You are on page 1of 45

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ




BÁO CÁO THỰC TẬP CƠ SỞ 3


Đề tài:
Quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau ly hôn và
thực tiễn tư vấn tại công ty luật TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng

Địa điểm thực tập: Công ty TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Du Uyên
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hải Vy Lớp: D19LUHC01
MSSV: 1923801010189

Năm học 2019 - 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ


BÁO CÁO THỰC TẬP CƠ SỞ 3


Đề tài:
Quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau ly hôn và
thực tiễn tư vấn tại công ty luật TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng

Địa điểm thực tập: Công ty TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Du Uyên
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hải Vy Lớp: D19LUHC01
MSSV: 1923801010189

Năm học 2019-2023


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

1. Về hình thức và kỹ năng trình bày báo cáo thực tập


………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
2. Nội dung báo cáo
2.1. Kết quả đợt thực tập:
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
2.2. Tính sáng tạo của chuyên đề thực tập:
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
2.3. Tính thực tiễn của chuyên đề thực tập:
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….

Điểm đạt:
Điểm số
Điểm chữ:

……………...ngày …..tháng ……năm……


Giảng viên hướng dẫn
(Ký và ghi rõ họ và tên)
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Giới thiệu về cơ quan thực tập .................................................................................... 1
2. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN
1.1. Khái quát về quyền và nghĩa vụ cha mẹ sau ly hôn ................................................. 5
1.1.1. Quan hệ giữa cha mẹ và con....................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con sau ly hôn .......................... 5
1.1.3. Nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau
ly hôn .................................................................................................................... 7
1.1.4. Ý nghĩa của việc xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau
ly hôn ............................................................................................................................... 8
1.2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam .... 9
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con ....................................... 9
1.2.1.1. Quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục ............................................................................................................. 11
1.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con trong việc thăm
nom con của người không trực tiếp nuôi con và gia đình của họ.................................. 12
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con .......................... 12
1.2.2.1. Quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục ............................................................................................................. 12
1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con ......................................................................................................................... 13
1.3. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng ................................................................................ 13
1.4. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân ............................................................................ 14
1.5 Quyền và nghĩa vụ về tài sản .................................................................................. 15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN TẠI CÔNG TY LUẬT
TNHH MTV PHÁP VIỆT THỊNH VƯỢNG
2.1. Thực tiễn áp dụng các nội dung quy định quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con sau ly
hôn ................................................................................................................................. 16
2.1.1. Nội dung các quy định cụ thể ................................................................... 19
2.1.2. Nhận xét, đánh giá những hạn chế, bất cập trong nội dung các quy định
hiện hành về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau ly hôn ................................................ 22
2.1.3. Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp yêu cầu cấp
dưỡng nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con .................................................. 23
2.2. Thực tiễn tư vấn giải quyết vụ việc liên quan đến quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con
sau ly hôn tại Công ty Luật TNHH một thành viên Pháp Việt Thịnh Vượng............... 26
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN TƯ VẤN GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC LIÊN QUAN ĐẾN
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN TẠI CÔNG TY
LUẬT TNHH MTV PHÁP VIỆT THỊNH VƯỢNG
3.1. Thực tiễn tư vấn giải quyết vụ việc liên quan đến quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con
sau ly hôn tại Công ty Luật TNHH một thành viên Pháp Việt Thịnh Vượng............... 27
3.2. Số liệu cụ thể về tư vấn giải quyết vụ việc liên quan đến quyền và nghĩa vụ cha mẹ
với con sau ly hôn tại Công ty Luật TNHH một thành viên Pháp Việt Thịnh Vượng.. 33
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 35
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
MTV: Một thành viên
HĐ: Hợp đồng
PLVTK: Pháp luật về thừa kế
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu về cơ quan thực tập
- Khái quát chung về Công ty TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng
▪ Tên doanh nghiệp: Công ty TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng
▪ Địa chỉ: 195/17 (Tầng Trệt) Xô Viết Nghệ Tĩnh - Phường 17 - Quận Bình Thạnh
- TP Hồ Chí Minh.
▪ Người đại diện: Nguyễn Thị Vân Anh
▪ Mã số thuế: 0312312438
▪ Quản lý bởi: Chi cục Thuế Quận Bình Thạnh
▪ Ngày hoạt động: 2013-06-05
▪ Tình trạng: Đang hoạt động (đã được cấp GCN ĐKT)
Công ty Luật TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng là Công ty Luật TNHH một thành
viên được hình thành và phát triển bởi đội ngũ Luật sư có trình độ chuyên môn giỏi,
giàu kinh nghiệm, có tinh thần trách nhiệm cao và luôn tận tụy với công việc. Với
phương châm “nhanh, hiệu quả, chính xác” để đem đến kết quả thành công nhất của
khách hàng.
Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm thực tế cùng với các Chuyên gia và chuyên viên tư
vấn có trình độ chuyên môn chuyên sâu ở từng lĩnh vực pháp lý chuyên biệt đều hầu hết
làm công tác giảng dạy, công tác nghiên cứu Luật ở những trường Đại học, các Viện
nghiên cứu lớn. Đây thật sự là nơi tin cậy để khách hàng có thể gửi gắm niềm tin của
mình vào.
Công ty Luật TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng là một trong những Công ty Luật
xuất sắc và có uy tín, chất lượng và nhiều kinh nghiệm nhất với đội ngũ Luật sư, những
chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, chuyên cung cấp các dịch vụ pháp lý liên quan đến
hoạt động kinh doanh tại Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp, Đầu tư, Mua bán và Sáp
nhập, Ngân hàng, Tài chính, Đất Đai, Xây dựng và Bất động sản, Thương mại, Lao động
và Dân sự; ngoài ra, Công ty còn thực hiện các thủ tục, vấn đề pháp lý khác liên quan
tới Hôn nhân và Gia đình, Thừa kế,…
Công ty Luật Pháp Việt Thịnh Vượng được thành lập và đã hoạt động trong lĩnh vực
pháp lý được hơn 9 năm, cùng với mục tiêu hướng tới sự hài lòng của khách hàng, đây
là tiêu chí để đội ngũ luật sư - chuyên gia pháp lý hết mình làm việc, Công ty Luật Pháp
Việt Thịnh Vượng đã thành lập Đội ngũ nhân lực nòng cốt chất lượng cao, thái độ phục
vụ khách hàng chuyên nghiệp, giàu kinh nghiệm, có khả năng thấu hiểu nhu cầu, đề xuất
và triển khai công việc phù hợp nhất theo nhu cầu. Với tinh thần đoàn kết, trách nhiệm
cao và chuyên nghiệp, Công ty Luật Pháp Việt Thịnh Vượng tiếp tục đổi mới, cung cấp
dịch vụ tư vấn tốt nhất cho khách hàng, qua đó đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý
báu trong hoạt động tư vấn và tố tụng.
- Đội ngũ nhân lực
Với 9 năm kể từ khi thành lập, hiện tại Công ty có hơn 30 nhân viên và cùng với 10 Luật
sư công tác hoạt động tư vấn tranh tụng, 10 Luật sư công tác hoạt động tư vấn và 05
chuyên viên pháp lý dày dạn kinh nghiệm, đã tiếp nhận và xử lý nhiều vụ án phức tạp
và 5 Kế toán viên. Các luật sư đã giải quyết và xử lý nhiều vụ tranh chấp từ phía khách

1
với phương pháp giải quyết vấn đề nhạy bén và nhanh chóng để mang lại sự hài lòng
tuyệt đối cho khách hàng. Ngoài việc hỗ trợ tư vấn cho thân chủ cách giải quyết tốt nhất,
khả năng tranh tụng tại tòa của luật sư cũng rất ấn tượng, luôn giữ được sự bình tĩnh khi
cân nhắc và lắng nghe đối phương, từ đó tìm ra giải pháp có lợi cho quyền lợi của thân
chủ trong phiên tòa. Đội ngũ chuyên gia pháp lý vừa hỗ trợ vừa thực hiện một số công
việc trực tiếp cho đội ngũ luật sư, giúp chia sẻ công việc và học hỏi trong từng trường
hợp. Ngoài ra, các luật sư và đội ngũ chuyên gia có trình độ ngoại ngữ tốt, có khả năng
giao tiếp tốt một số ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung. Điều này tạo
ra sự đa dạng và thuận tiện trong các trường hợp khách hàng của công ty đến từ nhiều
quốc gia khác nhau.
Một lợi thế nữa là đội ngũ nhân viên, từ các chuyên viên pháp chế đến luật sư luôn duy
trì những mối quan hệ chặt chẽ, bền bỉ và tốt đẹp với các cơ quan nhà nước các cấp. Đối
với tôi, sau khoảng thời gian thực tập ở đây thì tôi nghĩ đây là một trong những yếu tố
quan trọng nhất trong việc đảm bảo hiệu quả của các dịch vụ mà công ty cung cấp cho
khách hàng. Chính nhờ sự sáng suốt đến từ các quyết định của lãnh đạo Công ty, cũng
như sự chuyên nghiệp, sáng tạo và kinh nghiệm làm việc lâu năm của các luật sư, chuyên
viên đã tạo nên những thành tựu khác biệt, đây là lợi thế vượt trội so với các công ty
luật khác tại Việt Nam.
- Cơ cấu tổ chức
Dù đã thành lập được hơn 9 năm nhưng tại Công ty không có sự phân chia rõ ràng cấp
bậc như các công ty khác. Ở đây, mọi người đều cùng hỗ trợ nhau trong các vụ việc, vấn
đề để đảm bảo lợi ích tối ưu cho Khách hàng. Đội ngũ nhân sự của Công ty được tổ chức
theo sơ đồ như sau:

- Phạm vi hoạt động

Công ty được thành lập theo Giấy phép hoạt động số: 0312312438.

2
Theo nội dung của Giấy phép này công ty được phép hành nghề trong các lĩnh vực:

- Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng

- Tư vấn pháp luật

- Dịch vụ pháp lý khác

2. Lý do chọn đề tài
Lĩnh vực hôn nhân và gia đình luôn là một vấn đề xã hội cần được khám phá và nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ nghiên cứu pháp luật, luật HN&GĐ là
một môn học lớn, có tính thực tế cao, có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc. Trong đó,
ly hôn là một trong các chế định pháp luật, cũng là một vấn đề xã hội. Hậu quả của ly
hôn nếu không được xử lý dứt điểm sẽ gây ảnh hưởng xấu đến gia đình và xã hội. Do
đó, khoa học pháp lý và các quy phạm pháp luật phải luôn quy định cụ thể và đặc biệt
là có giá trị để loại bỏ hoặc giảm bớt các hậu quả tiêu cực của ly hôn.
Trong bất kỳ chế độ hệ thống xã hội nào, nhà nước cũng quan tâm đến việc giải quyết
ly hôn và hậu quả pháp lý của chúng về nhân thân và tài sản. Nhưng mục đích của việc
điều chỉnh các vấn đề hôn nhân và gia đình và luật điều chỉnh việc ly hôn và hậu quả
của nó nói riêng là hoàn toàn khác nhau đối với các xã hội khác nhau.
Trên thực tế, nhìn chung, các vụ việc về lĩnh vực hôn nhân và gia đình không hề đơn
giản, bởi ngoài việc liên quan đến lợi ích vật chất của các bên, thì vấn đề chính là quan
hệ vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Vì vậy, nếu việc giải quyết vấn đề này không hợp
lý, không dựa trên nguyên tắc bình đẳng theo pháp luật, không làm hài lòng các bên thì
các bên sẽ phải đi kiện lại bên kia nhiều lần. Lâu ngày, cuộc sống bấp bênh có thể ảnh
hưởng lớn đến lợi ích cá nhân cũng như lợi ích chung của xã hội, không những vậy còn
gây mất đoàn kết giữa các bên.

Vì vậy, trong quá trình xem xét, giải quyết vấn đề về quyền và nghĩa vụ nuôi con của
cha mẹ sau khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, bên cạnh việc tiến hành
điều tra, cơ quan nhà nước còn phải tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cha mẹ, con cái.
Đối với nguyện vọng của các bên đương sự và con cái, cần hiểu rõ tình hình tài sản,
hoàn cảnh cụ thể của gia đình để đưa ra quyết định chính xác trong mỗi nhận định của
bản án.
Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết một cách chính xác, công minh về hậu quả
pháp lý của các vụ án ly hôn nói chung, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau
khi ly hôn có ý nghĩa hết sức quan trọng như:
- Về lý thuyết - nó củng cố vững chắc chế độ một vợ một chồng, sự nhất trí, sự tự nguyện
và tính nhân đạo của pháp luật, góp phần khẳng định các nguyên tắc: Nguyên tắc bình
đẳng giữa vợ và chồng, nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người vợ và con chưa thành
niên, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
- Về mặt thực tiễn nó đảm bảo sự công bằng về lợi ích cũng như quyền và nghĩa vụ của
các bên đương sự đặc biệt là đối với bà mẹ và trẻ em.

