You are on page 1of 30

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA




BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI:
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT HUY NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐẢM BẢO
QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LỚP L08--- NHÓM 15 --- HK222


NGÀY NỘP 16/02/2023

Giảng viên hướng dẫn: ThS. ĐOÀN VĂN RE


Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số
Huỳnh Đông Đăng Nguyên 2114215
Đinh Thanh Nhân 1914428
Lê Phan Hoài Nhân 2013965
Nguyễn Thanh Nhân 2114269
Võ Ngọc Thành Nhân 2114278

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: L08 Tên nhóm: 15 HK:222 Năm học 2022-2023
Đề tài:
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY NỀN DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐẢM BẢO QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

% Điểm Điểm
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Ký tên
BTL BTL
1 2114215 Huỳnh Đông Đăng Nguyên Phần mở bài, kết luận 20%
2 1914428 Đinh Thanh Nhân Chương 1 20%
3 2013965 Lê Phan Hoài Nhân Chương 2, phần 2.2 20%
4 2114269 Nguyễn Thanh Nhân Chương 2, phần 2.1 20%
5 2114278 Võ Ngọc Thành Nhân Tổng hợp file word 20%
Họ và tên nhóm trưởng: Huỳnh Đông Đăng Nguyên, Số ĐT: 0868930810. Email: nguyen.huynhdd@hcmut.edu.vn
Nhận xét của GV: .......................................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)

ThS. Đoàn Văn Re


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 2
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 2
2. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 4
3. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Kết cấu của đề tài ......................................................................................... 4
II. NỘI DUNG ................................................................................................................ 6
Chương 1. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .......................... 6
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ ........................................ 6
1.1.1. Quan niệm về dân chủ .................................................................... 6
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của dân chủ .............................................. 8
1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ....................................................................... 11
1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa .................. 11
1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ............................... 12
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT HUY NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐẢM BẢO QUYỀN
LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................... 15
2.1. Thực trạng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân ở Việt Nam thời gian qua ........................................ 15
2.1.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân........................................... 15
2.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân ................................................... 17
2.2. Giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân ở Việt Nam thời gian tới ......................................... 19
2.2.1. Giải pháp phát huy mặt đạt được ................................................ 19
2.2.2. Giải pháp khắc phục mặt hạn chế ............................................... 21
III. KẾT LUẬN ............................................................................................................ 25
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 26

1
I. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân cũng như
tin tưởng và coi trọng tinh thần đoàn kết toàn dân. Nhờ có sự nhìn nhận ấy, mới có thể
phát huy được sức mạnh của nhân dân. Bao cuộc chiến khó khăn từ bắt đầu đến thành
công đều có sự góp phần không nhỏ từ nhân dân. Tư tưởng nhân dân cũng như dân chủ
cũng được cải thiện và nâng cao bởi những nguyên tắc dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thực hiện những chính sách về quyền lợi của nhân dân, bao gồm cả việc đảm bảo
quyền lợi của nhóm người bị cô lập, các nhóm nghèo và những nhóm nhỏ trong xã hội.
Việc đảm bảo quyền lợi của nhân dân cũng được thể hiện trong những luật pháp để bảo
vệ các quyền lợi của nhân dân và bảo vệ luật pháp.

Lý luận về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa cốt lõi là sự tôn trọng và bảo vệ
quyền của mỗi công dân trong một nền dân chủ. Để đạt được mục tiêu này, luận lý của
dân chủ cần bao gồm các yếu tố như quyền lực chia sẻ, nhân quyền, sự tham gia của tất
cả các công dân trong quyết định và hành động của chính phủ, và tôn trọng chủ quyền
của nhân dân. Trong dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận lý cốt lõi của dân chủ có một sự
thêm vào về các quyền của mỗi công dân, bao gồm cả các quyền xã hội và kinh tế.

Ngoài ra, luận lý của dân chủ cũng cần phát huy các quyền của các nhóm yếu thế
và sự cân bằng giữa các nhóm. Để đảm bảo sự bình đẳng, quyền của các nhóm yếu thế
và các nội dung của sự tôn trọng và bảo vệ quyền của các công dân trong các nền dân
chủ phải được đảm bảo bởi các quy tắc và luật. Bên cạnh đó, các quyền của các công
dân trong các nền dân chủ cũng phải được bảo vệ thông qua các quy tắc và luật, bao
gồm cả các quy tắc riêng của từng quốc gia.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các quy tắc và trách nhiệm chia sẻ để cấp
cho mọi người quyền lực quyết định trong các văn hóa, kinh tế và quan hệ xã hội. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa đặt những người dân làm trung tâm của mọi việc quyết định, bao
gồm cả quyền lợi, quyền lực và nghĩa vụ của họ. Đây là một hệ thống phân bổ quyền
lực cho những nhóm nhỏ trong cộng đồng, thay vì một cá nhân trị giá. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa làm nền tảng cho các cộng đồng để có thể bảo vệ và làm việc với nhau để hệ
thống và hành động tốt nhất trong những năm sau.

2
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các quy tắc và trách nhiệm chia sẻ để cấp
cho mọi người quyền lực quyết định trong các văn hóa, kinh tế và quan hệ xã hội. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa đặt những người dân làm trung tâm của mọi việc quyết định, bao
gồm cả quyền lợi, quyền lực và nghĩa vụ của họ. Đây là một hệ thống phân bổ quyền
lực cho những nhóm nhỏ trong cộng đồng, thay vì một cá nhân trị giá. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa làm nền tảng cho các cộng đồng để có thể bảo vệ và làm việc với nhau để hệ
thống và hành động tốt nhất trong những năm sau.

