You are on page 1of 24

HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM

KHOA :……………………….

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN GIỚI TRONG KINH TẾ


VÀ QUẢN TRỊ

CHỦ ĐỀ : CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN QUYẾT ĐỊNH CỦA NAM VÀ
NỮ TRONG GIA ĐÌNH Ở ĐỊA BÀN
QUẬN BA ĐÌNH – HÀ NỘI

Họ và tên sinh
viên: ..........................................................................................
Mã số sinh
viên : .........................................................................................
Ngành
học : .........................................................................................
Khóa học : ………………………………..……………………….....
HÀ NỘI , tháng…..năm 2023
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

Điểm số Điểm chữ Ký tên


Cán bộ chấm thi 1 Cán bộ chấm thi 2

.....................................................................................................................................
...
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG...............................................................................................................................
DANH MỤC BIỂU.................................................................................................................................
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................................2
4. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................................................2
NỘI DUNG.........................................................................................................................................4
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................................................4
1.1 Khái niệm...............................................................................................................................4
1.2 Vai trò giới.............................................................................................................................5
1.3 Quan hệ giới..........................................................................................................................6
1.4 Khái niệm gia đình.......................................................................................................................7
Chương 2 : CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN QUYẾT ĐỊNH CỦA NAM VÀ NỮ TRONG GIA
ĐÌNH Ở QUẬN BA ĐÌNH – HÀ NỘI.....................................................................................................8
2.1 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu...............................................................................................8
2.1.1 Mô tả đối tượng nghiên cứu................................................................................................8
2.1.2 Đặc điểm địa bàn..................................................................................................................8
2.1.3 Đặc điểm việc ra quyết định các vấn đề của nam và nữ trong gia đình................................9
2.2 Quyền quyết định các vấn đề trong gia đình...............................................................................9
2.2.1 Người quyết định chính các công việc cụ thể của gia đình...................................................9
2.2.2 Quyền quyết định sử dụng đất trong gia đình....................................................................11
2.2.3 Quyền quyết định trong công việc sản xuất và kinh doanh................................................12
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định của nam và nữ trong gia đình............................13
2.3.1 Học vấn...............................................................................................................................13
2.3.2 Thu nhập............................................................................................................................14
2.3.3 Nghề nghiệp.......................................................................................................................14
2.3.4 Nơi sinh..............................................................................................................................15
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................17
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Người quyết định chính các công việc quan trọng của gia đình (%)

Bảng 2: Người có quyền quyết định việc sử dụng đất


DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 1: Tỷ lệ người chồng hoặc người vợ quyết định các công việc gia đình (%)
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quyền quyết định là một khía cạnh quan trọng trong cuộc sống và mối quan hệ gia
đình. Quyền quyết định cho phép cá nhân thể hiện ý kiến và đưa ra các quyết định
liên quan đến cuộc sống của mình. Tuy nhiên, trong gia đình ở Quận Ba Đình - Hà
Nội, quyền quyết định của nam và nữ có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác
nhau. Gia đình ở Quận Ba Đình có một nền văn hóa và truyền thống lâu đời, trong
đó, địa vị và vai trò nam và nữ được phân chia rõ rệt. Truyền thống xã hội này có
thể tồn tại trong việc quyết định về công việc, giáo dục và thậm chí việc quản lý tài
chính trong gia đình. Nam giới thường có thể đảm nhận vai trò quyết định quan
trọng hơn trong các vấn đề này, trong khi nữ giới thường chịu sự kiểm soát và ảnh
hưởng của nam giới.

Các yếu tố kinh tế cũng có thể ảnh hưởng đến quyền quyết định của nam và nữ.
Trong gia đình ở Quận Ba Đình, vai trò nam và nữ trong việc kiếm sống và đóng
góp vào nguồn thu nhập gia đình có thể khác nhau. Nếu một trong hai bên có thu
nhập cao hơn hoặc là người kiếm sống chính, họ có thể có quyền quyết định lớn
hơn trong các quyết định về tài chính và mua sắm trong gia đình. Thậm chí, yếu tố
giáo dục và tri thức cũng ảnh hưởng đến việc phân chia quyền quyết định giữa
nam và nữ. Nếu một trong hai bên có trình độ giáo dục cao hơn và có kiến thức
rộng hơn, họ có thể có tầm nhìn và khả năng đưa ra quyết định tốt hơn trong các
vấn đề quan trọng. Điều này có thể dẫn đến sự mất cân đối và ảnh hưởng đến
quyền quyết định của bên kém hơn.

Ngoài ra, yếu tố xã hội và gia đình cũng có thể ảnh hưởng đến quyền quyết định
của nam và nữ. Sự áp lực từ xã hội và những kỳ vọng được đặt lên nam và nữ có
thể làm giảm độ tự tin và quyền lực quyết định của họ. Gia đình cũng có thể có vai
trò trong việc hạn chế hoặc thúc đẩy quyền quyết định của nam và nữ thông qua
sự ảnh hưởng và kiểm soát từ các thành viên khác.

