You are on page 1of 29

LỜI CẢM ƠN

Một tháng thực tập ngắn ngủi là cơ hội cho em tổng hợp và hệ thống hóa lại
những kiến thức đã học, đồng thời kết hợp với thực tế để nâng cao kiến thức chuyên
môn. Tuy chỉ có một tháng thực tập, nhưng qua quá trình thực tập, em đã được mở
rộng tầm nhìn và tiếp thu rất nhiều kiến thức thực tế. Từ đó em nhận thấy, việc cọ
sát thực tế là vô cùng quan trọng – nó giúp sinh viên xây dựng nền tảng lý thuyết
được học ở trường vững chắc hơn.
Lời cảm ơn đầu tiên xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu trường
Đại học Luật - Đại học quốc gia Hà Nội cùng quý thầy/cô khoa Luật Dân sự nói
riêng và các thầy/cô khác nói chung đã tận tâm giảng dạy và truyền đạt những kiến
thức, kinh nghiệm quý báu cho em. Đặc biệt, em xin cảm ơn thầy PGS.TS.Phan
Quốc Nguyên, người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bài báo cáo này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến cơ sở thực tập là Công ty Luật trách nhiệm hữu
hạn Tis – và đặc biệt cảm ơn Luật sư Đàm Lệ Quyên người hướng dẫn cho em
trong suốt quá trình thực tập để em có thể hoàn thành kỳ thực tập tốt. Cảm ơn đơn vị
đã tiếp nhận và nhiệt tình tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành một kỳ
thực tập một cách thuận lợi mặc dù còn nhiều điều thiếu xót. Vì thời gian và kiến
thức còn hạn hẹp nên bài báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự
góp ý của quý thầy cô, để em rút kinh nghiệm và hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
!

1|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................6
3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................6
4. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................6
NỘI DUNG.................................................................................................................7
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON KHI CHA MẸ LY HÔN.................................7
I. Khái niệm về ly hôn....................................................................................7
1. Khái niệm ly hôn.....................................................................................7
2. Khái niệm quyền ly hôn..........................................................................8
3. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn...............8
II. Hậu quả pháp lý của ly hôn ảnh hưởng đến trẻ em..................................11
1. Hậu quả pháp lý của ly hôn...................................................................11
2. Ảnh hưởng của ly hôn đối với gia đình và đặc biệt là với con trẻ khi bố
mẹ ly hôn......................................................................................................13
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN VẤN ĐỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA
MẸ ĐỐI VỚI CON KHI CHA MẸ LY HÔN...................................................17
I. Khái quát chung về quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin....................17
II. Thực tiễn vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly
hôn qua một vụ án cụ thể..................................................................................18
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT, GIẢI PHÁP VỀ VIỆC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ VỚI
CON KHI CHA MẸ LY HÔN...........................................................................22
I. Một số nhận xét về việc tư vấn, hỗ trợ dịch vụ ly hôn ở Công ty Luật
trách nhiệm hữu hạn Tis....................................................................................22
1. Những ưu điểm......................................................................................22
2. Những hạn chế, khó khăn......................................................................22
II. Một số kiến nghị, giải pháp về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con khi
cha mẹ ly hôn....................................................................................................23
1. Nhận xét về tình hình việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với
con khi cha mẹ ly hôn...................................................................................23
2|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
2.
Giải pháp về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn
………………………………………………………………………..24
3. Một số kiến nghị về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con khi cha mẹ
ly hôn............................................................................................................26
KẾT LUẬN...............................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................29

3|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt,kí hiệu Cụm từ đầy đủ

HN&GĐ Hôn nhân và gia đình

LHN&GĐ 2014 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

TAND Tòa án nhân dân

TP Thành phố

ĐHQGHN Đại học quốc gia Hà Nội

4|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình và khoa học về gia đình luôn là vấn đề xã hội được tiếp cận và
nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Trên góc độ nghiên cứu luật học, pháp luật
hôn nhân gia đình là một đề tài lớn có ý nghĩa xã hội nhân văn sâu sắc. Ly hôn là
một chế định pháp luật; ly hôn cũng là một vấn đề xã hội. Hậu quả ly hôn sẽ đem lại
ảnh hưởng xấu cho gia đình và xã hội nếu không được giải quyết thấu tình đạt lý.
Khoa học pháp lý và những quy phạm pháp luật cụ thể có giá trị đặc biệt trong việc
loại trừ hoặc giảm bớt những hậu quả xấu do vấn đề ly hôn đặt ra.
Xét về phương diện lịch sử nhà nước và pháp luật, dưới bất kỳ chế độ xã hội
nào, Nhà nước cũng quan tâm đến việc giải quyết việc ly hôn và hậu quả pháp lý của
nó. Nhưng đối với những xã hội khác nhau thì mục đích điều chỉnh của pháp luật
đối với vấn đề hôn nhân và gia đình nói chung cũng như việc ly hôn và giải quyết
hậu quả của nó nói riêng là hoàn toàn khác nhau. Trong thực tế, nhìn chung các vụ
kiện về hôn nhân và gia đình là không đơn giản vì ngoài việc đụng chạm đến quyền
lợi thiết thân của các bên đương sự về mặt vật chất thì vấn đề chủ yếu nhất chính là
việc đụng chạm đến tình cảm của vợ, chồng; giữa cha, mẹ với con cái. Cho nên nếu
giải quyết vấn đề này không hợp tình, hợp lý, không dựa trên nguyên tắc bình đẳng,
không làm thỏa mãn đối với các bên đương sự sẽ dẫn đến việc các bên đương sự
phải đi lại kiện tụng nhau nhiều lần, mất nhiều thời gian, cuộc sống không ổn định
sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của xã
hội không những thế còn gây nên tình trạng mất đoàn kết giữa các bên đương sự.
Vì vậy, trong quá trình xem xét, giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn theo luật hôn nhân gia đình Việt Nam thì Tòa án
cũng như các Công ty luật hay Văn phòng Luật ngoài việc phải tiến hành điều tra,
tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các bên đương sự, của con cái thì cần phải phải
nắm vững tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình mới có thể ra quyết định
đúng đắn trong mỗi bản án của mình. Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết đúng
đắn, công bằng hậu quả pháp lý của các vụ việc ly hôn nói chung cũng như vấn đề
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau ly hôn nói riêng của nó có một ý nghĩa đặc biệt to
lớn. Về mặt lý luận – nó củng cố vững chắc chế độ một vợ một chồng, tự nguyện,
tiến bộ góp phần khẳng định các nguyên tắc: Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
chồng; Nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của người vợ và con chưa thành niên;… Về
5|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
mặt thực tiễn nó đảm bảo sự công bằng về lợi ích cũng như quyền và nghĩa vụ của
các bên đương sự đặc biệt là đối với bà mẹ và trẻ em. Với mong muốn nhỏ bé nhằm
góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con
sau khi ly hôn trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam, em xin phép chọn đề
tài: "Thực tiễn vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly
hôn" làm báo cáo thực tập chuyên đề.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận của Luật hôn nhân gia đình
Việt về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau ly hôn. Đánh giá thực trạng, để
xuất một số phương hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cưởng hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật hôn nhân gia đình về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với
con sau khi ly hôn cũng như đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng trong việc
nuôi dưỡng, chăm sóc con.
3. Phương pháp nghiên cứu
Em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, thống kê, tổng hợp.
Với những kiến thức, những tài liệu tích lũy được trong quá trình học tập tại Trường
Đại học Luật – ĐHQGHN; bằng khả năng tổng hợp; liên kết logic; đánh giá vấn đề
trên cơ sở lý luận biện chứng, em mạnh dạn đưa ra những quan điểm, ý kiến của cá
nhân mình.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ với con sau ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam
hiện hành, thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau ly hôn.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài hướng tới nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ với con sau ly hôn trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện hành và các văn
bản liên quan.