Thực tế ở Việt Nam hiện nay, dân chủ trong lĩnh vực văn hóa - xã hội được đẩy
mạnh và thực thi hiệu quả hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các giải pháp
hữu hiệu trong các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, công nghệ, môi
trường… ngày càng hoàn thiện và đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống.1 Ngoài lĩnh vực văn
hóa – xã hội Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong việc thúc đẩy dân chủ, đáp
ứng quyền tự quyết của nhân dân và bảo đảm sở hữu xã hội. Một số thành tựu đó bao
gồm: Thực hiện chính sách và biện pháp nhằm giảm nghèo, cải thiện cuộc sống của
người dân, đảm bảo an sinh xã hội và dần thay đổi quan hệ sản xuất và sở hữu hướng về
sở hữu xã hội; Đảm bảo quyền lợi của người lao động trong lĩnh vực lao động, đặc biệt
là quyền tổ chức và đàm phán thỏa thuận lao động; …

Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân ngày càng được quan tâm và phát
huy hiệu quả tích cực. Có thể khẳng định, việc thực hành dân chủ trong điều kiện một
đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam là phù hợp với điều kiện ở nước ta nên đã đưa tới
những thành công tốt đẹp.

Tuy nhiên, một số người cho rằng quyền lực thực tế chưa hoàn toàn được nhân dân
sở hữu và các giới chức trong chính phủ và đảng cầm quyền vẫn đang giữ vai trò quá
lớn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có thể kể đến việc thiếu sự
minh bạch và trách nhiệm, tham nhũng, và các hạn chế về quyền tự do ngôn luận và tự
do truy cập thông tin. Điều này đã khiến cho một số người dân cảm thấy không được

1
GS.TS. Vũ Văn Hiền. (06/08/2021). Dân chủ và thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền ở Việt
Nam. Truy cập từ https://dukcq.hatinh.gov.vn/xay-dung-dang/dan-chu-va-thuc-hanh-dan-chu-trong-di eu-kien-
mot-dang-cam-quyen-o-viet-nam-619.html

3
hưởng đủ các quyền lợi và tài nguyên của đất nước, và ảnh hưởng đến độ tin cậy của kết
quả các quyết định và chính sách của chính phủ và đảng.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm chọn đề tài: “Dân chủ và dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Thực trạng và giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.

2. Đối tượng nghiên cứu

Thứ nhất, dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, thực trạng và giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Thứ nhất, làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ và dân chủ xã
hội chủ nghĩa.

Thứ hai, đánh giá thực trạng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân ở Việt Nam thời gian qua.

Thứ ba, đề xuất giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân ở Việt Nam thời gian tới.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu,
trong đó chủ yếu nhất là các phương pháp: phương pháp thu thập số liệu; phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử - logic;…

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:

4
Chương 1: Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

5
II. NỘI DUNG

Chương 1. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ

1.1.1. Quan niệm về dân chủ


“Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người; là
một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; có quá trình ra đời phát triển
cùng với lịch sử xã hội nhân loại”1.

Thuật ngữ dân chủ, nghĩa là “cai trị bởi nhân dân”, được tạo nên bởi những người
Hy Lạp thành Athens cổ đại để mô tả hệ thống tự trị thành bang của họ, hệ thống vốn
đã đạt đến đỉnh cao vào khoảng năm 430 TCN dưới sự dẫn dắt của nhà hùng biện và
chính trị gia lỗi lạc Pericles. Song có lẽ người Athens không phải là những người đầu
tiên đi theo mô hình này (một số nơi ở Ấn Độ có truyền thống dân chủ địa phương
được cho là xuất hiện từ sớm hơn thế) nhưng vì người Hy Lạp đặt ra tên gọi này, họ
có thể dễ dàng tuyên bố rằng mình là nền dân chủ “đầu tiên”, mặc dù một phần lớn
người dân ở Athens – đặc biệt là phụ nữ và nô lệ – không có quyền gì trong hệ thống
đó.

Danh hiệu nền dân chủ hoạt động liên tục lâu đời nhất là đối tượng bị tranh giành
quyết liệt hơn. Iceland, Quần đảo Faroe, và Đảo Man đều có những nghị viện địa
phương được thành lập từ thế kỷ 9 và 10, khi người Viking đến cướp phá, vơ vét, và
dựng nên nhiều cơ quan lập pháp trên những hòn đảo ngoài khơi Bắc Âu. Quốc hội
Iceland, có tên là Althing, xuất hiện từ năm 930 SCN, nhưng trong nhiều thế kỷ đã
phải chịu sự cai trị của Na Uy và Đan Mạch. Trong khi đó, Đảo Man và Quần đảo
Faroe vẫn lần lượt là lãnh thổ phụ thuộc của Vương Quốc Anh và Đan Mạch.

Hoa Kỳ là một trong số những nền dân chủ hiện đại lâu đời nhất, nhưng chỉ khi
thắt chặt tiêu chí xét chọn lại để loại những bên khác muốn giành danh hiệu này như
Thụy Sĩ hay San Marino. Một số nhà sử học cho rằng liên minh Sáu Bộ tộc người Châu
Mỹ Bản địa (liên minh Iroquois), vốn có truyền thống cai trị dựa trên nguyên tắc đồng

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia
Sự thật, tr.130.

6
thuận trong suốt tám trăm năm, là nền dân chủ có sự tham gia của người dân cổ xưa
nhất còn tồn tại đến giờ. Những nhà sử học khác chỉ ra rằng một nền dân chủ thực sự
ở cấp độ quốc gia chỉ xuất hiện vào năm 1906, khi Phần Lan trở thành nước đầu tiên
bãi bỏ mọi yêu cầu về chủng tộc và giới tính cho việc đi bầu cử và phục vụ trong chính
quyền.

Khái niệm dân chủ xuất hiện khi có sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ. Lúc này,
cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, trong xã hội đã có sự phân chia giai cấp. Giai
cấp chủ nô đã thiết lập một bộ máy bảo vệ cho mình, đó chính là nhà nước chủ nô-nền
dân chủ chủ nô được hình thành. Ở đây, giai cấp nô lệ không có quyền lực, ngay cả
quyền định đoạt số phận cho mình, họ được coi như là tài sản, là công cụ lao động của
giai cấp chủ nô. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin cho rằng Nhà nước
chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải dành riêng cho
nhân dân với tư cách là số đông mà là cho giai cấp chủ nô. Có thể thấy trong xã hội
chiếm hữu nô lệ, quyền lực chính trị thuộc về giai cấp chủ nô.

Khi nhà nước phong kiến ra đời thay thế nhà nước chủ nô, nền dân chủ chủ nô
được thay thế bằng nền quân chủ phong kiến. Quyền lực hoàn toàn nằm trong tay nhà
vua, giai cấp quý tộc, phong kiến, người dân hầu như không có quyền dân chủ. Với
phương thức “cha truyền con nối”, quyền lực của vua lại truyền cho con cháu, nhân
dân không có cơ hội nắm giữ quyền lực.