3
Với mong muốn nhỏ bé nhằm góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận vấn đề quyền và
nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau khi ly hôn trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt
Nam, tôi xin chọn đề tài: "Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn theo luật
hôn nhân gia đình Việt Nam" làm báo cáo thực tập và chọn Công ty Luật TNHH một
thành viên Pháp Việt Thịnh Vương làm nơi để tôi có thể nghiên cứu, học hỏi nhằm củng
cố kiến thức pháp luật để hoàn thành bài báo cáo thực tập này.

4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN
1.1. Khái quát về quyền và nghĩa vụ cha mẹ sau ly hôn:
1.1.1. Quan hệ giữa cha mẹ và con
Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
con cái. Tạo điều kiện để con cái được sống trong môi trường gia đình tốt nhất cả về vật
chất và tinh thần. Cha mẹ nên chọn cách giáo dục trẻ em về các cơ hội nghề nghiệp.
1.1.2. Khái niệm quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con sau ly hôn
Ly hôn là một vấn đề xã hội được quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là
một vấn đề không mới mẻ nhưng luôn gây nhức nhối nhưng luôn gây ra những hậu quả
nặng nề mà nó mang lại. Có thể nói, từ khi pháp luật ra đời, những quy định như ly hôn
tương tự xuất hiện, bởi vì quan hệ hôn nhân là quan hệ chủ đạo trong xã hội, mà điều ly
hôn thì không thể tránh khỏi trong quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Tuy nhiên ở mỗi hình
thái kinh tế xã hội trong luật sử, những quan điểm, những quy định về vấn đề này lại
không giống nhau. Bởi vì những giai cấp thống trị đều đưa ra những quy định để bảo vệ
tối đa cho giai cấp, chế độ của mình. Đứng trên quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa Mác –
Lê nin, khoản 8 điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định: “ Ly
hôn và việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu
cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
Ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng, nhưng quan hệ cha mẹ đối với con không thay
đổi nhưng chỉ đặt ra vấn đề giải quyết giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng và việc cấp
dưỡng con như thế nào. Những điều này phải xuất hiện từ phía góc độ bảo về quyền lợi
cho trẻ em, đồng thời cũng bảo về quyền lợi cho cha mẹ.
Các nguyên tắc phải tuân thủ khi giải quyết vấn đề:
- Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em: Trong xã hội xưa và nay, người phụ nữ góp vai
trò vô cùng quan trọng, vai trò đó thể hiện ngay trong gia đình, họ vừa là người mẹ,
người con dâu trong gia đình. Họ còn có vai trò to lớn trong xã hội đó là người lao động.
Vì vậy người phụ không chỉ có vai trò quan trọng trong gia đình còn có vai trò quan
trọng trong xã hội. Dưới chế độ cũ, quyền yêu cầu ly hôn và quyền lợi phụ nữ sau khi
ly hôn bị hạn chế bởi mối quan hệ “bất bình đẳng”, duy trì chế độ gia trưởng. Người phụ
nữ sau khi ly hôn phải gánh chịu hậu quả nặng nề về nhân thân và tài sản, hầu như những
quyền lợi của họ đề mặc nhiên không được công nhận. Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 ra đời, người phụ nữ đã được hưởng các quyền lợi khi ly hôn. Đây là một chính
sách của nhà nước ta nhằm bảo vệ quyền phụ nữ khi ly hôn. Theo đó, Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1959 người chồng không được xin ly hôn người vợ khi người vợ đang
mang thai nhằm bảo vệ quyền phụ nữ. Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và năm
2000 các quy định bảo vệ người phụ nữ khi ly hôn dần được hoàn thiện và ghi nhận
trong luật.
- Nguyên tắc giữa vợ và chồng: Khi ly hôn, người cha và người mẹ hay chính vợ và
chồng đều có cơ hội ngang nhau trong việc trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con. Theo
đó, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ mỗi bên sau khi

5
ly hôn với con, nếu không thỏa thuận được thì phải cần tới sự can thiệp của Tòa án.
Ngoài ra, vợ chồng còn bình đẳng trong việc thăm nom con sau ly hôn, người không
trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được quyền cản trở hay ngăn cấm
người đó thăm nom con của mình; và bình đẳng trong quyền thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau ly hôn, tức là sau khi ly hôn, nếu phát hiện người cha hoặc người mẹ đang
nuôi con không đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của con thì người kia có quyền
yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo lợi ích cho
con. Ví dụ như trường hợp con sau khi ly hôn được sống với mẹ nhưng khi mẹ tái hôn
thì bố dượng thường xuyên đánh đập và hành hạ con riêng của người vợ, lúc này cha
của đứa trẻ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.
- Nguyên tắc tôn trọng quyền của cha, mẹ: Theo nguyên tắc, quyền của cha mẹ là quyền
tuyệt đối;
+ Quyền và nghĩa vụ nhân thân: Theo luật định, vợ và chồng (với tư cách là cha là mẹ
đối với con) đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong việc thương yêu, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con. Sau khi ly hôn, việc giáo dục con chưa thành niên hoặc đã thành
niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình cho bên nào trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phải
căn cứ vào điều kiện thực tế của vợ chồng và phải đảm bảo lợi ích mọi mặt cho con. Tòa
án cần xem xét về tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác, điều kiện kinh tế, thời gian của
mỗi bên vợ chồng…xem ai là người có điều kiện thực tế thực hiện việc trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con tốt hơn thì giao con cho người đó; Người nào trực tiếp
nuôi dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn thì đồng thời sẽ là người đại diện theo pháp
luật cho con. Cũng có trường hợp cả cha lẫn mẹ đều không ai có đủ tư cách đại diện
nuôi con thì có thể giao con cho một người khác nuôi dưỡng. Người đó có thể là ông,
bà, cô, dì, chú, bác… hoặc là anh, chị đã thành niên có đủ điều kiện đảm bảo cuộc sống
nuôi dưỡng cho đứa trẻ, tất nhiên, việc quyết định giao đứa trẻ đó cho ai phải xuất phát
từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi mọi mặt cho đứa trẻ đó. Ngoài ra, không phải vì thế mà
nghĩa vụ của cha mẹ đối với con lại mất đi.
+ Quan hệ về tài sản: quan hệ này sau khi vợ chồng ly hôn được thể hiện qua nội dung
về nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra trong một số trường
hợp pháp luật quy định…
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi ly hôn thực chất là chúng ra đặt quyền và nghĩa
vụ trong một quan hệ pháp luật cụ thể đó là quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình, hay
chính là giải quyết mối quan hệ vợ chồng trong vấn đề con cái sau khi ly hôn. Trong
quan hệ này quy định những việc bố mẹ được phép làm trong giới hạn quyền làm cha,
mẹ của mình như: quyền được quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, quyền
chăm sóc, nuôi dưỡng, hay quyền thăm nom…, đồng thời họ cũng phải thực hiện những
nghĩa vụ nhất định như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra,
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con… Trong số các quyền hay nghĩa vụ đó có những nội dung
vừa là quyền cũng vừa là nghĩa vụ, nó thể hiện được quan hệ qua lại, tương hỗ của hai
yếu tố này, phần nào cũng phản ánh được tính chất riêng biệt và đặc thù của quan hệ
pháp luật hôn nhân và gia đình. Mặc dù là quan hệ pháp luật điều chỉnh nhưng vẫn mang
trong đó yếu tố đạo đức và truyền thống dân tộc.

6
1.1.3. Nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn

Như chúng ta có thể thấy, hiện nay tình trạng ly hôn xảy ra có thể nói là khá phổ biến
tại các địa phương, vậy đối với việc ly hôn thì những việc mà hai bên phải thực hiện đã
nắm rõ trong trường hợp đã có con chung hay chưa và pháp luật quy định như thế nào
về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung? Theo quy định của Điều 81, Điều
82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đinh 2014 đã nhắc đến trường hợp mà cha,
mẹ phải thực hiện sau khi ly hôn, theo đó cha mẹ có quyền và nghĩa vụ với con như sau:

- Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn.

+ Đối với quyền mà nghĩa vụ chăm sóc con cái sau ly hôn thì pháp luật quy định cả hai
bên sẽ thỏa thuận một bên trực tiếp nuôi con, bên còn lại sẽ thực hiện nghĩa vụ trợ cấp
hàng tháng theo thỏa thuận giữa hai vợ chồng. Trong tường hợp không thỏa thuận được
thì Tòa án sẽ căn cứ vào kinh tế và những bằng chứng chứng minh điều kiện có thể chăm
sóc con để ra quyết định như sau:

+ Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực
tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con;

+ Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì Tòa án phải xem xét nguyện vọng của con trước khi
đưa ra quyết định.

+ Con dưới 36 tháng tuổi mặc định được pháp luật giao cho mẹ trực tiếp nuôi, tuy nhiên
vẫn không thể ngoại trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với
lợi ích của con.

Chính vì vậy, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, và phải thực hiện các nghĩa vụ trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự và các luật khác
có liên quan đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ.

Theo đó cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở
người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con.

- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

+Trong thỏa thuận giữa cha mẹ và căn cứ theo quy định pháp luật thì đối với việc chăm
sóc, nuôi dưỡng con trong các trường hợp con chưa thành niên, mất nawmg lực hành vi
dân sự,…. là nghĩa vụ bắt buộc. Nếu mọt bên là cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con
thì phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

7
+ Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Trong thực thế thì
việc cấp dưỡng này chính là chu cấp một khoản tiền được xem xét cân đối theo mức
thu nhập hàng tháng hỗ trợ cho bên trực tiếp nuôi con.

+Vì là con chung nên không thể ngừng phát sinh các quyền và nghĩa vụ nên sau khi ly
hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai
được cản trở.

+Pháp luật đã quy định cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để
cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con
của người đó.

-Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con
sau khi ly hôn.

+Việc tôn trọng quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng với con chung sau
khi ly hôn thì ngoài quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con thì cha, mẹ
trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa
vụ sau:

+Tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, yêu cầu người
không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con
của mình. mà không được phép gây cản trở, ép buộc.

1.1.4. Ý nghĩa của việc xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly
hôn
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn có ý nghĩa quan trọng trong đời
sống, tư tưởng của mỗi cá nhân cũng như trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn đã góp phần nâng cao trách nhiệm chăm
sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi
dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Đồng thời, là
cơ sở cần thiết để đảm bảo cho con cái được nuôi dạy tốt trong hoàn cảnh đặc biệt khi
cha mẹ ly hôn.

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn là sự tiếp nối truyền thống đạo
đức của dân tộc. Tình mẫu tử, tình phụ tử luôn chiếm một vị trí thiêng liêng trong trái
tim người Việt. Dù cuộc sống vất vả, lam lủ, dù đất nước chiến tranh liên miên nhưng
giữa những khó khăn ấy thì tình cảm gia đình, tình yêu thương, sự hy sinh của cha mẹ
cho con là vô bờ bến. Nó kết tinh thành một giá trị tinh thần quý báu là truyền thống dân
tộc. Ngày nay, khi đất nước đang có những bước chuyển lớn trong lịch sử, truyền thống
đó vẫn được tiếp nối. Khi xã hội ngày càng phát triển sự quan tâm của xã hội đến trẻ em
ngày càng được chú trọng. Chúng ta đang cùng nhau nổ lực để xây dựng một Nhà nước
pháp quyền. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn trong pháp luật là
một trong những biểu hiện của sự tiếp nối truyền thống đạo đức dân tộc, đặc biệt là trong
Luật hôn nhân và gia đình.

8
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn góp phần nâng cao tinh thần trách
nhiệm của bậc làm cha làm mẹ, khắc phục được phần nào hậu quả của việc ly hôn ảnh
hưởng đến con cái. Khi con được nhận từ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ như cấp dưỡng,
chăm sóc,trông nom, giáo dục thì sẽ không cảm thấy bị bỏ rơi khi cha hoặc mẹ không
trực tiếp nuôi mình. Ngoài ra Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn sẽ
phần nào bù đấp tổn thất về tin thần mà hậu quả của ly hôn đem lại. Thể hiện qua việc
cấp dưỡng bằng vật chất để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống bình thường của
con khi cha mẹ ly hôn.