1
Quyền quyết định của nam và nữ trong gia đình là một chủ đề quan trọng và nhạy
cảm. Vấn đề này liên quan đến những quyền lợi cá nhân, quyền tự do và quyền
bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình. Nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến
quyền quyết định này đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu sâu hơn về văn hóa,
xã hội và môi trường gia đình ở vùng địa phương như Quận Ba Đình, Hà Nội.

Trong bài tiểu luận này, sẽ tập trung phân tích về các yếu tố tác động đến mô hình
quyền quyết định những công việc quan trọng trong gia đình giữa nam và nữ trong
giai đoạn hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu và mô tả thực trạng vai trò giới và quyền quyết định của người vợ và
người chồng trong gia đình .

- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó cũng như nhân tố ảnh hưởng.

3. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng

- Phương pháp quan sát bao gồm sống và làm việc trong cộng đồng địa phương,
kết hợp với việc tiến hành cuộc phỏng vấn chi tiết và sử dụng biện pháp quan sát
như lắng nghe và quan sát trong quá trình phỏng vấn để thu thập thông tin về các
hiện tượng liên quan đến mục tiêu nghiên cứu của dự án.

- Ngoài ra, tiểu luận cũng sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để xem xét, so
sánh và lấy thông tin từ các tài liệu thu thập được, bao gồm cả dữ liệu thống kê và
các tài liệu liên quan khác.

4. Đối tượng nghiên cứu

Giới và quyền quyết định trong gia đình của nam và nữ ở quận Ba Đình – Hà Nội

- Không gian : Quận Ba Đình – Hà Nội

- Thời gian : Tháng 12/2023

2
5. Bố cục

Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN

Chương 2 : CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN QUYẾT ĐỊNH CỦA NAM VÀ NỮ
TRONG GIA ĐÌNH Ở QUẬN BA ĐÌNH – HÀ NỘI

Chương 3 : KẾT LUẬN

3
NỘI DUNG

Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm

Thập kỷ 1980 chứng kiến sự xuất hiện của thuật ngữ "giới," và điều này đã làm nổi
lên một vấn đề quan trọng trong nghiên cứu xã hội. Giới được xem như một khái
niệm xã hội được hình thành thông qua các yếu tố văn hóa, nhằm xác định hành vi,
và thiết lập quan hệ giữa nam và nữ. Điều này dẫn đến nhiều nghiên cứu trong lĩnh
vực xã hội học về vấn đề giới.

Giới biểu thị sự khác biệt trong vai trò và trách nhiệm xã hội giữa nam và nữ. Qua
các vai trò xã hội, giới cũng thể hiện sự chuyển đổi mà được đón nhận trong cộng
đồng.

Oakley (1972) đã lần đầu phân biệt giữa hai thuật ngữ "giới tính" và "giới" như sau:
"Giới tính được coi là một sản phẩm của tự nhiên, mang những đặc điểm sinh học
gần như không thay đổi và có sự đồng nhất. Trái lại, giới là một sản phẩm của xã
hội, được xác định bởi các đặc trưng văn hóa và dễ dàng thay đổi. Để xác định
mình là nam hay nữ, một cậu bé hay một cô gái, con người cần thể hiện qua quần
áo, cử chỉ, nghề nghiệp, mạng lưới xã hội và tính cách cá nhân, cùng với đặc trưng
sinh dục." (Oakley, 1972).

Khái niệm giới được định nghĩa là “cấu trúc văn hóa xã hội liên quan đến mối quan
hệ vị trí giữa nam và nữ” (Razavi & Miller, 1995).

Từ điển tiếng Anh New Oxford (1998) định nghĩa giới tính là "trạng thái nam hay
nữ, thường được sử dụng để đề cập đến những khác biệt về văn hóa và xã hội hơn
là những khác biệt về mặt sinh học".

Theo Hesse-Biber và Carger (2000), "Giới là một cấu trúc xã hội; xã hội gán ý nghĩa
cho hai giới, nam và nữ. Mỗi xã hội nhấn mạnh vai trò cụ thể của từng giới, mặc dù
phạm vi hành vi có thể chấp nhận được đối với mỗi giới là khác nhau." khá rộng"
(Hesse-Biber & Carger, 2000).
4
Tổ chức Y tế Thế giới nhấn mạnh rằng "thuật ngữ giới tính được sử dụng để mô tả
các đặc điểm của phụ nữ và nam giới được xây dựng về mặt xã hội. Trong khi giới
tính được xác định bởi các yếu tố sinh học. Các cá nhân học cách trở thành nam
hay nữ khi sinh ra, thông qua xã hội hóa. Các hành vi học được sẽ xác định bản
dạng giới và phân công vai trò giới" (Tổ chức Y tế Thế giới, 2002).