6|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ QUYỀN VÀ NGHĨA
VỤ CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON KHI CHA MẸ LY HÔN
Trong quá trình hội nhập đã thúc đẩy nền kinh tế – chính trị – xã hội phát
triển một cách mạnh mẽ. Mọi mối quan hệ trong xã hội cũng có sự vận động thay
đổi theo xu thế của nó. Gia đình là tế bào của xã hội nên cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Xã hội phát triển, đời sống nâng cao cùng với sự du nhập những tư tưởng
cách sống mới làm cho mỗi người có một trình độ hiểu biết khác nhau, từ đó cách
nhìn nhận, suy nghĩ các vấn đề khác nhau. Chính từ những quan điểm khác nhau đó,
mà vì vậy mà thường xảy ra các mâu thuẫn đối kháng. Nhất là trong vấn đề hôn
nhân nên việc tan vỡ gia đình là rất phổ biến. Qua nghiên cứu một số hồ sơ tại Công
ty Luật trách nhiệm hữu hạn Tis em nhận thấy rằng, trong thời gian gần đây, số
lượng án hôn nhân và gia đình ngày một gia tăng với nhiều những mâu thuẫn khác
nhau đã gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, dẫn đến thực trạng suy giảm về đạo đức, lối
sống, bạo lực trong gia đình ngày càng trở nên phổ biến. Trong quá trình xây dựng
gia đình xuất hiện mâu thuẫn tư nhiều lý do khác nhau, làm cho mục đích hôn nhân
không đạt được thì ly hôn là một giải pháp tích cực nhằm giải pháp tích cực để giải
phóng vợ và chồng để mỗi bên tự đi tìm và xây dựng cho mình hạnh phúc mới.
Thông qua đó, đảm bảo được quyền tự do, bình đẳng và đảm bảo quyền và lợi ích
của vợ chồng, cũng như là quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo quy định của
pháp luật hiện hành.
I. Khái niệm về ly hôn
1. Khái niệm ly hôn
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc
đời con người vì nó được xác lập tên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng.
Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng
có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn
được đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn
gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi
quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ.
Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp vì nó liên quan đến lợi ích của cả
hai vợ, chồng, con cái, người thân và xã hội để lại hậu quả cho cá nhân và xã hội, vì
vậy ly hôn không được Nhà nước khuyến khích dù là Nhà nước ở bất kỳ chế độ nào,
7|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
nhưng cũng không vì thế mà Nhà nước cấm ly hôn. Pháp luật của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc
đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự
tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực
hiện quyền ly hôn của mình. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ
phải yêu nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải
chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó
giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải quyết ly
hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là hoàn toàn có
lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. Hiện nay, pháp luật Việt
Nam đã có khái niệm về ly hôn được quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2014 như sau: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”
Như vậy, ly hôn chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng
theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn dựa trên sự tự
nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện
quyền ly hôn của mình.
2. Khái niệm quyền ly hôn
Trong pháp luật dân sự, quyền ly hôn là quyền nhân thân gắn liền với mối
quan hệ cá nhân không thể chuyển giao cũng như không thể ủy quyền cho người
khác thực hiện thay.
Theo Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, những người có quyền yêu cầu giải
quyết ly hôn bao gồm:
- Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
- Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn
khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
- Để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và đứa trẻ, pháp luật quy định chồng
không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con
hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

8|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


3. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn
 Quyền nuôi con sau khi ly hôn
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của
Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên
sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định
giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu
con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ
không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Theo đó, sau khi ly hôn, cha mẹ không chấm dứt quyền và nghĩa vụ với con,
cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng con chưa thành niên và con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình.
- Khi giải quyết việc nuôi con sau khi ly hôn, Tòa án tạo điều kiện cho vợ
chồng thỏa thuận (thông qua việc hòa giải) và tôn trọng thỏa thuận của vợ chồng
trong việc nuôi con sau ly hôn. Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được
thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng dựa vào các căn
cứ như sau:
+ Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con bao gồm quyền và lợi ích hợp pháp
về vật chất và tinh thần của con. Theo đó, cha hoặc mẹ, bên nào có khả năng bảo
đảm, đáp ứng tốt hơn các quyền và lợi ích của con thì Tòa án giao cho bên đó trực
tiếp nuôi con.
Ví dụ: Sau khi ly hôn, một bên có điều kiện kinh tế tốt hơn, một bên điều
kiện kinh tế khó khăn. Trường hợp này, Tòa án sẽ ưu tiên giao con cho bên có điều
kiện kinh tế tốt hơn nuôi con để con được đảm bảo các quyền và lợi ích phù hợp.

9|BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


+ Căn cứ vào nguyện vọng của con trong trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở
lên. Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên có nguyện vọng, mong muốn được nuôi dưỡng bởi
cha hoặc mẹ, Tòa án căn cứ vào nguyên tắc này để giao con cho cha hoặc mẹ trực
tiếp nuôi phù hợp với mong muốn của con.
- Đối với con dưới 36 tháng tuổi, trong mọi trường hợp phải giao cho mẹ trực
tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc để đảm bảo những điều kiện cơ bản cho con như được
uống sữa mẹ,… Trong trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi
con (như đang đi lao động, làm việc ở nước ngoài) hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác
(thỏa thuận phải phù hợp với lợi ích của con) thì con dưới 36 tháng tuổi có thể
không được giao cho mẹ trực tiếp nuôi.
 Quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Sau khi ly hôn và Tòa án giao con cho một bên nuôi dưỡng, chăm sóc thì người
còn lại không trực tiếp nuôi con không bị chấm dứt quyền và nghĩa vụ với con.
Các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được
quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo đó, cha hoặc mẹ
sau khi ly hôn không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ hạn chế hơn so với
cha, mẹ được trực tiếp nuôi con. Cụ thể:
- Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không bị cản trở bởi bất kì cá
nhân, tổ chức nào. Việc thăm nom được hiểu là việc đi lại hỏi thăm con và quan sát,
đảm bảo con có được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt hay không.
Trong trường hợp cha, mẹ không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom
để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục của con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền
thăm nom của người đó.
Quy định này nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi phá rối, gây
khó khăn cho người trực tiếp nuôi con và gây ảnh hưởng xấu đến con. Trên thưc tế,
có nhiều trường hợp người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đã sử dụng
quyền thăm nom con để cản trở như việc đón con đi chơi rồi không giao lại cho
người trực tiếp nuôi,…
- Cha, mẹ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực
tiếp nuôi con.
- Có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (tự nguyện hoặc theo quyết định của Tòa án).