Khi sản xuất phát triển lên một bước mới, giai cấp tư sản hình thành đầu tiên ở
phương Tây, trong vòng 300 năm đã tiến hành các cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế
độ phong kiến, thiết lập Nhà nước tư sản. Từ đây, nền dân chủ tư sản được thiết lập.
Đây là một bước tiến mới trong lịch sử nhân loại, giải phóng con người, con người
được trao cho nhiều quyền tự do (tự do ngôn luận, tự do kinh doanh, tự do tín ngưỡng,
tôn giáo…). Tuy nhiên, về bản chất thì dân chủ Tư sản vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản, giai cấp
chiếm thiểu số trong xã hội. Giai cấp vô sản, nhân dân lao động là người tạo ra của cải
vật chất chủ yếu cho xã hội, họ là người tạo ra giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản
nhưng họ lại bị giai cấp tư sản bóc lột. Do đó, trong thực thế dân chủ chỉ thực sự có
đối với giai cấp tư sản, giai cấp chiếm thiểu số nhưng lại nắm trong tay phần lớn của

7
cải trong xã hội; còn nhân dân lao động chỉ có quyền tự do dân chủ về hình thức hoặc
một ít quyền dân chủ về chính trị. Theo V.I.Lênin, dân chủ tư sản luôn là một chế độ
dân chủ với thiểu số, là một thứ dân chủ đối với kẻ giàu.

Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, lịch sử đã sang trang, chế độ Xã
hội chủ nghĩa ra đời. Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên ra đời là nước Nga Xô
viết và một số nước khác sau đó là Việt Nam, Trung Quốc… Nền dân chủ tư sản thay
thế bằng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ thực sự khi tất cả mọi người
dân được trao mọi quyền lực của đất nước. Trong đó họ được quyền quyết định vận
mệnh của đất nước, được tham gia xây dựng Nhà nước bằng phổ thông đầu phiếu…

Việt Nam, sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, thành lập nhà nước Dân chủ
nhân dân, đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Từ đây,
thành lập nhà nước Dân chủ nhân dân, quyền dân chủ của nhân dân được khẳng định
trong Hiến pháp. Ruộng đất thuộc về nông dân, nhà máy, xí nghiệp được công nhân
làm chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và sau đó là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam-nhà nước mang bản chất
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc được thành lập. Từ khi
thành lập đến nay, nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã tỏ rõ tính ưu việt của
nó trong công cuộc xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.

1.1.2. Sự ra đời và phát triển của dân chủ

Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ
mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn gọi là “dân chủ quân sự”. Đặc
trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua
“Đại hội nhân dân”. Trong “Đại hội nhân dân”, mọi người đều có quyền phát biểu và
tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc hoan hô, ở đó “Đại hội nhân dân” và nhân
dân có quyền lực thật sự (nghĩa là có dân chủ), mặc dù trình độ sản xuất còn kém phát
triển.1

Nền dân chủ chủ nô ra đời khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự
ra đời của chế độ tư hữu về sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên

1
Đảng cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đảng toàn tập. t.47. Hà Nội. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr.362.

8
thủy” tan rã. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham
gia bầu ra nhà nước. Tuy nhiên, “Dân là ai?”, theo quy định của giai cấp cầm quyền chỉ
gồm giai cấp chủ nô và phần nào thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia và
một số trí thức). Đa số còn lại không phải là “dân” mà là “nô lệ” .

Dưới sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, chế độ dân chủ chủ nô đã
bị xóa bỏ và thay vào đó là chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Sự thống trị của giai
cấp trong thời kỳ này được khoác lên chiếc áo thần bí của thế lực siêu nhiên. Họ xem
việc tuân theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh của
đấng tối cao. Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của
người dân đã không có bước tiến đáng kể nào.

Danh hiệu nền dân chủ hoạt động liên tục lâu đời nhất là đối tượng bị tranh giành
quyết liệt hơn. Iceland, Quần đảo Faroe, và Đảo Man đều có những nghị viện địa
phương được thành lập từ thế kỷ 9 và 10, khi người Viking đến cướp phá, vơ vét, và
dựng nên nhiều cơ quan lập pháp trên những hòn đảo ngoài khơi Bắc Âu. Quốc hội
Iceland, có tên là Althing, xuất hiện từ năm 930 SCN, nhưng trong nhiều thế kỷ đã phải
chịu sự cai trị của Na Uy và Đan Mạch. Trong khi đó, Đảo Man và Quần đảo Faroe vẫn
lần lượt là lãnh thổ phụ thuộc của Vương Quốc Anh và Đan Mạch.

Hoa Kỳ là một trong số những nền dân chủ hiện đại lâu đời nhất, nhưng chỉ khi thắt
chặt tiêu chí xét chọn lại để loại những bên khác muốn giành danh hiệu này như Thụy
Sĩ hay San Marino. Một số nhà sử học cho rằng liên minh Sáu Bộ tộc người Châu Mỹ
Bản địa (liên minh Iroquois), vốn có truyền thống cai trị dựa trên nguyên tắc đồng thuận
trong suốt tám trăm năm, là nền dân chủ có sự tham gia của người dân cổ xưa nhất còn
tồn tại đến giờ. Những nhà sử học khác chỉ ra rằng một nền dân chủ thực sự ở cấp độ
quốc gia chỉ xuất hiện vào năm 1906, khi Phần Lan trở thành nước đầu tiên bãi bỏ mọi
yêu cầu về chủng tộc và giới tính cho việc đi bầu cử và phục vụ trong chính quyền.

Khái niệm dân chủ xuất hiện khi có sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ. Lúc này,
cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, trong xã hội đã có sự phân chia giai cấp. Giai
cấp chủ nô đã thiết lập một bộ máy bảo vệ cho mình, đó chính là nhà nước chủ nô-nền
dân chủ chủ nô được hình thành. Ở đây, giai cấp nô lệ không có quyền lực, ngay cả
quyền định đoạt số phận cho mình, họ được coi như là tài sản, là công cụ lao động của

9
giai cấp chủ nô. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin cho rằng Nhà nước
chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải dành riêng cho
nhân dân với tư cách là số đông mà là cho giai cấp chủ nô. Có thể thấy trong xã hội
chiếm hữu nô lệ, quyền lực chính trị thuộc về giai cấp chủ nô.

