam quy định vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc
yêu cầu tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng pháp luật
nước Pháp chỉ cho phép và ghi nhận việc chia tài sản thông qua con đường
tư pháp là Tòa án. Mọi trường hợp vợ chồng tự tách riêng tài sản đều
không có giá trị. Có thể thấy, đây là một quy định chặt chẽ, tiến bộ, pháp
luật Việt Nam có thể học tập và tiếp thu, bởi lẽ nếu quy định vợ chồng có
quyền thỏa thuận (không yêu cầu phải có người làm chứng và công chứng)
thì chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân rất dễ
bị lợi dụng để vợ, chồng trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
28

Về việc tách riêng tài sản giữa vợ và chồng được quy định khá đầy
đủ, tuân theo những thủ tục chặt chẽ. Điều 1445 BLDS Pháp quy định:
“Yêu cầu tách riêng tài sản giữa vợ và chồng, bản án cho tách riêng
tài sản giữa vợ và chồng phải được công bố theo những điều kiện và chế
tài quy định tại Bộ Luật Tố tụng dân sự, cũng như theo các quy định pháp
luật về thương mại, nếu vợ hoặc chồng là thương nhân;
Bản án tuyên bố tách riêng tài sản giữa vợ và chồng có hiệu lực kể
từ ngày nộp yêu cầu tách riêng tài sản;
Bản án tuyên bố tách riêng tài sản giữa vợ và chồng được ghi chú
bên lề giấy đăng ký kết hôn và bản chính của khế ước hôn nhân”.
Nếu đối với pháp luật Việt Nam vợ chồng thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể công khai hoặc chỉ hai
bên vợ chồng biết thì đối với luật nước Pháp việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân phải được công bố công khai, và đặc biệt chú trọng đến
chủ thể vợ, chồng là thương nhân. Pháp luật Pháp quy định vợ chồng có
nghĩa vụ phải công bố bản án tách riêng tài sản giữa vợ và chồng, quy định
này tiến bộ hơn quy định của pháp luật Việt Nam nhằm loại bỏ hoặc hạn
chế những tranh chấp về tài sản có thể xảy ra. Nguyên nhân là vì các bên có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến tài sản của vợ, chồng hoặc của cả hai
vợ chồng biết được sự dịch chuyển, thay đổi của các tài sản này sẽ có sự
chuẩn bị tâm lý cũng như những hành động cần thiết, kịp thời để bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của mình. Quy định này trong luật nước Pháp còn
góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi bên vợ chồng, ngăn chặn
việc vợ hoặc chồng chia tài sản chung nhằm trốn tránh nghĩa vụ. Ngoài ra,
pháp luật nước Pháp còn quy định khá chặt chẽ ở chỗ bản án tuyên bố tách
riêng tài sản phải được ghi chú bên lề giấy đăng ký kết hôn. Quy định này rất
tiến bộ và pháp luật Việt Nam nên học tập cách áp dụng trên, để tạo thành một
29

hành lang pháp lý chứng minh nguồn gốc tài sản nếu như có tranh chấp giữa
vợ chồng hoặc giữa họ với người thứ ba.
BLDS Pháp cũng quy định về hậu quả pháp lý của việc tách riêng tài
sản này. Khi quyết định của Tòa án có hiệu lực thì chế độ tài sản giữa vợ và
chồng sẽ được chuyển sang chế độ tách riêng tài sản, chế độ tài sản chung
sẽ chấm dứt. Vợ chồng cùng đóng góp chi phí cho cuộc sống chung theo
các thỏa thuận và tùy vào khả năng của mình, trong trường hợp một bên vợ
hoặc chồng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền
yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Bộ Luật tố tụng
dân sự.
Tóm lại, khi tìm hiểu sơ lược về pháp luật nước Pháp về chia tách tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhận thấy pháp luật Pháp
đã có những quy định khá tỉ mỉ nhằm điều chỉnh các vấn đề phát sinh khi
sự kiện chia tài sản chung xảy ra. Theo đó, quyền lợi và trách nhiệm của
mỗi bên vợ chồng bị ràng buộc trong phạm vi nhất định để đảm bảo ổn
định cho đời sống chung, đảm bảo cho việc chăm lo và giáo dục con cái
đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của những người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc tách riêng tài sản của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
Có thể nói, các quy định này có rất nhiều ưu điểm, là kinh nhiệm và
bài học quý để Việt Nam tiếp thu, học hỏi trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về HN&GĐ trong vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Chẳng hạn như việc tiếp thu quy định vợ chồng
phải có nghĩa vụ đóng góp chi phí cho gia đình và chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con cái theo khả năng của mỗi bên vợ, chồng sau khi chia tài sản
chung. Thủ tục công bố công khai việc tách riêng tài sản cũng là một quy
định có nhiều ưu điểm để học hỏi, tham khảo và vận dụng. Quy định về lý
do chia tài sản chung xuất phát từ một bên phá tán tài sản, quản lý tài sản
30

thiếu đạo đức trong quy định của pháp luật Pháp có nhiều điểm phù hợp
và tương đồng với pháp luật HN&GĐ Việt Nam và nên chăng bổ sung
quy định này vào một trong những trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng trong khi hướng dẫn quy định về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
* Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan
Khi nhắc đến các quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân theo pháp luật một số nước trên thế giới không thể không nhắc tới
BLDS&TM Thái Lan năm 1925. Bộ Luật này đã trải qua hơn 90 năm thực
thi và được tôi luyện trong nền kinh tế với nhiều thăng trầm khiến cho các
quy định trong nó trở thành một chuẩn mực và là tài sản quý giá để Việt
Nam học tập. Các quy định về HN&GĐ được quy định tại quyển 5 từ Điều
1435 đến Điều 1598 BLDS&TM Thái Lan. Nhìn chung các quy định về
HN&GĐ trong Bộ Luật của Thái Lan khá cụ thể và có nhiều điểm tương
đồng so với pháp luật HN&GĐ của Việt Nam.
Theo pháp luật Thái Lan quyền sở hữu của vợ chồng được điều
chỉnh bằng hai phương thức: theo hôn ước mà vợ chồng lập ra trước khi
cưới; theo quy định của pháp luật khi vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn
ước đó vô hiệu. Tài sản của vợ chồng theo pháp luật Thái Lan cũng tương
tự như pháp luật Việt Nam cũng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, tài
sản chung hay còn gọi là “Sin Somros”, tài sản riêng là “Sin Suan Tua”.
BLDS&TM Thái Lan quy định về tài sản chung của vợ chồng (Sin
Somros) bao gồm những tài sản sau đây:
- Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân thông qua
một di chúc hoặc tặng cho được làm bằng văn bản nếu trong di chúc hay
văn bản này tuyên bố rõ tài sản đó là tài sản chung;
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng;
31

- Tài sản có nguồn gốc hợp pháp khác những không chứng minh được
là tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng thì tài sản đó được coi là tài sản
chung.
Quy định này khá giống với quy định về tài sản chung được quy định
tại Điều 33 Luật HN&GĐ Việt Nam. Tuy nhiên, có một quy định khá chặt
chẽ so với Luật HN&GĐ 2014 đó là “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Theo quan
điểm cá nhân, tôi thấy quy định này rất hợp lý, bởi lẽ sau khi chia tài sản
chung sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến lợi ích của gia đình, đến quyền lợi của các
thành viên trong gia đình, việc cấp dưỡng hay nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái
của vợ chồng cũng bị tác động, vì vậy nếu quy định hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng là tài sản chung sẽ tốt hơn và quy định như vậy sẽ đảm
bảo các nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình như cấp dưỡng và nuôi
dưỡng cha mẹ, con cái dược bảo đảm.
Quy định về căn cứ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của
luật Thái Lan cũng cụ thể, chi tiết tại Điều 1488, Điều 1484, Điều 1491,
Điều 1598.17 BLDS&TM Thái Lan, theo đó tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân được chia trong những trường hợp sau đây:
- Một bên vợ chồng có nghĩa vụ tài sản riêng nhưng không có hoặc
không đủ tài sản riêng để thực hiện, phải thực hiện bằng phần tài sản của
mình trong khối tài sản chung;
- Vợ hoặc chồng là người quản lý tài sản chung “Sin Somros” mà có
những hành vi vi phạm như: gây mất mát tài sản chung mà không có lý do
chính đáng; không giúp đỡ người kia; lâm vào tình trạng nợ nần hoặc chịu
những món nợ vượt quá ½ giá trị tài sản chung; cản trở vợ hoặc chồng
mình trong việc quản lý tài sản chung mà không có lý do chính đáng;
- Người vợ hoặc người chồng bị tuyên bố phá sản;
32

- Một bên vợ chồng được tuyên mất năng lực hành vi và người kia bị
coi là không thích hợp để làm người giám hộ và do đó cha hoặc mẹ của
người đó hoặc một người được chỉ định làm người giám hộ thì người giám
hộ đó sẽ trở thành người đồng quản lý tài sản chung với người kia. Trong
trường hợp này vợ hoặc chồng của người bị mất năng lực hành vi có quyền
yêu cầu Tòa án chia tài sản chung nếu có tình huống quan trọng gây ra
nguy hại cho họ.
Mặc dù Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 không có điều luật cụ thể
quy định căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
ngoại trừ các trường hợp vô hiệu khi chia tài sản chung theo Điều 42 Luật
HN&GĐ Việt Nam thì các trường hợp không vi phạm Điều này sẽ là được
coi căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Các quy
định của BLDS&TM Thái Lan dù đã được ban hành rất lâu nhưng vẫn phù
hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay và vẫn có nhiều ưu điểm trên thực
tiễn áp dụng. Không chỉ quy định về căn cứ chia tài sản chung, BLDS&TM
Thái Lan còn quy định rất cụ thể về hậu quả sau khi chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và việc khôi phục chế độ tài sản chung
của vợ chồng, cụ thể Điều 1492 BLDS&TM Thái Lan quy định: sau khi
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản của vợ
chồng sẽ có thay đổi cụ thể như sau:
- Phần tài sản được chia cho mỗi bên vợ hoặc chồng trở thành tài sản
riêng của mỗi người;
- Bất cứ tài sản nào mà người vợ hoặc người chồng có được sau khi
chia tài sản chung sẽ là tài sản riêng của người đó và không được coi là tài sản
chung;
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung sau khi
chia tài sản chung sẽ là tài sản riêng;
33

Khá tương đồng với pháp luật Pháp, việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân của vợ chồng sẽ dẫn đến chế độ tài sản chung sẽ chấm
dứt, mọi tài sản sau khi chia và tài sản có được sau khi chia đều là tài sản
riêng, kể cả trường hợp tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung cũng
trở thành tài sản riêng bằng cách chia đều cho mỗi bên. Tuy nhiên, sau khi
chia tài sản chung thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm thanh toán những chi
tiêu của gia đình theo tỷ lệ tương ứng với số tài sản riêng của mỗi người.
Quy định này sẽ giúp nâng cao trách nhiệm cá nhân của mỗi bên vợ, chồng
đồng thời cũng thể hiện quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Nhìn chung
quy định của pháp luật Pháp và pháp luật Thái Lan khác với pháp luật Việt
Nam về hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Đối với Luật HN&GĐ 2014 thì sau khi chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản chung
của vợ chồng, quy định như vậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các thành viên khác trong gia đình và quyền lợi ích của người thứ ba liên
quan. Mặc dù theo pháp luật Pháp và pháp luật Thái Lan việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ làm chấm dứt chế độ tài sản
chung nhưng trong quy định của pháp luật hai nước đều có quy định các
bên có nghĩa vụ với gia đình căn cứ theo số tài sản riêng đã được chia, quy
định như vậy cũng có ưu điểm riêng và phù hợp với nền kinh tế của Thái
Lan.
Ngoài ra, BLDS&TM Thái Lan còn có quy định về việc khôi phục
chế độ tài sản chung cũng được ghi nhận: “trong trường hợp chia “Sin
Somros” theo lệnh của Tòa án thì việc hủy bỏ sự phân chia đó sẽ được
thực hiện theo yêu cầu của người vợ hoặc người chồng và Tòa án sẽ ra
quyết định công nhận việc này. Nếu vợ hoặc chồng phản đối yêu cầu này
thì Tòa án không được ra quyết định hủy bỏ việc chia “Sin Somros” trừ khi
lý do chia “Sin Somros” đã chấm dứt”.
34