Tóm lại, khái niệm giới đề cập đến những khác biệt xã hội do xã hội loài người tạo
ra. Quan niệm về giới luôn nảy sinh từ bản chất của các mối quan hệ xã hội và các
hình thức tổ chức xã hội khác nhau. Bản chất xã hội của giới được thể hiện rõ ràng
ở sự khác biệt giữa các đặc điểm và hoạt động được coi là nam tính và nữ tính khi
so sánh giữa các nền văn hóa, tầng lớp xã hội và các nhóm dân tộc trong cùng một
nền văn hóa, có thể thay đổi theo thời gian.

1.2 Vai trò giới

Được định nghĩa là các hành vi và quan điểm được kỳ vọng trong xã hội đối với mỗi
giới. Những vai trò này gồm quyền và trách nhiệm được chia sẻ và trích dẫn theo
từng giới tính trong một nền văn hóa cụ thể. (Hoàng Bá Thịnh - Bài giảng về giới và
phát triển trong môn Xã hội học)

Lý thuyết giới khởi nguồn từ các yếu tố sinh học đặc thù, định rõ sự khác biệt giữa
nam và nữ. Những yếu tố này cung cấp nguyên liệu cơ bản, từ đó thúc đẩy sự hình
thành của các vai trò giới, là những hành vi cụ thể để tổ chức xã hội. Những vai trò
này được hình thành thông qua quá trình xã hội hoá và hướng dẫn hành vi của cả
hai giới theo mong đợi xã hội. Các vai trò giới bao gồm vai trò tái sản xuất, vai trò
cộng đồng.và vai trò sản xuất .

Xã hội học của Parsons đã đặt gia đình ở trung tâm của sự học hỏi xã hội. Theo
quan điểm của Parsons, trong gia đình, trẻ em học được các vai trò tình cảm thông
qua sự nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục của gia đình, những nhiệm vụ mà phụ nữ
thường thực hiện. Các vai trò khác như thành công và trụ cột kinh tế được đảm
nhận bởi nam giới. Theo Parsons, những vai trò này có vai trò quan trọng trong
việc duy trì sự ổn định xã hội qua các thế hệ.

5
1.3 Quan hệ giới

Theo Từ điển Oxford, thuật ngữ "quan hệ giới tính" bắt nguồn từ những năm 1970,
đề cập đến sự tương tác giữa các giới tính, đặc biệt là một lĩnh vực nghiên cứu.

“Quan hệ giới tính” trong từ điển HIM 12.3 cho biết thuật ngữ này dùng để biểu thị
vai trò có cấu trúc của mỗi giới trong xã hội được định hình bởi lịch sử xã hội. Ở
Đức, thuật ngữ này đã thu hút được sự chú ý đáng kể, xuất hiện trong lĩnh vực xã
hội học (với 145 đầu sách nghiên cứu liên quan từ năm 1994 đến năm 2000). Theo
De Gouges (1791) trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Công dân, các hình thức quan
hệ giới phụ thuộc vào đạo đức, công bằng và tự do.

Nghiên cứu về mối quan hệ giới trong lịch sử xã hội của con người đã dựa vào
phương thức sinh sống của họ. Ví dụ như sự thay đổi từ việc săn bắn và hái lượm,
đến việc sử dụng cuốc trong nông nghiệp, rồi sự xuất hiện của đồ gốm và đồ sắt,
và sau đó là việc sử dụng cày và trồng trọt tách khỏi chăn nuôi. Các nhà nghiên cứu
như Johann Jakob Bachofen, Morgan, Marx và Engels đặc biệt quan tâm tới mối
quan hệ giới.

Johann Jakob Bachofen (1861) cho rằng hệ thống hôn nhân một vợ một chồng là
một bước tiến của phụ nữ sau một quá trình đấu tranh dài chống lại chế độ
polygamy. Ông giúp giải mã sự thống trị và áp bức tồn tại trong mối quan hệ giới,
cũng như các hình thức tưởng tượng mà con người đã tạo ra và vẫn tuân theo.

Morgan (1871) cho rằng sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức sinh
sống và vai trò nuôi dạy con cái đều có mối quan hệ chặt chẽ và quyết định mối
quan hệ giới. Như vậy, trong công trình đầu tiên phê phán việc kinh tế chính trị,
Marx chỉ ra rằng cả hai giới tính đều có mối quan hệ xã hội của riêng mình.

Theo Marx và Engels (2013), mối quan hệ giới được hình thành thông qua lực
lượng sản xuất, phân phối sản phẩm và phân công lao động.

6
Tóm lại, mối quan hệ giới là các mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới, đặc
biệt là cách thức phân chia quyền lực giữa hai giới.