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn mang ý nghĩa tạo nên một sự ổn
định đời sống, sự thương yêu đoàn kết của mọi người quan tâm lẫn nhau và góp phần
ổn định xã hội. Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn Nhà
nước ta coi trọng việc áp dụng các hình phạt nghiêm khắc để xử lý những cá nhân có
hành vi vi pham, nhằm góp phần đảm bảo các quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

1.2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau khi ly hôn theo pháp luật Việt
Nam
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con

Quan hệ giữa cha, mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ và nuôi dưỡng.
Theo đó, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ yêu thương, nuôi dưỡng chăm sóc, bảo vệ, quyền
và lợi ích hợp pháp của con, chăm lo việc học hành và giáo dục con phát triển lành
mạnh, tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận…
Ngược lại, con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi
cha mẹ đã già yếu, ốm đau ( điều 34,35,36,37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Việc hôn nhân giữa vợ và chồng tồn tại hay không tồn tại không ảnh hưởng tới giữa
quan hệ cha mẹ với con. Dù ly hôn nhưng vợ chồng vẫn bình đẳng về nghĩa vụ về yêu
thương, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng các con, bởi đây không chỉ là quyền mà còn là
nghĩa vụ do luật định. Việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con khi vợ chồng
ly hôn như vấn đề xác định người trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con,
phương thức cấp dưỡng nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con,… luôn là nội dung quan
trọng khi giải quyết các vụ việc ly hôn.

Khi ly hôn, bên cạnh những việc thỏa thuận về phân chia tài sản, vợ chồng cũng
phải thỏa thuận với nhau về vấn đề nuôi dạy con trong trường hợp con chưa thành niên,
con đã thành niên về tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động
và không có tài sản tự nuôi mình. Trước hết, pháp luật ghi nhận sự thỏa thuận ý chí của
các bên vợ chồng và không ai được phép tự cho mình quyền nuôi con cũng như trốn
tránh nghĩa vụ ấy. Vì con cái là kết quả của sự dung hòa giữa cha và mẹ nên họ phải có
trách nhiệm đối với sự sống do chính mình tạo ra. Hiện nay, khi ly hôn rất nhiều trường
hợp cả cha mẹ đều muốn nhận nuôi con để bù đắp cho con những mất mát, nỗi bất hạnh
do chính mình gây ra, nhưng pháp luật quy định chỉ dành cho một người có quyền trực
tiếp nuôi con. Nên, nếu vợ chồng không thỏa thuận được vấn đề này, thì Tòa án sẽ là
người đưa ra quyết định cuối cùng căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con và hoàn cảnh
thực tế, về tư cách đạo đức, điều kiện kinh tế, khả năng kinh tế của các bên vợ chồng.
Nghị quyết số 02/2000/ NQ – HĐTP quy định: “ Trong trường hợp vợ chồng không thỏa

9
thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực
tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự
phát triển về thể chất, đảm bảo việc học hành và phát triển tốt về tinh thần.”

Theo đó, người trực tiếp nuôi con sẽ là người đáp ứng tốt nhất các điều kiện đảm
bảo cho sự phát triển tốt về thể chất và trí tuệ của con. Trong trường hợp đặc biệt, để
đảm bảo quyền lợi và sự phát triển bình thường của đứa trẻ, nếu cả cha và mẹ đều không
có đủ tư cách về mặt đạo đức và điều kiện thực tế để nuôi con thì Tòa án có thể giao cho
ông bà hoặc người thân thích khác trực tiếp nuôi con. Các quy định đó, thể hiện sự quan
tâm đặc biệt của các nhà làm luật đối với việc đảm bảo quyền lợi cho con, nó mang ý
nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này,
Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau
khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao
con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ
07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ
không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc
cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vậy, quy định này đã chú trọng đến đảm bảo quyền lợi cho con, bảo đảm ý chí của
con cũng được thể hiện để đứa trẻ có điều kiện tốt khi chung sống cùng cha hoặc mẹ.
Mục đích của việc giao con cho ai thực chất là nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của các
con nên trường hợp con đã có đủ nhận thức về điều đó thì pháp luật cũng tạo điều kiện
cho con để thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình. Mặc dù, nguyện vọng của con được
thể hiện trước Tòa nhưng đó không phải là căn cứ duy nhất để xem xét và quyết định
giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng. Bởi đó là sự lựa chọn thiên về lý trí và cảm xúc
của đứa trẻ. Chính vì vậy, trước khi đưa ra quyết định Tòa án chỉ coi đó là nguồn tham
khảo mà phải xem xét một cách toàn diện về mọi mặt.

Người trực tiếp nuôi con sẽ cùng sống chung với con trong một mái nhà, là chỗ
dựa cho con về cả vật chất lẫn tinh thần và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật đối với con như nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái, quyền
đại diện cho con,… Do cùng sống chung với con nên việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của người trực tiếp nuôi con diễn ra liên tục và không bị hạn chế về không gian và
thời gian. Nên việc họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con cũng giống như khi
chưa ly hôn.

Người trực tiếp nuôi con luôn là chỗ dựa cho con, giúp con phát triển về thể chất
và trưởng thành về trí tuệ và là người song hành với con trong suốt quá trình trưởng
thành nên họ có vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng tới nhận thức rất lớn và tương

10
lai của con sau này. Vì thế, quy định về việc xác định người trực tiếp nuôi con có ý nghĩa
vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo một cách tốt nhất về quyền lợi về mọi mặt của con.

1.2.1.1. Quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn là quy định
liên quan đến quan hệ giữa cha mẹ và con được ghi nhận lần đầu tiên tại Luật hôn
nhân và gia đình năm 1959. Theo đó, ly hôn là biện pháp để chấm dứt cuộc sống hôn
nhân với người vợ hoặc người chồng theo quy định, thủ tục của pháp luật. Mặc dù
chấm dứt quan hệ hôn nhân nhưng khi cả hai đều có con chung và con chưa có đầy
đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì cha mẹ phải có trách nhiệm trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho con cái được sống và phát triển đầy đủ về thể chất,
tinh thần. Thực tế khi xảy ra ly hôn thì các mâu thuẫn, tranh chấp liên quan đến việc
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là rất phổ biến, do đó pháp luật hôn
nhân và gia đình ghi nhận quy định này nhằm để các chủ thể thực hiện theo đúng pháp
luật, hạn chế các tranh chấp phát sinh.

Giờ đây, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì việc trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được quy định cụ thể như sau:

- Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên
sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định
giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con
từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc
cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Hiện nay giành quyền nuôi con là một tranh chấp khá phổ biến, theo đó khi xảy
ra tranh chấp Tòa án phải căn cứ vào quyền lợi, sự phát triển về mọi mặt của người con
để quyết định ai là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đứa trẻ. Bên cạnh đó quyền
nuôi con sau khi ly hôn có thể bị thay đổi trong những trường hợp cụ thể và có thể thấy
trên thực tế có trường hợp các bên yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực
tiếp nuôi con, theo đó Tòa án cần xem xét đến những điều kiện thay đổi người nuôi con
sau khi ly hôn.

Như vậy có thể thấy rằng khi hai người không chung sống với nhau nữa thì cha,
mẹ vẫn phải thực hiện quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục
con, không phải trường hợp nào cha mẹ cũng xảy ra chuyện tranh giành nuôi con. Cha
mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con trong các trường hợp sau đây như con chưa thành

11
niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình.

Đối với con cái đặc biệt là khi con chưa thành niên, chưa trưởng thành hoặc
gặp những khiếm khuyết về thể chất, trí tuệ, cha mẹ là đối tượng đầu tiên cho quyền
và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho con.

Khi con cái còn nhỏ, mọi nhu cầu sống cơ bản như ăn, ở, mặc, chăm sóc sức
khỏe … đều phụ thuộc vào cha mẹ và dù có nhiều thành viên khác có thể cùng chăm
sóc nhưng cha mẹ có quyền quyết định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ, trừ
trường hợp luật pháp quy định như khi cha mẹ đối xử tàn nhẫn, lạm dụng hoặc không
có khả năng nuôi dạy trẻ. Do vậy, với trẻ em, cha mẹ là không thể tách rời. Đôi khi
có những gia đình, ông bà vì quá yêu quý con cháu nên giành việc chăm sóc, nuôi
dưỡng cháu theo cách của mình hoặc có những người vì xao nhãng bổn phận, trách
nhiệm mà không quan tâm, chăm sóc con cái. Đây đều là những biểu hiện vi phạm
quyền và nghĩa vụ này của cha mẹ.
Đối với những đối tượng như người đã thành viên nhưng vì những lý do như
bệnh tật mà không thể nhận thức hay làm chủ hành vi của mình hoặc bị khuyết tật, tai
nạn mà không có khả năng lao động hoặc không có tài sản tự nuôi mình thì cha mẹ là
đối tượng thực hiện việc trông nom, nuôi dưỡng, giám hộ.
Sinh con và nuôi con khôn lớn, người làm cha mẹ mong muốn con cái trưởng thành,
tự lập, tự gây dựng cuộc sống và đến lúc ấy, trách nhiệm của cha mẹ coi như đã hoàn
thành và có thể nghỉ ngơi. Tuy nhiên, có những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khi
người con không thể tự chăm sóc cho bản thân thì cha mẹ dù có già cả đến mấy vẫn
mang nặng trách nhiệm với con. Gánh nặng ấy không phải dễ dàng, nhất là khi cha
mẹ già đi, thu nhập giảm sút vì khả năng lao động không còn. Tuy nhiên vì tình yêu
thương, vì trách nhiệm, cha mẹ vẫn bao bọc, chăm sóc con trong khả năng của mình.
Đó cũng chính là sự thiêng liêng của tình yêu vô điều kiện giữa cha mẹ và con cái.
1.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom
con của người không trực tiếp nuôi con và gia đình của họ
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con
thực hiện các nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; yêu cầu
người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi
con của mình.
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở
người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con
1.2.2.1. Quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không
ai được cản trở người đó thực hiện quyền này (điều 94 Luật HN&GĐ) và nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con (khoản 1 điều 92 Luật HN&GĐ), nhưng trên thực tế không phải lúc nào
họ cũng được tạo điều kiện để thăm nom con, thậm chí nhiều trường hợp còn bị cản trở,
gây khó dễ, xuất phát từ tâm lý hẹp hòi, cố chấp; hành động theo kiểu “trả thù” cho