Chế độ tài sản chung của vợ chồng sẽ được khôi phục khi có yêu cầu
của vợ, chồng hoặc khi có lý do chia đã chấm dứt. Sau khi việc chia tài sản
chung đã được hủy bỏ hoặc đình hoãn do vợ chồng đã thoát khỏi việc phá
sản thì tài sản là tài sản riêng vào ngày có quyết định của Tòa án hoặc vào
ngày mà người vợ hoặc người chồng thoát khỏi việc phá sản vẫn giữ
nguyên là tài sản chung.
Tóm lại, pháp luật Thái Lan có một số quy định về hậu quả pháp lý
sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khác với
quy định của pháp luật Việt Nam vì vậy cần có cái nhìn khách quan và vận
dụng hợp lý cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và truyền thống của
Việt Nam.
35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 của luận văn đã đưa ra các khái niệm về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và các khái niệm liên quan để người
đọc hình dung được thế nào là chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Đồng thời qua chương 1 chúng ta cũng có góc nhìn khái quát và toàn diện
những vấn đề cơ bản của chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân qua các giai đoạn lịch sử, cũng như pháp luật HN&GĐ của Pháp và
Thái Lan quy định như nào về chế định chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó tạo tiền đề cho việc phân tích và so sánh tại
chương 2 được thuận lợi và bám sát hơn.
36

Chương 2
CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
2.1.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu
lực khi không thuộc trường hợp chia tài sản bị coi là vô hiệu
Luật HN&GĐ 2014 quy định các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu tại Điều 42 Luật này. Quy định
này đã mở rộng sự lựa chọn căn cứ chia tài sản cho vợ chồng hơn rất nhiều
so với Luật HN&GĐ 2000. Luật HN&GĐ 2014 quy định về căn cứ chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân theo hướng “làm những việc mà pháp
luật không cấm”. Cụ thể, Luật HN&GĐ 2014 đã bỏ việc quy định các
trường hợp chia tài sản chung như đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa
vụ dân sự riêng,… Bỏ đi quy định này không có nghĩa rằng những trường
hợp này không còn là căn cứ để vợ, chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án
chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà Luật HN&GĐ hiện hành đã mở
rộng hơn, để cho vợ chồng được tự do lựa chọn, tự do thỏa thuận căn cứ chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân cho phù hợp với yêu cầu thực tế trong
cuộc sống, phù hợp với mục đích hợp pháp của hai bên vợ, chồng, cũng là
đảm bảo quyền tự do lựa chọn, tự do định đoạt hợp pháp của công dân đối
với tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ, chồng.
Nhưng không phải vì thế mà Luật HN&GĐ 2014 hoàn toàn bỏ ngỏ
cho vợ, chồng tự do định đoạt việc chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân mà không có nguyên tắc. Điều 42 Luật này quy định các căn cứ dẫn
37

đến chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một
trong các trường hợp:
“1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích
hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình;
2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà
nước;
e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, BLDS và
quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Khoản 1 Điều này quy định về trường hợp vợ, chồng chia tài sản
chung gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, quyền, lợi ích
hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình. Ví dụ trường hợp hai vợ hai vợ chồng anh A và chị B kết hôn được 3
năm, hiện anh A yêu cầu chị B thỏa thuận chia hết khối tài sản chung của
vợ chồng để đầu tư, tuy nhiên nếu xét thấy việc chia hết số tài sản chung
của hai vợ chồng sẽ đẩy cuộc sống gia đình vào tình trạng khó khăn về tài
chính, không đảm bảo chi tiêu, nuôi dạy con cái thì không được phép chia
hết số tài sản chung đó của vợ chồng. Trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng còn có thể ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Như đã trình bày ở trên,
38

khi hai vợ chồng đang nuôi con nhỏ hoặc nuôi con thành niên nhưng mất
năng lực hành vi dân sự, không có khả năng tự nuôi sống bản thân thì bố
mẹ có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có ảnh hưởng nghiêm trọng
đến việc nuôi dưỡng con cái, đến lợi ích của các con thì việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu. Quy định này đã
góp phần đảm bảo những thành viên trong gia đình phải có trách nhiệm đối
với nhau, đặc biệt là nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con được quy định tại
Khoản 4 Điều 68, Khoản 2 Điều 69, Khoản 1 Điều 71, đồng thời cũng là
đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ về việc xây dựng
gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc…; bảo vệ, hỗ trợ trẻ em…; kế thừa,
phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về
HN&GĐ được quy định tại Điều 2 Luật này.
Không chỉ đảm bảo lợi ích chung của gia đình, đảm bảo gia đình ấm
no, hạnh phúc, đảm bảo quyền hợp pháp của các con trong gia đình, các
quy định của Luật HN&GĐ 2014 về căn cứ dẫn đến vô hiệu của việc chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân còn đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba trong quan hệ pháp luật dân sự bằng việc quy định
các trường hợp vợ chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung
nhằm trốn tránh thực thiện các nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật
hiện hành, cụ thể:
Trường hợp chia tài sản chung vô hiệu do việc chia tài sản nhằm trốn
tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng (Điểm a Khoản 2 Điều 42 Luật
HN&GĐ 2014). Nghĩa vụ cấp dưỡng được hiểu là việc một người có nghĩa
vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người
không sống chung với mình mà có quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc
nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã
thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
39

mình hoặc người gặp khó khăn túng thiếu theo quy định (Khoản 24 Điều 3
Luật HN&GĐ 2014). Quy định này xuất phát từ truyền thống đạo đức tốt
đẹp từ nghìn đời nay của nhân dân Việt Nam, tuy nhiên có nhiều trường
hợp vợ chồng chia tài sản chung để trốn trách nhiệm nuôi dưỡng con cái
(kể cả con chung hay con riêng), hay phụng dưỡng cha mẹ, như vậy là đi
ngược lại với đạo đức xã hội và trái với quy định của pháp luật. Ví dụ, vợ
hoặc chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người con riêng của mình và vợ
chồng thỏa thuận chia tài sản chung nhằm chứng minh khả năng tài chính
không đủ để trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc giảm bớt nghĩa vụ cấp
dưỡng đối với người con riêng kia thì thỏa thuận chia tài sản chung này
mặc nhiên vô hiệu. Quy định việc chia tài sản chung vô hiệu trong trường
hợp trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng nhằm đảm bảo việc thực
hiện nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cũng như nghĩa vụ của con đối với
cha mẹ nhằm xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, mọi thành viên trong
gia đình đều phải có trách nhiệm với nhau.
Trường hợp chia tài sản chung vô hiệu do việc chia tài sản nhằm trốn
tránh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức,
nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước và nghĩa
vụ khác về tài sản theo quy định của pháp luật (Điểm b, c, d, đ, e Khoản 2
Điều 42 Luật HN&GĐ 2014). Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
cũng được quy định tại Điều 37 Luật HN&GĐ 2014, cụ thể vợ chồng có
các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do
vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo
quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; nghĩa vụ do
vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối
tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; nghĩa vụ
40

bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của BLDS thì cha mẹ
phải bồi thường và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa
vụ chung về tài sản của vợ chồng cũng được quy định tại Điều 37 Luật
HN&GĐ 2014, cụ thể vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải
chịu trách nhiệm; nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để
duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu
của gia đình; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định
của BLDS thì cha mẹ phải bồi thường và các nghĩa vụ khác theo quy định
của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 224 BLDS 2005 quy định: “Trong
trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung
thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài
sản riêng không đủ để thanh toán thì người có yêu cầu chia tài sản chung
để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đối với quy định này, chủ nợ của
một trong số đồng sở hữu của tài sản chung có quyền yêu cầu chia tài sản
chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung
đó. Quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện trong cuốn Bình luận khoa
học Luật HN&GĐ Việt Nam, tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
do Nhà xuất bản trẻ phát hành năm 2004, tại trang 191 và 192 cho rằng chủ
nợ của vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng để
thực hiện việc trả nợ bởi chủ nợ trong trường hợp này thực chất chỉ đang
thực hiện các quyền của người cho vay tài sản. Nhưng theo quan điểm của
tác giả luận văn, quan điểm này không hợp lí. Bởi lẽ chế độ tài sản của vợ
41

chồng gắn liền với nhân thân của vợ, chồng và có ảnh hưởng lớn đến việc
bảo đảm nhu cầu chung của gia đình nên Luật HN&GĐ hiện hành mới quy
định chỉ vợ, chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung. Chủ nợ của vợ
hoặc chồng không có quyền này với mục đích để được thanh toán nợ và
càng không có quyền tham gia vào quá trình chia tài sản chung. Quy định
này so với quy định của BLDS không bị mâu thuẫn nhau bởi pháp luật dân
sự quy định “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (Điều 224).
Trường hợp chia tài sản chung vô hiệu do việc chia tài sản nhằm trốn
tránh nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản. Quy định về chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng trong Luật HN&GĐ
2014 đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng tham gia vào các
hoạt động đầu tư, kinh doanh trong đó có các hoạt động chịu sự điều chỉnh
của Luật Doanh nghiệp. Trong thời kỳ hôn nhân, chỉ cần thỏa thuận của vợ
chồng không nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì được thỏa thuận hoặc
yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Sau khi chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có toàn quyền
thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản này mà không cần có sự đồng
ý của vợ hay chồng mình. Luật HN&GĐ 2014 quy định chia tài sản chung
của vợ chồng đưa vào kinh doanh tại Điều 64: “Vợ, chồng đang thực hiện
hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận lại
tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được
hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác”. Tuy
nhiên, do yêu cầu về tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp, Luật Doanh
nghiệp có những quy định khác nhau về việc chuyển nhượng phần vốn góp
trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Do đó, việc chia tài sản chung
của vợ chồng (nhận chuyển nhượng một phần vốn góp) trong trường hợp
này phải phù hợp với các quy định của Luật Doanh nghiệp.
42

Chẳng hạn đối với Công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp 2014 quy
định thành viên góp vốn có quyền được chia một phần giá trị tài sản còn
lại của công ty tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty khi
công ty giải thể hoặc phá sản. Khoản 3 Điều 175 Luật Doanh nghiệp 2014
quy định “Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc
toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được
sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại”. Như vậy, trong
trường hợp này, vợ chồng chỉ có thể yêu cầu chia phần góp vốn là tài sản
chung của vợ chồng khi được các thành viên hợp danh của công ty đồng ý.
Đối với công ty cổ phần, Điểm d Khoản 1 Điều 110 Luật Doanh
nghiệp 2014 quy định: “Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và
khoản 1 Điều 126 của Luật này”. Khoản 3 Điều 119 và Khoản 1 Điều 126
nói ở quy định này quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần đối với cổ
đông sáng lập. Do đó, nếu vợ chồng có tài sản chung là cổ phần trong công
ty cổ phần mà không phải là cổ phần của cổ đông sáng lập thì vợ, chồng có
quyền yêu cầu chia tài sản chung này như tài sản chung thông thường khác.
Tương tự, đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
nên, thành viên công ty chỉ được chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ
vốn góp của mình “cho người không phải là thành viên nếu các thành viên
còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày chào bán” (Điểm b Khoản 1 Điều 53 Luật Doanh nghiệp 2014).
Trong trường hợp này vợ, chồng chỉ được chia (nhận chuyển nhượng một
phần vốn góp) khi đã thực hiện việc chào bán phần vốn góp cho các thành
viên khác của Công ty mà hết hạn các thành viên này không mua.
Như vậy, không phải trong trường hợp nào yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng là phần vốn góp trong Doanh nghiệp đều được thực
hiện. Trong trường hợp phần vốn góp không thể chia được cho vợ, chồng
43

thì vợ, chồng tiếp tục quản lý phần vốn góp đó và thanh toán cho bên kia
phần giá trị tương ứng với quyền của họ được hưởng. Việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong trường hợp này chịu sự chi phối chủ yếu của
Luật Doanh nghiệp với tư cách là Luật chuyên ngành trong lĩnh vực này.
Có thể thấy, các quy định này phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế
xã hội hiện đại và giúp cho các cặp vợ chồng có nhiều sự lựa chọn hơn, mở
rộng căn cứ chia tài sản chung cho vợ chồng. Như vậy, từ quy định tại Điều
42 thì có thể hiểu rằng nếu không thuộc các trường hợp quy định tại điều
này thì việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ
được coi là có hiệu lực. Tuy nhiên để xác định việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là có hiệu lực hay là vô hiệu thì hiện nay
chưa có cơ quan nhà nước nào kiểm nhiệm, chỉ khi vợ chồng có tranh chấp
hay có tranh chấp với người thứ ba thì lúc này mới đặt ra vấn đề xác định
việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có vô hiệu hay
không. Nhưng luật không quy định ai là người có quyền yêu cầu tuyên bố
việc chia tài sản của vợ chồng bị vô hiệu, vì vậy, rất khó áp dụng trên thực
tế. Vấn đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn tại chương 3 của luận văn này.
2.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải
tuân theo hình thức nhất định
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của vợ
chồng phải được lập thành văn bản. Đây là điều kiện tiên quyết để chia tài
sản chung giữa vợ và chồng.
* Văn bản thỏa thuận về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân có thể được công chứng hoặc không công chứng
Trường hợp pháp luật không có quy định về hình thức thì văn bản
phân chia tài sản của vợ chồng sẽ được lập thành văn bản và có hiệu lực
pháp luật. Nội dung văn bản phân chia tài sản bao gồm:
- Lý do phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân;
44