1.4 Khái niệm gia đình

Từ khía cạnh xã hội học, gia đình được coi là một "thiết chế xã hội" hoặc một đơn
vị kinh tế độc lập. Nó là cơ sở của xã hội và có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ
chức và thiết chế xã hội khác. Các nhà xã hội học đã đưa ra một khái niệm về gia
đình, mô tả nó như một "thiết chế xã hội đặc thù", là một nhóm xã hội nhỏ mà các
thành viên trong đó có liên kết với nhau thông qua quan hệ hôn nhân, quan hệ
máu thịt hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình còn được định nghĩa dựa trên tính
chung sống, trách nhiệm đạo đức với nhau và khả năng đáp ứng nhu cầu cá nhân
của từng thành viên, đồng thời thực hiện nhiệm vụ quan trọng trong việc tiếp tục
tồn tại và phát triển xã hội từ khía cạnh sản xuất con người. Sự thay đổi của gia
đình sẽ ảnh hưởng đến xã hội cũng như các sự biến đổi trong xã hội sẽ đồng thời
tác động lại lên gia đình.

Khái niệm gia đình có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo góc nhìn của AG Khavchop,
nhà xã hội học Liên Xô trong tác phẩm “Hôn nhân và gia đình”, “Gia đình là một hệ
thống lịch sử cụ thể về các mối quan hệ giữa vợ, chồng, cha mẹ và con cái. Là một
nhóm xã hội nhỏ, trong đó các thành viên gắn kết chặt chẽ với nhau thông qua mối
quan hệ anh chị em quen thuộc, các hoạt động cộng đồng và trách nhiệm đạo đức.
Sự cần thiết về mặt xã hội của gia đình được xác định bởi nhu cầu tái sản xuất dân
số về tinh thần và thể chất của xã hội."

Trong cuốn “Cấu trúc xã hội” của GP Murdock xuất bản năm 1999, gia đình được
định nghĩa như sau: “Gia đình là một nhóm xã hội được đặc trưng bởi sự cùng cư
trú, hợp tác và sản xuất kinh tế. Nó bao gồm các mối quan hệ tình dục được xã hội
chấp thuận và bao gồm một hoặc nhiều con cái (hoặc về mặt sinh học hoặc thông
qua việc nhận con nuôi).

7
Chương 2 : CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN QUYẾT ĐỊNH CỦA NAM VÀ NỮ
TRONG GIA ĐÌNH Ở QUẬN BA ĐÌNH – HÀ NỘI

2.1 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu

2.1.1 Mô tả đối tượng nghiên cứu

Dung lượng mẫu khảo sát là 320 hộ gia đình có đủ vợ chồng và con cái, trong 320
người trả lời có 119 nam và 201 nữ.

Nghiên cứu sẽ tập trung vào việc khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết
định của nam và nữ trong gia đình. Điều này có thể bao gồm những yếu tố như văn
hóa, giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn, thu nhập, quyền lực xã hội và các yếu tố
khác có thể ảnh hưởng đến quyền quyết định của nam và nữ trong gia đình.
Nghiên cứu sẽ được tiến hành tại quận Ba Đình, Hà Nội, do vậy, các yếu tố và kết
quả nghiên cứu có thể có ảnh hưởng từ ngữ cảnh văn hóa và xã hội địa phương.

2.1.2 Đặc điểm địa bàn

Quận Ba Đình là một trong những quận của thành phố Hà Nội, Việt Nam. Đây là
một quận nằm ở phía Tây Bắc của thành phố và có vị trí địa lý rất quan trọng. Dưới
đây là một số đặc điểm địa bàn của quận Ba Đình:

Vị trí: Ba Đình giáp với các quận và huyện như Cầu Giấy, Hoàn Kiếm, Đống Đa và
Tây Hồ.

Diện tích: Quận Ba Đình có diện tích khoảng 9,2 km².

Dân số: Theo thống kê năm 2020, quận Ba Đình có dân số khoảng 247.100 người.

8
Khu đô thị: Quận Ba Đình được chia thành nhiều khu đô thị như khu Trung Hòa -
Nhân Chính, khu Kim Mã, khu Giảng Võ và khu Đội Cấn.

Địa danh nổi tiếng: Ba Đình là nơi có nhiều địa danh nổi tiếng và quan trọng như
Bảo tàng Hồ Chí Minh, Lăng Bác, Quảng trường Ba Đình, Chùa Một Cột và nhiều
phủ tổng thống.

Giao thông: Quận Ba Đình có mạng lưới giao thông phát triển, với các con đường
lớn như đường Liễu Giai, đường Nguyễn Chí Thanh và đường Hoàng Đạo Thúy.

Trường học và bệnh viện: Trên địa bàn Ba Đình, có nhiều trường đại học, trung học
và tiểu học được biết đến như các trường Đại học Ngoại thương, Đại học Luật,
cùng với Bệnh viện Bạch Mai.