12
những mâu thuẫn giữa hai người, mặc cho con cái phải gánh chịu hậu quả, mà không
thấy rằng hành động như thế là vi phạm pháp luật. nguoinuoc ngoai
Trong trường hợp trên, người bị cản trở quyền thăm nom có thể khởi kiện về việc
yêu cầu Tòa thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, việc chứng minh hoàn toàn
không dễ dàng, đòi hỏi bên yêu cầu biết cách thu thập chứng cứ về việc mình đã bị cản
trở quyền thăm nom con. Chỉ khi nào có được những bằng chứng rõ ràng chứng minh
quyền thăm nom con bị cản trở một cách hệ thống, có chủ ý thì mới có cơ sở được tòa
chấp chận.ật sư
1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con
Trong tất cả các vụ án ly hôn, người thiệt thòi nhất luôn là những đứa trẻ, khi bị buộc
phải sống với chỉ một trong hai người thân yêu nhất. Điều 92 Luật HN&GĐ quy
định: “Sau khi ly hôn, vợ-chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi
dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Như vậy, người cha
(hoặc mẹ) dù không trực tiếp nuôi con sau ly hôn, vẫn có quyền (đồng thời là nghĩa vụ)
trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con cái cho đến khi thành niên, thể hiện
qua quyền thăm nom con.
Trái ngược với trường hợp cản trở quyền nuôi con như đã trình bày ở trên, trong thực tế
cũng xảy ra không ít trường hợp người không trực tiếp nuôi đưỡng đã lợi dụng quyền
thăm nom để đến “kiếm chuyện” với người đang trực tiếp nuôi dưỡng bằng đủ các “chiêu
trò”, thủ đoạn. Từ việc đến thăm bất kể giờ giấc làm xáo trộn cuộc sống, sinh hoạt hoặc
có những hành vi, lời nói xúc phạm, thô tục, cố tình "chọc tức" người đang trực tiếp
nuôi dưỡng chỉ với mục đích cho ..."bõ ghét"; thậm chí có trường hợp "quậy" bằng cách
cố tình đến “thăm nom” đủ 7 ngày/tuần, 30 ngày/tháng và “ngồi thiền” không chịu về
cho đến khi gia chủ phải năn nỉ xin phép được … đi ngủ hoặc xin phép được cho con đi
học bài v.v...
Gặp hoàn cảnh này, giải pháp đầu tiên là trao đổi trực tiếp, thẳng thắn và để hai bên hiểu
rõ hoàn cảnh, suy nghĩ của nhau, biết đặt lợi ích của đứa trẻ lên trên; cùng nhau phối
hợp nuôi dưỡng con một cách tốt nhất. Nếu đã cố gắng, thiện chí hết mức nhưng “ai
cũng hiểu, chỉ một người không hiểu” thì giải pháp khả dĩ nhất là khởi kiện, yêu cầu tòa
hạn chế quyền thăm nom. Điều 94 Luật HNGĐ quy định “Trong trường hợp người
không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu
đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có
quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”. Cũng giống như
việc khởi kiện yêu cầu thay đổi quyền nuôi con, để được tòa chấp nhận việc hạn chế
quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi dưỡng thì một trong những vấn đề quan
trọng nhất là phải biết thu thập chứng cứ về việc người không trực tiếp nuôi con đã lạm
dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc,
giáo dục, nuôi dưỡng con. Người yêu cầu có thể đề nghị tòa giới hạn/ ấn định thời gian
thăm nom trong một khoảng thời gian và với những điều kiện nhất định. Nếu người
thăm nom không đáp ứng đủ, người trực tiếp nuôi dưỡng có quyền từ chối việc cho thăm
nom.
1.3. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con phát sinh trên cơ sở cha mẹ có nghĩa vụ “
cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con” được quy định tại điều 71 Luật Hôn nhân và gia
13
đình năm 2014. Nuôi con là trách nhiệm của cha mẹ, không phụ thuộc vào quan hệ hôn
nhân của cha mẹ có chấm dứt hoặc không có hôn nhân. Khi ly hôn, vợ chồng không
sống chung trong một nhà, không thể cùng nhau chăm sóc, dạy dỗ con cái, nhưng cha
mẹ vẫn có quyền và nghĩa chăm sóc và nuôi nấng, dạy dỗ con của mình ( điều 81 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014). Ngoài ra, sau khi ly hôn thì việc trực tiếp thực hiện
trách nhiệm này thuộc về cha hoặc mẹ. Đối với cha mẹ không trực tiếp nuôi con thì
quyền và nghĩa vụ này đã chuyển thành quyền và nghĩa vụ trực tiếp cấp dưỡng được ghi
nhận tại khoản 2 điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 : “Cha mẹ không trực
tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.” Do phải làm quen với cuộc sống mới lại
một mình nuôi con, người trực tiếp nuôi con sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu như người
không trực tiếp nuôi không chịu chia sẻ gánh nặng này. Nếu như thăm nom con là sự bù
đắp cho con những thiếu thốn về mặt tình cảm thì cấp dưỡng nuôi con là sự đóng góp
để đảm bảo cho con có sự đầy đủ về mặt thể chất. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 thì quyền, nghĩa vụ của cha mẹ cho con sau khi ly hôn được quy định từ điều 81
đến điều 84, tại điều 81 cha mẹ sau khi ly hôn vẫn có quyền, nghĩa vụ, chăm sóc, nuôi
dưỡng con nhưng không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ( điều 82
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Và việc cấp dưỡng của cha mẹ dành cho con
được quy định tại điều 110 như sau: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa
thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng
vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.” Ta có thể nói rằng, quan hệ cha, mẹ - con không lệ
thuộc vào tính chất giữa quan hệ cha và mẹ. Vì vậy, sau khi ly hôn người không trực
tiếp nuôi con vẫn luôn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con. Tuy nhiên, trong điều
kiện cha mẹ ly hôn mà con phải sống chung với một trong hai người, người không trực
tiếp nuôi dưỡng con có thể thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng theo những hình thức bình
thường được áp dụng lúc cha mẹ còn duy trì quan hệ hôn nhân. Cần nhấn mạnh rằng
con được cấp dưỡng phải là con chung của vợ và chồng, luật không phân biệt con ấy là
con chung hay con nuôi.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc kết hôn bị hủy, người
không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để nuôi mình thì cha mẹ
có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Bên cạnh đó, Luật cũng ghi nhận trường hợp cha, mẹ
bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con ( khoản 3 điều 87). Như vậy, sau khi ly hôn, quan hệ pháp lý vẫn không
thay đổi. Thực tế thì để tồn tại, trước hết con người phải có vật chất để đảm bảo cuộc
sống tối thiểu của mình. Người không trực tiếp nuôi con dù muốn hay không đều phải
thực hiện trách nhiệm của mình. Nếu như pháp luật không dùng các biện pháp cưỡng
chế để ép buộc họ thực hiện nghĩa vụ về mặt tình cảm thì ngược lại, pháp luật có thể
quy định những biện pháp để họ thực hiện nghĩa vụ về mặt vật chất. Do Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên theo Nghị quyết số
02/2000/ NQ-HĐTP quy định: “ Đây là nghĩa vụ của cha mẹ; do đó không phân biệt
người trực tiếp nuôi con có khả năng về kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi
con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con yêu
cầu người không trực tiếp nuôi con vì lí do nào đó thì Tòa án cần giải thích cho họ hiểu
rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết để đảm bảo quyền,
lợi ích hợp pháp cho con.” Khi ly hôn, việc nuôi con sẽ dồn lên vai một người và sẽ gặp
nhiều khó khăn hơn trước đây. Vì vậy, sự đóng góp nuôi con về vật chất là rất cần thiết.

14
Đó không chỉ để duy trì cuộc sống ổn định cho con mà thể hiện tinh thần trách nhiệm
của cha mẹ. Bởi vì, nuôi con không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà con là trách nhiệm của
cha mẹ.
1.4. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân
Cha mẹ có quyền đại diện cho con theo quy định của pháp luật
Theo quy định tại điều 73 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đây là quyền nhân thân
của cha mẹ đối với con, đặc biệt là con chưa thành niên. Chỉ khi người con chưa thành
niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha mẹ hoặc cả cha mẹ mất năng lực hành
vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ thì khi đó người con chưa thành niên
mới cần sự giám hộ của người khác, và khi đó người giám hộ mới có thể đại diện cho
người con chưa thành niên khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Quyền nhân thân này
đặt ra chủ yếu là nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người con chưa thành
niên, sau đó là đảm bảo quyền của cha mẹ trong mối quan hệ với các chủ thể khác có
liên quan. Đối với con đã thành niên mà bị mất năng lực hành vi dân sự thì cha mẹ chỉ
đại diện cho người con đó khi cha mẹ với tư cách là người giám hộ. Trong trường hợp
cha mẹ đã ly hôn vẫn có đầy đủ quyền này đối với con cho dù người con đó chỉ do một
bên trực tiếp nuôi dưỡng hoặc do người khác nuôi dưỡng.
- Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giảo dục con:
Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con. Tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình tốt nhất cả về thể chất
và tinh thần. Cha mẹ phải định hướng cho con về lựa chọn nghề nghiệp... (Điều
71,72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
- Con có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
Pháp luật quy định mối quan hệ giữa cha mẹ và con trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng và
dân chủ, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, mang đậm nét truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Con cái có nghĩa vụ lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ thể hiện tôn ti
trật tự trong gia đình Việt Nam. Bên cạnh đó pháp luật cũng ghi nhận quyền tự quyết
định của người con, không hoàn toàn phụ thuộc vào những ý kiến, quan điểm của cha
mẹ (Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Quyền và nghĩa vụ chăm sóc và nuôi dưỡng cha mẹ là quyền bình đẳng đối với các con,
không có sự phân biệt con trai, con gái, con trong giá thú, con ngoài giá thú. Ngược lại,
quyền và nghĩa vụ chăm sóc và nuôi dưỡng con là bình đẳng giữa cha mẹ. Mọi hành vi
xúc phạm danh dự, nhân phẩm, ngược đãi, hành hạ cha mẹ sẽ bị xử lý theo pháp luật
tùy vào mức độ vi phạm.
1.5. Quyền và nghĩa vụ về tài sản
Nội dung quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi ly hôn có thể chia ra 2 nhóm cơ
bản liên quan đến nhân thân và tài sản. So với quyền về nghĩa vụ nhân thân thì quyền
và nghĩa vụ về tài sản được tiếp cận khá sớm, ngay từ thời kì Pháp thuộc, trong các Bộ
luật đã có quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của cha mẹ khi ly hôn. Và tại Sắc
lệnh số 159- SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn nội dung này tiếp tục được
đề cập đến: “… Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tốn về việc nuôi dạy con,
mỗi bên tùy theo khả năng của mình “.
Mặc dù quy định còn mang tính chất chung chung và chưa có ràng buộc về trách
nhiệm cụ thể, cả hai vợ chồng đều phải cùng chịu phí tốn nuôi con nhưng với mức đóng
góp lại “tùy theo khả năng”. Một cụm từ nhìn nhận khá mơ hồ dưới khía cạnh của pháp

15
luật. Hạn chế này đến pháp luật hôn nhân gia đình đầu tiên của Việt Nam năm 1959 vẫn
không có nhiều thay đổi: “… Vợ chồng đã ly hôn thì phải chịu cùng về phí tổn về việc
nuôi nấng và giáo dục con, mỗi người tùy theo khả năng của mình. Vì lợi ích của con
cái, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi dưỡng hoặc góp phần vào phí tổn về việc
nuôi dưỡng giáo dục con cái.”
Phải đến năm 1986 với sự hôn nhân của Luật Hôn nhân và gia đình mới, vấn đề
trên mới được khắc phục. Cùng là nghĩa vụ cấp dưỡng, đóng góp nuôi con của cha mẹ
sau khi ly hôn nhưng được cụ thể hóa và có tính rang buộc cao hơn: : “ Nếu trì hoãn
hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Tòa án Nhân dân sẽ quyết định khẩu trừ vào thu nhập
hoặc phải nộp những khoản phí tổn đó.” Và đến giai đoạn này quyền và nghĩa vụ về tài
sản được mở rộng thêm với một số nội dung như: Cha mẹ quản lý tài sản của con chưa
thành niên; cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do hành vi trái pháp luật
của con dưới 16 tuổi gây ra…
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay với sự tiến bộ và hoàn thiện của hệ thống pháp
luật nói chung, theo đó nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em cũng được thể hiện rõ
nét và cụ thể, trong đó có vấn đề quyền và nghĩa vụ về tài sản của cha mẹ đối với con
sau khi ly hôn.
Như vậy, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi ly hôn dưới các thời kỳ lịch sử
có nội dung khác nhau dựa trên những quan điểm và tư tưởng khác nhau. Tuy nhiên nó
vẫn thể hiện được sự tiến bộ và phát triển của nội dung hệ thống các văn bản pháp luật,
vẫn phản ánh được nguyên tắc bảo vệ quyền lợi bà mẹ, trẻ em.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN TẠI CÔNG TY LUẬT
TNHH MTV PHÁP VIỆT THỊNH VƯỢNG
2.1. Thực tiễn áp dụng các nội dung quy định quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con
sau ly hôn
- Theo nguyên tắc chung
Nội dung quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi ly hôn thực chất là sự
cụ thể hóa của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em được đề cập rất nhiều trong hệ
thống văn bản pháp luật Việt Nam hiện nay, trong đó có hiến pháp và các văn bản pháp
luật trong nước cùng các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Khi quyết định ly hôn, đa số các cặp vợ chồng đều đã xác định tình cảm không
còn, không thể tiếp tục cùng nhau chung sống và xây dựng hạnh phúc. Một số cặp vợ
chồng thỏa thuận kết thúc cuộc hôn nhân trong hòa bình. Song không ít các cặp đôi tìm
mọi cách để gây căng thẳng, đau khổ cho nhau, trừng phạt nhau vì cho rằng đối phương
có lỗi làm cho hôn nhân tan vỡ, trong đó bao gồm cả việc tranh chấp tài sản, con cái,
mức cấp dưỡng nuôi con chung. Có rất nhiều vụ án mà việc tranh chấp nuôi con kéo dài
hàng năm, thậm chí một vài năm. Nhiều vụ xảy ra ẩu đả phải nhờ chính quyền, cơ quan
công an và một số cơ quan, đoàn thể tham gia, can thiệp cũng như sự tham gia bền bỉ
của các Luật sư.
Thực tế tranh chấp nuôi con căng thẳng thường vì một số lý do chính như: vì quá
yêu thương, lo lắng con; vì cho rằng, đối phương không đủ điều kiện vật chất, hay không

16
đủ tư cách, phẩm giá để nuôi dưỡng và chăm sóc con; do quá đề cao quyền nuôi con của
bản thân mà không cân nhắc nhu cầu thực sự của trẻ; do tác động của gia đình, người
thân với quan niệm “giao con cho người khác là mất con, mất người nối dõi”, do đối
phương gây khó khăn, cản trở việc thăm nom con…
Căng thẳng do tranh chấp ai là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con thường
đồng thời kéo theo căng thẳng trong tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con. Có người nhận
nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng nhằm chứng minh mình có thừa điều kiện để chăm
lo cho con đủ đầy, nhưng cũng có người đưa ra mức cấp dưỡng cao để nhằm làm gây
áp lực cho bên kia. Có những vụ chỉ yêu cầu cấp dưỡng trên dưới 1 triệu đồng/tháng/cháu
nhưng cũng rất nhiều vụ tranh chấp yêu cầu cấp dưỡng hàng chục triệu
đồng/tháng/cháu…
Hầu hết các tranh chấp căng thẳng đều có nguyên nhân là do pháp luật chưa có
quy định thật chi tiết, phù hợp với một số trường hợp cụ thể; tuy nhiên cũng không loại
trừ nguyên nhân do các bên tranh chấp chưa hiểu đúng quy định của pháp luật, không
quan tâm đúng mức nhu cầu tình cảm, lợi ích thực sự của con, dẫn đến tranh chấp kéo
dài, gây khó khăn, tổn thương cho cả đôi bên và con cái.
Căn cứ theo Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định cha mẹ có nghĩa
vụ: Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Đồng thời, cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi
dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. (khoản 1 Điều 71 Luật Hôn
nhân và gia đình 2014)
Sau khi ly hôn, cha mẹ có các quyền và nghĩa vụ như sau:
- Cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
2014, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan. (Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình
2014)
- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai
được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người
trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
(Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở
người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con. (khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
Căn cứ theo Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha mẹ bị hạn chế quyền
đối với con chưa thành niên: Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