- Phần tài sản được phân chia;


- Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;
- Các nội dung khác (nếu có).
Việc hai vợ chồng tự thoả thuận việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân của vợ chồng thể hiện nhiều ưu điểm như tiếc kiệm thời gian, chi
phí đồng thời cũng thể hiện sự đồng thuận của vợ chồng trong việc chung
sức xây dựng tổ ấm gia đình nên hình thức thỏa thuận bằng văn bản được
nhiều cặp vợ chồng lựa chọn khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân. Tuy nhiên, việc quy định chia tài sản chung theo thỏa thuận của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được thể hiện bằng văn bản nhưng
không bắt buộc phải có người làm chứng hay phải được công chứng bởi cơ
quan có thẩm quyền, quy định này chưa chặt chẽ dẫn đến sự tùy tiện trong
việc áp dụng pháp luật. Liệu đây có phải là điểm hở khiến các cặp vợ
chồng lợi dụng để trốn tránh việc thưc hiện nghĩa vụ tài sản? Hơn nữa, nếu
có tranh chấp xảy ra, Tòa án sẽ khó đánh giá chứng cứ, khó xác định trách
nhiệm để bảo vệ quyền lợi của các bên.
* Văn bản thỏa thuận về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân bắt buộc phải công chứng
Văn bản chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bắt
buộc phải công chứng nếu tài sản chia là bất động sản như nhà ở, quyền sử
dụng đất… thì bắt buộc việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân phải được công chứng. Thường những tài sản có đăng ký sở hữu
khi phân chia sẽ phải tiến hành thủ tục công chứng tại cơ quan có thẩm
quyền về công chứng. Đối với những tài sản này sau khi có sự phân chia
hai bên vợ chồng phải tiến hành đăng ký cập nhật lại thông tin về tài sản ở
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác lập quyền sở hữu riêng của mình.
Ngoài ra, đối với các văn bản phân chia tài sản khác, nếu các bên có yêu
cầu công chứng thì sẽ được công chứng theo quy định của pháp luật.
45

Tuy nhiên, trong một số trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân được công chứng thì việc xác minh lý do chia tài
sản chung cũng rất khó khăn, từ đó dẫn đến trường hợp tài sản chung đã
chia sau đó mới phát hiện ra vi phạm về lý do chia. Trường hợp phát hiện
chia tài sản chung vi phạm về lý do chia thì thỏa thuận chia tài sản chung
của vợ chồng được tuyên vô hiệu nhưng vẫn làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích của những người liên quan bởi khi tài sản đã được tẩu
tán thì việc khôi phục lại tình trạng ban đầu không phải lúc nào cũng thực
hiện được.
Nhìn chung, quy định về thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng vẫn còn nhiều nhược điểm, vì vậy
pháp luật nên chăng quy định bắt buộc trong mọi trường hợp thỏa thuận
bằng văn bản khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đều phải được
công chứng của cơ quan có thẩm quyền? Ngoài ra, việc thỏa thuận bằng
văn bản có công chứng cũng cần phải có những ràng buộc khắc phục
những hạn chế, phát huy được hiệu quả áp dụng như buộc vợ chồng phải
công bố công khai về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, trên
cơ sở đó những người có quyền và nghĩa vụ liên quan mới có thể phát hiện
và có những yêu cầu kịp thời ngăn chặn việc lợi dụng chia tài sản chung để
trốn tránh nghĩa vụ tài sản vợ chồng. Những vướng mắc này sẽ được phân
tích cụ thể tại chương 3 của luận văn.
* Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi yêu cầu Tòa án
giải quyết
Cuộc sống vợ chồng không phải lúc nào cũng êm đềm, suôn sẻ, đôi
khi có những mâu thuẫn dẫn đến chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân nhưng vợ chồng lại không thoả thuận được với nhau về việc
chia số tài sản này. Khi vợ chồng không thoả thuận được và yêu cầu chia
tài sản chung tại Toà án có thể xảy ra 02 trường hợp.
46

Thứ nhất, vợ chồng cùng nhau thỏa thuận chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân nhưng không thỏa thuận được việc chia như thế nào. Ví
dụ, ông A và bà B đồng ý với nhau chia tài sản chung là 01 mảnh đất
nhưng hai vợ chồng không thoả thuận được phương thức chia như nào nên
đã yêu cầu Toà án chia tài sản chung của hai ông bà. Việc chia tài sản tại
Toà án dưới hình thức một bản án có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, vợ chồng không thỏa thuận được về vấn đề chia tài sản
chung thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án sẽ căn cứ yêu cầu của vợ
chồng về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để ra
quyết định cho việc chia tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ ông A và bà B
muốn đầu tư kinh doanh riêng, tài sản chung của ông bà gồm 01 xe ô tô, 01
xe máy, và số tiền 500 triệu tiền gửi tiếc kiệm. Nay ông bà có nhu cầu kinh
doanh riêng nên muốn chia tài sản chung nhưng lại không thoả thuận được
tài sản của mỗi bên như nào, ông A thì muốn chia số tiền tiếc kiệm, bà B
thì muốn chia tài sản là ô tô và tiền tiếc kiệm. Yêu cầu của hai ông bà
không thống nhất nên nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
2.1.3. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
Luật HN&GĐ 2014 quy định về thời điểm có hiệu lực của việc chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 39 Luật này. Theo đó, thời
điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản;
nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có
hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật,
giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì
47

việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa
thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.
Cụ thể, nếu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
được chia theo hình thức thoả thuận được lập thành văn bản và không công
chứng thì thời điểm có hiệu lực của văn bản thoả thuận là ngày lập văn bản
hoặc ngày được hai vợ chồng thoả thuận và ghi trong văn bản thoả thuận
phân chia tài sản chung. Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân bằng hình thức văn bản và được công chứng
tại cơ quan có thẩm quyền công chứng thì thời điểm có hiệu lực là thời
điểm công chứng văn bản thoả thuận phân chia tài sản chung của hai vợ
chồng. Trường hợp tài sản chung của vợ chồng được chia tại Toà án thì
hiệu lực của việc phân chia là thời điểm bản án, quyết định của Toà án có
hiệu lực pháp luật.
Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh
trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Ví dụ, trước khi chia tài sản
chung của vợ chồng, vợ hoặc chồng đang vay ngân hàng một khoản tiền,
sau khi chia tài sản chung của vợ chồng thì một bên vợ hoặc chồng vay tiền
mất khả năng trả nợ cho chủ nợ. Trường hợp này khoản vay phát sinh trước
khi hai vợ chồng chia tài sản nên vẫn có hiệu lực pháp lý, khoản vay này
hai vợ chồng đều có nghĩa vụ thanh toán trừ trường hợp vợ chồng và đương
sự có thoả thuận khác.
Quy định này khá rõ ràng và cụ thể góp phần làm ổn định các quan
hệ xã hội liên quan đến tài sản vợ chồng. Trong cuộc sống hàng ngày vợ
chồng tham gia nhiều mối quan hệ khác nhau như hoạt động sản xuất, kinh
doanh… để tạo thu nhập phục vụ cuộc sống gia đình hay một số trường
hợp cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ dân sự riêng của mỗi người: ví dụ
khi vợ hoặc chồng ký hợp đồng sản xuất, kinh doanh với một bên thứ ba.
48

Khi đó thời điểm có hiệu lực chia tài sản chung của vợ chồng sẽ là căn cứ
để bên thứ ba đòi quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, việc quy
định hiệu lực cụ thể còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác giải
quyết các tranh chấp liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
2.1.4. Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân
Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
“1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một
phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của
Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết.”
Theo đó, trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có quyền thỏa thuận để
chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung của mình mà không thuộc vào
trường hợp vô hiệu theo Điều 42 Luật này. Như vậy, chỉ có vợ và chồng mới
có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
đây cũng là một hạn chế của Luật HN&GĐ 2014 bởi lẽ quy định như trên thì
quyền và lợi ích của người thứ ba sẽ không được bảo đảm vì theo nguyên tắc
nghĩa vụ tài sản riêng của người nào sẽ được thực hiện bằng tài sản riêng của
người đó mà không được bảo đảm bằng tài sản chung.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích
tạo điều kiện cho vợ chồng có nguồn vốn để đầu tư, kinh doanh riêng, đảm
bảo quyền tự do kinh doanh, tránh những rủi ro không đáng có cho gia đình,
đảm bảo quyền tài sản cho người thứ ba nhưng một mặt đảm bảo lợi ích cho
gia đình. Hơn nữa Điều 224 BLDS 2005 quy định về chia tài sản thuộc hình
thức sở hữu chung:
“1. Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở
hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu
49

chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì
mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời
hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá
thành tiền để chia.
2. Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở
hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản
riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền
yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào
việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Nên chăng, Luật HN&GĐ nên có quy định cho người thứ ba có quyền
yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba cũng như quyền, lợi ích hợp
pháp của gia đình.
2.2. PHƯƠNG THỨC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN
Điều 38 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ
chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ
trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật HN&GĐ 2014; nếu không thỏa
thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường hợp vợ,
chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng
theo quy định tại Điều 59 của Luật HN&GĐ 2014”.
Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng có thể được giải
quyết theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc bằng con đường Tòa án.
Khi hai vợ chồng thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân thì hai vợ chồng có thể thoả thuận chia một phần hay toàn bộ số tài
sản chung của hai vợ chồng, cách thức và phương thức chia do hai vợ
chồng tự thoả thuận. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc thoả thuận
chia tài sản chung của vợ chồng lại gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của gia
50

đình và người thứ ba vì trong một số trường hợp nếu chia hết khối tài sản
chung của vợ chồng sẽ dẫn đến đời sống gia đình không được bảo đảm,
kinh tế và kinh phí để duy trì đời sống hôn nhân cũng như nhu cầu nuôi dạy
con cái và chăm lo cho gia đình hạnh phúc, ấm no gặp nhiều khó khăn. Đây
là cũng là một điểm thiếu xót trong quy định của Luật và cần có quy định
chặt chẽ, cụ thể hơn điều chỉnh vấn đề này.
Trường hợp vợ chồng không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Khi đó phương thức
chia tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo nguyên tắc giải quyết
tài sản tại Điều 59 Luật HN&GĐ 2014 và hướng dẫn cụ thể tại Thông tư
liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP. Sau đây là các
nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo quy định tại
Điều 59 Luật HN&GĐ 2014:
* Thứ nhất, nguyên tắc chia đôi đối với tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
Nguyên tắc này được quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ
2014:
“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính dến các
yếu tố sau đây:
a. Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b. Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi
như lao động có thu nhập;
c. Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh
và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d. Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”
Về cơ bản, nguyên tắc khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân là chia đôi, tuy nhiên để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
51

của các bên thì khi Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân sẽ xem xét các yếu tố khác, cụ thể theo hướng dẫn tại Thông tư
liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì:
Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được chia đôi
nhưng có xem xét đến “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng”. Hoàn
cảnh của gia đình và cua vợ, chồng là tình trạng về năng lực pháp luật,
năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng cũng như của
các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về
nhân thân và tài sản theo quy định của Luật HN&GĐ. Bên gặp khó khăn
hơn sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ được chia phần tài
sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo
đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh
thực tế của gia đình và của vợ, chồng. Ví dụ, khi chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, người vợ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi
nên gặp khó khăn hơn về tình hình tài chính, lúc này Toàn án sẽ căn cứ vào
tình hình tài sản được chia để có quyết định chia hợp lý, người vợ sẽ nhận
được phần tài sản lớn hơn vì sau khi chia tài sản chung của vơ chồng trong
thời kỳ hôn nhân người vợ phải nuôi con nhỏ, việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con sẽ cần nhiều chi phí hơn. Quy định này là phù hợp vì nó đảm
bảo cho quyền và lợi ích chính đáng của vợ hoặc chồng sau khi chia tài sản,
đảm bảo cho cuộc sống gia đình được duy trì ổn định, ấm no.
Ngoài ra, việc chia đôi tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân còn xét đến “công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy
trì và phát triển khối tài sản chung” tức là sự đóng góp về tài sản riêng, thu
nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy
trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc
con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương
52

đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp
nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn. Quy định này là hợp lý bởi lẽ bên có
công sức đóng góp nhiều hơn xứng đáng nhận được phần tài sản lớn hơn,
đồng thời việc quy định chia tài sản có xét đến công sức đóng góp của các
bên cũng sẽ hạn chế các trường hợp vợ hoặc chồng lợi dụng việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân để chiếm đoạt tài sản của vợ hoặc chồng
mình.
Bên cạnh đó, việc chia đôi tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân còn
xét đến việc “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh
doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu
nhập”. Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên là việc chia tài sản chung
của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp
được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh
doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề
nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng
và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân
sự. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã
thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình thì việc chia tài sản chung của vợ
chồng được xem xét xem có đủ căn cứ để chia hay không. Ví dụ, hai vợ
chồng ông A và bà B có tài sản chung là 01 chiếc ô tô trị giá 300 triệu được
ông A dùng làm phương tiện taxi chở khách hàng ngày, đây là công việc
chính của ông A và một cửa hàng tạp hoá trị giá 200 triệu do vợ ông là bà
B buôn bán. Trên tình hình này, khi ông A và bà B có yêu cầu chia toàn bộ
số tài sản chung trên thì Toà án sẽ xem xét đến việc đảm bảo lợi ích của
mỗi bên trong hoạt động kinh doanh cũng như tiếp tục lao động kiếm thu
53

nhập. Toà án sẽ xem xét và chia cho ông A tài sản là chiếc ô tô để ông tiếp
tục lao động, chia cho bà B cửa hàng tạp hoá để buôn bán duy trì cuộc sống
của gia đình. Lúc này ông A nhận phần tài sản hơn sẽ thanh toán cho bà B
phần giá trị là 50 triệu đồng.
Đối với trường hợp một trong hai bên có lỗi trong vi phạm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng dẫn đến chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
thì được Toà án xem xét để giải quyết trong quá trình chia tài sản chung. Ví
dụ người chồng có hành vi phá tán tài sản gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lợi ích của gia đình thì khi giải quyết việc chia tài sản chung Toà án phải
xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con
chưa thành niên.
* Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu
không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bằng
hiện vật hay chia theo giá trị được giải quyết tại Tòa án, giống với thủ tục
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Trong trường hợp Tòa án chia
tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ
ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia
được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng
hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho
bên kia phần chênh lệch. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu
của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo
quy định của Luật này. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài
sản riêng và tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được
thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
54

* Thứ ba, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao
động thì Tòa án căn cứ vào các yếu tố này và các trường hợp quy định chia
tài sản chung bị vô hiệu theo Điều 42 Luật này để quyết định phương thức
chia đôi căn cứ vào hoàn cảnh gia đình của vợ chồng. Trong trường hợp
người vợ đang nuôi con nhỏ mà hai vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản
chung thì cần xem xét đến yếu tố đảm bảo lợi ích cho người vợ đang nuôi
con nhỏ, phần tài sản chia cho người vợ sẽ lớn hơn người chồng hoặc sẽ ưu
tiên chia bằng hiện vật cho một bên nuôi con. Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài
sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia
được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc
chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài
sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu
cầu.
Nhìn chung, Luật HN&GĐ 2014 không quy định cụ thể về phương
thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Với trường
hợp vợ chồng tự thoả thuận được thì việc chia diễn ra nhanh chóng, đơn
giản nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro vì hai vợ chồng tự do thoả thuận về
phương thức chia, cách thức chia nên không xác định được việc chia tài sản
chung đó có rơi vào trường hợp vô hiệu theo Điều 42 Luật HN&GĐ hay
không. Nếu vợ chồng không tự thoả thuận được về phương thức chia thì
yêu cầu Toà án giải quyết, có thể vợ hoặc chồng chỉ muốn chia một phần
tài sản chung nhưng phía chồng hoặc vợ lại muốn chia toàn bộ số tài sản
chung thì việc xác định chia toàn bộ hay chia một phần của Toà án gặp
55

nhiều khó khăn. Vậy, Toà án có thể căn cứ vào Điều 42 luật này để xác định
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là chia một phần hay toàn bộ
tài sản.
2.3. HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
2.3.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt
quan hệ nhân thân của vợ chồng trước pháp luật. Cho nên sau khi chia tài
sản chung thì quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng vẫn còn tồn tại
mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.
Sau khi chia tài sản chung vợ chồng có thể ở chung hoặc ở riêng, tuy
nhiên nếu vợ chồng ở riêng sẽ rất khó cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
đối với vợ, chồng mình. Hơn nữa, khi vợ chồng sống riêng sẽ tạo điều kiện
cho vợ, chồng vi phạm, không thực hiện đúng nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ
lẫn nhau. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tình cảm giữa hai vợ
chồng, ảnh hưởng đến con cái cũng như sự phát triển bình thường của gia
đình. Có quan điểm cho rằng việc pháp luật quy định về chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân đã gián tiếp thừa nhận tình trạng ly thân trong mối
quan hệ vợ chồng. Hiện nay trong Luật HN&GĐ Việt Nam không có quy
định nào về chế định ly thân do vậy việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân không phải là gián tiếp quy định chế độ ly thân. Ly thân là một
chế định pháp luật và là một thuật ngữ pháp lý để chỉ trường hợp vợ chồng
phải chung sống “riêng rẽ” (biệt cư) và “tách bạch” về tài sản (biệt sản)
mà pháp luật của nhiều nhà nước tư sản và hệ thống pháp luật HN&GĐ
dưới chế độ cũ ở nước ta quy định. Nhưng việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân không đẫn đến hậu quả là chung sống riêng rẽ và tách
bạch về tài sản. Việc vợ chồng sống chung hay ở riêng là hoàn toàn phụ
thuộc vào điều kiện sống, nghề nghiệp và nguyện vọng của cả hai vợ
56

chồng, pháp luật không thể can thiệp trong trường hợp này. Hơn nữa mục
đích của các nhà làm luật khi quy định chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân nhằm làm ổn định quan hệ gia đình khi chưa đến
mức phải ly hôn, bảo đảm quyền lợi ích chính đáng về tài sản của vợ
chồng, của các thành viên trong gia đình cũng như của người thứ ba. Mặt
khác căn cứ xin ly hôn của hai vợ chồng cũng không bao gồm lý do chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân vì căn cứ để Tòa án xem xét cho ly hôn
là mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích
hôn nhân không đạt được.
2.3.2. Hậu quả pháp lý về tài sản
Hậu quả pháp lý về tài sản sau khi chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân được quy định tại Điều 40 Luật HN&GĐ 2014 và
Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ
hướng dẫn chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ thì kể
từ ngày việc phân chia tài sản chung có hiệu lực, chế độ tài sản vợ chồng
không chấm dứt.
Theo quy định tại Điều 40 Luật HN&GĐ 2014 thì:
“1. Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài
sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau
khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ
chồng có thoả thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản
chung của vợ chồng.
2. Thoả thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không
làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ,
chồng với người thứ ba.”
Quy định này mở rộng hơn so với quy định tại Luật HN&GĐ 2000.
Theo Luật HN&GĐ 2000 thì sau khi chia tài sản chung của vợ chồng thì
hoa lợi, lợi tức từ tài sản đã được chia là tài sản riêng của mỗi người, Luật
57

hiện hành quy định mở rộng hơn theo hướng bảo vệ lợi ích chung của gia
đình tránh trường hợp sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân các nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình bị ảnh hưởng, cuộc
sống gia đình không được bảo đảm.
Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ quy
định:
“1. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
2. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực,
nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng.
3. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực,
nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không
xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh
của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc
sở hữu chung của vợ chồng”..
Như vậy, hậu quả pháp lý về mặt tài sản của vợ chồng sau khi chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt
chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, vợ chồng vẫn bình đẳng với
nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Đối với những tài sản phát sinh sau khi chia, tính từ thời điểm việc
chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thỏa
thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản
riêng của vợ, chồng. Nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của
vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động
58

sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Điều này được thể hiện rõ nhất trong trường hợp vợ chồng chỉ chia
một phần tài sản chung bởi phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Ngay cả trường hợp chia toàn bộ tài sản
chung thì khối tài sản chung vẫn có thể phát sinh chẳng hạn như sau khi
chia tài sản chung vợ chồng lại được thừa kế chung, tặng cho chung. Khác
với các quy định của pháp luật nước ngoài nêu tại chương 1 luận văn khi đã
chia tài sản chung của vợ chồng là tình trạng tài sản của vợ chồng rơi vào
tình trạng “biệt sản” không còn sở hữu chung. Quy định của pháp luật
HN&GĐ Việt Nam là phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội, đạo đức của
Việt Nam. Đối với pháp luật Việt Nam trong trường hợp ly hôn hoặc
trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, do quan hệ hôn nhân giữa
vợ chồng đã chấm dứt nên việc chia tài sản chung trong những trường hợp
này luôn dẫn đến chấm dứt chế độ tài sản chung.
Ngoài ra, nếu sau khi chia tài sản chung mà vợ chồng nhập một phần
tài sản hoặc toàn bộ tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung thì chỉ tài
sản được nhập này trở thành tài sản chung hợp nhất của vợ chồng còn hậu
quả pháp lý của việc chia tài sản chung vẫn được áp dụng bình thường.
Đối với phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc tài sản chung của
vợ chồng, vợ chồng có quyền thỏa thuận trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt khối tài sản đó và trong một số trường hợp vợ chồng phải thỏa
thuận bằng văn bản nếu việc định đoạt khối tài sản chung đó trong trường
hợp tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản
đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu cho gia đình. Bên cạnh đó, vợ chồng
cũng có nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như nghĩa vụ phát sinh từ
việc định đoạt tài sản chung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
59