Khi nhà nước phong kiến ra đời thay thế nhà nước chủ nô, nền dân chủ chủ nô được
thay thế bằng nền quân chủ phong kiến. Quyền lực hoàn toàn nằm trong tay nhà vua,
giai cấp quý tộc, phong kiến, người dân hầu như không có quyền dân chủ. Với phương
thức “cha truyền con nối”, quyền lực của vua lại truyền cho con cháu, nhân dân không
có cơ hội nắm giữ quyền lực.

Khi sản xuất phát triển lên một bước mới, giai cấp tư sản hình thành đầu tiên ở
phương Tây, trong vòng 300 năm đã tiến hành các cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ
phong kiến, thiết lập Nhà nước tư sản. Từ đây, nền dân chủ tư sản được thiết lập. Đây
là một bước tiến mới trong lịch sử nhân loại, giải phóng con người, con người được trao
cho nhiều quyền tự do (tự do ngôn luận, tự do kinh doanh, tự do tín ngưỡng, tôn giáo…).
Tuy nhiên, về bản chất thì dân chủ tư sản vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản, giai cấp chiếm thiểu
số trong xã hội. Giai cấp vô sản, nhân dân lao động là người tạo ra của cải vật chất chủ
yếu cho xã hội, họ là người tạo ra giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản nhưng họ lại bị
giai cấp tư sản bóc lột. Do đó, trong thực thế dân chủ chỉ thực sự có đối với giai cấp tư
sản, giai cấp chiếm thiểu số nhưng lại nắm trong tay phần lớn của cải trong xã hội; còn
nhân dân lao động chỉ có quyền tự do dân chủ về hình thức hoặc một ít quyền dân chủ
về chính trị. Theo V.I.Lênin, dân chủ tư sản luôn là một chế độ dân chủ với thiểu số, là
một thứ dân chủ đối với kẻ giàu.

Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, lịch sử đã sang trang, chế độ Xã
hội chủ nghĩa ra đời. Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên ra đời là nước Nga Xô
viết và một số nước khác sau đó là Việt Nam, Trung Quốc… Nền dân chủ tư sản thay
thế bằng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ thực sự khi tất cả mọi người
dân được trao mọi quyền lực của đất nước. Trong đó họ được quyền quyết định vận
mệnh của đất nước, được tham gia xây dựng Nhà nước bằng phổ thông đầu phiếu…

Việt Nam, sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, thành lập nhà nước Dân chủ

10
nhân dân, đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Từ đây,
thành lập nhà nước Dân chủ nhân dân, quyền dân chủ của nhân dân được khẳng định
trong Hiến pháp. Ruộng đất thuộc về nông dân, nhà máy, xí nghiệp được công nhân
làm chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và sau đó là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam-nhà nước mang bản chất
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc được thành lập. Từ khi
thành lập đến nay, nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã tỏ rõ tính ưu việt của
nó trong công cuộc xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.

1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa

1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ
trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-
Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và giá trị của
nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất hiện một nền dân
chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vô sản hay còn gọi là
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp
và công xã Pari năm 1871, tuy nhiên chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (1917), nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức xác lập.

Theo chủ nghĩa Mác- Lênin, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua
cuộc đấu tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hội không thể duy trì và thắng lợi, nếu
không thực hiện đầy đủ dân chủ.

Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ
trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản.

Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân
chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động, thu hút họ tham gia tự

11
giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tiêu vong bấy nhiêu.

Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác- Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi xã hội đã
đạt trình độ phát triển rất cao, xã hội không còn sự phân chia giai cấp, đó là xã hội cộng
sản chủ nghĩa đạt tới mức độ hoàn thiện, khi đó dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là
một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, không còn nữa.

Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ
cao hơn về chất so với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó,
mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm
trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Như mọi loại hình dân chủ khác, dân chủ vô sản, không phải là chế độ dân chủ cho
tất cả mọi người; nó chỉ là dân chủ đối với quần chúng lao động và bị bóc lột.

Dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số, nó loại bỏ quyền dân chủ của
các giai cấp thuộc nhà nước vô sản, đưa quần chúng nhân dân lên làm người chủ chân
chính của xã hội.

Dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trong
đó, dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở; dân chủ đó càng hoàn thiện bao nhiêu, càng
nhanh tới ngày tiêu vong bấy nhiêu.

Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ sự tiến hóa của dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa có bản chất cơ bản sau:

Một là bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp
công nhân mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện
qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người , thỏa mãn ngày càng cao hơn các
nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.

Hai là bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã
hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng
cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học- công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn

12
ngày càng cao những nhu cầu vật chất vả tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.

Ba là bản chất tư tưởng- văn hóa- xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư
tưởng Mác- Lênin- hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình
thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh
hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng- văn hóa, văn minh,
tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc.

Với những bản chất trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực
hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự giác của quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
nhất nguyên về chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không
loại trừ nhau mà ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội
chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển.

Tóm tắt chương 1

Tóm lại, qua những phân tích trên chương 1 đã giúp ta nắm được bản chất nền dân
chủ và đặc biệt là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị (dân
phải thực sự là chủ thể của xã hội và hơn nữa dân phải được làm chủ một cách toàn
diện),sau này được gọi là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
Đặc trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông
qua “Đại hội nhân dân”, mọi người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng
cách giơ tay hoặc hoan hô. Đến khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn tới
sự ra đời của chế độ tư hữu. Sau đó hình thức “dân chủ nguyên thủy” đã phải tan rã thay
vào đó nền dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước
với đặc trưng là dân tham gia bầu ra nhà nước, lịch sử xã hội loài người bước vào thời
kỳ thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, sự thống trị của giai cấp trong thời
kỳ này là tuyệt đối. Cuối thế kỉ XIV – đầu thế kỉ XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng
tiến bộ về tự do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản.
Khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thời đại mới
mở ra- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa bao gồm: bản chất chính trị, bản chất kinh tế, bản chất tư tưởng-
văn hóa-xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhất nguyên về chính trị, bảo đảm vai trò

13
lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ nhau mà ngược lại, chính sự lãnh
đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển.
Tóm lại dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người; là
một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; có quá trình ra đời, phát triển
cùng lịch sử xã hội nhân loại.