2.1.3 Đặc điểm việc ra quyết định các vấn đề của nam và nữ trong gia đình Trong
gia đình hiện nay, quyền quyết định về các công việc và chi tiêu hàng ngày thường
do phụ nữ đảm nhận, trong khi các quyết định lớn hơn như đầu tư sản xuất, mua
đất, mua nhà hoặc mua sắm đồ đắt tiền thường do người chồng quyết định. Tuy
nhiên, quyền quyết định không chỉ thuộc về người chồng mà thường có sự bàn bạc
giữa hai vợ chồng.

Tuổi tác cũng ảnh hưởng đến mức độ tham gia vào quyết định này. Trong các cặp
vợ chồng dưới 30 tuổi, việc thảo luận trước khi người chồng quyết định có xu
hướng cao hơn. Khi lứa tuổi càng cao, việc quyết định các công việc quan trọng trở
nên chủ yếu thuộc về người chồng. Tuy nhiên, quyền quyết định của phụ nữ trong
gia đình ngày càng gia tăng, với việc hai vợ chồng thường cùng tham gia bàn bạc
để đưa ra các quyết định về hầu hết các khía cạnh của cuộc sống gia đình. Đặc biệt,
việc quyết định về công việc sản xuất của gia đình thường nhiều hơn do phụ nữ
đảm nhận. Tỷ lệ phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định hoặc
tham gia vào quản lý chăm sóc sức khỏe gia đình và các hoạt động xã hội chung
không thua kém tỷ lệ nam giới.

Điều này cho thấy phụ nữ đang tăng cường ảnh hưởng của mình trong các hoạt
động xã hội bên ngoài gia đình. Mô hình quyền quyết định trong gia đình ngày nay
9
đang thay đổi theo chiều hướng bình đẳng hơn, cho thấy sự cân bằng trong việc
hai vợ chồng thảo luận và đưa ra quyết định chung trong hầu hết các vấn đề, trong
đó quyền quyết định thường nằm trong tay người có trách nhiệm thực hiện công
việc đó thay vì chỉ dựa vào quyền lực kinh tế.

2.2 Quyền quyết định các vấn đề trong gia đình

2.2.1 Người quyết định chính các công việc cụ thể của gia đình

Gia đình có nhận thức về các công việc quan trọng bao gồm đầu tư và kinh doanh
hộ gia đình, giao dịch bất động sản, mua sắm đồ dùng và trang thiết bị đắt tiền, tổ
chức các nghi thức ma chay và cưới xin, và định hướng sự nghiệp cho vợ chồng và
con cái. Bảng 1 cho thấy một mô hình lựa chọn quyền quyết định rõ ràng. Với việc
chăm sóc con cái và tổ chức các buổi giỗ, lễ tết và ma chay, cưới xin, vai trò người
mẹ trong gia đình truyền thống thường quyết định nhiều hơn so với người cha.
Trong khi đó, với việc đầu tư và kinh doanh, định hướng sự nghiệp, mua sắm tài
sản đắt tiền và xây dựng nhà cửa, người chồng thường có quyền quyết định chính.
Tuy nhiên, việc sinh con được quyết định chung bởi cả hai vợ chồng, với tỷ lệ cao
gần 90%.

Bảng 1. Người quyết định chính các công việc quan trọng của gia đình (%)

Người quyết định chính


Công việc Người Cả hai vợ Người
Người vợ
chồng chồng khác
Đầu tư sản xuất/ kinh doanh của hộ
19,4 41,4 35,4 4,1
gia đình
Định hướng việc làm của vợ/ chồng,
7,9 16,4 72,3 3,4
con cái
Việc học hành của các thành viên gia
20,9 10,1 64,1 4,9
đình
Mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, tài
9,4 27,5 57,8 5,4
sản đắt tiền
10
Mua bán/ xây sửa nhà cửa, đất đai 5,6 37,5 51,6 5,3

Tổ chức giỗ, tết 36,2 10,9 47,1 5,8


Tổ chức ma chay, cưới xin 20,9 11,8 59,5 7,7
Việc sinh con 7,1 5,4 87,1 0,4

Nguồn : Tổng cục thống kê

Biểu đồ 1 : Tỷ lệ người chồng hoặc người vợ quyết định các công việc gia đình
(%)

45
40
35
30
25
20 Ngườ i vợ
Ngườ i chồ ng
15
10
5
0
Đầ u tư sả n Định hướ ng Việ c học hà nh Mua sắ m đồ Mua bá n/ xâ y Tổ chứ c giỗ, tế t Tổ chứ c ma Việ c sinh con
xuấ t/ kinh việ c là m của của cá c thà nh dùng, trang sử a nhà cử a, chay, cướ i xin
doanh của hộ vợ / chồng, con viê n gia đình thiế t bị, tà i sả n đấ t đai
gia đình cá i đắ t tiề n

Nguồn : Tổng cục thống kê

11
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay, người chồng vẫn là người có quyền quyết
định cuối cùng đối với những việc quan trọng trong gia đình ở đa số gia đình
(49,1%). Tỷ lệ các cặp vợ chồng cùng nhau quyết định là 32,6%, chiếm khoảng 1/3
số hộ được khảo sát. Trong 12,9% hộ gia đình, vợ là người đưa ra quyết định cuối
cùng về những vấn đề quan trọng của gia đình, trong khi 5,5% dựa vào người khác.
Vì vậy, nam giới vẫn duy trì vị trí quan trọng trong gia đình, mặc dù địa vị và vai trò
của phụ nữ đã được nâng cao đáng kể trong thời gian gần đây.