Ngoài ra, theo quy định chi tiết tại Nghị định số 126/2014/NĐ-CP thì
kể từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài
sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác
định được là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ,
chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì tài sản này
thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Quy định này là để đảm bảo lợi ích
chung của gia đình cũng như đảm bảo duy trì gia đình luôn ấm no, hạnh
phúc.
2.4. CHẤM DỨT HIỆU LỰC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
Luật HN&GĐ 2014 cho phép vợ chồng được chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân đồng thời cũng tạo cơ hội cho họ được “trở lại” với
chế độ tài sản chung sau khoảng thời gian đã chia tài sản chung. Pháp luật
HN&GĐ 2014 quy định về thời gian chấm dứt hiệu lực của việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 41 Luật này, theo đó, sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Thỏa thuận chấm dứt hiệu
lực của việc chia tài sản chung phải được lập thành văn bản, văn bản này
được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp
luật.
Căn cứ vào Điều 41 Luật này thì vấn đề chấm dứt hiệu lực của việc
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm những nội
dung sau:
Thứ nhất, sự thoả thuận của vợ chồng: nếu như đối với việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ cần một trong hai bên
vợ chồng có yêu cầu thì việc “trở lại” với chế độ tài sản chung chỉ có thể
được thực hiện một khi có sự đồng ý của cả vợ và chồng. Một khi vợ hoặc
chồng không đồng ý, người còn lại không có quyền kiện yêu cầu khôi phục
60

chế độ tài sản chung bằng con đường tư pháp. Nếu việc chia tài sản chung
của vợ chồng là thoả thuận bằng văn bản không có công chứng thì khi
chấm dứt hiệu lực của văn bản thoả thuận đó trên thực tế vợ chồng chỉ cần
lập thêm một văn bản mới thể hiện sự đồng thuận của vợ chồng về việc
“trở lại” với chế độ tài sản chung; nếu chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân là văn bản được công chứng thì thoả thuận chấm
dứt hiệu lực của việc chia tài sản chug của vợ chồng cũng phải được công
chứng tại cơ quan công chứng có thẩm quyền. Trong trường hợp việc chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết
định có hiệu lực của Toà án thì thoả thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia
tài sản chung phải được Toà án công nhận.
Thứ hai, về hình thức của thoả thuận: Thoả thuận phải được lập
thành văn bản, văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng
hoặc theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về nội dung thoả thuận: Đây được xem như là giao dịch có
tác dụng tuyên bố chấm dứt hiêu lực của các quy định áp dụng riêng cho
trường hợp vợ và chồng đã tiến hành phân chia tài sản chung.
Tài sản đã được chia vẫn tiếp tục là tài sản riêng của vợ chồng nhưng
hoa lợi, lợi tức gắn liền với tài sản được chia không còn là tài sản riêng mà
đã trở thành tài sản chung của vợ chồng do đã áp dụng luật chung trong
quan hệ tài sản vợ chồng tức là kể từ ngày vợ chồng thỏa thuận chấm dứt
hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực thì
việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo
quy định tại Điều 33 và Điều 43 của Luật này. Phần tài sản mà vợ chồng đã
được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ chồng trừ trường hợp vợ chồng
có thỏa thuận khác.
Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chất dứt hiệu
lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có
61

thỏa thuận khác. Trong trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì
thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án
công nhận.
Tóm lại, sau khi chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân thì chế độ tài sản của vợ chồng trở về thời điểm trước khi
chia tài sản chung, việc xác định tài sản chung của vợ chồng lại được xác
định như Điều 33 Luật HN&GĐ 2014. Quy định này thể hiện sự tiến bộ
của luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, nhấn mạnh hậu quả sau khi chia
tài sản chung của vợ chồng cuộc sống vợ chồng không có gì thay đổi về
mặt nhân thân, vợ chồng vẫn phải có quyền lợi, nghĩa vụ đối với nhau và
với gia đình, con cái. Bên cạnh đó, sau khi chia tài sản chung nếu vợ chồng
muốn nhập khối tài sản riêng lại với nhau thì vẫn có thể thoả thuận để chấm
dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân.
62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 của luận văn tôi đã đi phân tích các quy định hiện hành
của pháp luật HN&GĐ 2014 về chế định chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân để thấy rõ sự tiến bộ của Luật HN&GĐ qua thời
gian và so với các Quốc gia khác. Hiểu được điều kiện có hiệu lực, thời
điểm có hiệu lực của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ
chồng; tìm hiểu về hậu quả pháp lý về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân và việc chấm dứt hiệu lực của chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân làm tiền đề đưa ra những vướng mắc
và kiến nghị hoàn thiện pháp luật tại chương 3.
63

Chương 3
VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN CỦA
VỢ CHỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.1. VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ


CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN
NHÂN
3.1.1. Vướng mắc trong quy định về các trường hợp vô hiệu khi chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kì hôn nhân

Khoản 1 Điều 42 Luật HN&GĐ 2014 quy định việc chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân vô hiệu khi việc chia tài sản ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích hợp pháp của con
chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Nhưng lại không có hướng dẫn thế nào là “nghiêm trọng” đến mức dẫn
đến vô hiệu của hành vi chia tài sản chung thì Luật chưa quy định rõ và
chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn dến khó xác định tìn trạng “nghiêm trọng”
khi áp dụng vào các vụ việc cụ thể.
Luật HN&GĐ hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kì hôn nhân đã tiến bộ hơn hẳn so với Luật HN&GĐ 2000 khi bỏ việc
quy định các trường hợp cụ thể mà vợ chồng được phép chia tài sản chung,
thay vào đó quy định các trường hợp vợ chồng không được phép chia tài
sản chung, mở rộng sự lựa chọn lý do chia tài sản chung của vợ chồng phù
hợp với yêu cầu thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, Luật không quy định cụ thể
về các trường hợp vô hiệu này dẫn đến khó khăn cho việc hiểu và áp dụng
pháp luật, đồng thời cũng tạo ra kẽ hở cho vợ chồng “lách Luật”. Luật hiện
hành chỉ quy định việc chia tài sản chung vô hiệu khi việc chia tài sản
64

nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng, nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại, nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản, nghĩa
vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức, nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính
khác đối với Nhà nước và các nghĩa vụ khác về tài sản mà không quy định
cụ thể về hành vi trốn tránh này. Trốn tránh, không thực hiện toàn bộ nghĩa
vụ mới coi là vô hiệu, hay chỉ thực hiện một phần nghĩa vụ cũng dẫn đến
chia tài sản vô hiệu?
Trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân khi một trong hai bên phải thực hiện nghĩa vụ riêng về cấp dưỡng
hoặc bồi thường thiệt hại, trả nợ,… Do pháp luật hiện hành không giới hạn
“mức chia tài sản” do đó vợ chồng có thể tự do thỏa thuận chia phần lớn
tài sản chung, thậm chí chia hết tài sản chung cho bên không phải thực hiện
nghĩa vụ, dẫn đến khối tài sản riêng của bên phải thực hiện nghĩa vụ còn lại
rất ít hoặc không còn. Khi đó, nghĩa vụ vẫn được thực hiện nhưng không
phải toàn bộ mà chỉ một phần nghĩa vụ. Vậy trường hợp này có được coi là
nhằm trốn tránh nghĩa vụ dẫn tới vô hiệu không, hay việc chia tài sản vợ
chồng vẫn có hiệu lực pháp luật, nếu có thì quyền và lợi ích hợp pháp của
người thứ ba, của Nhà nước sẽ bị ảnh nghiêm trọng.
Việc quy định chung chung, không rõ ràng như vậy dẫn đến khó
khăn cho việc hiểu và áp dụng pháp luật, đặc biệt là đối với Tòa án khi tiến
hành chia tài sản vợ chồng và công chứng viên khi công chứng văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng. Đồng thời cũng là tạo ra kẽ hở
cho vợ chồng “lách Luật” đặc biệt khi vợ chồng chọn chia tài sản chung
theo phương thức thỏa thuận, vợ chồng có toàn quyền quyết định mức chia
tài sản chung. Kể cả khi vợ chồng tiến hành công chứng văn bản thỏa thuận
tại văn phòng công chứng thì thủ tục tại những văn phòng này vẫn còn rất
sơ khai, công chứng viên cũng hầu như chỉ dựa toàn bộ vào lời nói của vợ
65

chồng mà không xác minh căn cứ chia tài sản có chính xác, minh bạch và
đảm bảo không thuộc các trường vô hiệu hay không.
Ngoài ra, Luật hiện hành cũng không quy định ai là người có quyền
yêu cầu tuyên bố văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 5 Thông
tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi
hành một số quy định của luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì người
xâm phạm, người giám hộ của người bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp do có thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có quyền yêu cầu
Toà án tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Theo quy định tại Thông tư này
thì trong trường hợp thoả thuận chia tài sản của vợ chồng không tuân theo
điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại BLDS và các luật
khác có liên quan; vi phạm các quy định về nguyên tắc chung về chế độ tài
sản của vợ chồng, các giao dịch liên quan đến người thứ ba ngay tình…;
nội dung của thoả thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng,
quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha mẹ, con và
thành viên khác trong gia đình thì vợ, chồng hoặc vợ chồng đã thoả thuận
về chế độ tài sản và người thứ ba có liên quan (người giám hộ, người bị
xâm phạm…) có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố thoả thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng bị vô hiệu. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên
thứ ba là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, luật Hôn nhân và Gia
đình hiện hành nên kế thừa quy định này và cho phép người thứ ba có
quyền và lợi ích liên quan yêu cầu tuyên bố văn bản thoả thuận chia tài sản
chung của vợ chồng vô hiệu.
Thực tế, việc quy định các trường hợp vô hiệu khi chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa có hướng dẫn cụ thể nên nhiều
cặp vợ chồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã vi phạm
66

điều kiện có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Tại bản án hôn nhân phúc thẩm số 02/2014/HNGĐ-PT ngày
18/3/2014 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ
Chí Minh. Nội dung vụ án xoay quanh việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân của vợ chồng bà Nguyễn Thị Kim Nhung và ông Nguyễn Chí
Công. Năm 2005 ông Công và bà Nhung kết hôn tại Đồng Nai, khoảng nửa
tháng sau ông Công (là người Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ) trở về Hoa K,
sau đó ông Công có vài lần về Việt Nam thăm bà Nhung. Nay tình cảm
giữa ông bà không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Nhung
yêu cầu ly hôn. Trong thời kỳ hôn nhân ông bà có tài sản chung là 03 thửa
đất tại huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Khoảng 5/2007 ông Công và bà
Nhung có thoả thuận với nhau lập biên bản phân chia tài sản chung, ông
Công giao 03 mảnh đất trên cho bà Nhung để bà Nhung ở Việt Nam tiện
canh tác, giao dịch, trao đổi…Ngoài ra, trong thời kỳ hôn nhân ông Công
có vay của bà Liên 690.000.000 đồng với mục đích trả nợ để mua đất. Tại
đơn khởi kiện xin ly hôn năm 2011, bà Nhung có yêu cầu Toà án công
nhận 03 thửa đất nêu trên là tài sản riêng của bà vì hai ông bà đã thoả thuận
lập biên bản xác định tài sản riêng, theo đó 03 thửa đấ trên là tài sản riêng
của bà. Đồng thời bà không chịu trách nhiệm liên đới về khoản nợ của ông
Công nợ bà Liên.
Toà án kết luận 03 mảnh đất trên là tài sản riêng của bà Nhung và nợ
mà ông Công vay bà Liên là nợ riêng vì khi ông công vay bà Liên số tiền
trên thì vợ chồng ông bà đang xảy ra mâu thuẫn và bà Nhung đang đòi ly
hôn.
Tuy nhiên, tôi nhận thấy văn ản thoả thuận của ông Công và bà
Nhung là không đúng theo quy định của BLDS vì ông Công là người Việt
Nam định cư tại nước ngoài, hơn nữa việc xác nhận văn bản liên quan đến
bất động sản phải được thực hiện tại văn phòng công chứng. Ngoài ra, khi
67

xem xét toàn vụ án và lời khai của ông Công thì chưa đầy một tuần sau khi
ông kí vào biên bản xác định tài sản riêng bà Nhung đã đòi ly hôn để chiếm
toàn bộ số tài sản trên. Vì vậy, Toà án cần xem xét kỹ yếu tố lừa dối trong
vụ án này, liệu biên bản này có bị vô hiệu theo pháp luật hiện hành không?
Qua vụ việc trên, tôi nhận thấy các quy định của pháp luật hiện hành
về các trường hợp vô hiệu khi chia tài sản chung là chưa đủ cụ thể và chưa
có hướng dẫn, dẫn đến việc áp dụng gặp phải nhiều khó khăn.
3.1.2. Vướng mắc về chủ thể có quyền yêu cầu chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Luật HN&GĐ 2014 quy định: trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có
quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung; nếu không
thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. Theo quy định như
vậy thì chỉ có vợ hoặc chồng mới có quyền yêu cầu chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, pháp luật HN&GĐ cũng chưa
quy định trong trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ tài sản riêng đối với người
thứ ba nhưng lại không có tài sản riêng để thanh toán mà trên thực tế phần
tài sản của họ trong khối tài sản chung lại đủ để thực hiện nghĩa vụ này.
Theo tôi, nên ghi nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung của người thứ ba
trong trường hợp người thứ ba chứng minh được tài sản chung của vợ
chồng đủ để thanh toán khoản nợ của mình, quy định như vậy sẽ hạn chế
được trường hợp người có quyền, lợi ích liên quan được yêu cầu chia tài
sản chung của vợ chồng nhưng việc chia tài sản chung của vợ chồng lại ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình.