17
Trong trường hợp cha hoặc mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành
niên thì người kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản
lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con.
- Theo Hiến pháp Việt Nam
Bảo vệ, chăm sóc và chăm sóc trẻ em là đường lối nhất quán, xuyên suốt trong
sự nghiệp lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ngày đầu mới thành lập
(3-2-1990) dù trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn, nhiệm vụ lớn nhất lúc đó là giành
được chính quyền nhưng Đảng vẫn giành mối quan tâm rất lớn cho chính sách đối với
trẻ em hay còn gọi là nhi đồng, thiếu niên. Trong chương trình Việt Minh với tư cách là
một cương lĩnh vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng
cộng sản lãnh đạo được đưa ra trong ngày tiền khởi nghĩa đã xác định học sinh, nhi đồng
như hai tầng lớp nhân dân – lực lượng cách mạng: đối với học sinh, chính sách của Việt
Minh là “ bỏ học phí, mở thêm trường học, giúp đỡ học trò nghèo”, đối với nhi đồng là
“ được Chính phủ chăm sóc đặc biệt về thể lực và trí lực”. Vấn đề trẻ em nói chung và
quyền của trẻ em nói riêng trong Chương trình Việt Minh mang dấu ấn rất đậm nét, đặc
thù của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thái độ, cách nhìn nhận của người sáng lập chế độ, sáng
lập Nhà nước cộng hòa xã hội, tổ chức, xây dựng, lãnh đạo chính quyền nhân dân đối
với bộ phận dân cư quan trọng này, phản ánh vị trí của vấn đề trong đường lối cách
mạng, vừa thể hiện cả tấm lòng, sự quan tâm, niềm hy vọng của Người đối với thế hệ
mầm non, người chủ tương lai, quyết định vận mệnh của đất nước, của chính quyền. Tư
tưởng này sau này được thể hiện rõ nét qua các bản hiến pháp của Việt Nam.
Với tính chất là một đạo luật cơ bản của Nhà nước, Luật Hiến pháp quy định
những quy định quan trọng như bản chất Nhà nước, cách thức tổ chức quyền lực Nhà
nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ
quan của công dân… mang tính nguyên tắc và làm cơ sở cho các ngành luật khác trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong Luật Hiến pháp, trẻ em được xem như một công
dân, hơn thế, là một công dân đặc biệt. Và vấn đề bảo vệ quyền lợi trẻ em được điều
chỉnh dưới góc độ phạm trù của quyền con người. Do vậy, luật Hiến pháp bảo vệ quyền
trẻ em bằng việc quy định các quyền cơ bản nhất của trẻ em, bao gồm quyền được bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục. Đồng thời, Luật Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm của gia
đình, Nhà nước và xã hội trong việc đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản này.
Nhà nước đảm bảo cho trẻ em được giáo dục, học tập, được chăm sóc về mặt
giáo dưỡng. Không những thế, Nhà nước còn có chính sách trợ giúp đối với học trò
nghèo. Chỉ số lượng nội dung ngắn gọn, Hiến pháp 1946 đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên
khẳng định các quyền cơ bản và thiêng liêng trẻ em, bao gồm quyền được học tập và
chăm sóc.
Hiến pháp 1959 đã rất đúng khi gắn quyền lợi của trẻ em với quyền lợi của phụ
nữ - người mẹ sinh thành, nuôi nấng, dạy dỗ trẻ em ngay từ khi mới chào đời.
Đến Hiến pháp 1980, ngoài việc kế thừa các Hiến pháp trước, quy định thêm rằng
Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện cho công tác chăm sóc sức khỏe, cho
hoạt động học tập, giáo dục, sinh hoạt văn hóa tinh thần của trẻ em. Đặc biệt tại đây, lần
đầu tiên quyền lợi của trẻ em được đặt bên cạnh trách nhiệm của gia đình trong việc
nuôi dạy, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

18
Cho đến Hiến pháp 1992, quyền trẻ em trở thành một chế định hoàn chỉnh chứ
không còn là những quy định riêng lẻ như các Hiến pháp trước, Quy định về quyền trẻ
em được thể hiện toàn diện hơn, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chung của xã hội, phù
hợp với các công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền và phù hợp với các tiêu
chuẩn quốc tế với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, xuất phát từ những góc nhìn,
bình diện khác nhau trên phương diện rộng, một nhận thức đối với quyền trẻ em một
cách bao quát. Hiến pháp năm 1992 lại một lần nữa khẳng định các quyền cơ bản, thiêng
liêng của trẻ em, gồm quyền được học tập, chăm sóc và bảo vệ về quyền sức khỏe, thể
chất.
Nhà nước có chính sách học phí, học bổng đối với trẻ em có năng khiếu, trẻ em
bị tàn tật và có hoàn cảnh khó khăn. Hiến pháp đặc biệt nhấn mạnh rằng: nghĩa vụ bảo
vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em là của gia đình.
Tới Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, một lần nữa một chế định hoàn chỉnh về quyền
trẻ em được khẳng định.
2.1.1. Nội dung các quy định cụ thể
Thực chất vấn đề ly hôn và các hệ quả pháp lý của ly hôn chủ yếu được quy định
trong văn bản Luật Hôn nhân và gia đình, trong đó quyền và nghĩa vụ của cha mẹ khi ly
hôn là một phần nội dung của hệ quả pháp lý nói trên. Phần nội dung này được quy định
dựa trên cơ sở những nguyên tắc chung của các điều ước quốc tế Việt Nam là thành
viên, của Hiến pháp và các ngành luật khác có liên quan trên cơ sơ sở đảm bảo tính hài
hòa trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Đối tượng cha mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ sau khi ly hôn
+ Con chưa thành niên: Theo quy định tại điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 thì người chưa
thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Ở lứa tuổi này, các em có quyền nhận được
sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ vì chưa đủ khả năng tự lo cho bản thân
mình được. Bảo vệ và chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của gia đình và toàn xã hội. Trẻ
em cha mẹ ly hôn có quyền được hưởng những quyền mà mọi trẻ em bình thường khác
được hưởng như học tâp, vui chơi, yêu thương, chăm sóc… mặc dù chúng chưa đủ sức
khỏe và trình độ tham gia vào các quan hệ xã hội lao động phức tạp để tự nuôi sống bản
thân. Hơn nữa pháp luật cũng quy định người chưa thành niên chưa có quyền và nghĩa
vụ của một công dân độc lập. Rất nhiều trường hợp các em cần có người đại diện để
thực hiện các giao dịch dân sự hoặc tham gia vào các giao dịch khác. Vì vậy, các em
chưa thể sống một cuộc sống độc lập và rất cần sự nuôi dưỡng, dìu dắt của cha mẹ,
người thân. Còn những người đã thành niên mà có khả năng tự nuôi mình thì không phải
là đối tượng mà pháp luật hướng đến khi nói đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi
ly hôn. Vì cả trên phương diện thực tế và pháp lý thì họ đã có đầy đủ khả năng để trở
thành một con người độc lập trong xã hội. Cha mẹ cũng không có nghĩa vụ phải nuôi
dưỡng họ nữa. Bởi vậy, khoản 1 điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Sau khi
ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này,
Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.”

19
Mặc dù theo quy định hai khái niệm người chưa thành niên và trẻ em chưa đồng nhất
với nhau, người chưa thành niên bao gồm trẻ em và những người từ 16 tuổi đến 18 tuổi,
nhưng chúng ta nên xem xét ở đây là về tinh thần và nội dung điều luật.
+ Con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình: Đây là những người đã đủ độ tuổi để thỏa mãn quy
đinh của pháp luật là một công dân độc lập nhưng lại bị khiếm khuyết về thể chất hoặc
nhận thức nên không có khả năng lao động. Nếu không có tài sản để tự nuôi mình thì họ
cũng không biết nương tựa vào ai để tồn tại. Nếu đối tượng này là một người bình thường
thì cha mẹ đã coi như đã hết trách nhiệm của mình. Nhưng họ đã không thể tự chăm sóc
mình nên pháp luật đã quy định việc chăm sóc con trong trường hợp này là nghĩa vụ bắt
buộc. Quy định này đã thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tính nhân đạo của pháp luật. Bởi
vì, nếu chỉ dựa vào đạo đức, trách nhiệm của cha mẹ, quyền lợi của những người con
này lúc nào cũng được bảo đảm. Việc nó trở thành một nghĩa vụ luật định đã nâng trách
nhiệm người làm cha, mẹ.
Nhưng không phải mọi người con đều đã thành niên bị tàn tật cha mẹ đều có nghĩa vụ
nuôi dưỡng mà chỉ những người không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình. Còn những người đã đủ mười tám tuổi, bị tàn tật nhưng vẫn lao động được
hoặc có tài sản để đảm bảo cuộc sống của họ thì cha mẹ không phải thực hiện nghĩa vụ
của mình.
- Nội dung quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi ly hôn theo pháp luật hiện hành:
+ Quyền và nghĩa vụ về nhân thân:
Quyền trực tiếp nuôi dưỡng con: Vấn đề quyền trực tiếp nuôi dưỡng con cho ai luôn là
một nội dung quan trọng trong các vụ án ly hôn, có ý nghĩa quyết định đối với cuộc sống
và tương lai của các con. Bởi vì, người trực tiếp nuôi con là người cùng sống với con
trong một mái nhà, có ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách, trí tuệ, thể chất của trẻ. Một
quyết định sai lầm khi giao con cho người kia nuôi dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng
không thể khắc phục được. Vì vậy, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục là do sự thỏa thuận giữa cha mẹ hay của Tòa án cũng phải xem xét một cách
toàn diện và cẩn trọng phải đảm bảo được lợi ích tốt nhất của con cái. Khoản 2 điều 81
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực
tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp
không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn
cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét
nguyện vọng của con.”
Tuy nhiên, khi cha mẹ ly hôn có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến việc học tập
của con. Trước hết, là sự thay đổi về tâm lý, tính cách, tinh thần học tập và rèn luyện.
Không ít các em rơi vào tình trạng mặc cảm xấu hổ với bạn bè và thầy cô, không dám
lên lớp và thường xuyên trốn học. Việc thay đổi trường lớp cũng có thể xảy ra và làm
quen với môi trường học tập mới cũng bị gián đoạn. Trẻ rất khó hòa nhập vì sợ các
bạn biết về hoàn cảnh của mình. Việc học tập bị gián đoạn, sa sút sẽ ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của các em sau này. Vì vậy, khi giao con cho ai nuôi dưỡng phải cân
nhắc kỹ tới việc học tập của trẻ. Và vai trò của người trực tiếp nuôi con trong việc
động viên, quản lý con trong học tập, rèn luyện là rất quan trọng.