2.2.2 Quyền quyết định sử dụng đất trong gia đình

Trong số 320 hộ được khảo sát, có 168 hộ (52,5%) được gia đình phía chồng hỗ trợ
về đất đai, bao gồm đất nền nhà ở và đất sản xuất. Trái lại, chỉ có 10,6% hộ được
gia đình phía vợ hỗ trợ. Điều này cho thấy rõ rằng sau khi kết hôn, hình thức cư trú
tại phía nhà chồng vẫn chiếm ưu thế.

Trong các trường hợp mà các hộ gia đình nhận được hỗ trợ đất đai từ phía cha mẹ
chồng, quyền quyết định thuộc về người chồng với tỷ lệ cao nhất (70,8%), trong
khi người vợ chỉ có quyền quyết định ít (2,4%), và trong trường hợp cả hai vợ
chồng cùng có quyền quyết định (22,6%). Tuy nhiên, khi đất đai được hỗ trợ từ
phía cha mẹ vợ, quyền quyết định vẫn nghiêng về người chồng (32,4% so với
26,5%). Điều này cho thấy, người đàn ông tiếp tục có ưu thế trong việc quyết định
sử dụng đất đai được hỗ trợ từ cả hai phía cha mẹ, bất kể phía nhà chồng hay phía
vợ.

Tuy nhiên, trong trường hợp đất đai được hỗ trợ từ cả hai phía cha mẹ vợ và cha
mẹ chồng, mức độ quyết định của cả hai vợ chồng là cao hơn (35,3%) so với
trường hợp đất từ phía cha mẹ chồng hỗ trợ.

Bảng 2: Người có quyền quyết định việc sử dụng đất

(đvt:%)

12
Nguồn : Tổng cục thống kê

Kết quả của cuộc kiểm định cho thấy, trình độ học vấn có sự ảnh hưởng đáng kể
đến quyền quyết định về việc sử dụng đất của gia đình. Khi điều tra được tiến
hành, đã thấy rằng vai trò quyết định của người chồng giảm dần đi khi cấp độ học
vấn tăng lên (từ 84,6% ở mức mù chữ xuống còn 44,4% ở cấp cao đẳng/đại học).
Điều này cho thấy, khi có trình độ học vấn cao hơn, người đàn ông có xu hướng
giảm sự áp đặt và định kiến về việc nam giới có quyền quyết định tất cả các vấn đề
quan trọng trong gia đình, và thay vào đó, họ sẵn lòng tham khảo ý kiến của vợ.

Đối với phụ nữ, xu hướng lại trái ngược với người đàn ông. Khi trình độ học vấn
cao hơn, phụ nữ có quyền quyết định cao hơn so với chồng. Lý do là khi có trình độ
học vấn tăng cao, phụ nữ nhận thức rõ ràng hơn về quyền của mình trong việc
thảo luận và đưa ra quyết định về các vấn đề quan trọng trong gia đình.Với cả hai
vợ chồng, khi cả hai đều có trình độ học vấn cao, sự bình đẳng trong việc thảo luận
và quyết định trở nên rõ ràng hơn.

Trong thực tế, quyền quyết định về việc sử dụng và mua bán đất đai trong gia đình
thường được người chồng ưu tiên hơn người vợ. Điều này bao gồm cả đất đai
nguồn gốc từ gia đình của cả hai bên cũng như đất mà hai vợ chồng tự có được.
Tuy nhiên, quyền quyết định có thể được đảo ngược nếu người vợ thừa kế đất đai
từ gia đình trước khi kết hôn. Trong trường hợp đó, người vợ sẽ có quyền quyết
định chính.

Dù người chồng là người có quyền quyết định cuối cùng trong việc sử dụng đất đai,
tuy nhiên, trong quá trình ra quyết định này, hai vợ chồng thường thảo luận kỹ
lưỡng với nhau. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp bán đất liên quan
đến sinh kế của gia đình.