Hiện nay đang có hai luồng ý kiến trái chiều về việc công nhận
quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của
người thứ ba. Có quan điểm cho rằng quy định hiện nay của pháp luật Hôn
nhân và Gia đình là phù hợp vì chỉ có vợ chồng mới có quyền thoả thuận
68

hoặc yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân vì đây là quyền gắn liền với quyền nhân thân của vợ chồng và tài sản
chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất. Quan điểm thứ hai cho rằng
về mặt nguyên tắc thì quy định vợ chồng có quyền thoả thuận hoặc yêu cầu
Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là phù hợp, nhưng không
đảm bảo được quyền lợi của người thứ ba có quyền trong một số trường
hợp. Vì theo nguyên tắc nghĩa vụ tài sản riêng của người nào sẽ được thực
hiện bằng tài sản riêng của người đó mà không được đảm bảo bằng tài sản
chung. Nên chăng thừa nhận quyền yêu cầu đối với người thứ ba.

3.1.3. Vướng mắc về xác định trách nhiệm của vợ chồng sau khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

* Thứ nhất, một số thiếu sót của luật về trách nhiệm của vợ chồng
đối với nhau sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân

Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng mang yếu tố tình cảm, là
lợi ích tinh thần giữa vợ và chồng, không mang nội dung kinh tế, gắn liền
với nhân thân của vợ chồng và không thể chuyển giao cho người khác, chỉ
với tư cách là vợ chồng của nhau thì họ mới có các quyền và nghĩa vụ đó.
Các quyền này có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ vợ chồng, chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân là một trường hợp đặc biệt. Do đó, vấn đề đặt
ra sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì quyền và nghĩa vụ
về nhân thân của vợ chồng đối với nhau sẽ bị thay đổi, chi phối như thế
nào? Pháp luật Hôn nhân và Gia đình quy định vợ chồng có quyền và nghĩa
vụ chung thuỷ, yêu thương, quý trọng và chăm sóc lẫn nhau. Tình yêu
thương, sự chung thuỷ là nền tảng cơ bản để xây dựng hạnh phúc gia đình
bền vững. Với tinh thần đó, khi xác lập quan hệ hôn nhân đòi hỏi vợ chồng
69

phải chung thuỷ, trước sau như một, đây không chỉ là đòi hỏi về pháp luật
mà còn là đòi hỏi về đạo đức vợ chồng. Ngoài ra, vợ chồng có quyền bình
đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình, quyền bình đẳng này thể hiện rõ
khi vợ chồng cùng nhau bàn bạc, quyết định các vấn đề liên quan đến nhân
thân và tài sản của bản thân vợ chồng và mỗi thành viên trong gia đình, liên
quan đến đời sống chung của gia đình như cùng trông nom, chăm sóc, giáo
dục con cái hay cùng nhau xây dựng, duy trì và phát triển tài sản của gia
đình.

Quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng vẫn tồn tại sau khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, theo đó vợ chồng có thể đại diện cho
nhau theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền. Vợ chồng có thể uỷ quyền cho
nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của
pháp luật phải có sự đồng ý của vợ và chồng. Sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân thông thường vợ chồng vẫn sống chung, cùng cư trú
ở một nơi. Trong trường hợp này thì việc quan tâm chăm sóc lẫn nhau được
đảm bảo thực hiện một cách tương đối bởi khi sống chung vợ chồng trực
tiếp chứng kiến cũng như nắm bắt được tình hình công việc, các mối quan
hệ của đối phương nên dễ dàng trao đổi, góp ý. Mặc dù pháp luật không ghi
nhận nhưng việc vợ chồng ra ở riêng sau khi chia tài sản chung vẫn tồn tại
trên thực tế, nguyên nhân có thể do vợ chồng thay đổi địa điểm kinh doanh,
nơi làm việc hay giữa vợ chồng có những mâu thuẫn nhưng không muốn ly
hôn mà chỉ muốn chia tài sản chung để có tài sản đáp ứng cuộc sống riêng.
Ngày nay, vợ chồng tập trung vào làm ăn kinh tế nên ít có thời gian quan
tâm, chăm sóc nhau và chăm lo cho gia đình nên khi chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và vợ chồng sống xa cách nhau thì tình
cảm vợ chồng dễ bị phai nhạt, xa cách gây ảnh hưởng nặng nề đến đời sống
chung gia đình. Đây là một vấn đề khá tế nhị nhưng để đảm bảo mục đích
70

xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc thì pháp luật nên có quy định cụ thể để
xử lý hành vi này.

Hơn nữa, sự thay đổi về khối tài sản chung, tài sản riêng cũng như
quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trở nên rõ rệt nhất trong trường hợp
vợ, chồng thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án chia toàn bộ tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Việc chia toàn bộ tài sản chung dễ làm xáo trộn và ảnh
hưởng lớn đến đời sống chung của gia đình nên trường hợp này pháp luật
chỉ nên quy định giới hạn trong những hoàn cảnh đặc biệt như chia tài sản
chung để vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng với quy mô lớn hay vợ, chồng
có nghĩa vụ về tài sản quá lớn mà nếu chỉ chia một phần tài sản chung sẽ
không đủ để thực hiện. Bởi lẽ việc chia toàn bộ tài sản chung ảnh hưởng rất
lớn đến nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, nếu sau khi chia tài sản chung
mà vợ chồng không sống cùng nhau và một bên rơi vào tình trạng khó
khăn, túng thiếu vì lý do khách quan như mang thai, mắc bệnh hiểm nghèo
nên bị hạn chế khả năng lao động thì trách nhiệm giữa vợ và chồng đặt ra
như nào? Thiết nghĩ Luật nên có quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ
và chồng sau khi chia tài sản chung, đặc biệt là trường hợp chia hết khối tài
sản chung của vợ chồng. Cụ thể, khi vợ chồng chia toàn bộ khối tài sản
chung và ra ở riêng, sau đó một bên vợ hoặc chồng rơi vào tình trạng khó
khăn, túng thiếu…không thể tự trang trải cho cuộc sống của họ mà bên kia
có điều kiện kinh tế, có tài sản riêng thì phải có trách nhiệm với bên còn
lại. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ thì bên còn lại có quyền yêu cầu
Toà án buộc người kia phải thực hiện. Vấn đề này chưa được quy định cụ
thể trong bất cứ văn bản pháp luật nào nhưng lại là một trong những vấn đề
tồn tại nổi cộm hiện nay sau khi các cặp vợ chồng chia tài sản chung. Do
vậy, pháp luật cần dự liệu vấn đề này để tránh tình trạng sau khi chia tài sản
71

chung vợ chồng không làm tròn nghĩa vụ đối với nhau vì chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi bản chất của hôn nhân.

* Thứ hai, Luật chưa quy định trách nhiệm của vợ chồng đối với gia
đình, con cái sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân

Luật HN&GĐ quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau,


cùng chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình (Khoản 1 Điều 71 Luật HN&GĐ 2014). Như vậy,
trách nhiệm của vợ chồng đối với gia đình, con cái hay cụ thể trong mối
quan hệ giữa vợ chồng với tư cách là cha mẹ đối với con, đặc biệt là con
chưa thành niên là một vấn đề cần được quan tâm đặc biệt sau khi chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đây là lợi ích tinh thần
của các con cũng là tình cảm yêu thương, gắn kết giữa cha mẹ và con cái
trong gia đình trên cơ sở quan hệ tình cảm, huyết thống, vì thế, quyền lợi
của các con cần phải được pháp luật quan tâm và bảo vệ.

Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng không làm
thay đổi quyền và nghĩa vụ về nhân thân của cha mẹ đối với con cái. Cha
mẹ có quyền và nghĩa vụ đối với con bình đẳng như nhau. Nuôi dạy con cái
không chỉ là nghĩa vụ của vợ chồng đối với con mà còn là nghĩa vụ của vợ
chồng trước nhà nước và xã hội trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
thế hệ trẻ tương lai. Cha mẹ phải yêu thương, chăm lo cho sự phát triển của
con cả về thể chất, trí tuệ, đạo đức để giáo dục con thành con ngoan, trò
giỏi, là người con có ích cho gia đình, xã hội. Đây là những quyền lợi cơ
bản mà người con được hưởng và phải được đảm bảo thực hiện, tuy nhiên,
ngày nay các bậc cha mẹ chạy theo công việc đã bỏ quên con cái mà đôi
72

khi cả việc chăm sóc cho các nhu cầu cơ bản của con cũng không làm
được.

Đối với việc nuôi dạy con cái, sau khi chia tài sản chung nếu hai vợ
chồng vẫn ở chung thì việc nuôi dạy con cái sẽ được đảm bảo hơn tuy
nhiên xét trong trường hợp vợ chồng ra ở riêng thì lúc này con cái sẽ ở với
ai? Nên để vợ chồng tự thoả thuận việc nuôi con hay yêu cầu Toà án giải
quyết và khi yêu cầu thì Toà án có giải quyết hay không vì theo quy định
của pháp luật hiện hành Toà án giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con chỉ
đặt ra khi vợ chồng ly hôn? Đây là một vấn đề cần được pháp luật xem xét
và có quy định để điều chỉnh.

Ngoài ra, khi vợ chồng thoả thuận chia toàn bộ khối tài sản chung thì
tài sản chung của vợ chồng có thể không còn. Khi này nếu vợ chồng không
thoả thuận được với nhau thì chi phí cho việc đảm bảo nhu cầu chung thiết
yếu của gia đình, việc nuôi dưỡng và đảm bảo các nhu cầu thiết yếu cho
con cái sẽ được lấy từ nguồn tài sản nào? Hiện nay, Luật Hôn nhân và Gia
đình mới chỉ quy định hậu quả pháp lý về tài sản để xác định tài sản chung,
tài sản riêng sau khi chia tài sản chung chứ chưa có quy định nào về trách
nhiệm của vợ chồng trong việc chi tiêu, đóng góp tài sản phục vụ cho việc
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con cái. Một vấn đề nữa đặt ra là sau khi
chia tài sản chung vợ chồng ra ở riêng mà một trong hai bên vợ hoặc chồng
không chung sống cùng con thì có phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng không?
Sau khi chia tài sản chung, nhất là khi chia toàn bộ tài sản chung thì về cơ
bản tài sản chung của vợ chồng không còn, tài sản riêng của mỗi bên có thể
có sự chênh lệch lớn. Mặt khác, vợ chồng có nghĩa vụ ngang nhau trong
vệc chăm sóc, nuôi dưỡng con cái nên phải có nghĩa vụ đóng góp tài sản để
đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho sự phát triển bình thường của con. Trong
thực tế, khi con cái chỉ sống chung với bố hoặc mẹ đã là một sự thiệt thòi
73

lớn về mặt tình cảm cũng như sự phát triển toàn diện của con sau này, vì
thế nếu một bên không chung sống cùng con mà trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ nuôi dưỡng thì phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Người cha hoặc
người mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp tiền hoặc tài sản khác để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu và đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con đặc biệt là các
điều kiện cho sự phát triển thể chất, tinh thần và việc học hành của con.
Hiện nay pháp luật mới chỉ quy định vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con khi ly hôn nhưng theo quan điểm của tôi nên quy định thêm về nghĩa
vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con cái sau khi chia tài sản chung mà một
bên không sống cùng con và để tránh việc trốn tránh nghĩa vụ đối với con.

Mặc dù pháp luật hiện hành có quy định chặt chẽ hơn trong việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được thể hiện tại Điều
42 luật này: viêc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ bị vô hiệu nếu ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, lợi ích hợp pháp của con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Khoản 2 Điều 42
luật này cũng quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân sẽ vô hiệu nếu nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng,
cấp dưỡng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc chứng minh được việc ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình hay việc cha mẹ trốn tránh
thực hiện nghĩa vụ đối với con cái là rất khó, pháp luật cũng chưa có giải
thích cụ thể nên việc áp dụng điều luật này chưa thật sự chặt chẽ. Lợi ích
của gia đình và con cái sẽ phát sinh trong một số trường hợp sau khi chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, như phân tích ở
trên tôi cho rằng nên có giải thích và hướng dẫn cụ thể về Điều 42 luật này
về các trường hợp vô hiệu khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
74

kỳ hôn nhân. Bên cạnh đó, cần có quy định cụ thể về nghĩa vụ của vợ
chồng như đã phân tích ở trên.