20
Quyền thăm nom, chăm sóc con, điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy
định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con mà không ai được cản trở.” Quyền thăm nom con sau khi ly hôn khi không trực
tiếp nuôi con vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ mang tính bắt buộc của bậc làm cha
làm mẹ.” Quyền thăm nom con là một quyền thân nhân của người không trực tiếp
nuôi con vì vậy không ai được cản trở họ. Người trực tiếp nuôi con và những người
khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền này. Đề đảm bảo cho quyền thăm nom của người
không trực tiếp nuôi con được thực hiện một cách thuận lợi, và cũng là để bảo vệ
quyền lợi của con. Điều 56 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định: “Theo quy định
người có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha,
mẹ và con sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.” Như vậy, trong
vấn đề thăm nom con, pháp luật đã quy định rất chặt chẽ để vừa đảm bảo quyền lợi
chính đáng của người không trực tiếp nuôi con, đồng thời đảm bảo được ý nghĩa chính
của quyền này. Đó là quyền thăm nom con chỉ có thể được đảm bảo và tôn trọng nếu
như nó xuất phát từ lợi ích của con cái. Còn nếu quyền này bị người không trực tiếp
nuôi con lợi dụng, làm ảnh hưởng xấu đến con thì pháp luật sẽ hạn chế quyền này của
họ.
Quyền và nghĩa vụ về tài sản.
Quyền đại diện cho con: Điều 73 uật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha
mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người
khác đại diện theo pháp luật.”
Đại diện là một việc nhân danh người khác để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Theo quy định của pháp luật dân sự thì cha mẹ là
người đại diện đương nhiên cho con chưa thành niên, con đã hành niên nhưng mất
năng lực hành vi dân sự, trừ một số trường hợp. Khi cha mẹ ly hôn mà có con thuộc
đối tượng cần phải chăm sóc, nuôi dưỡng thì người trực tiếp nuôi con cũng đồng thời
là người đại diện theo pháp luật của con nếu họ có đủ điều kiện.
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra trong những trường hợp pháp luật quy
định: Theo Điều 586 Bộ luật dân sự 2015 thì:
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa
thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn
thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường
bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường
phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám
hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám
hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có
lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường

21
Như vậy, khi con dưới 15 tuổi và con mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong
thời gian trường học, bệnh viện…quản lý thì cha mẹ sẽ không phải liên đới bồi thường
nếu các tổ chức đó có lỗi trong việc quản lý. Nếu các tổ chức đó có lỗi thì họ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại. Cha mẹ chỉ phải bồi thường khi các cơ quan, tổ chức đó chứng
minh được mình không có lỗi trong việc quản lý.
Khi ly hôn dù cha mẹ không thể cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con nhưng về
bản chất nghĩa vụ và quyền của cha mẹ với con vẫn không hề thay đổi. Vì vậy, khi con
gây ra thiệt hại thì cả cha và mẹ đều có trách nhiệm bồi thường theo quy định. Tuy nhiên
trên thực tế nếu như thiệt hại mà con gây ra là nhỏ mà chỉ một mình người trực tiếp nuôi
con có thể tự bồi thường được thì người đó thường đứng ra thực hiện mà không cần tới
sự hỗ trợ của người kia. Mặt khác do người trực tiếp nuôi con thường là người đại diện
theo pháp luật của con, người chỉ bảo, theo dõi con nên khi có thiệt hại do con gây ra thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thường do người đó đảm nhận. Nhưng không ít trường
hợp thiệt hại do con gây ra lớn hơn khả năng của người trực tiếp nuôi con thì vấn đề bồi
thường thiệt hại vẫn do hai người thực hiện và người không trực tiếp nuôi con không
thể viện lý do không quản lý con mà trèn tránh nghĩa vụ này.
2.1.2. Nhận xét, đánh giá những hạn chế, bất cập trong nội dung các quy định hiện
hành về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau ly hôn
- Nội dung những hạn chế, bất cập:
+ Có sự xung đột trong quy định của pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế Việt Nam
là thành viên.
Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 thì trẻ em được hiểu là người
có độ tuổi dưới 16. Còn, nếu chiếu theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính với quy
định không xử phạt trẻ em dưới 14 tuổi thì độ tuổi của một người để được coi là trẻ em
đã khác - 14 thay vì 16. Khái niệm thế nào là trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam
quá... đa dạng, gây ra nhiều cách hiểu khác nhau.
Theo công ước quốc tế về quyền trẻ em thì trẻ em là người dưới 18 tuổi, Nghị định thư
của Liên hợp quốc về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua, có hiệu lực từ ngày
25/12/2003, các Nghị định thư bổ sung về chống buôn bán phụ nữ, trẻ em và chống đưa
người di cư trái phép… đều có quy định tương tự. Trong khi đó, định nghĩa trẻ em của
pháp luật Việt Nam coi trẻ em là người dưới 16 tuổi.
- Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập:
Do đặc thù của quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình: quan hệ pháp Luật Hôn nhân và
gia đình chủ yếu là các quan hệ nhân thân mang tính chất lâu dài, bền vững và quan hệ
giữa cha mẹ và con phát sinh sau khi ly hôn cũng là quan hệ nhân thân gắn liền với tính
chất ruột thịt của mối quan hệ này. Bởi vậy, khi xây dựng những quy định pháp luật điều
chỉnh nó, các nhà làm luật đã dự liệu đến cả những yếu tố tình cảm và đạo đức trong đó.
Chẳng hạn như quy định việc thăm nom con cho người không trực tiếp nuôi dưỡng con
là quyền, chứ không phải là nghĩa vụ. Bởi thăm nom con cái xuất phát từ tình cảm của
cha mẹ dành cho con, họ thực hiện việc này vì họ thực lòng quan tâm, lo lắng và muốn
chăm lo cho một phần cuộc sống con trẻ, nó xuất phát từ ý chí tự nguyện. Mặc dù, vẫn
có một số trường hợp trốn tránh việc này và pháp luật đã không có quy phạm để điều
chỉnh, nhưng dù sao, trường hợp này cũng không chiếm tỷ lệ quá cao trong thực tế.

22
+ Do kỹ thuật và quy trình lập pháp trong các ngành luật nói chung và Luật Hôn nhân
và gia đình nói riêng của nước ta chưa hoàn thiện. Quy trình lập pháp được xem như
công nghệ làm luật. Công nghệ lạc hậu hay hiện đại, phù hợp hay không phù hợp với
khả năng vận hành là một trong những yếu tố quyết định năng lực lập pháp của bộ máy
nhà nước, của Quốc hội. Quy trình này còn nhiều hạn chế, thể hiện qua một số điểm
sau:
+ Chất lượng nội dung dự thảo luật, pháp lệnh còn nhiều thiếu sót
+ Nhiều quy định còn dừng ở nguyên tắc, thiếu cụ thể hay nói cách khác là vẫn còn việc
ban hành luật ống, luật khung. Có hai yếu tố chi phối tồn tại này: Cơ quan soạn thảo có
xu hướng cầu toàn, xây dựng dự án luật có phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh
rộng, bao quát hết các lĩnh vực do mình đảm nhận, muốn đưa vào luật nhiều vấn đề mà
chính mình cũng chưa quy định cụ thể hết. Và mâu thuẫn trong quá trình dự thảo là nếu
đưa ra nhiều quy định cụ thể thì nội dung dự luật rất lớn, đòi hỏi công phu trong xây
dựng và khó khăn trong thực hiện khi muốn điều chỉnh.

2.1.3. Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về tranh chấp yêu cầu cấp dưỡng
nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con

Ngày 29 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy đưa ra xét xử sơ
thẩm công khai vụ án hôn nhân thụ lý số 15/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 01 năm
2019 về việc tranh chấp “Yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và yêu cầu thay đổi mức cấp
dưỡng nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày
15 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ng Th Đ, sinh năm 1986. Nơi cư trú: ấp B, xã TB, huyện CL, tỉnh TG (có
mặt).

Bị đơn: T V Đ, sinh năm 1985. Nơi cư trú: ấp M, xã LT, huyện CL, tỉnh TG (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ghi ngày 19/11/2018, trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa nguyên đơn Ng Th Đ trình bày:

Theo bản án số 89/2012/HNGĐ-PT ngày 06/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang:

Về hôn nhân: Công nhận anh Đ và chị thuận tình ly hôn với nhau.

Về con chung: Giao cho chị trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là T Ng Ng L, sinh ngày
23/7/2009 và Tr Ng Ng D, sinh ngày 04/4/2008. Anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
cháu D mỗi tháng 525.000 đồng cho đến khi tròn 18 tuổi.

Nhưng hiện nay 02 con chung đã lớn, chi phí học hành, sinh hoạt cũng tăng lên nên số
tiền cấp dưỡng nuôi 02 chung con đã không còn phù hợp. Chị phải đi làm công nhân
nên một mình không đủ khả năng nuôi dưỡng 02 con chung. Nay chị yêu cầu anh Đ tăng

23
mức cấp dưỡng nuôi con chung tên Tr Ng Ng D lên 1.000.000 đồng/tháng và cấp dưỡng
nuôi con chung tên T Ng Ng L mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi 02 con đủ 18 tuổi.

* Theo tờ tự khai ghi ngày 16/01/2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
tòa bị đơn TVĐ trình bày:

Theo yêu cầu của chị Đ anh không đồng ý cấp dưỡng nuôi con và thay đổi mức cấp
dưỡng nuôi con vì hiện nay anh không có nghề nghiệp ổn định, phải đi làm thuê thu
nhập khoảng 6.000.000 đồng/tháng, trong khi phải nuôi mẹ già bị tai biến và 02 con
riêng. Anh có canh tác thêm 02 công sầu riêng, đang trong thời kỳ thu hoạch nhưng giá
cả không ổn định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Xét thấy chị Đ khởi kiện yêu cầu anh Đ thay đổi mức cấp
dưỡng nuôi con và cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp là tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 5 Điều 28 của Bộ
luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa chị Đ giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh Đ chỉ đồng ý
tăng mức cấp dưỡng nuôi cháu Tr Ng Ng D lên mỗi tháng 700.000 đồng cho đến khi
tròn 18 tuổi. Không đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung tên T Ng Ng L, Hội đồng xét xử
nhận thấy:

Theo bản án số 89/2012/HNGĐ-PT ngày 06/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang tại phần quyết định có nội dung: về hôn nhân: Công nhận anh Đ và chị Đ thuận
tình ly hôn với nhau; về con chung: Giao cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung
là T Ng Ng L, sinh ngày 23/7/2009 và Tr Ng Ng D, sinh ngày 04/4/2008. Anh Đ có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu D mỗi tháng 525.000 đồng cho đến khi tròn 18 tuổi.
Nhưng thực tế hiện nay 02 con chung đã lớn, chi phí học hành, sinh hoạt của 02 cháu
cũng tăng lên nên số tiền cấp dưỡng nuôi con chung tên Tr Ng Ng D đã không còn phù
hợp. Chị Đ hiện làm công nhân thu nhập trung bình khoảng 5.000.000 đồng/tháng phải
một mình nuôi dưỡng con chung tên T Ng Ng L từ lúc ly hôn cho đến nay.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Đ thừa nhận hiện đang canh tác
quản lí 02 công sầu riêng đang thu hoạnh và thời gian rãnh có đi làm thêm, thu nhập
trung bình khoảng 6.000.000 đồng/tháng, mới xây nhà cửa ổn định (hơn 400.000.000
đồng) nên chị Đ yêu cầu anh Đ tăng mức cấp dưỡng nuôi cháu D từ 525.000 đồng/tháng
lên 1.000.000 đồng/tháng và cấp dưỡng nuôi cháu L mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến
khi 02 con chung đủ 18 tuổi nhằm đảm bảo quyền lợi cho 02 con là phù hợp với các
Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét ý kiến của anh Đ không đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung tên T Ng Ng L và chỉ
đồng ý tăng mức cấp dưỡng nuôi con chung tên Tr Ng Ng D lên 700.000 đồng/tháng vì
hiện nay anh không có nghề nghiệp ổn định, phải đi làm thuê thu nhập khoảng 6.000.000

24
đồng/tháng, anh có canh tác thêm 02 công sầu riêng, đang trong thời kỳ thu hoạch nhưng
giá cả không ổn định, trong khi phải nuôi mẹ già bị bệnh tai biến và 02 con riêng nên
không đồng ý với yêu cầu của chị Đ là chưa thể hiện hết trách nhiệm, nghĩa vụ của người
cha. Vì thực tế hiện nay trên địa bàn huyện Cai Lậy thì 02 công sầu Riêng đang cho thu
hoạch tại địa bàn xã Long Tiên có giá trị rất lớn, trong khi anh đã xây nhà ổn định khang
trang và đi làm thuê có thu nhận ổn định nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

[4] Về án phí: Anh Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi
con và yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con của chị Đ được Hội đồng xét xử chấp
nhận theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc
quy định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

25
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 5 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân
và gia đình; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định mức thu, miễn, giảm, nộp,
quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ng Th Đ.

1. Buộc anh T V Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên T Ng Ng L, sinh
ngày 23/7/2009 mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi ngay sau khi
án có hiệu lực pháp luật.

2. Buộc anh T V Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên Tr Ng Ng D, sinh
ngày 04/4/2008 mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu D đủ 18 tuổi ngay sau khi
án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày chị Đ có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Đ chậm thực hiện nghĩa vụ thì
hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và khoảng thời gian chậm thi hành án.