10 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
 Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi con theo quyết định của Tòa án hoặc theo
thỏa thuận phát sinh thêm các quyền và nghĩa vụ đối với người không trực tiếp nuôi
con được quy định tại Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo đó,
người trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đối với người không trực tiếp nuôi
con như sau:
* Quyền của người trực tiếp nuôi con với người không trực tiếp nuôi con
- Cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp
nuôi con thực hiện các nghĩa vụ của họ đối với con tại Điều 82 Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014, bao gồm:
+ Nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với cha hoặc mẹ trực
tiếp nuôi con.
+ Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
+ Nghĩa vụ thăm non con.
- Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con
cùng các thành viên gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em…) tôn trọng quyền
được nuôi con của mình.
* Nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con với người không trực tiếp nuôi con:
Người trực tiếp nuôi con và gia đình của người trực tiếp nuôi con (ông, bà, cha, mẹ,
anh, chị, em…) không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thực
hiện quyền thăm nom con của họ
II. Hậu quả pháp lý của ly hôn ảnh hưởng đến trẻ em
1. Hậu quả pháp lý của ly hôn
Từ góc độ pháp luật, việc Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn dẫn đến những hậu
quả pháp lý nhất định: chấm dứt quan hệ vợ chồng, đồng thời Tòa án cần phải giải
quyết các vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng, quyết định cấp dưỡng cho người vợ,
người chồng gặp khó khăn, túng thiếu sau khi ly hôn và về vấn đề con cái (nếu có).
• Quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng:
- Theo nguyên tắc chung, khi bản án, quyết định ly hôn của tòa án có hiệu lực
pháp luật, quan hệ vợ chồng đã chấm dứt. Những người có quyền và nghĩa vụ nhân
thân giữa vợ chồng phát sinh do sự kết hôn sẽ đương nhiên chấm dứt. Một số quyền
nhân thân khác mà vợ chồng với tư cách là công dân thì không ảnh hưởng, không

11 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
thay đổi dù vợ chồng ly hôn. Người vợ hoặc chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với
người khác.
- Giải quyết phân chia tài sản theo chế độ tài sản thỏa thuận: Vợ chồng đã lập
văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản theo quy định của pháp luật thì khi ly hôn tài
sản được giải quyết theo thỏa thuận đó. Trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận về
chế độ tài sản nhưng thỏa thuận đó lại bị tòa án tuyên bố vô hiệu hoặc những vấn đề
không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì theo hướng dẫn
tại điểm b Điều 7 Thông tư Liên tịch số 01/2016/TTLT sẽ áp dụng các quy định
tương ứng tại các khoản 2,3,4,5 Điều 39 và các Điều 60,61,62,63,64 của Luật Hôn
nhân và Gia đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đó là giải quyết tương tự
pháp luật như chế độ tài sản theo luật định.
- Giải quyết phân chia tài sản khi vợ chồng áp dụng chế độ tài sản luật định.
+ Đối với tài sản chung của vợ chồng: về nguyên tắc khi vợ chồng ly hôn thì
tài sản chung sẽ được chia đôi: Tuy nhiên để bảo vệ quyền và lợi ích các bên, lợi ích
khác, pháp luật còn quy định một số nguyên tắc khác để áp dụng khi chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn phải tuân theo.
+ Đối với tài sản riêng: Khi vợ chồng ly hôn tài sản riêng của bên nào thì
thuộc quyền sở hữu của bên đó (khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014).
Người có tài sản riêng phải chứng minh được tài sản đó thuộc quyền sở hữu riêng
của họ nếu không chứng mình được thì xác định là tài sản chung của vợ chồng.
• Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi ly hôn:
Theo quy định của pháp luật, vợ và chồng đều có mọi quyền và nghĩa vụ bình
đẳng trong việc yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con cái. Sau khi ly
hôn, nếu con chung chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng
lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
thì cha mẹ phải thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con và quyền, nghĩa vụ của người
không trực tiếp nuôi con. Trong trường hợp cha mẹ không tự thỏa thuận được thì
Tòa án sẽ xem xét về tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác, điều kiện kinh tế, thời
gian của mỗi bên vợ, chồng… xem ai điều kiện thực tế trong việc trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con được tốt hơn thì sẽ giao con cho người đó.
Theo luật định, trong trường hợp nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem
xét nguyện vọng của con, con muốn sống cùng bố hay muốn sống cùng mẹ; trường
hợp con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người

12 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Ngoài ra, Luật Hôn
nhân và Gia đình 2014 còn quy định các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực
tiếp nuôi con sau khi ly hôn và quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối
với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
• Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn:
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng là quy kết của quan hệ hôn nhân
hợp pháp, phát sinh kể từ khi kết hôn. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong
những quyền và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân của vợ và chồng. Pháp luật
thừa nhận và bảo đảm thực hiện quan hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng ngay cả trong
trường hợp vợ chồng ly hôn.
Điều 115 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: “Khi ly hôn nếu bên ly hôn khó
khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa
vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình".
Như vậy, giải quyết cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn được đặt ra khi
thỏa mãn hai điều kiện: Thứ nhất, một bên vợ hoặc chồng khó khăn túng thiếu có
yêu cầu cấp dưỡng có lý do chính đáng; thứ hai, bên kia có khả năng thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng.
2. Ảnh hưởng của ly hôn đối với gia đình và đặc biệt là với con trẻ khi bố mẹ
ly hôn.
• Ảnh hưởng tích cực của ly hôn
Hiện nay, ly hôn đã trở thành hiện tượng khá phổ biến trong xã hội. Ly hôn là
một hiện tượng xã hội hiển nhiên nó mang trong mình cả hai yếu tố tích cực và tiêu
cực tác động đến sự tồn tại bền vững của gia đình và sự phát triển của xã hội. Vì vậy
cần phải nhận thức thực tế vấn đề đó như thế nào cho đúng để đảm bảo được tính
khách quan, khoa học, toàn diện. Nhìn nhận vấn đề ly hôn dưới một góc độ nào đó,
nó không hoàn toàn đi ngược lại với lợi ích của cá nhân và xã hội. Nếu như xã hội
lên án, chỉ trích hiện tượng ly hôn bừa bãi, tùy tiện thì một số trường hợp khác cũng
phải ủng hộ việc ly hôn vì ly hôn sẽ giải phóng khỏi sự ràng buộc giả tạo, hình thức
của ly hôn. Khi cuộc sống hôn nhân của cả hai vợ chồng đã đến mức trầm trọng,
cuộc sống chung giữa hai người như một cuộc đấu tranh âm ỉ kéo dài, không khoan
nhượng, không có điểm kết thúc mà vợ chồng đứng ở hai đầu chiến tuyến và con cái
chính là những nạn nhân đáng thương. Vợ chồng cũng chỉ nhìn thấy những điểm