14
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT HUY NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐẢM BẢO QUYỀN LÀM
CHỦ CỦA NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ
của nhân dân ở Việt Nam thời gian qua

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực của sự phát
triển đất nước. Vì vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng phát huy
dân chủ trong mọi tổ chức, hoạt động, đặc biệt là quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm
mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã có bước phát triển quan trọng trong nhận thức về
dân chủ, đó là: Quan niệm về dân chủ được mở rộng. Dân chủ được xem xét theo nhiều
khía cạnh: dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là giá trị, là phương thức và nguyên tắc
tổ chức xã hội. Trên tinh thần đó, tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực chất
là nhân dân dược làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, dân
sự, kinh tế, đến văn hóa - xã hội. Đồng thời cơ chế để bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Với quan điểm đúng đắn, cùng cơ
sở pháp lý vững chắc, Đảng và Nhà nước ta đã huy động trí tuệ, tiềm năng, tính sáng
tạo của mỗi con người Việt Nam vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.

Theo tinh thần đó, trong thời qua cũng như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

2.1.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân

2.1.1.1. Trên lĩnh vực kinh tế


Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế luôn
gắn với bảo đảm công bằng, phát triển văn hóa, phát triển con người, nhằm mục đích

15
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh
vực kinh tế ngày càng mở rộng. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, công bằng trong phân phối theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Quá trình mở rộng dân chủ
kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực hành ngày càng rộng rãi và thực
chất quyền lực chính trị của nhân dân, thông qua cả phương thức ủy quyền gián tiếp và
dân chủ trực tiếp.
2.1.1.2. Trên lĩnh vực chính trị
Trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể và trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
dân cử được mở rộng và phát huy một cách hiệu quả và tích cực. Việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trong việc xử lý các hành vi vi phạm quyền dân chủ được
chú trọng hơn. Hệ thống chính trị có những đổi mới theo hướng hiệu quả; dân chủ hóa,
công khai minh bạch trong phương thức hoạt động, qua đó dân chủ xã hội ngày càng
được phát huy, hiệu quả.
2.1.1.3. Trên lĩnh vực xã hội
Dân chủ trong lĩnh vực xã hội được đẩy mạnh và thực thi hiệu quả hơn. Hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách và các giải pháp hữu hiệu trong các lĩnh vực y tế, văn hóa,
giáo dục, thể thao, công nghệ và môi trường ngày càng hoàn thiện và đáp ứng được các
nhu cầu trong cuộc sống của người dân. Nhiều văn bản pháp luật đã cụ thể hóa các
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân để phù hợp hơn với điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội. Nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” ngày càng được chủ
trương thực hiện và từng bước gắn sâu vào cuộc sống của nhân dân. Công bằng và bình
đẳng trong xã hội có nhiều bước tiến bộ rõ rệt. Việt bảo đảm quyền con người, quyền
công dân ngày càng được quan tâm và phát huy hiệu quả rất tích cực.
2.1.1.4. Trên lĩnh vực văn hóa
Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp về văn hóa, thể thao và
du lịch bao gồm 12 luật, 51 nghị định, 55 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và hơn
200 thông tư, thông tư liên tịch. Hệ thống pháp luật ngành văn hóa, thể thao và du lịch
đã và đang từng bước được hoàn thiện trên cơ sở thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng, bảo đảm quyền con người và quyền tự do, dân chủ, quyền văn hóa của công dân.

16
Cùng với công tác nghiên cứu, bổ sung, ban hành cơ chế, chính sách pháp luật về văn
hóa ngày càng đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, phù hợp với đặc trưng văn hóa vùng miền, thì
việc đổi mới nội dung và phương thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về văn hóa thời
gian qua đã tạo ra những chuyển biến sâu sắc trong nhận thức, hành động của người
dân, tạo thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Việc tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về văn hóa đã được tổ chức, lồng ghép qua những phong trào, cuộc vận
động lớn gắn chặt với đời sống văn hóa hằng ngày của người dân, như các phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh” đã tạo phong trào thi đua sôi nổi trong các tầng lớp nhân
dân, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người dân, hạn chế và từng bước
đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm để không ngừng xây dựng
đời sống văn hóa lành mạnh.

2.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế


Một số luật đã được ban hành, như Luật Trưng cầu ý dân là văn bản pháp luật quan
trọng để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước, tăng cường đoàn kết và đồng thuận xã hội có hiệu lực từ ngày
1-7-2016, nhưng đến nay vẫn chưa được tổ chức triển khai thực hiện rộng rãi. Một số
cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp
luật chưa tốt, như trên các lĩnh vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài
nguyên, khoáng sản, đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư. Trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, để
phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán bộ và nhân dân, đảng viên cần có quy định
về chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường xuyên cho cán bộ và nhân dân bảo đảm
quyền được thông tin của đảng viên. Là Đảng duy nhất cầm quyền, một số cán bộ, đảng
viên không nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao
biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng dẫn đến sự mất công bằng trong việc phát triển của cá nhân cũng như tập
thể trong các lĩnh vực kinh tế và phúc lợi.
2.1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị

17
Nhận thức về dân chủ còn hạn chế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ
và kỷ luật. vẫn còn một số bộ phận đảng viên và nhân dân vẫn nhận thức về dân chủ
còn phiến diện, chưa ý thức được thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn
vị là quyền và nghĩa vụ của mình và cho rằng đây chỉ là trách nhiệm của thủ trưởng cơ
quan. Một số bộ phận cơ quan có biểu hiện ngó lơ và chưa thật sự quan tâm chỉ đạo và
tổ chức triển khai thực hiện dân chủ. Xây dựng và thực hiện dân chủ tại nhiều cơ quan
hành chính, đơn vị xí nghiệp chưa thật gắn với việc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, củng cố tổ chức, bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
2.1.2.3. Trên lĩnh vực xã hội
Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số nơi vẫn còn
tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, gây phiền toái cho nhân dân của một số cơ
quan công quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành pháp luật,
quy định Hệ thống pháp luật của Việt Nam có mặt còn chưa đồng bộ, hay thay đổi gây
khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực
hành dân chủ trong xã hội. Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và thực hành quyền
làm chủ của nhân dân trong thực tiễn còn nhiều hạn chế
2.1.2.4. Trên lĩnh vực văn hóa
Những tập tục, thói quen cũ trong truyền thống văn hóa của người dân đang cho
thấy những bất cập, thậm chí lạc hậu trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kiến
thức và những hiểu biết về cơ chế, chính sách pháp luật của người dân, nhất là người
dân ở nông thôn còn hạn chế do thói quen sống và làm việc theo những quy ước, chuẩn
mực xã hội của cộng đồng. Vì thế, việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật với
những điều khoản quy định chặt chẽ vẫn còn rất khó khăn để người dân tiếp nhận. Trong
xã hội nông nghiệp cổ truyền, người dân coi trọng tính cộng đồng, tập thể, tâm lý trọng
danh, trọng hình thức, đề cao kinh nghiệm, tuổi tác. Điều này có mặt tốt nhưng cũng có
mặt hạn chế khi không chấp nhận tiếng nói khác biệt, không quan tâm đến cá tính sáng
tạo của người trẻ, tạo sự cào bằng, chậm trễ, tâm lý ngại thay đổi trong quá trình phát
triển. Ở một số vùng miền khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo,
nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu
thốn, thu nhập thấp, người dân ít có điều kiện để đến trường học, bên cạnh đó là những

18
rào cản về ngôn ngữ, phong tục tập quán, hủ tục lạc hậu nên hiểu biết về pháp luật, ý
thức về quyền con người, thực hành dân chủ trong lĩnh vực văn hóa còn hạn chế.

2.2. Giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân ở Việt Nam thời gian tới

Một là, tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng.

Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về
phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng, củng cố, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy vai trò,
vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để thực hiện tốt chức
năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên quan đến phát huy dân chủ,
đến quyền và lợi ích của các thành viên, đoàn viên, hội viên.

Bốn là, phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính quyền các
cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa.

Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phát huy dân chủ, tạo sự chuyển biến về nhận thức trong các tầng lớp nhân dân.

2.2.1. Giải pháp phát huy mặt đạt được

2.2.1.1. Trên lĩnh vực kinh tế

Nhằm phát huy dân chủ trong kinh tế, Nhà nước cần tiếp tục củng cố vai trò kiến
tạo của mình thông qua hoàn thiện thể chế, hành lang pháp lý làm bước đệm vững chắc
cho nhân dân yên tâm làm chủ, xây dựng nền kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn. Đối
với kinh tế tư nhân vốn là mảnh đất màu mỡ, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và khu vực tư nhân là một trong những nhiệm vụ quan trọng để tăng cường năng
lực quốc gia của Việt Nam. Việt Nam cần đảm bảo năng lực cạnh tranh ở cấp vi mô
thông qua trình độ và mức độ tinh vi trong hoạt động của doanh nghiệp, chất lượng của
môi trường kinh doanh, trong điều kiện đảm bảo được năng lực cạnh tranh ở cấp vĩ mô
như cơ sở hạ tầng xã hội chính trị và môi trường chính sách vĩ mô thuận lợi

19
2.2.1.2. Trên lĩnh vực chính trị

Hoàn thiện hệ thống pháp luật và đẩy mạnh việc thực thi pháp luật một

cách công khai minh bạch. Xây dựng các cơ chế, chính sách, pháp luật đầy đủ, đồng
bộ, nhất quán. Nâng cao trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân bằng cách
tuyên truyền về phòng chống tham nhũng. Thực tế ở các nước phát triển có trình độ dân
trí cao thì tham nhũng ít xảy ra hơn là những nước đang phát triển và kém phát triển với
trình độ dân trí thấp, người dân chưa có điều kiện tham gia vào cuộc đấu tranh chống
tham nhũng. Thực hành những chính sách đãi ngộ về tiền lương cho các cán bộ, công
chức nhà nước.

2.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hoá

Trong xã hội hiện nay, con người Việt Nam phát triển toàn diện phải vừa mang văn
hóa, bản sắc Việt Nam cùng những phẩm chất của dân tộc; vừa có năng lực để tiếp nhận
những tiến bộ khoa học của quốc tế năm châu và có thể xã hội hóa trong một thời kỳ
hiện đại. Nhận thấy điều đó, ta cần có một cái nhìn chân thật về thực trạng giáo dục
toàn diện con người hiện tại từ tiếp cận liên ngành lẫn cá nhân hóa để hiểu rõ bức tranh
giáo dục con người làm trung tâm và vì con người để từ đó có thể đưa ra những đề xuất
mang tính tổng hợp. Ngoài ra, việc bắt kịp với xu hướng phát triển của thế giới cũng
không thể được hi sinh trong công cuộc khắc phục bản thân.Cần phải thúc đẩy sự hiện
đại hóa các công nghệ được sử dụng trong giảng dạy trường lớp, lấy ví dụ điển hình
như việc học trực tuyến thời gian qua khi đất nước gặp khó khăn gây ra bởi dịch COVID,
không ngừng đưa vào các hình thức dạy học mới như Blended learning, dạy học theo
dự án, theo kịch bản,..để các cá nhân học hỏi có thể chọn cho mình phương pháp tốt
nhất cho bản thân và phát triển hết những tiềm năng tiềm ẩn trong mỗi con người.

Việc nâng cao nhận thức của mọi đối tượng trong xã hội cần phải được đặt lên hàng
đầu nhằm giúp nhân dân và các nhà chức trách nắm rõ, nắm đúng quyền hạn, ý nghĩa,
mục đích của các bộ luật dân chủ. Chỉ khi cả nhân dân lẫn những nhà chức trách thực
sự hiểu rõ quyền hạn của mình lẫn mục đích hướng tới trong tương lai thì hai bên mới
có thể hợp tác để đưa công cuộc dân chủ hóa thành hiện thực. Ngoài ra, cần phải thắt
chặt và tăng cường sự giám sát phòng chống những vụ việc lộng quyền ở mọi khâu từ
tuyển dụng nhân viên nhà nước đến giao tiếp hành xử với nhân dân. điều này sẽ tăng

20
mức độ tin cậy giữa nhân dân với chính quyền địa phương nói riêng và Đảng nhà nước
nói chung, làm tiền đề để phát triển dân chủ.