Tại bản án sơ thẩm dân sự số 57/LHST năm 2004 của Toà án nhân
dân quận Ba Đình, vợ chồng chị Trần Thu Hà và anh Phan Văn Kỳ trú tại
P401 – B2 ngõ 190 Đội Cấn – Ba Đình – Hà Nội có yêu cầu Toàn án chia
tài sản chung là căn hộ 45,5m2 của vợ chồng anh chị tại ngõ 190 Đội Cấn –
Ba Đình – Hà Nội vì giữa anh chị xảy ra mâu thuẫn nên chị Hà đòi chia tài
sản chung và quyền nuôi con. Tuy nhiên, xem xét tài sản của vợ chồng anh
chị thì ngoài đồ dung trong nhà, 02 chiếc xe máy thì ngôi nhà là nơi ở duy
nhất phục vụ cho cuộc sống gia đình của anh chị và con. Vì vậy, trường
hợp này tôi thấy việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống của gia đình, hơn nữa việc chia tài sản cũng không đảm
bảo điều kiện sinh sống và phát triển của con cái nên trường hợp này cần
tuyên yêu cầu chị Hà là vô hiệu nhằm bảo vệ lợi ích gia đình và đề cao
trách nhiệm của cha mẹ đối với việc nuôi dạy và chăm sóc con cái.

* Thứ ba, pháp luật chưa có quy định bảo vệ quyền lợi của người thứ
ba có quan hệ tài sản với vợ chồng

Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân một mặt nhằm tạo điều
kiện cho vợ chồng có nguồn vốn để đầu tư kinh doanh riêng, đảm bảo
quyền tư do kinh doanh, tránh những rủi ro không đáng có cho gia đình,
đảm bảo quyền tài sản cho người thứ ba nhưng mặt khác cũng là đảm bảo
cho lợi ích chung của gia đình. Để đạt được mục đích, ý nghĩa đó thì sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân pháp luật cần có quy định cụ
thể để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi tham
gia vào các quan hệ tài sản với vợ chồng. Bởi lẽ, sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân sẽ kéo theo nhiều thay đổi lớn, trước hết là quan hệ
75

tài sản của vợ chồng, đến gia đình và những hệ luỵ liên quan, ảnh hưởng
đến người thứ ba trong tham gia giao dịch với vợ chồng. Trong thời kỳ hôn
nhân, để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của gia đình, thoả mãn các nhu
cầu về vật chất và tinh thần thì cuộc sống vợ chồng không chỉ bó hẹp trong
phạm vi gia đình mà còn có các hoạt động tham gia vào các giao dịch dân
sự, kinh tế…với các chủ thể trong xã hội vì vậy việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích
hợp pháp của người thứ ba.

Hiện nay, vợ chồng có thể chia tài sản chung để tham gia các giao
dịch khác nhau với tư cách khác nhau như thành viên của Công ty, chủ
Doanh nghiệp tư nhân hoặc là cá nhân kinh doanh dưới các hình thức công
ty, doanh nghiệp khác nhau và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự hay
kinh doanh, thương mại. Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,
vợ chồng muốn hợp tác kinh doanh, mỗi bên dùng tài sản riêng của mình
để góp vốn thành lập công ty. Vậy trong trường hợp này nghĩa vụ với
người thứ ba có giao dịch với vợ chồng được xác định như nào? Đây là
trách nhiệm liên đới của vợ chồng hay nghĩa vụ riêng rẽ? Nếu là trách
nhiệm liên đới thì có phát sinh nghĩa vụ hoàn trả không? Vì mỗi loại hình
doanh nghiệp đều có nét đặc thù riêng về cơ cấu tổ chức, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tính chịu trách nhiệm nên nghĩa vụ của vợ chồng còn phụ
thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà vợ chồng tham gia. Nếu vợ chồng
dùng tài sản riêng góp vốn để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên thì mỗi bên vợ chồng sẽ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam
kết góp vào doanh nghiệp. Còn trong trường hợp vợ chồng thành lập công
ty hợp danh thì trách nhiệm của vợ chồng là trách nhiệm liên đới. Những
76

vấn đề này cần được quy định rõ để bảo vệ lợi ích của người thứ ba trong
giao dịch về tài sản với vợ chồng.

3.1.4. Vướng mắc trong phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân

Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
còn nhiều vướng mắc cần có quy định một cách thống nhất, chặt chẽ vì nó
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền, nghĩa vụ của vợ chồng cũng
như các bên có liên quan sau khi vợ chồng chia tài sản chung.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì vợ chồng có thể tự thoả
thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và văn bản thoả thuận chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không nhất thiết phải có người làm
chứng hoặc công chứng. Đây là một quy định mở nhưng lại tạo ra nhiều kẽ
hở tạo điều kiện cho vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản chung nhằm trốn
tránh nghĩa vụ về tài sản với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan. Đối với trường hợp này thiết nghĩ pháp luật nước ta nên quy định
theo hướng buộc mọi văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân đều phải được công chứng tại cơ quan công chứng
có thẩm quyền. Đồng thời quy định chặt chẽ thủ tục công chứng văn bản
thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng vì thực tế một số trường hợp vợ
chồng thoả thuận tại văn phòng công chứng nhưng văn bản thoả thuận vẫn
tiềm ẩn nguy cơ vô hiệu và trốn tránh trách nhiệm với người có quyền và
lợi ích liên quan. Cụ thể trong văn bản thoả thuận phân chia tài sản chung
của vợ chồng tại văn phòng công chứng không ghi rõ căn cứ chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, công chứng viên thực hiện
việc công chứng văn bản cũng không biết và không thực hiện xác minh, vì
77

vậy khả năng văn bản thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng
thuộc trường hợp vô hiệu theo quy định của pháp luật là rất cao.

Xem xét trong vụ án được nhắc đến tại mục 3.1.1 có thể thấy văn
bản thoả thuận của vợ chồng khia chi tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
rất dễ đến đến vô hiệu, trong trường hợp phân chia tài sản trong thời kỳ hôn
nhân là bất động sản thì phải được công chứng tại cơ quan có thẩm quyền.
Nhưng theo tôi thì nên quy định mọi văn bản thoả thuận về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đều phải công chứng, như vậy
sẽ đảm bảo tính pháp lý cho văn bản phân chia tài sản chung của vợ chồng.

3.1.5. Vướng mắc về nghĩa vụ thông báo của vợ chồng khi chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân

Có thể thấy nghĩa vụ thông báo công khai bằng những hình thức
khác nhau về việc chia tài sản chung trước khi tham gia giao dịch với người
thứ ba là cần thiết và hữu ích vì một mặt việc thông báo công khai sẽ đảm
bảo quyền lợi của những người tham gia giao dịch hoặc có liên quan đến
giao dịch với vợ, chồng. Mặt khác nâng cao ý thức trách nhiệm của vợ
chồng làm cho họ thận trọng hơn khi đưa ra quyết định chia tài sản chung.

Trong thực tế, khi một trong hai bên vợ chồng gây ra thiệt hại thì
trách nhiệm bồi thường là trách nhiệm chung, vợ chồng phải bồi thường
bằng tài sản chung hợp nhất, nếu tài sản chung của vợ chồng không còn
hoặc không đủ để bồi thường thiệt hại thì vợ chồng có trách nhiệm bồi
thường bằng tài sản riêng của mình tức là khi tài sản chung không còn và
một bên không có tài sản riêng thì bên kia có tài sản riêng sẽ phải bồi
thường toàn bộ và trường hợp này không phát sinh nghĩa vụ hoàn lại. Như
vậy, khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cần thông
báo công khai cho người thứ ba biết để đảm bảo lợi ích của các bên đồng
78

thời giúp vợ chồng hiểu rõ về hệ quả của việc chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân và có quyết định đúng đắn trước khi chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân.

Ngoài những khó khăn nêu trên, còn một số vướng mắc cần được
khắc phục đó là: đội ngũ cán bộ, nhân viên toà án và công chứng viên trình
độ, năng lực còn hạn chế, áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ còn thiếu
khách quan, toàn diện nên việc giải quyết vụ việc, vụ án chưa được chính
xác. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, công
chức đôi khi còn thụ động (do khó khăn về kinh phí, việc mời các chuyên
viên tham gia về tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức gặp nhiều khó
khăn). Việc phối hợp giữa các đơn vị chức năng của Toà án hiệu quả chưa
cao. Một số nơi kỷ cương làm việc còn chưa nghiêm, công tác thanh kiểm
tra hoạt động nghiệp vụ cũng như việc thực hiện trách nhiệm công vụ của
cán bộ, công chức ở một số đơn vị còn chưa chủ động. Bên cạnh đó, công
tác thông tin, tuyên truyền còn chưa tốt, chất lượng tin bài chưa cao, việc
thực hiện kế hoạch thông tin tuyên truyền đến người dân còn chậm, kèm
theo đó nhận thức của người dân ở một số nơi còn hạn chế nên chưa hiểu rõ
các quy định của pháp luật.

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHIA


TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

Thứ nhất với các căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng cần có quy
định hướng dẫn cụ thể hơn, đặc biệt là hướng dẫn Điều 42 về các trường
hợp chia tài sản chung bị vô hiệu, thế nào là ảnh hưởng “nghiêm trọng”
đến mức dẫn tới vô hiệu của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kì hôn nhân. Đồng thời cần có giải thích cụ thể hơn về trường hợp vô
hiệu do hành vi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân nhằm trốn tránh
79

thực hiện nghĩa vụ theo hướng: Nếu điều kiện kinh tế gia đình đảm bảo
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà không ảnh hưởng đến chăm sóc, giáo dục
con cái, phát triển kinh tế chung thì hành vi trốn tránh thực hiện một phần
hay toàn bộ nghĩa vụ đều dẫn tới vô hiệu. Tòa án có thẩm quyền có trách
nhiệm xem xét, quyết định hành vi chia tài sản chung có nhằm trốn tránh
nghĩa vụ hay không nếu vợ chồng lựa chọn phương thức chia tài sản thông
qua Tòa án. Công chứng viên có trách nhiệm xác minh lí do chia tài sản
chung trước khi xác nhận vào văn bản thỏa thuận việc chia tài sản chung
không nhằm trốn tránh nghĩa vụ.

Pháp luật cần giới hạn việc chia tài sản chung của vợ chồng bằng
cách quy định về “mức chia tài sản” phụ thuộc vào phần nghĩa vụ phải
thanh toán của vợ hoặc chồng với người thứ ba như nghĩa vụ nuôi dưỡng,
cấp dưỡng, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ thanh toán khi Tòa án
tuyên bố phá sản, nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức, nghĩa vụ nộp thuế
hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước… để hạn chế việc vợ chồng
tự do thỏa thuận chia phần lớn khối tài sản chung khiến phần tài sản riêng
sau khi chia chỉ đủ để thanh toán một phần nghĩa vụ, ảnh hưởng tới quyền
và lợi ích hợp pháp của người thứ ba, lợi ích Nhà nước. Trong đó có cân
nhắc đến việc đảm bảo duy trì kinh tế chung của gia đình, trách nhiệm của
vợ chồng với việc chăm sóc và nuôi dạy con cái, gia đình no ấm, hạnh
phúc. Ngoài ra, Luật quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu nhưng lại không quy định ai là
người có quyền yêu cầu tuyên bố thoả thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu. Theo tôi nên phát huy theo tinh
thần tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BTP tức là cho phép người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
80

có quyền yêu cầu tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô
hiệu.

Thứ hai, đối với việc thừa nhận quyền yêu cầu vợ chồng chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân của người thứ ba. Theo quan đểm của tôi thì
nên thừa nhận quyền yêu cầu đối với người thứ ba, vì trong trường hợp vợ,
chồng có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh
toán các khoản nợ và vợ chồng có thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án chia tài
sản chung để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Trường hợp này nếu không thừa
nhận quyền yêu cầu của người có quyền về chia tài sản chung của vợ chồng
để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ thì quyền lợi của
chủ nợ không được đảm bảo. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân là một trường hợp của chia tài sản chung thuộc sở hữu chung, do đó
người thứ ba cũng có quyền yêu cầu một trong các chủ sở hữu chung thực
hiện nghĩa vụ với mình mà người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản
riêng không đủ để thanh toán. Hơn nữa nếu quy định lý do chia tài sản
chung là để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng thì nên ghi nhận quyền yêu cầu
chia tài sản chung của người có quyền yêu cầu vợ hoặc chồng thực hiện
nghĩa vụ riêng. Vì vậy, pháp luật nên quy định theo hướng cho phép người
thứ ba có quyền yêu cầu vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân nếu chứng minh được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh
hưởng.