13 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
xấu, những khuyết điểm của “đối phương” thậm chí họ “phóng đại” cả những
khuyết điểm không có thật ở “đối phương”, họ ra sức lôi kéo con cái đứng về phía
mình, bênh vực mình và lên án người kia. Chính những tác động đó khiến con trẻ
phải chứng kiến những mâu thuẫn của bố mẹ, phải chịu sự tác động trực tiếp của
những mâu thuẫn đó, và chính điều này đã ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về mặt
tâm lý của chúng.
Khái niệm gia đình vẫn mang giá trị thật đẹp, nó tiềm ẩn những giá trị tinh
thần như truyền thống, đạo đức, tình cảm, gia đình,…nhưng khi vợ chồng phát sinh
mâu thuẫn thì nó biến cuốc sống của các thành viên trong gia đình rơi vào tình trạng
nặng nề, bế tắc. Lúc này, ly hôn chính là lối thoát duy nhất đối với cả hai bên vợ
chồng. Pháp luật thừa nhận hôn nhân bao gồm cả quyền tự do kết hôn và quyền tự
do ly hôn. Không ai có thể bị ràng buộc vào cuộc hôn nhân không lối thoát khi quan
hệ hôn nhân đã đi vào ngõ cụt. Quyền ly hôn lúc này thể hiện bản chất hôn nhân tiến
bộ. Người ta có quyền lực chọn tìm hiểu, yêu đương và đi đến kết hôn cho mình
hạnh phúc riêng. Đồng thời, người ta cũng tự xác định được cho mình một giải pháp
cuối cùng trong trường hợp hôn nhân thực sự chết, không còn hạnh phúc. Ly hôn
giúp giải phóng chính bản thân vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình và
đặc biệt là con cái của họ thoát khỏi cuộc sống chung của họ đầy mâu thuẫn và bế
tắc. Ly hôn sẽ giúp một trong hai bên hoặc cả hai bên vợ chồng thoát khỏi sự trói
buộc của chính bản thân, thoát ra khỏi mối quan hệ giả dối, hình thức mà trong đó cá
nhân mỗi thành viên đang phải sống và “chịu đựng” lẫn nhau, không niềm vui,
không hạnh phúc, thậm chí còn bị bóp méo những tư tưởng về cuộc sống gia đình,
mất dần đi những niềm tin, niềm say mê, yêu thích cuộc sống, niềm hy vọng vào
một tương lai tốt đẹp đang chờ phía trước.
Thực chất ly hôn là một biện pháp nhằm giải phóng vợ chồng và các thành
viên khác thoát khỏi những xung đột gia đình. Theo V.I.Lenin, nó là một biện pháp
củng cố các quan hệ gia đình trên cơ sở vững chắc trong xã hội văn minh; hoàn toàn
theo nghĩa ly hôn là “sự tự do tan vỡ hạnh phúc gia đình”.
• Ảnh hưởng tiêu cực của ly hôn
Hàng ngày tại các phiên Tòa có không ít những cặp vợ chồng muốn có đơn ly
hôn và nhờ sự giúp đỡ hướng dẫn về thủ tục ly hôn tại Tòa. Đối với họ, ly hôn là
giải pháp tốt nhất và rút ngắn thời gian và thủ tục ly hôn là vấn đề họ luôn mong
muốn giả quyết càng sớm càng tốt. Bên cạnh những mặt tích cực của ly hôn như đã

14 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
phân tích ở trên thì ly hôn cũng có những ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp ảnh hưởng
đến gia đình và xã hội. Họ đã và đang gieo rắc căn bệnh tâm lý cho con cái mình đó
là bệnh trầm uất, bệnh nghi kỵ, mất niềm tin vào cuộc sống lứa đôi… Khi vợ chồng
có yêu cầu ly hôn, họ thường đưa ra được những lý do chính đáng của mình và cho
rằng đây chính là giải pháp tốt nhất và duy nhất đối với họ. Khi không còn chịu
đựng được nhau nữa thì việc chia tay là cần thiết và hữu ích hơn cả. Nhưng họ
không thấy được hậu quả đằng sau của cuộc ly hôn là không nhỏ chút nào. Ảnh
hưởng đầu tiên tác động trực tiếp đến bản thân vợ chồng sau khi ly hôn thường là sự
bất ổn về tâm lý, sự khủng hoảng về tinh thần cũng như những nỗi đau thầm kín,
nhức nhối về cuộc hôn nhân thất bại của mình. Có không ít người khó “chữa lành”
được nỗi đau đó một cách nhanh chóng trừ khi họ tìm được một gia đình mới hạnh
phúc hơn nhưng dù sau dấu ấn nặng nề về cuộc hôn nhân trước rất dễ tái hiện trong
những hoàn cảnh nhất định.
Nhưng điều đáng nói và bận tâm hơn cả đó chính là những tác động tâm lý về
cuộc ly hôn lên tinh thần con trẻ – những nạn nhân đáng thương do sự đổ vỡ của cha
mẹ chúng. Mà chúng phải chịu đựng và chứng kiến cảnh cha mẹ thân yêu của mình
tranh giành, thù địch lẫn nhau. Có nhiều khi chính chúng lại trở thành những “đối
tượng tranh chấp” của cha mẹ mình mà chúng biết rất rõ rằng chúng chẳng thích thú
gì dù mình thuộc về ai. Trong những trường hợp đó các bậc cha mẹ thường có tâm
lý chủ quan và cho rằng chúng còn bé và chưa thể tự quyết định được, chỉ họ mới có
khả năng chăm sóc chúng, dành cho chúng nhiều điều kiện tốt nhất mà không cần
lắng nghe ý kiến của chúng. Nhưng chỉ vài năm sau cuộc ly hôn của cha mẹ, đa số
trẻ em do thiếu thốn sự quan tâm, chăm sóc của cả hai bố mẹ dẫn đến có những hành
động phạm pháp, bụi đời hoặc trở thành những trẻ em cá biệt trong nhà trường và
được đưa vào những trường giáo dưỡng giáo dục nhân phẩm cho các em.
Chính những hậu quả ly hôn ấy đã gây ảnh hưởng sâu sắc cho tâm hồn trẻ
thơ, mang đến cho chúng những tâm lý bất cần, oán trách và sợ hãi hôn nhân. Điều
này tất yếu sẽ dẫn đến một hệ quả dây chuyền: đó là khả năng sản sinh thêm những
gia đình bất hạnh. Xã hội lại phải không ngừng tiêu tốn tiền của. Công sức để khắc
phục hậu quả đó. Đối với xã hội, việc ly hôn đã gây ảnh hưởng thiếu lành mạnh đến
kết cấu gia đình tạo thành làn sóng lây lan căn bệnh ly hôn nhất là các gia dình trẻ
tạo nên một tư tưởng ích kỷ, cá nhân sẵn sàng phá vỡ mô hình gia đình đối với một
bộ phận không còn phù hợp để theo đuổi quyền tự do ly hôn (đã bị lạm dụng).