3. Về án phí: Anh T V Đ phải chịu 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên
án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc
được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi
ly hôn tại Công ty TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng
Trong quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện những quy định pháp luật có nội
dung bảo vệ quyền lợi cho trẻ em nói chung và nội dung về quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ sau ly hôn nói riêng, pháp luật Việt Nam đã có nhiều văn bản thể hiện được nội dung
này, trong đó, rõ nét nhất là Luật Hôn nhân và gia đình. Cùng với sự đi lên của đất nước,
với những mặt tích cực và tiêu cực của sự phát triển xã hội, các quan hệ trong gia đình
cũng thay đổi theo nhiều xu hướng. Các quan hệ trong Luật Hôn nhân và gia đình vì thế
mà cũng có sự bổ sung, thay đổi để ngày càng phù hợp với thực tiễn đời sống, đồng thời
vẫn đảm bảo giữ gìn được những nét đẹp truyền thống gia đình Việt Nam. Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

26
Nam khóa XIII kỳ họp thứ 7 kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015, thay thế Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 là đạo luật mới nhất trong lịch sử pháp Luật Hôn nhân và gia đình
và được coi là đạo luật hoàn thiện nhất cả về mặt nội dung và kỹ thuật lập pháp. Tuy
nhiên, để ý nghĩa của nó đi vào đời sống thì vấn đề áp dụng luật là một điều hết sức
quan trọng. Đây là điều kiện then chốt để pháp luật phát huy được vai trò của mình.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ cho chóng ta thấy luật thực định đã được áp
dụng như thế nào. Từ đó sẽ thấy được những quy định nào là hợp lý để phát huy được
vai trò điều chỉnh của pháp luật và quy định nào là chưa hợp lý khi áp dụng vào thực
tiễn cuộc sống để có những đề xuất nhằm làm cho pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các văn bản pháp luật về bảo vệ quyền lợi của trẻ em và
Luật Hôn nhân và gia đình cùng những quy định về quyền lợi của con khi cha mẹ ly
hôn nói riêng cũng không nằm ngoài mục đích đó. Vì vậy, nghiên cứu thực tiễn áp dụng
pháp luật vào việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ
sau ly hôn là một điều hết sức cần thiết, liên quan thiết thực đến quyền lợi của người
con.
Nhìn chung, việc giải quyết các vụ án ly hôn, tòa án áp dụng khá đầy đủ các quy định
của pháp luật hiện hành về vấn đề này; còn các bậc cha mẹ đã thực hiện tương đối đầy
đủ những quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của các con
về cả vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, bên cạnh việc áp dụng đúng và đủ thì vẫn còn
nhiều trường hợp tòa án đã không phản ánh được toàn vẹn tinh thần của luật do đặc thù
riêng của quan hệ hôn nhân gia đình - còn mang nặng yếu tố tình cảm. Hơn nữa, cũng
có một số các quy định của pháp luật hiện hành chưa thật sự phù hợp, gây khó khăn cho
công tác xét xử của tòa và công tác thi hành án của cán bộ thi hành án. Dưới đây, tôi xin
đưa ra một số ví dụ thực tế về quá trình áp dụng pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ sau ly hôn, để thấy rõ hơn những thuận lợi cũng như những bất cập, hạn
chế cần phải giải quyết.
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN TƯ VẤN GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC LIÊN QUAN ĐẾN
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN TẠI CÔNG TY
LUẬT TNHH MTV PHÁP VIỆT THỊNH VƯỢNG
3.1. Thực tiễn tư vấn giải quyết vụ việc liên quan đến quyền và nghĩa vụ cha mẹ
với con sau ly hôn tại Công ty Luật TNHH một thành viên Pháp Việt Thịnh Vượng
Con cái và tài sản là hai yêu cầu thường xuyên tranh chấp trong các vụ án ly hôn.
Sau khi ly hôn, ai là người có quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con của người
không trực tiếp nuôi con được thực hiện như thế nào là vấn đề thường khó thống nhất
khi giải quyết tranh chấp ly hôn. Hãy cùng theo dõi về tư vấn giải quyết vụ việc liên
quan đến quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con sau ly hôn tại Công ty Luật TNHH một
thành viên Pháp Việt Thịnh Vượng sau đây:
Ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng
theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Có thể hiểu, đây là sự kiện
làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Sự kiện này đặt ra các vấn đề liên quan
đến việc nuôi con, các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung, trong đó:
Quyền nuôi con, tuy không được định nghĩa rõ trong văn bản pháp luật, nhưng có thể
hiểu, quyền nuôi con là một quyền liên quan đến quyền giám hộ được sử dụng để mô tả
mối quan hệ pháp lý và thực tế giữa cha mẹ hoặc người giám hộ và đứa trẻ cần sự chăm

27
sóc của người đó. Quyền nuôi con hợp pháp phát sinh khi cha mẹ kết hôn tạo ra con cái,
và cả sau khi ly hôn.
Cấp dưỡng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình được hiểu là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó
khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.
➢ Quyền nuôi con sau khi ly hôn
- Cơ sở phát sinh quyền nuôi con
Theo quy định tại khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình (LHNGĐ) năm 2014
thì “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”, tức là quyền và nghĩa vụ đối với
con luôn đặt ra với người làm cha, làm mẹ không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của
cha và mẹ còn tồn tại hay đã chấm dứt quan hệ vợ chồng hoặc chấm dứt quan hệ chung
sống như vợ chồng hay chưa, cụ thể:
+ Khoản 1 Điều 14 LHNGĐ 2014 quy định: “1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn
theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với
con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều
15 và Điều 16 của Luật này”. Theo đó,
+ Khoản 1 Điều 81 LHNGĐ 2014 quy định: “1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có
quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác
có liên quan.”
Như vậy, cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ nuôi con đặt ra đối với cha mẹ khi:
Con chưa thành niên; Con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Cần lưu ý rằng, ngay cả khi cha
mẹ không đăng ký kết hôn, không phát sinh nghĩa vụ vợ chồng về mặt pháp luật, nhưng
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con vẫn được pháp luật hôn nhân gia đình thừa nhận
tại mục 1 chương V của Luật này.
- Xác định quyền nuôi con sau ly hôn
Căn cứ khoản 2 và 3 Điều 81 LHNGĐ 2014, pháp luật về hôn nhân gia đình sẽ ưu tiên
và tôn trọng sự thỏa thuận của vợ và chồng khi họ thỏa thuận được người trực tiếp nuôi
con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Do đó, cha, mẹ có thể thỏa
thuận việc này vào thời điểm trước, trong hoặc sau khi yêu cầu Tòa án chấm dứt quan
hệ vợ chồng hay quan hệ chung sống như vợ chồng.
Tuy nhiên, Khi cha, mẹ của người con không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ dựa
vào quyền lợi của con để quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng, chăm
sóc. Việc quyết định ai có quyền nuôi con khi ly hôn sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như:
chỗ ở, thu nhập, thời gian chăm sóc con… của mỗi bên, nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi
mặt của con. Theo đó, người được nuôi con phải chứng minh được trước Tòa án về bản
thân sẽ cung cấp môi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển của con và có đủ các điều
kiện đảm bảo cả về kinh tế (về thu nhập, tài sản, nơi ở ổn định…) lẫn tinh thần (có đủ

28
thời gian để ở bên con, chăm sóc, nuôi dưỡng con, luôn phải đặt con lên hàng đầu…) để
đáp ứng cho yêu cầu phát triển bình thường của người con.
Nếu một trong hai bên vợ chồng muốn giành quyền nuôi còn thì họ phải cung
cấp được các chứng cứ chứng minh người còn lại không đủ điều kiện về vật chất và tinh
thần để nuôi dạy con cái, như: thường xuyên có hành vi bạo lực, thu nhập không ổn
định,…
Ngoài ra, Tòa án khi quyết định giao con cho ai nuôi cũng phải xem xét một số
điểm sau đây:
Thứ nhất, xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi : tức trong quá trình phán
quyết ai sẽ là người nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phụ trách phiên tòa giải quyết
ly hôn là người có thẩm quyền lấy ý kiến trẻ từ đủ 07 tuổi về việc muốn sống với cha
hay với mẹ. Vì ở độ tuổi này, con đã có nhận thức và có khả năng cân nhắc xem nên ở
với bố hay với mẹ. Tuy nhiên, đây không phải là yếu tố tiên quyết, ý kiến của con thường
chỉ mang tính định hướng, tham khảo, là một phần để Tòa án xem xét đi đến quyết định,
không có ý nghĩa hoàn toàn quyết định. Tòa án vẫn phải cân nhắc thêm các điều kiện
của bố mẹ để đảm bảo con được nuôi dưỡng và phát triển trong môi trường thuận lợi
nhất.
Thứ hai, đối với con tù 36 tháng tuổi đến dưới 7 tuổi: Trường hợp này sẽ dự theo các
nguyên tắc nêu trên, Tòa án sẽ căn cứ trước hết là theo thỏa thuận của vợ và chồng, nếu
vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định dựa vào khả năng tài chính, điều
kiện nuôi con, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, yếu tố lỗi dẫn đến ly hôn…
Thứ ba, đối với con dưới 36 tháng tuổi: Mặc định quyền nuôi con thuộc về người
mẹ. Tuy nhiên, trong trường hợp người mẹ không đủ điều kiện nuôi con để trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, ví dụ như: bị mắc bệnh tâm thần, mất
khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, tu cách đạo đức suy đồi, hay đánh đập con cái….
Hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác thì quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi có thể bị thay
đổi.
- Thay đổi quyền nuôi con
Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con mà không chăm sóc tốt được cho trẻ thì cha
hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con hoặc cá nhân, tổ chức khác theo quy định tại khoản 5
Điều 84 LHNGD có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi
con. Ngoài ra, Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp
với lợi ích của con cũng là một trong các căn cứ để Tòa án xem xét giải quyết thay đổi
người trực tiếp nuôi con
Cần lưu ý rằng, Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của
con từ đủ 07 tuổi trở lên. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều
kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định
của Bộ luật dân sự.
➢ Nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn
Người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để san sẻ một phần gánh
nặng về tiền bạc đối với người nuôi con. Vấn đề này được quy định cụ thể tại Điều 110
LHNGĐ 2014 : “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành
niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp
không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng
con”.

29
- Điều kiện về nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chỉ được đặt ra đối với cha mẹ sau khi ly hôn dành cho
con cái khi thỏa các điều kiện sau:
– Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, đã thành niên nhưng không có khả
năng lao động, không có tài sản tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn;
– Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc
nuôi dưỡng.
– Những người này không sống cùng nhau.
- Mức cấp dưỡng
Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định mức cấp dưỡng có thể được thỏa
thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ
của người đó. Tức là người không trực tiếp nuôi con có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng
với con hoặc với người đang trực tiếp nuôi con.
Cũng theo điều luật này, mức cấp dưỡng được xác định căn cứ vào thu nhập, khả
năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa
thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng này cũng có thể thay đổi do thỏa thuận của các bên,
nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bên cạnh đó, hiện nay, pháp luật không có quy định giới hạn mức cấp dưỡng là bao
nhiêu mà hoàn toàn dựa vào thỏa thuận của các bên hoặc dựa vào thu nhập, điều kiện,
nhu cầu của các bên.
Về phương thức cấp dưỡng, Điều 117 Luật này quy định, việc cấp dưỡng có thể thực
hiện hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên cũng có thể thỏa
thuận về phương thức cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết.
- Thời hạn cấp dưỡng
Như đã phân tích, khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con sẽ phải có trách nhiệm cấp
dưỡng nuôi con cho đến khi con thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để
tự nuôi mình.
Trong đó, con chưa thành niên là con chưa đủ 18 tuổi trở lên theo Điều 21 Bộ luật Dân
sự. Đồng thời, các trường hợp được chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nêu tại Điều 118 Luật
Hôn nhân và Gia đình gồm:
– Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự
nuôi mình.
– Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết.
– Vợ hoặc chồng (gặp khó khăn, túng quẫn) sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác…
Như vậy, có thể thấy, sau khi ly hôn, cha mẹ có thể không phải cấp dưỡng cho con khi
thuộc các trường hợp sau đây:
– Con đã đủ 18 tuổi hoặc đã có khả năng lao động, có tài sản để tự nuôi mình.