2.2.3 Quyền quyết định trong công việc sản xuất và kinh doanh

Trong một số ngành công nghiệp và hoạt động kinh doanh, quyết định có liên quan
thường do người chịu trách nhiệm chính đưa ra. Dựa trên một khảo sát năm 2013,

13
trong số 49,7% hộ gia đình liên quan đến hoạt động này (50,3% hộ không liên
quan), có một tỷ lệ cao (26,6%) trong đó cả hai vợ chồng đồng ý về quyết định,
trong khi người chồng chiếm ưu thế (16,8%), và người vợ (5,3%), con cái (0,9%), và
những người khác (0,3%) cũng có phần nêu ý kiến. Thường thì người chồng sẽ
quyết định việc chuyển đổi hoạt động kinh doanh của gia đình hoặc mở rộng đầu
tư sản xuất kinh doanh. Người tham gia khảo sát giải thích rằng đàn ông thường có
xu hướng quyết đoán và có kiến thức về lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong khi
phụ nữ thường e dè và thiếu quyết đoán, và do đó người chồng thường được xem
là người có quyền quyết định cuối cùng.

Tuy nhiên, xu hướng cả hai vợ chồng cùng bàn thảo và đưa ra quyết định về việc
mở rộng kinh doanh cũng khá phổ biến. Trong lĩnh vực sản xuất, 55,5% người trả
lời cho biết cả hai vợ chồng cùng bàn thảo với nhau, 59,3% áp dụng kỹ thuật,
55,5% sử dụng vay vốn và vốn, 58,7% thực hiện chuyển nhượng đất đai, và 72%
tham gia buôn bán sản phẩm. ( Tổng cục thống kê )

2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định của nam và nữ trong gia đình

2.3.1 Học vấn

Trong các gia đình mà người vợ chỉ đảm nhận các công việc đơn giản hoặc có trình
độ sơ cấp/nhân viên kỹ thuật, người chồng thường có sức ảnh hưởng quyết định
lớn hơn gấp đôi so với trường hợp người vợ có trình độ cao cấp. Mặc dù điều này,
không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng quyết định cuối cùng của người
chồng.Đây là kết quả của một nghiên cứu mới cho thấy vai trò của nam giới trong
gia đình không phụ thuộc vào các yếu tố này.

Thậm chí, việc có một người vợ làm việc và có trình độ học vấn cao hơn có thể chỉ
ra sự giàu sắc của quan điểm nam giới là người làm chủ gia đình trong tiềm thức và
tác động đến suy nghĩ và hành vi của gia đình. Các gia đình với người vợ trẻ tuổi có
khả năng quyết định tương đối cao, nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến quyền
quyết định của người chồng.

14
2.3.2 Thu nhập

Yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyền quyết định của người chồng là so
sánh thu nhập giữa chồng và vợ. Nếu người chồng có thu nhập cao nhất trong gia
đình, khả năng anh ta đóng vai trò quyết định chính trong các công việc gia đình sẽ
tăng gấp rưỡi so với nhóm gia đình mà người vợ kiếm nhiều hơn. Điều này cho
thấy vị trí chuyên môn hoặc trình độ học vấn của người chồng không đủ để tạo ra
quyền quyết định mạnh mẽ.

Thay vào đó, quyền quyết định của họ phụ thuộc chủ yếu vào thành quả nghề
nghiệp hoặc kiến thức của họ, được thể hiện qua mức thu nhập.

Yếu tố thu nhập có một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến quyền quyết
định của nam và nữ trong gia đình đô thị. Thu nhập của mỗi thành viên trong gia
đình đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo các nhu cầu cơ bản như thức ăn,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục và sinh hoạt hàng ngày. Trong một số gia đình, nam
giới thường có mức thu nhập cao hơn so với nữ giới, điều này có thể tạo ra sự mất
cân bằng trong quyền quyết định. Những nguồn thu nhập lớn hơn có thể tạo điều
kiện cho nam giới đưa ra quyết định quan trọng về tài chính và đầu tư của gia đình
mà không cần sự đồng thuận từ phía nữ giới.

Điều này có thể ảnh hưởng đến quyền tự chủ và quyền lựa chọn của phụ nữ, khi
họ có thể bị hạn chế trong việc đưa ra quyết định về việc sử dụng tiền, đầu tư hoặc
tham gia vào các hoạt động kinh tế quan trọng. Họ có thể phụ thuộc vào quyết
định của nam giới và không được thể hiện ý kiến và ý thức cá nhân của mình.