15 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
Hậu quả ly hôn để lại cho các em bé trai cũng rất đa dạng. Nếu như lo âu là
đặc điểm chung của trẻ em có bố mẹ ly hôn thì mức độ biểu hiện của nó có khác
nhau ở trẻ gái và trẻ trai. Ở trẻ gái có mức độ lo âu cao hơn, trong khi đó sự lo âu ở
trẻ trai thường biến dạng thành những ứng xử khác như: quậy phá, đánh đập bạn ở
trường, chống đối với giáo viên, không làm bài tập, thậm chí bỏ đi khỏi nhà v.v…
Một trong những hậu quả lâu dài mà sự ly hôn của cha mẹ để lại cho trẻ trai là xu
hướng sử dụng bạo lực trong các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ gia đình sau này.
Sở dĩ có sự ảnh hưởng đó là do trẻ trai thường có xu hướng đồng nhất hóa với những
cá tính mạnh của cha mẹ hoặc đồng nhất hoàn toàn với người có cá tính mạnh.
“Bằng cách đồng nhất hóa với một nhân vật mạnh mẽ nào đó, đứa trẻ tự bảo vệ
mình khỏi bị đau khổ và tuyệt vọng, bắt chước người gây hấn, đứa trẻ hy vọng nhập
tâm được sức mạnh để đối phó với người khác những gì nó trải qua hồi còn nhỏ như
là một nạn nhân bất lực. Quy trình đồng nhất với người gây hấn có thể đóng vai trò
tích cực giúp đứa trẻ đối phó với đau khổ và thất vọng, không thể tránh khỏi ở tuổi
đang phát triển”.
Các em trai cũng có xu hướng đè nén tình cảm, làm cho mình rơi vào trạng
thái “mất cảm giác” để có thể tiếp tục sống mà bớt đau khổ vì cha mẹ ly hôn. Chính
từ cơ chế tự vệ tâm lý này mà nhiều trẻ trai trở nên cằn cỗi, dễ bị ức chế, khó hình
thành tình cảm thân mật, cởi mở, dẫn đến sự kém tự tin trong các mối quan hệ khác
giới, dễ tự ái, co mình lại.
Cũng như con gái, con trai trong các gia đình ly hôn thường gặp khó khăn
trong quá trình đồng nhất hóa và có nguy cơ thoái lùi tâm lý, ít nam tính, không đủ
nghị lực để tạo lập một cuộc sống độc lập nếu gắn bó thái quá với mẹ, mãi là “con
trai bé bỏng” của mẹ.
Theo nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, nhóm trẻ trai trong các gia đình ly
hôn có tỷ lệ nghiện rượu, nghiện ma túy và có nguy cơ xuất hiện các rối nhiễu tâm
lý cao hơn hẳn nhóm trẻ bình thường.
Ly hôn không chỉ ảnh hưởng đến vợ, chồng và các thành viên khác trong gia
đình. Như đã nói, gia đình được ví như những tế bào sống của xã hội, một khi các tế
bào đó “tan vỡ” thì xã hội sẽ không thể phát triển một cách bền vững được. Không
thể có một xã hội phát triển bền vững khi chứa đựng trong lòng nó những gia đình –
tế bào của xã hội đã không còn tồn tại theo đúng nghĩa của nó và không thực hiện

16 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
được những chức năng cơ bản của gia đình đối với xã hội, bởi lẽ “gia đình tốt thì xã
hội mới tốt”. Ly hôn có ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi ích của gia đình và xã hội.
Với những phân tích như trên, rõ ràng ly hôn là một vấn đề hết sức phức tạp
đòi hỏi khi tiếp cận phải chú ý ở nhiều phương diện mới mong có cái nhìn toàn diện
hiểu được bản chất của ly hôn.
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN VẤN ĐỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA
MẸ ĐỐI VỚI CON KHI CHA MẸ LY HÔN
I. Khái quát chung về quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin
Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Tis là một ty luật còn non trẻ, mới xuất hiện
một thời gian không quá trên thị trường các dịch vụ pháp lý. Nhưng không vì thế mà
công ty không có uy tín trong giới luật, vì nó được thành lập nên bởi Luật sư Đàm
Lệ Quyên cùng với cộng sự là Luật sư Trịnh Hoàng Bình - những người đã có
nhiều năm kinh nghiệm trong nghề Luật sư và đã gặt hái được nhiều thành công
cùng như là uy tín trong lĩnh vực pháp lý, và được nhiều người trong cộng đồng tin
tưởng hợp tác để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
Với khoảng thời gian không dài, chỉ khoảng một tháng thực tập tại Công ty Luật
trách nhiệm hữu hạn Tis, em đã có cơ hội được tiếp xúc, nghiên cứu tài liệu, thu
thập thông tin về nhiều mảng lĩnh vực pháp lý. Trong đó, có những hồ sơ về những
vụ án hình sự, dân sự,…và có những hồ sơ về những vụ ly hôn. Em đã được tham
dự một số phiên tòa, cũng như gặp gỡ trực tiếp các đương sự và học hỏi kinh
nghiệm từ thực tiễn. Qua đó, thống kê, tổng hợp và đưa ra các nhận xét, đánh giá về
thực trạng ly hôn thông qua các hồ sơ về ly hôn. Quá trình thực tập ở Công ty Luật
trách nhiệm hữu hạn Tis đã giúp em hiểu được phần nào về thực trạng vấn đề quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn.
Chúng ta đều biết rằng hôn nhân là mong muốn của nhiều người khi đến độ tuổi
kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đó, quan hệ vợ chồng được thiết lập, vợ chồng
đều mong muốn được chung sức xây dựng gia đình ấm no tự do và hạnh phúc đóng
góp phần nào đó cho xã hội đúng như theo một triết gia nào đó đã nói “Gia đình là tế
bào của xã hội”. Nhưng do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan khác nhau (ví dụ như
chồng cờ bạc rượu chè, đánh đập vũ phu, hoặc vợ chồng một trong hai bên ngoại
tình, lý do về kinh tế, một bên đi vắng lâu ngày không trở về...). Điều đó dẫn tới
mâu thuẫn gia đình ngày càng lớn, không thể giải quyết được tất yếu dẫn tới ly hôn.
Đây chính là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến con trẻ, đến điều kiện sinh sống,