30
– Cha, mẹ hoặc con chết.
- Xử phạt người trốn nghĩa vụ cấp dưỡng
Điểm a khoản 3 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định, người không thực
hiện công việc phải làm theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án sẽ
bị phạt tiền từ 03-05 triệu đồng.
Theo đó, nếu việc cấp dưỡng đã được quy định cụ thể tại bản án, quyết định ly hôn
mà chồng hoặc vợ không thực hiện thì có thể bị phạt từ 03-05 triệu đồng.
Đồng thời, theo khoản 37 Điều 1 Bộ luật Hình sự sửa đổi 2017, nếu từ chối hoặc
trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng khiến con lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,
sức khỏe hoặc đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì có thể bị phạt đến 02 năm
tù.
➢ Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng
nuôi con sau khi ly hôn
- Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Thực tiễn cho thấy không phải trường hợp nào cha, mẹ là người có nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con cụng thực hiện đúng nghĩa vụ cấp dưỡng như thỏa thuận tại Tòa hoặc
theo quyết định của Tòa án. Điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chính người
con. Để ngăn chặn và hạn chế các trường hợp trốn tránh hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng, pháp luật cũng đã có các biện pháp xử phạt hành chính, hoặc hình sự
hóa “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. Tuy nhiên, đó chỉ là biện pháp
răn đe đối với bên có nghĩa vụ cấp dưỡng. Thiết nghĩ, việc quy định về lãi suất khi chậm
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là điều cần thiết, và giúp đảm bảo tối đã các quyền lợi mà
người con được hưởng.
Hiện nay thì pháp luật chưa quy định rõ về vấn đề này, nên việc áp dụng lãi suất
trong chậm thực hiện nghĩa vụ vẫn còn quan điểm khác nhau. Có trường hợp tòa án buộc
người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ
theo khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng có trường hợp thì không. Theo
quy định tại điều 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Việc cấp dưỡng có thể
được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.”. Còn
theo quy định tại điều 282 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Nghĩa vụ được thực hiện theo định
kỳ theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm
quyền. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa
vụ.”. Như vậy, về bản chất chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (bằng tiền) cũng có tính
chất như chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015.
- Về định đoạt quyền nuôi con khi cả cha và mẹ đều có đủ hoặc không có điều
kiện
Thực tế, rất nhiều vụ án vụ án tranh chấp nuôi con mà cả hai bên đều có đủ điều kiện
để có thể chăm sóc tốt cho trẻ cả về vật chất lẫn tinh thần. Các bên tranh chấp quyết liệt
và đều cố gắng chứng minh mình có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con tốt hơn đối
phương. Cũng có những trường hợp cả bố và mẹ đều khó khăn, đều bận đi làm ăn, kiếm
sống quanh năm, suốt tháng nên phải giao con cha ông bà nội, ngoại trông coi. Xác định
ai có điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con tốt hơn ai là một việc không hề đơn

31
giản. Các trường hợp chứng minh việc cản trở thăm nom, chăm sóc con cũng là vấn đề
phức tạp vì đôi khi chỉ là chuyện nội bộ, không có nhân chứng hoặc sự chứng kiến của
cơ quan, chính quyền. Các bên đều có thể đưa ra rất nhiều lý do; nhiều trường hợp chính
các Luật sư cũng rất khó khăn trong việc hướng dẫn và thuyết phục các bên giảm bớt
căng thẳng. Để xác định tính khách quan của các chứng cứ, lý lẽ do các bên nêu ra, đôi
khi tòa án phải tốn khá nhiều thời gian, công sức để xác minh, thu thập chứng cứ.
Đối với những trường hợp các cháu đã đủ tuổi để nêu ý kiến chọn sống với cha hay
với mẹ cũng không hề đơn giản để có kết quả chính xác, không gây tổn thương cho trẻ.
Nhiều trường hợp cha, mẹ, ông bà đang trực tiếp trông nom các cháu gây áp lực tinh
thần hoặc đưa ra những thông tin không chính xác, hướng các cháu phải khai theo ý
người lớn.
- Về xác định thu nhập cấp dưỡng
Theo quy định thì khi tòa án quyết định mức cấp dưỡng sẽ phải ăn cứ vào “thu nhập,
khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng”. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “thu nhập, khả
năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được
cấp dưỡng”.
Thực tế, thu nhập thực tế của các cặp vợ chồng không giống nhau và đôi khi không
thể xác định chính xác nếu các bên không hợp tác hoặc cố tình che giấu. Đặc biệt đối
với những người kinh doanh, người làm nghề tự do hoặc người không có nghề nghiệp
ổn định do chúng ta chưa thực sự có cơ chế kiểm soát tối đa tiền mặt cũng như quản lý
thu nhập thông qua tài khoản.
- Về tạm dừng nghĩa vụ cấp dưỡng
Điều 117 LHNGD còn quy định về thay đổi phương thức cấp dưỡng và tạm ngừng cấp
dưỡng. Theo đó, “Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng
cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn
về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận
được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Tình trạng khó khăn về kinh tế ở đây phải có thật
và vì những lý do chính đáng: mất mùa, thiên tai, tai nạn, ốm đau…
Pháp luật hiện hành chưa có quy định về thời hạn tạm ngừng cấp dưỡng. Theo đó, cần
có văn bản quy định rõ thời hạn để các bên tạm dừng nghĩa vụ cấp dưỡng, để việc áp
dụng pháp luật không trở nên tùy nghị. Quy định pháp luật về thời hạn tạm ngừng thực
hiện
nghĩa vụ cần phải đảm bảo đây sẽ là một khoảng thời gian phù hợp để người có nghĩa
vụ có thể khắc phục những khó khăn đồng thời cũng là khoảng thời gian không dài đủ
để không ảnh hưởng quá lớn tới nhu cầu của người được cấp dưỡng. Ngoài ra, sau khi
hết thời hạn phù hợp này, theo yêu cầu của người được cấp dưỡng Tòa án sẽ xem xét
đánh giá khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu có lý do thỏa đáng và
tùy từng trường hợp cụ thể có thể gia hạn thêm thời gian. Các bên sẽ tự thỏa thuận về
việc cấp dưỡng bù cho thời gian đã tạm ngừng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
Tòa án giải quyết. Các yêu tố này cần được xem xét và quy định rõ nhằm phục vụ công
tác giải quyết các vấn đề phát sinh trong tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con để
đảm bảo quyền lợi tối đa cho con trẻ và các bên hậu ly hôn.

32
3.2. Số liệu cụ thể về tư vấn giải quyết vụ việc liên quan đến quyền và nghĩa vụ cha
mẹ với con sau ly hôn tại Công ty Luật TNHH một thành viên Pháp Việt Thịnh
Vượng
Tại Công ty Luật TNHH một thành viên Pháp Việt Thịnh Vượng, kể từ khi đại
dịch bùng phát, yêu cầu tư vấn pháp lý về thủ tục ly hôn đã tăng 95%, đáng nói phụ nữ
lại là bên chủ động trong phần lớn các vụ việc. Công ty luật TNHH một thành viên Pháp
Việt Thịnh Vượng cho biết yêu cầu tư vấn ly hôn trong 3 tháng đầu năm nay đã tăng lên
8.801 lượt so với 4.505 lượt cùng kỳ năm ngoái. Ðáng chú ý, kết quả khảo sát trên 400
người cho thấy khoảng 3/4 các cặp vợ chồng ly thân hoặc ly hôn hoàn toàn không có
mâu thuẫn hay áp lực vào thời điểm trước đại dịch. Khi được hỏi rõ nguyên nhân, ¼
những người tham gia thừa nhận lý do chính họ quyết định “đường ai nấy đi” là vì phải
chạm mặt vợ/chồng quá nhiều trong thời gian giãn cách xã hội.
Đại dịch COVID-19 là “chất xúc tác” đối với các mối quan hệ vốn đã rạn nứt
trước đó, luật sư Nguyễn Thị Vân Anh nhìn nhận. Bà cho rằng trước đại dịch, cuộc sống
bận rộn với những cuộc gặp gỡ bạn bè, du lịch khiến mỗi người gần như bỏ qua những
khó khăn tồn đọng trong thực tế cuộc sống vợ chồng. Và khi phải đối mặt trực tiếp với
nhau 24/24, các cặp đôi bắt đầu nhận ra vấn đề từ người bạn đời. Từ những khúc mắc
khó dung hòa, họ bắt đầu đặt câu hỏi về tương lai của mối quan hệ. Cùng với đó, áp lực
tài chính giữa đại dịch cũng là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn không thể tháo gỡ giữa
các cặp vợ chồng. Theo khảo sát của Công ty Luật TNHH một thành viên Pháp Việt
Thịnh Vượng, có tới một nửa người tham gia cho biết lo lắng về tiền bạc đã gây ra xung
đột và khiến mối quan hệ của họ trở nên căng thẳng. Theo thống kê cho thấy, ở Việt
Nam hiện có khoảng 60.000 vụ/năm, tương đương 0.75 vụ/1.000 dân. Tỷ lệ ly hôn so
với kết hôn 25%, có nghĩa trong 4 đôi đi đăng ký kết hôn thì 1 đôi ra tòa. Cuộc sống với
nhiều mâu thuẫn khiến không chỉ các cặp đôi trẻ mà nhiều cặp đôi đã chung sống nhiều
năm cũng đi đến quyết định này. Bất cứ ai khi bước chân vào ngưỡng cửa hôn nhân đều
mong muốn có cuộc sống viên mãn, hạnh phúc. Nhưng khi cả hai không còn nhìn chung
về một hướng, những rạn nứt bắt đầu xuất hiện. Ly hôn là giải pháp cuối cùng được đặt
ra để kết thúc sự đổ vỡ của tình yêu hoặc chấm dứt quan hệ gia đình khi không còn hạnh
phúc. Tỉ lệ ly hôn ở Việt Nam thấp hơn các nước không phải là một điều đáng mừng.
Nó cho thấy còn quá nhiều người phải chịu đựng trong một cuộc hôn nhân không hạnh
phúc mà không dám thoát ra vì sợ điều tiếng của xã hội cho rằng đó là sự “đổ vỡ hạnh
phúc” tuy nhiên thực tế nó phải là “lối thoát để đi đến hạnh phúc mới”.

33
KẾT LUẬN
Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc. Bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, của toàn xã hội và của mọi gia đình. Khẩu
hiệu "Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai" đã và đang trở thành phương châm hành
động của nhiều quốc gia trên thế giới và của Việt Nam. Việc quan tâm, chăm sóc, bồi
dưỡng thế hệ trẻ ở Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta chú ý từ rất sớm. Đã có nhiều
chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề cập tới vấn đề này, trong đó đều thống nhất khẳng định
đây là trách nhiệm to lớn của Đảng và toàn dân, đồng thời thể hiện tính ưu việt của xã
hội ta. Trên thực tế, từ khi đổi mới tới nay, công tác bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó phải kể đến thành tựu pháp luật. Pháp
luật Việt Nam về cơ bản đã thể hiện đầy đủ các nguyên tắc và chế định để cụ thể hóa
nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em. Nó được ghi nhận xuyên suốt trong nội dung
nhiều văn bản pháp lý, từ Hiến pháp, rồi Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em,
Luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình…và điển hình là một số điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.Trong đó quy định về quyền và nghĩa vụ cha mẹ
sau ly hôn chính là sự thể hiện một phần sự cụ thể hóa nói trên.
Nội dung những quy định về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn đã tạo được nền
tảng pháp lý để các bậc làm cha, làm mẹ thực hiện quyền thiêng liêng của mình đồng
thời cũng không trốn tránh được nghĩa vụ, từ đó bảo đảm được quyền lợi chính đáng
cho các con. Nội dung này vừa tiếp thu được tinh thần những tư tưởng tiến bộ của nhiều
nước trên thế giới, của nhiều văn kiện pháp lý quốc tế có sự tham gia của nhiều quốc
gia văn minh; vừa phản ánh được nét đặc thù riêng phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh
tế, xã hội Việt Nam. Mặc dù quan hệ hôn nhân gia đình nói chung và quan hệ cha, mẹ
và con nói riêng là mối quan hệ mang nặng yếu tố tình cảm, sự điều tiết của pháp luật
chỉ là sự thừa nhận của nhà nước về mặt pháp lý, hơn nữa cơ chế đảm bảo thực thi những
vấn đề liên quan đến lĩnh vực này bên cạnh trách nhiệm pháp lý còn là trách nhiệm mang
tính đạo đức sâu sắc, thấm nhuần giá trị truyền thống của dân tộc, nhưng xét cho cùng
thì vai trò của yếu tố pháp luật cũng vô cùng quan trọng góp phần gìn giữ và phát huy
nền tảng gia đình tồn tại từ bao đời nay ở nước ta, từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững
cho xã hội trước tác động của kinh tế thị trường và sự du nhập của nhiều luồng văn hóa
trên thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì hệ thống pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ sau ly hôn vẫn còn khá nhiều hạn chế, bất cập. Nội dung nhiều quy định còn mang
tính chất chung chung, chưa được hướng dẫn cụ thể, chi tiết, đó là chưa kể đến một số
vấn đề còn chưa hoàn thiện hay những quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật mà Tòa
án đưa ra chưa được thực thi nghiêm túc trên thực tế; những quy phạm pháp luật hiện
tại chưa bao quát hết các quan hệ xã hội liên quan đang phát sinh hàng ngày, hàng giờ.
Nó đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa yếu tố khoa học, lý luận với thực tế, đồng thời là sự
bổ sung cho nhau của nhiều bộ phận, nhiều cơ quan khác nhau, đó là các chủ thể có
chức năng xây dựng pháp luật cùng cơ quan xét xử và thi hành án, đặc biệt phải chú
trọng công tác giáo dục phổ biến kiến thức pháp luật đến đông đảo các tầng lớp nhân
dân. Thực hiện tốt các yêu cầu này chính là từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về
chế định ly hôn nói chung và về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn nói riêng; đồng
thời cũng nâng cao công tác áp dụng và thực thi pháp luật, đảm bảo những quy phạm
pháp luật ban hành mang tính toàn diện và có giá trị trong thực tiễn đời sống xã hội.

34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Hôn nhân và gia đình 2014
- Luật dân sự 2015
- Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004
- Nghị định 144/2021/NĐ-CP
- Nghị định số 82/2020/NĐ-CP
- Sơ đồ cơ cấu tổ chức Công ty Luật TNHH MTV Pháp Việt Thịnh Vượng
- Báo cáo tình hình hoạt động của Công ty Luật TNHH MTV Pháp Việt Thịnh
Vượng giai đoạn 2018 – 2020

35

You might also like