Thứ ba, đối với trách nhiệm của vợ chồng đối với nhau, từ những
phân tích ở trên tôi kiến nghị pháp luật nước ta cần phải có quy định cụ thể
xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Hiện nay, sau khi chia tài sản chung vợ chồng ra ở riêng
là rất phổ biến nên việc quy định về nghĩa vụ của vợ chồng để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên thì pháp luật nên quy định về nghĩa
81

vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi một bên lâm vào tình trạng khó khăn,
túng thiếu do lý do khách quan tài sản chung của vợ chồng không còn hoặc
có nhưng không đủ để đảm bảo cuộc sống bình thường và bên kia có điều
kiện kinh tế, có tài sản riêng. Ngoài ra, đối với trường hợp sau khi chia toàn
bộ tài sản chung của vợ chồng mà sau đó không phát sinh tài sản chung nào
khác thì đời sống chung của gia đình không được đảm bảo, vì vậy Luật nên
có quy định cụ thể về vấn đề này, cụ thể: Vợ chồng thoả thuận về mức đóng
góp các chi phí bảo đảm cho đời sống chung của gia đình. Nếu vợ chồng
không thoả thuận được, thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết. Toà án quyết
định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và
khả năng kinh tế của mỗi bên.

Quy định về trách nhiệm của vợ chồng đối với việc nuôi dạy con cái.
Đây là nghĩa vụ cũng là quyền lợi của cha mẹ đối với con cái nhưng trên
thực tế khi chia tài sản chung, vợ chồng ra ở riêng thì quyền lợi của con cái
bị ảnh hưởng rất lớn. Vì thế, để đảm bảo quyền và lợi ích của các con thì
pháp luật nên quy định nghĩa vụ cấp dưỡng chi con chưa thành niên, con đã
thành niên bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có tài sản để tự
nuôi mình. Bởi khi vợ chồng sống riêng, người con đã phải chịu thiệt thòi
khi chỉ được sống cùng cha mẹ nên nghĩa vụ nuôi dưỡng phải được đảm
bảo.

Thứ tư, đối với phương thức chia tài sản chung của vợ chồng, Toà án
nên căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài
sản chung được chia. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân có thể căn cứ vào các nguyên tắc như đối với chia tài sản khi ly
hôn được quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ 2014. Quy định này vừa cụ
thể hoá nguyên tắc vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài
sản thuộc sở hữu chung hợp nhất vừa tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết
82

nhanh chóng các tranh chấp liên quan đến việc chia tài sản chung, nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Ngoài ra, đối với quy định về quyền thoả thuận của vợ chồng khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Quy định này nên được thắt chặt
hơn theo hướng mọi văn bản thoả thuận của vợ chồng về chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân đều phải công chứng tại cơ quan có thẩm quyền và
được niêm yết công khai hoặc đăng tin trên báo. Quy định này có thể học
hỏi pháp luật Pháp, là một trong những quốc gia quy định khá chặt chẽ
trong việc chia tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định của Pháp việc
tách riêng tài sản phải được Toà án quyết định và phải được công bố theo
những điều kiện do luật tố tụng dân sự quy định hoặc pháp luật thương mại
quy định nếu vợ hoặc chồng là thương nhân và “mọi trường hợp tự tách
riêng tài sản đều vô hiệu” (Điều 1441 BLDS Pháp). Pháp luật nước ta cũng
nên có những quy định chặt chẽ hơn để đảm bảo việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân diễn ra đúng quy định và hạn chế tối
đa việc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cũng như làm ảnh hưởng gián tiếp
hay trực tiếp đến lợi ích của các bên liên quan.

Thứ năm, cần quy định về nghĩa vụ niêm yết hoặc công bố công khai
việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại nơi vợ
chồng cư trú hoặc đăng trên các tờ báo liên quan đến việc kinh doanh,
thương mại trong trường hợp chia để đầu tư kinh doanh riêng. Trên cơ sở
đó những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có thể kịp thời phát
hiện việc chia tài sản chung của vợ chồng ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp
của mình. Đồng thời can thiệp kịp thời nếu vợ chồng người chia tài chung
trong thời kỳ hôn nhân có ý định chia tài sản chung để trốn tránh trách
nhiệm tài sản của vợ, chồng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình
đồng thời cũng nâng cao ý thức trách nhiệm của vợ chồng.
83

* Một số giải pháp khác

Thực trạng trên đòi hỏi phải bổ sung, hoàn thiện gấp các quy định
của Luật HN&GĐ. Bên cạnh đó, cần chú trọng công tác đào tạo, nâng cao
trình độ chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, các cán
bộ ngành Tòa án cần được chú trọng và nâng cao hơn nữa. Đội ngũ cán bộ
tư pháp từ Trung ương tới địa phương cần phải được tăng cường về số
lượng và chất lượng. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần bám sát các yêu cầu
nhiệm vụ chính trị, nhu cầu về nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ,
kỹ năng. Ngoài ra, cần phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải quyết
các vụ án HN&GĐ đặc biệt là các vụ việc liên quan đến hậu quả pháp lý
của chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật và phát triển án lệ; thường xuyên tổ chức rút kinh
nhiệm về công tác xét xử các loại vụ án nhằm tổng hợp những sai xót và
vướng mắc mà các Tòa án thường gặp để kịp thời hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật.
Thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng không chỉ chuyên môn
nghiệp vụ mà còn cả kiến thức xã hội, khả năng sử dụng các kỹ thuật tiên
tiến, kỹ năng thực hiện công tác dân vận cho cán bộ. Tăng cường mở rộng
hợp tác quốc tế, trước hết là với Tòa án các nước láng giềng, các đối tác
chiến lược quan trọng và các nước trong khu vực.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp
luật cho nhân dân.
Một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho Tòa án trong thực
tiễn xét xử là trình độ dân trí cũng như ý thức pháp luật của người dân còn
hạn chế. Có nhiều trường hợp, Tòa án cấp sơ thẩm đã ra phán quyết phù
hợp với quy định của pháp luật nhưng vì trình độ nhận thức pháp luật còn
84

hạn chế nên các bên đương sự vẫn kháng cáo, khiếu nại khiến cho việc xét
xử kéo dài. Vì vậy, cần thường xuyên phổ biến, tuyên truyền pháp luật
HN&GĐ trong các cấp, ngành, trong nhân dân, nhà trường và toàn gia
đình.
Đối với nhân dân, có thể năng cao nhận thức, năng lực pháp luật của
người dân bằng các cách sau: tăng cường các biện pháp giáo dục, tuyên
truyền phổ biến để mọi người dân có nhận thức đúng đắn về việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả pháp lý của chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân.
Phổ biến kiến thức về HN&GĐ thông qua truyền miệng, tivi, báo chí
và qua mạng lưới truyền thanh cơ sở, biên soạn và phát hành các tài liệu
phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về
HN&GĐ.
Trên đây là một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về HN&GĐ về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân. Giúp cho việc áp dụng các quy định của pháp luật HN&GĐ vào thực
tiễn cuộc sống được hiệu quả tối ưu như các nhà làm luật mong đợi.
85

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Nhìn chung, qua chương 1 và chương 2 của luận văn tôi đã đi khái
quát chung và phân tích các quy định hiện hành của pháp Luật HN&GĐ
2014 về chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Tại chương thứ 3 tôi đã đưa ra những khó khăn vướng mắc và lồng ghép
trong thực tế áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng. Qua đó, đưa ra các giải pháp để hoàn
thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng cũng như các giải pháp
khác để nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Toà án trong công tác
giải quyết tranh chấp liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Bên cạnh đó, cần chú trọng tuyên truyền, phổ biến các
quy định của pháp luật về HN&GĐ nói chung, chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân nói riêng tới người dân đặc biệt là người dân
tại vùng núi, vùng sâu vùng xa còn kém hiểu biết về kiến thức pháp luật
HN&GĐ.
86

KẾT LUẬN
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế khu vực và trên thế giới. Sự hội nhập kinh tế đã đem lại cho Việt
Nam những chuyển biến tích cực về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội mà cụ thể là đời sống gia đình. Trong những năm gần đây các
tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ở
nước ta diễn ra rất phức tạp, bởi lẽ quan hệ tài sản trong hôn nhân ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên vợ chồng nên dễ phát sinh tranh
chấp
Qua những phân tích đánh giá về chế định chia tài sản chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể thấy Luật HN&GĐ 2014
mặc dù có một số quy định mở rộng hơn so với luật Hôn nhân và Gia đình
2000. Nhưng những quy định này đã góp phần xoá bỏ những tàn tích của
chế độ Hôn nhân và Gia đình phong kiến lạc hậu, dưới thời phong kiến, do
ảnh hưởng của nhiều giáo lý nho giáo cũng như các tư tưởng phong kiến
như “phụ quyền”, “gia trưởng”, “trọng nam khinh nữ” đã làm cho quyền
và lợi ích chính đáng của mẹ, vợ, con gái… không được pháp luật bảo bảo
vệ, vận mệnh cũng như quyền lợi của người phụ nữ phụ thuộc rất lớn vào
người đàn ông, đặc biệt với những vấn đề liên quan đến tài sản, người phụ
nữ trong gia đình gần như không được quyền quyết định.
Ngày nay, dưới chế độ pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lợi của
người phụ nữ được bảo vệ nhiều hơn, các quy định về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được ghi nhận, theo đó vợ chồng bình
đẳng trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung, chứ
năng kinh tế là trách nhiệm chung của vợ chồng. Khi chia tài sản chung vợ
chồng có quyền ngang nhau, việc phân chia được thể hiện một cách bình
87

đẳng trên cơ sở thoả thuận, không có sự phân biệt đối xử khi định đoạt tài
sản.
Tuy nhiên, Luật HN&GĐ còn nhiều hạn chế, bất cập như đã phân
tích tại chương 3 nên cần phải có những giải pháp đúng đắn nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật cũng như tích cực tuyên truyền, phổ biến
các quy định của pháp luật tới người dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. I.L Anđêép (1987), Về tác phẩm của Ph.Ăngghen “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Nxb Tiến bộ, Matsxcơva.
2. Ph.Ăngghen (1972), “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước”, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Báo cáo số 03/BC-TA ngày 29/01/2016 của Toà án nhân dân tối cáo
báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm
2016 của các Toà án nhân dân.
4. Bộ luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931.
5. Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972.
6. Bộ luật Dân sự Trung kỳ năm 1936.
7. BLDS&TM Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. BLDS Pháp năm 1804.
9. Bộ luật Dân sự Việt Nam (2005), Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp (2006), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình
Việt Nam năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo
pháp luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luật văn Thạc
sỹ Luật học, Khoa Luật trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Lan, Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2000, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Lan, Bùi Minh Hồng…(2014), Mối liên hệ giữa Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 với các văn bản pháp luật khác, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
14. Đinh Thị Minh Mẫn (2014), Giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn, Luật văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
15. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình.
16. Nghị định số 70/2001/ NĐ-CP của Chính Phủ ngày 03/10/2001 quy
định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000.
17. Phạm Thị Tươi (2012), Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
18. Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
ngày 06/01/2016 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và Bộ Tư pháp.
19. Trần Thị Thu Trang (2015), Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ,
chồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội.
20. Ngô Thị Vân (2013), Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
21. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách
Khoa, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Hải Yến (2009), Chế định tài sản của vợ chồng – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội.
Website
23. https://thongtinphapluatdansu.com/2013/04/20/dnh-gi-thuc-trang-
quy-dinh-cua-luat-hn-nhn-v-gia-dnh-nam-2000-qua-thuc-tien-giai-quyet-cc-
vu-viec-ve-hn-nhn-v-gia-dn/, ngày truy cập 22/7/2016.
24. http://luatannam.vn/tin-tuc/yeu-cau-toa-an-chia-tai-san-chung-cua-
vo-chong-trong-thoi-ky-hon-nhan, ngày truy cập 22/7/2016.

You might also like