17 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
học tập và là cả tương lai của chúng. Để hoàn thành bài báo cáo về đề tài thực trạng
vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn em đã tìm hiểu
và thu thập nhiều tài liệu, thông tin trong hệ thống tài liệu của công ty. Ngoài ra, em
có kết hợp với một số người bạn thực tập khác để có được những tư liệu quý giá
trong Sổ ghi kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm hôn nhân và gia đình của Tòa án
nhân dân các quận, huyện hay thành phố qua các năm.
II. Thực tiễn vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi
cha mẹ ly hôn qua một vụ án cụ thể
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Cơ quan có thẩm quyền xét xử
ly hôn là Tòa án nhân dân. Các tòa án nhân dân ở các địa phương khác nhau đều tiến
hành giải quyết vụ việc ly hôn theo đúng trình tự pháp luật. Khi nhận được yêu cầu
ly hôn của vợ hoặc chồng, hay cả hai vợ chồng tòa án xem xét thấy hợp lý sẽ thụ lý
và giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định. Bên cạnh việc giải quyết; hòa giải tại
Tòa án, thì việc hai bên nhờ đến Luật sư là việc khá thường xuyên và dễ hiểu. Theo
như Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), thì Luật sư tham gia tố
tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
vợ hoặc chồng trong vụ ly hôn theo quy định của pháp luật. Mục đích cuối cùng và
quan trọng nhất mà các bên pháp lý tham gia hướng tới giúp cho cuộc hôn nhân có
nguy cơ tan vỡ tránh được đổ vỡ, vợ chồng đoàn tụ. Sau mỗi lần hòa giải, tòa án sẽ
lập ra biên bản hòa giải, nếu hòa giải thành gia đình trở về đoàn tụ, hòa giải không
thành tòa án sẽ lập biên bản hòa giải không thành và giải quyết vụ, việc ly hôn, chỉ
khi nào thấy quan hệ vợ chồng thực sự đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn. Bên cạnh đó, Luật sư sẽ tham gia tư vấn, góp ý, cung cấp các hiểu biết
cho bên tìm đến dịch vụ pháp lý của mình, đồng thời tham gia với tư cách người đại
diện pháp lý tại phiên tòa.
Theo nguyên tắc chung, tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn căn cứ quy định của Bộ
Luật Tố tụng Dân sự, trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì
tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng. Tòa án nhân dân các quận,
huyện, thành phố có xu hướng trong những năm qua đã có cố gắng rất nhiều trong
việc thụ lý và giải quyết các vụ án ly hôn theo đúng trình tự pháp luật. Theo luật
định có 2 trường hợp ly hôn: Trường hợp cả 2 vợ chồng đều thuận tình ly hôn;
Trường hợp do 1 bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn.

18 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
Việc giải quyết ly hôn sẽ được thực hiện theo các bước sau:
• Đối với trường hợp thuận tình ly hôn:
Bước 1: Nộp hồ sơ khởi kiện về việc xin ly hôn tại TAND huyện nơi cư trú,
làm việc của vợ hoặc chồng;
Bước 2: Nhận đơn khởi kiện cùng hồ sơ hợp lệ Tòa án trong thời hạn 05 ngày
làm việc Tòa án kiểm tra đơn và ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí cho nguyên
đơn và bị đơn;
Bước 3: Nguyên đơn hoặc bị đơn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại
Chi cục thi hành án quận và nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí cho Tòa án;
Bước 4: Trong thời hạn 15 ngày làm việc Tòa án tiến hành mở phiên hòa
giải;
Bước 5: Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hòa giải không thành (không thay
đổi quyết định về việc ly hôn) nếu các bên không thay đổi ý kiến Tòa án ra quyết
định công nhận thuận tình ly hôn.
• Đối với trường hợp đơn phương ly hôn.
Bước 1: Nộp hồ sơ khởi kiện về việc xin ly hôn tại TAND huyện nơi bị đơn
(chồng hoặc vợ) đang cư trú, làm việc;
Bước 2: Sau khi nhận đơn khởi kiện cùng hồ sơ hợp lệ Tòa án sẽ ra thông báo
nộp tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn và bị đơn;
Bước 3: Nguyên đơn hoặc bị đơn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại
Chi cục thi hành án quận và nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí cho Tòa án;
Bước 4: Tòa án thụ lý vụ án, tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Em xin đưa ra vụ việc cụ thể do Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng tiếp
nhận (hồ sơ tài liệu trong hệ thống của Công ty Luật Tis – do Luật sư Trịnh Hoàng
Bình tư vấn) vụ việc ly hôn, tranh chấp nuôi con như sau:
“Bà Lý Thị L và Ông Phan Đức T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu,
đăng ký kết hôn ngày 09/01/2017 tại Ủy ban nhân dân phường Sông Hiến, thành
phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Khi cưới thì cả bà và ông T đều là lao động tự do.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 9/2020 thì phát
sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, hòa giải
nhiều lần nhưng không thành. Trong thời gian mâu thuẫn vợ chồng không còn quan
tâm đến nhau nữa. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 9/2020 đến nay. Bà xác định tình
cảm vợ chồng không còn, yêu cầu được ly hôn.

19 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 (một) con chung là
Phan Thị Ánh T – sinh ngày 27/10/2017 (Giới tính: Nữ). Trường hợp ly hôn, bà là
người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng
nuôi con.
Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết
Về lệ phí: Bà Lý Thị L tự nguyện chịu toàn bộ lệ phí ly hôn sơ thẩmn theo quy
định của pháp luật.
Đã hết 7 ngày, kể từ ngày lập Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, không
có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành
phố Cao Bằng đưa ra quyết định:
Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014;
Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, 238, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015;
Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị L.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý Thị L được ly hôn với ông Phan Đức để T.
2. Về con chung: Giao con chung là Phan Thị Ánh T - sinh ngày T
27/10/2017 (Giới tính: Nữ) cho bà Lý Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.
Bên không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung có quyền, nghĩa vụ
thăm nom con mà không ai được quyền cản trở nhưng không được lạm dụng việc
thăm nom con để gây cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con chung của người đang trực tiếp nuôi con. Vì quyền lợi về
mọi mặt của con, khi có yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định
việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lý Thị L và ông Phan Đức T xác nhận tài
sản chung, nợ chung đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội
đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

20 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
4. Về án phí: Bà Lý Thị L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí
dân sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước đối với yêu cầu xin ly hôn Nhưng được
trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà Lý Thị L đã nộp cục thi hành án
dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, Bà Lý Thị Lệ đã 300.000 (ba trăm
nghìn) đông theo biên lại số 0003332 ngày 11/01/2023 tại Chi nộp đủ án phí dân sự
sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định
của pháp luật.”

21 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT, GIẢI PHÁP VỀ VIỆC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHA MẸ VỚI CON KHI CHA MẸ LY HÔN
I. Một số nhận xét về việc tư vấn, hỗ trợ dịch vụ ly hôn ở Công ty
Luật trách nhiệm hữu hạn Tis
1. Những ưu điểm
Với kinh nghiệm dày dặn, hoạt động nhiều năm trên thị trường dịch vụ pháp
luật của hai Luật sư Đàm Lệ Quyên và Trịnh Hoàng Bình. Công ty Luật trách
nhiệm hữu hạn Tis đã đem nhiều lời khuyên, tư vấn pháp lý đến cho nhiều cặp vợ
chồng đã không còn muốn gắn bó với nhau nữa. Dù cũng có nhiều lời khuyên mong
hai bên có những suy nghĩ lại để gia đình không phải tan vỡ, nhưng gương vỡ thì rất
khó lành lại nên các Luật sư cũng đã cung cấp các dịch vụ pháp lý phù hợp nhất có
thể cho các quý khách hàng để mau chóng hoàn thành các thủ tục ly hôn, phân chia
tài sản cũng như là quyền nhận nuôi con.
Ngoài ra công tác hướng dẫn các văn bản pháp luật đến các đương sự các
dịch vụ ly hôn. Trong công tác xây dựng công ty, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp,
lành nghề đã được các luật sư đào tạo, hướng dẫn bài bản để cùng phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan ban nghành liên quan như Tòa án, chính quyền địa phương, góp
phần gìn giữ đoàn kết trong quần chúng nhân dân, ổn định trật tự an ninh trên địa
bàn.
2. Những hạn chế, khó khăn
Trong quá trình giải quyết các vụ, việc ly hôn, bên cạnh những kết quả đã đạt được
thì còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến công tác tư vấn
dịch vụ pháp luật, hỗ trợ các đương sự tại Tòa án. Cụ thể là:
Thứ nhất, bất cập trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân
trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên đương sự. Khoản 1 Điều 56 Luật
Hôn nhân và Gia đình 2014 là một quy định mới, mang tính khái quát. Tuy nhiên,
việc quy định căn cứ ly hôn thể hiện yếu tố tình cảm vẫn còn chung chung. Khi giải
quyết các trường hợp cụ thể, với sự đa dạng của cuộc sống thì mỗi cặp vợ chồng,
mỗi vụ án ly hôn thường có mâu thuẫn cũng như hoàn cảnh không giống nhau.
Trong khi đó, không có căn cứ rõ ràng để xác định thế nào là “làm cho hôn nhân lâm
vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân

22 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
không đạt được”, thế nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nên việc xem xét, đánh
giá căn cứ trên là rất khó khăn, vướng mắc.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ, chồng đã ly thân trên thực tế. Luật Hôn nhân
và Gia đình 2014 không quy định ly thân là căn cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, thực tiễn
xét xử, tòa án thường đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Vấn đề này
không được luật quy định nên đã gây ra không ít khó khăn trong cả việc xác định
vợ, chồng nào đó có trong tình trạng ly thân hay không. Mặc khác, không xác định
được thời gian ly thân, nên việc giải quyết án ly hôn thường phải kéo dài khiến cho
đương sự gặp khó khăn trong việc xây dựng cuộc sống mới.
Thứ ba, là những tranh chấp, không tìm được tiếng nói chung trong vấn đề
giành quyền nuôi con chung. Khi có rất cặp vợ chồng đều muốn nuôi dạy con chung
khi họ chỉ có một người con chung, hay thậm chí là có nhiều con thì vẫn muốn tranh
chấp để được nuôi dạy hết tất cả các con. Vì họ tin rằng, chỉ có bản thân họ sẽ dành
được những điều tốt đẹp nhất cho con cái, chứ không phải là đối phương. Điều này
cũng làm cho vụ việc ly hôn phức tạp hơn và có thể kéo dài hơn. Không những thế,
cũng có nhiều trường hợp mẹ muốn giành quyền nuôi con, nhưng con lại muốn ở
với bố và ngược lại cũng khiến cho quá trình giải quyết nuôi con cũng gặp phần nào
những khó khăn trong việc tư vấn, khuyên nhủ các bên tìm được tiếng nói chung,
không để con trẻ bị ảnh hưởng quá nhiều, vì sâu bên trong chúng cũng đã bị tổn
thương tâm hồn rất lớn khi cha mẹ chúng không còn ở bên nhau nữa.
Những khó khăn về kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề cấp dưỡng
đền bù khoản chênh lệch trong phân chia tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn. Từ đó,
dẫn đến quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em không được bảo vệ một cách thỏa
đáng. Nhiều trường hợp người vợ khi ly hôn nhận nuôi con và không yêu cầu người
chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì xét trên thực tế người chồng nghiện ngập,
lại không có nghề nghiệp nên không có khả năng thực hiện nghĩa vụ này.
Thực hiện chủ trương chính sách của Nhà nước, trong thời gian gần đây trình
độ của đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật của Công ty Luật Tis đã được nâng cao
rõ rệt và thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật rộng rãi, đầy hiệu quả.
Tuy nhiên, do tính chất ngày càng phức tạp của các quan hệ xã hội cũng như đội ngũ
nhân viên Công ty khá mỏng nên chưa tiếp cận được quá rộng đến quần chúng nhân
dân.

23 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
II. Một số kiến nghị, giải pháp về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với
con khi cha mẹ ly hôn
1. Nhận xét về tình hình việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con
khi cha mẹ ly hôn
Sau khi ly hôn, một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra đó là ai sẽ người
trực tiếp nuôi con. Theo quy định của pháp luật thì cha, mẹ có thể thỏa thuận hoặc
Tòa án có quyền quyết định xem ai sẽ là người trực tiếp nuôi con. Nếu con dưới 36
tháng tuổi thì được giao cho mẹ trực tiếp nuôi bảo đảm điều kiện chăm sóc, nuôi
dưỡng tốt nhất cho đứa bé mới sinh trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để
trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận
khác phù hợp với lợi ích của con. Chỉ trong những trường hợp người mẹ không đủ
điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ
có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con thì người mẹ mới không có quyền
trực tiếp nuôi dưỡng con. Quy định trên của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
nhằm trực tiếp bảo vệ trẻ sơ sinh, bảo đảm sự chăm sóc cần thiết nhất cho trẻ.
Trường hợp hai bên cha mẹ không thỏa thuận được ai là người trực tiếp nuôi con
thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên nuôi căn cứ vào lợi ích mọi mặt của
con cũng như xem xét nguyện vọng của con nếu con trên 07 tuổi. Tuy nhiên, không
phải trong mọi trường hợp khi đứa trẻ từ 07 tuổi trở lên bày tỏ nguyện vọng sống
cùng ai thì Tòa án sẽ chấp thuận theo nguyện vọng của đứa trẻ. Bởi lẽ, đôi khi sự lựa
chọn của trẻ em về việc chung sống cùng cha hay mẹ phần nhiều là dựa theo cảm
tính. Chính vì vậy, nguyện vọng của đứa trẻ cũng chỉ là một căn cứ để Tòa xem xét
còn việc quyết định quyền nuôi con còn dựa vào điều kiện kinh tế, phẩm chất đạo
đức của cha, mẹ...
Thỏa thuận người trực tiếp nuôi con giữa vợ, chồng hay quyết định việc ai sẽ là
người nuôi con của Tòa án có thể được thay đổi trong các trường hợp sau: Cha, mẹ
có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con. Khi cha mẹ là người trực tiếp nuôi con không đủ khả năng để
tiếp tục nuôi con hoặc nhận thấy việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ tốt hơn
cho con thì việc thay đổi này sẽ giúp con có môi trường sống thuận lợi hơn, từ đó
phát triển tốt hơn về thể chất cũng như tinh thần. Tuy nhiên, việc thay đổi người trực
tiếp nuôi con cũng cần xem xét tới nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