2.2.1.4. Trên lĩnh vực xã hội

Cần tiếp tục định hướng các mục tiêu phát triển xã hội ở mức cao và hoàn thành và
hoàn thiện thể chế và chính sách quản lý xã hội nói riêng cũng như thực hiện phát triển
bền vững xã hội. Cần coi trọng việc lồng ghép các vấn đề xã hội trong các chính sách
về tăng trưởng kinh tế và bảo đảm tính đồng bộ trong các chính sách phát triển kinh tế
và phát triển xã hội. Bên cạnh đó, cần đưa các nội dung quản lý phát triển xã hội vào vị
trí việc làm của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế để đảm bảo tính hệ thống trong
bộ máy quản lý phát triển xã hội.

Để từng bước loại bỏ tình trạng dân chủ hình thức, cần tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân
dân về dân chủ. Muốn thực hiện quyền làm chủ thì trước tiên nhân dân phải hiểu biết
đúng đắn, đầy đủ về các quyền tự do dân chủ ở cơ sở của mình. Đó là quyền được biết
những công việc mà chính quyền có trách nhiệm phải công khai, quyền được bàn và
quyết định trực tiếp, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định đối với những vấn đề
liên quan đến lợi ích của nhân dân, quyền giám sát các công việc của chính quyền...
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở cũng quy định các hình thức thực hiện các quyền dân chủ
của nhân dân. Nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc thực thi,
phát huy dân chủ ở cơ sở, để từ hiểu rõ ý nghĩa, vai trò, người dân sẽ chủ động và tích
cực thực thi, sử dụng các quyền dân chủ và đấu tranh bảo vệ quyền dân chủ; học dân
chủ, nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ, đồng thời phấn đấu, rèn luyện phương pháp
thực hành dân chủ và có bản lĩnh thực hành dân chủ. Có như vậy nhân dân mới thực
hiện quyền làm chủ thực sự, tránh tình trạng dân chủ chung chung, dân chủ hình thức,
đó chính là từ “pháp luật trên giấy tờ” trở thành “pháp luật trong hành động”. Chỉ khi
nào người dân biết sử dụng và phát huy các quyền dân chủ thì các lợi ích của Nhà nước,
cộng đồng, các quyền và lợi ích của mỗi người dân mới được bảo đảm. Đây cũng là
tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả của thực hiện dân chủ ở cơ sở.

2.2.2. Giải pháp khắc phục mặt hạn chế

2.2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế

21
Đối với yếu kém của doanh nghiệp nhà nước, TS. Nguyễn Đình Cung - Viện trưởng
Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng cơ quan quản lý vốn Nhà nước phải
là một nhà đầu tư chủ động, nhằm hạn chế tối đa can thiệp hành chính vào doanh nghiệp;
tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý Nhà nước;
sớm xoá bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu Nhà nước của các bộ, UBND đối với vốn,
tài sản Nhà nước tại các doanh nghiệp. Nhóm tác giả cũng có cùng nhận định trên.

Đối với yếu kém của kinh tế tập thể, cần phải đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học
công nghệ vào trong nông nghiệp, nhanh chóng thay đổi tư duy làm nông từ thế kỷ
trước của người nông dân. Để làm được điều đó cần phải đưa nguồn vốn đến tay các
nhà đầu tư nông nghiệp nhanh hơn và hiệu quả hơn về mặt thủ tục, pháp lý. Ông Hà
Văn Thắng, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, kiến nghị
các bộ, ngành liên quan tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích các cơ sở
sản xuất kinh doanh nông nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao như đơn giản
hóa thủ tục cho vay, hoàn thiện tiêu chí doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao theo
hướng định lượng rõ ràng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận vốn tín dụng
ưu đãi dành cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

2.2.2.2. Trên lĩnh vực chính trị

Cần phải tinh giản bộ máy nhà nước, loại bỏ những bộ phận trung gian không cần
thiết từ đó có thể tiết kiệm được ngân sách nhà nước. Trong thời kì mà công nghệ đang
phát triển mạnh như hiện nay, nhà nước cần đẩy nhanh việc số hóa, chuyển đổi số trong
quản lý kinh tế, xã hội. Chuyển đổi số còn giúp cho việc tiếp xúc giữa người dân gần
nhau hơn qua đó cũng tạo cơ hội để những chính sách mới đến với người dân nhanh
hơn, bên cạnh đó cũng giúp cho nhân dân phản ánh những bức xúc, khó khăn trực tiếp
đến những cơ quan nhà nước tốt hơn.

Đổi mới tư duy, phát triển lý luận về đạo đức, xây dựng hệ thống các giá trị, chuẩn
mực đạo đức phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong giai đoạn hiện nay. Cần
tăng cường giáo dục cho nhân dân. Tuyên truyền vận động về định nghĩa đúng đắn của
dân chủ. Dân chủ phải vì mục đích chung của xã hội, không xâm phạm đến dân chủ của
người khác. Mỗi một người dân cần phải thực hiện đúng đắn quyền dân chủ của chính
mình.

22
2.2.2.3. Trên lĩnh vực văn hoá

Về mặt phát huy những mặt đạt được, dù Đảng đã nắm được tầm quan trọng trong
việc trao quyền tự do cho nhân dân từ những ngày đầu thành lập, Đảng cần phải có
những xem xét kỹ lưỡng trong việc áp dụng những bộ luật ban hành từ công đoạn ban
hành đến đời thực. Cần phải có một sự thấu hiểu thực trạng đang diễn ra trong xã hội
để từ đó điều chỉnh hành pháp sao cho việc ban hành sẽ mang lại hiệu quả rõ ràng và
kịp thời đến cho người dân và đất nước, tránh những trường hợp bộ luật quá xa vời với
hiện thực, làm thiếu hiệu quả hoặc thậm chí gây rắc rối hơn cho người dân trong cuộc
sống.