2.3.3 Nghề nghiệp

Ở khu vực quận Ba Đình, Hà Nội, có sự chênh lệch đáng kể trong quyền quyết định
giữa các gia đình. Trong những gia đình mà người vợ làm công việc sơ cấp hoặc
nhân viên kỹ thuật, thậm chí các công việc đơn giản hoặc không làm việc, sẽ có khả
năng cả hai vợ chồng cùng tham gia quyết định như là một phần không quá quan
trọng, chỉ chiếm khoảng một nửa so với những gia đình mà người vợ có trình độ
chuyên môn cao.
15
Thêm nữa, nhóm tuổi trong đó người vợ còn trẻ hơn thường có khả năng đồng
quyết với nhau cao hơn so với những gia đình có người vợ lớn tuổi, đặc biệt là từ
50 tuổi trở lên. Điều này cho thấy sự hiệu quả tích cực của các chính sách nhằm
tăng cường bình đẳng giới trong suốt hai thập kỷ trở lại đây tại Việt Nam, đặc biệt
là sau khi Luật Bình đẳng giới được áp dụng vào năm 2006. Trong trường hợp cả
hai vợ chồng đều có quyền quyết định, học vấn không ảnh hưởng đáng kể. Khả
năng cả hai vợ chồng cùng tham gia vào quyết định cuối cùng cũng cao hơn so với
những gia đình mà một trong hai vợ chồng có quyền quyết định chính. Tuy vậy,
khả năng này giảm đi khi một trong hai vợ chồng lấy người vợ làm người quyết
định về công việc gia đình và càng giảm hơn nữa khi người chồng được coi là người
chịu trách nhiệm quyết định chính.

2.3.4 Nơi sinh

Nơi sinh đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến quyền quyết định của
nam và nữ trong gia đình ở đô thị. Gia đình trong môi trường thành thị thường
xuyên tiếp xúc với nhiều yếu tố văn hóa, kinh tế và xã hội khác nhau, tạo ra những
điều kiện có thể ảnh hưởng đến địa vị và quyền lực của cả nam và nữ trong gia
đình.

Yếu tố đặc trưng của văn hóa trong việc quyết định vai trò chính trong gia đình và
thực hiện quyết định gia đình có mối liên hệ chặt chẽ. Đặc biệt, quan điểm về
người nắm giữ trách nhiệm chính trong gia đình và thực tế việc quyết định này
thường được áp dụng. Có những gia đình có quan điểm rằng người chồng đóng vai
trò chính trong gia đình và thường cho rằng ông ta sẽ là người có quyền quyết định
cuối cùng về các vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, yếu tố dân tộc không tạo ra sự khác
biệt đáng kể về quyền quyết định của người chồng trong gia đình này.

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu mới về quan hệ giới trong gia đình ở quận Ba Đình đã chỉ ra
rằng, phụ nữ thường có ít quyền kiểm soát các nguồn lực quan trọng hơn so với
nam giới. Thông qua nghiên cứu này, chúng ta có thêm một bằng chứng cho thấy
người kiếm thu nhập chủ yếu trong gia đình đóng vai trò quyết định quyền lực
16
hơn. Dù vậy, nam giới vẫn ảnh hưởng đến quyền quyết định của phụ nữ ngay cả
khi phụ nữ không phải là người chịu trách nhiệm kiếm thu nhập chính. Điều này
cho thấy mô hình quyền quyết định gia đình ở quận Ba Đình – Hà Nội thiên về
những người đóng góp chính vào thu nhập gia đình. Tuy nhiên, việc tạo điều kiện
cho phụ nữ tham gia vào phát triển kinh tế gia đình có thể giới hạn mô hình truyền
thống "phu xướng, phụ tùy" và đóng góp vào việc cân bằng vai trò của phụ nữ và
nam giới trong gia đình ở quận Ba Đình. Từ đó, việc tăng cường sự tự do kinh tế
cũng được xem như một yếu tố hạn chế bất bình đẳng trong gia đình và ảnh
hưởng đến quan hệ giới trong gia đình.

Qua nội dung tiểu luận, nhận thấy rằng các yếu tố văn hóa và giáo dục đóng vai trò
quan trọng trong việc ảnh hưởng đến quyền quyết định của nam và nữ trong gia
đình. Truyền thống và giá trị văn hóa có thể tạo ra sự chênh lệch giữa nam và nữ
trong việc đưa ra quyết định quan trọng trong gia đình. Đồng thời, trình độ giáo
dục của nam và nữ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình quyền quyết
định của mỗi bên.Ngoài ra, yếu tố kinh tế cũng có tác động đáng kể đến quyền
quyết định. Trong một số trường hợp, đàn ông có sự ưu tiên về tài chính và sự
kiểm soát về thu nhập gia đình, điều này ảnh hưởng đến quyền quyết định của
nam và nữ trong gia đình. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc này cũng đúng, và sự
phân quyền ngày càng được đặt lên bàn cân trong xã hội hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Thị Hoa (2001). Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình và xã
hội. Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 1.
2. Lê Ngọc Hùng (2008). Động thái quyền lực giới. Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn. Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 5.

17
3. Lê Ngọc Văn (2006). Nghiên cứu gia đình và lý thuyết nữ quyền. Hà nội: Nhà
xuất bản Khoa học xã hội.
4. Lê Ngọc Văn (2011). Biến đổi gia đình Việt Nam. Hà nội: Nhà xuất bản Khoa
học xã hội.
5. Nguyễn Hữu Minh & Trần Thị Vân Anh (2008). Bình đẳng giới ở Việt Nam.
Hà nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

18

You might also like