24 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
2. Giải pháp về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn
Bảo vệ trẻ em thông qua quy định về cấp dưỡng nuôi con sau khi cha mẹ ly
hôn
Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:
“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Pháp luật quy
định cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn nhằm bảo đảm cho đứa trẻ có cuộc sống ổn
định, cấp dưỡng được coi là bù đắp phần nào cho đứa trẻ khi gia đình tan vỡ, thiếu
đi sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ là tổn thất vô cùng lớn đối với trẻ.
Nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con được bảo đảm ngay cả trong trường hợp cha mẹ đã
bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 116
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp
dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn
cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết
yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết. Trong trường hợp cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng thì người còn lại đang trực tiếp nuôi con có quyền
yêu cầu Tòa án buộc người kia thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Nếu cha mẹ
cố tình không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.
Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng
và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa
vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,
sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định
tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380
của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc
phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Sau khi ly hôn,
người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được
cản trở”. Đây là một trong những quyền quan trọng của người không trực tiếp nuôi
con. Tuy nhiên, trong trường hợp người này lạm dụng việc thăm nom để gây ảnh
hưởng xấu đế sự phát triển, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp
nuôi dưỡng đứa trẻ có trách nhiệm bảo vệ con trước những nguy cơ đến từ người
không trực tiếp nuôi con. Theo đó, người không trực tiếp nuôi con nếu lạm dụng

25 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến con đều là hành vi, vi phạm
pháp luật, khi đó, người trực tiếp nuôi con có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền
thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.
3. Một số kiến nghị về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con khi cha mẹ ly
hôn
Một vài kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con
sau khi cha mẹ ly hôn:
Thứ nhất: Cần quy định cấp dưỡng là nghĩa vụ bắt buộc kể cả trong trường
hợp bên trực tiếp nuôi con từ chối. Quyền được cấp dưỡng là quyền lợi của người
con nên người trực tiếp nuôi dưỡng không có quyền từ chối. Nghĩa vụ cấp dưỡng
vừa là nghĩa vụ nhưng cũng vừa là quyền của người cấp dưỡng.
Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể
trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con đã không thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng con của mình mà không phải chờ đến lúc vợ chồng ly hôn. Bởi lẽ, theo định
nghĩa tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “cấp dưỡng là
việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu cần
thiết của người không sống chung với mình”. Như vậy, kể từ khi không trực tiếp
chăm sóc con và không đóng góp để nuôi con thì nghĩa vụ cấp dưỡng của họ đã phát
sinh và phải thực hiện mà không phải chờ đến lúc ly hôn.
Thứ hai: Về cơ chế xử lý những trường hợp vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trên thực tế, vấn đề vi phạm về nghĩa vụ cấp dưỡng rất phổ biến mặc dù đã có chế
tài xử lý do chưa đủ nghiêm khắc và vấn đề xử lý hành vi vi phạm vẫn còn chưa
kiên quyết. Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện
việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của
pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp
dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm,
nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh
cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Có thể thấy, chế tài như trên chưa đủ tính răn đe đối với hành vi vi phạm
nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn. Vì vậy, tình trạng trốn
tránh nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn còn khá phổ biến. Do đó, pháp luật cần có chế tài

26 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
nghiêm khắc hơn cũng như kiên quyết xử lý đối với những người có hành vi vi
phạm vấn đề này. Nhà nước cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho
người dân về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn, để người cha,
người mẹ tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn.
Thứ ba: Cần có những chương trình phát thanh, truyền hình hay sách báo có
nội dung pháp luật dễ hiểu, cụ thể, trong đó đưa ra các trường hợp thực tế để tạo
được sự quan tâm của mọi người, từ đó, nâng cao sự hiểu biết và ý thức tuân thủ
pháp luật của người dân.
Thứ tư: Luật Hôn nhân và Gia đình cần bổ sung các trường hợp mà mức cấp
dưỡng buộc phải thay đổi như trẻ em được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn
hơn do bị bệnh tật, tai nạn; hoặc đứa trẻ ngày càng lớn, nhu cầu chi tiêu cho việc học
ngày càng nhiều; giá cả thị trường có sự biến động; người trực tiếp nuôi con không
còn việc làm nên không có lương hoặc có thu nhập hợp pháp khác,… Trong những
trường hợp trên, mức cấp dưỡng cần phải được điều chỉnh theo hướng tăng lên để
bảo đảm nhu cầu thiết yếu của trẻ em.
Ngoài ra, còn có rất nhiều , rất nhiều những kiến nghị, giải pháp rất ý nghĩa
mà các nhà làm luật cũng đã có những đề nghị để có thể bảo vệ quyền lợi của trẻ em
khi cha mẹ của các em ly hôn. Dù sao đi nữa thì trẻ em vẫn là nhóm yếu thế trong xã
hội, hơn nữa chúng là tương lai của đất nước. Tất cả chúng ta đều muốn các em
được lớn lên trong điều kiện tốt, phát triển tôt để sau này phục vụ, cống hiến cho tổ
quốc. Chính gia đình mới là nền để nuôi dưỡng trẻ em, việc ly hôn của bố mẹ xảy ra
là điều không ai mong muốn, nhưng dù có thế nào thì cũng hãy đảm bảo cho trẻ em
có được tuổi thơ tốt nhất, sống tốt nhất, không để bị tổn thương tâm hồn, khiến cho
các em bị lệch lạc, trở thành đối tượng xấu, gây hại cho xã hội.

27 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
KẾT LUẬN
Hiện nay, khi mà tình trạng ly hôn hôn trong cuộc sống của chúng ta đang có
chiều hướng gia tăng với nhiều nguyên nhân khác nhau đã và đang là vấn đề nhức
nhối quan tâm không chỉ trên địa bàn quận mà là vấn đề quan tâm của thành phố Hà
Nội nói riêng và toàn xã hội nói chung. Từ bài nghiên cứu nhỏ, em có thể thấy được
một cách khách quan nhất thực trạng ly hôn của một xã hội thu nhỏ, giúp mọi người
phần nào hiểu được hậu quả của việc ly hôn đã, đang và sẽ ảnh hưởng mỗi gia đình
và trở thành gánh nặng của xã hội. Và đặc biệt là vấn đề về quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn. Dù có thực hiện quyền và nghĩa vụ như thế
nào thì những người cha, mẹ vẫn khó lòng bù đắp được vết thương trong tâm hồn
của con trẻ, vì suy cho cùng mỗi một đứa trẻ đều muốn được sống và lớn lên trong
vòng tay của bố mẹ, một gia đình mà có đầy đủ cả bố cả mẹ. Qua quá trình thực tập,
được sự giới thiệu của Trường Đại học Luật - Đại học quốc gia Hà Nội và sự hướng
dẫn tận tình của các anh chị nhân viên trong Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Tis
cũng như Luật sư Đàm Lệ Quyên đã giúp đỡ, hỗ trợ em đã hoàn thành bài báo cáo
của mình. Trên đây là tất cả bài làm của em với đề bài: “Thực tiễn vấn đề quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn”. Mặc dù đã có nhiều cố gắng,
nhưng thời gian thực tập có hạn xong kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh
khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

28 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân gia đình số 52/2014/QH13, Hà Nội;
2. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Hà Nội;
3. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức tòa án nhân dân số 62/2014/QH13, Hà
Nội;
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số
Điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội;
5. Quốc hội (2015), Luật luật sư số 65/2006/QH11, Số: 03/VBHN-VPQH,
Hà Nội;
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia
đình, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội;

29 | B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề

You might also like