2.2.2.4. Trên lĩnh vực xã hội

Để khắc phục tính thiếu ổn định của pháp luật Việt Nam hiện nay, trước hết cần
thường xuyên tiến hành hoạt động hệ thống hóa, đặc biệt là hoạt động pháp điển hóa
pháp luật. Hệ thống hóa là công cụ quan trọng để khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn
của các văn bản quy phạm pháp luật, qua đó, tạo cho chúng có một sức sống lâu dài.
Bên cạnh đó, do sự biến động liên tục của xã hội, việc nâng cao tính dự báo của luật là
điều vô cùng cần thiết. Cuối cùng, cần nâng cao chất lượng lập pháp. Sự thay đổi quá
thường xuyên của pháp luật liên quan đến sự hạn chế trong công tác xây dựng pháp
luật. Để khắc phục tình trạng này cần nâng cao tính chuyên môn, vai trò của các chuyên
gia pháp lý, nâng cao vai trò của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong việc xây dựng
pháp luật.

Tóm tắt chương 2

Tóm lại, trong quá trình phát huy thực nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay tuy đã đạt được một số kết quả nhất định.
Có tích cực, có hạn chế, bên cạnh nhiều mặc tích cực thì đi kèm với nó cũng là rất nhiều
mặt hạn chế với rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng hội chung lại nó vẫn nằm khá
nhiều ở mặt con người. Từ những hạn chế trên thì nhóm tác giả đã nhận thấy cần phải
đưa ra được những giải pháp để tạo nên những kết quả tích cực hơn cho quá trình phát
huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam,
những giải pháp đó phải bám sát được với những hạn chế đã đề ra và phải có hiệu quả
nhất định tạo được những điểm tích cực đáng chú ý cho công cuộc phát huy thực trạng

23
trên. Những giải pháp được nhóm tác giả đưa ra như nâng cao nhận thức người dân,
tuyên truyền vận động,… tựu chung lại đó là Đảng, Nhà nước và chính quyền sẽ tăng
cường đổi mới những chính sách, đồng thời giúp mỗi công dân Việt Nam đều có thể tự
nhận thức và phát huy thực nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tự bảo vệ quyền làm chủ
của mình.

24
III. KẾT LUẬN

Sau khi tìm hiểu về nguồn gốc và sự ra đời của dân chủ cùng với dân chủ xã hội
chủ nghĩa được trình bày trong chương 1, ta hiểu được dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, ta thấy
rằng những nền tảng của chúng đều bắt nguồn từ những ý tưởng và ý niệm về nhân
quyền và tự do. Đối với dân chủ, đây là ý tưởng về sự bình đẳng và quyền lợi của từng
công dân trong một nền nhà nước. Trong khi đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là ý tưởng
về sự bình đẳng và quyền lợi của từng công dân trong một nền nhà nước được xây dựng
trên sự phân chia bằng cách chia sẻ công việc và lợi ích.

Từ những nội dung được đề cập ở chương 2, ta có thể nhìn thấy thực trạng của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, cũng như giải pháp phát huy và đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân ở Việt Nam hiện nay đang thể hiện rõ trong các quy chế và pháp luật liên quan
đến quyền lợi công dân và quyền lực của các chính phủ tại Việt Nam. Từ đó, các nền
tảng của dân chủ cũng như dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được thể hiện trong cuộc sống
hàng ngày ở Việt Nam hiện nay. Để phát huy những nền tảng này, đòi hỏi một sự hợp
tác chặt chẽ giữa các chính phủ, tổ chức cộng đồng và các công dân. Ngoài ra, phải có
các biện pháp hành động hợp lý và hiệu quả để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân,
như đảm bảo sự an toàn cho nhân dân, phát triển nền kinh tế để đảm bảo sự hạnh phúc
của cộng đồng.

25
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội:
NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. (23/08/2011). Giải pháp nhằm phát huy dân
chủ và xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Truy cập từ
https://dangcongsan.vn/ban-doc/hoi-dap/giai-phap-nham-phat-huy-dan-chu-xa-hoi-
chu-nghia-va-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-84952.html
3. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. (16/05/2021). Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy
cập từ https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-
ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-
580609.html
4. Lê Thị Chiên. (03/08/2021). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc trong công tác phòng, chống dịch Covid-19. Truy cập từ
https://binhdinh.dcs.vn/hoc-tap-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/-/view-
content/60081/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc-trong-
cong-tac-phong-chong-dich-covid-19
5. Dân vận. (24/10/2019). Thực hiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay: Thực
trạng và giải pháp. Truy cập từ: http://www.danvan.vn/Home/Quy-che-dan-
chu/10917/Thuc-hien-phat-huy-dan-chu-o-nuoc-ta-hien-nay-Thuc-trang-va-giai-
phap
6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. (26/2/2021).
Truy cập từ https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang
/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-cong-
san-viet-nam-3660
7. Đảng cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đảng toàn tập. Hà Nội. Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia.
8. GS.TS. Vũ Văn Hiền. (06/08/2021). Dân chủ và thực hành dân chủ trong điều kiện
một đảng cầm quyền ở Việt Nam. Truy cập từ https://dukcq.hatinh.gov.vn/xay-
dung-dang/dan-chu-va-thuc-hanh-dan-chu-trong-di eu-kien-mot-dang-cam-quyen-
o-viet-nam-619.html

26
9. Lê Hoàng Giang. (29/12/2016). Vận dụng quan điểm của Đảng ta về phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân được thể
hiện tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII vào bài giảng “Thục hiện
pháp luật dân chủ ở cơ sở. Truy cập từ
https://truongchinhtri.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&pagect.chitiet&urile=wcm
%3Apath%3A/truongchinhchilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/nghiencuukhoaho
c/detaikhoahoc/nvg
10. Nguyễn Văn Quảng. (17/03/2022). Những điểm cốt lõi, quan trọng trong bài viết
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” và vận dụng triển
khai thực hiện phù hợp với thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Truy cập từ
http://www.drt.danang.vn/chi_tiet-52431
11. Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông. (28/04/2022). Phát huy dân chủ xã hội
theo tinh thần văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Truy cập
từ https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/phat-huy-dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-theo-
tinh-than-van-kien-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-p25666.html

27

You might also like