You are on page 1of 42

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................................... 1


CHƯƠNG I: KẾT HÔN VÀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN.........................................................4
1.1. Khái niệm, vai trò, ý nghĩa kết hôn và giấy đăng ký kết hôn.......................................4
1.1.1. Khái niệm kết hôn, đăng ký kết hôn......................................................................4
1.1.2. Vai trò kết hôn, đăng ký kết hôn............................................................................5
1.1.3. Ý nghĩa kết hôn, đăng ký kết hôn..........................................................................5
1.2. Điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn..............................................................................6
1.2.1. Điều kiện về mặt nội dung.....................................................................................6
1.2.2. Điều kiện về mặt hình thức..................................................................................10
1.3. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.................................................11
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NAM NỮ CHUNG SỐNG
NHƯ VỢ CHỒNG KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN.......................................................14
2.1. Khái niệm về nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn..................14
2.2. Đặc điểm chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn.....................................15
2.3. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết
hôn.................................................................................................................................... 16
2.3.1. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn
trước ngày 03/01/1987...................................................................................................16
2.3.2. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn
từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001............................................................17
2.3.3. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn
từ sau ngày 01/01/2001..................................................................................................18
2.4. Cách thức giải quyết nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014........................................................................20
2.4.1 Quyền yêu cầu giải quyết......................................................................................20
2.4.2 Hậu quả pháp lý....................................................................................................20
2.5. Chung sống như vợ chồng trái pháp luật....................................................................23
2.6. Chung sống như vợ chồng với người nước ngoài.......................................................26
2.7. Pháp luật về ly hôn trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng được pháp
luật công nhận................................................................................................................... 28
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ....................................30
3.1. Tình trạng nam, nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn tại Việt Nam.30
3.1.1 Tình hình thực tế tại Việt Nam.............................................................................30
3.1.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên....................................................................30
3.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp do chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn
.......................................................................................................................................... 32
3.2.1. Về xác định thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng.................................................32
3.2.2. Về giải quyết tranh chấp về tài sản......................................................................33
3.3. Một số kiến nghị nhằm hạn chế việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng
ký kết hôn.......................................................................................................................... 34
3.4. Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới.............................................36
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................39
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Từ xưa đến nay, Việt Nam ta quan niệm gia đình là cái nôi để phát triển con người.
Con người phát triển thì xã hội mới phát triển. Chính vì vậy, nhà nước luôn quan tâm,
hoàn thiện những quy định về hôn nhân và gia đình. Việc kết hôn là sự kiện pháp lý được
nhà nước điều chỉnh để phát sinh quan hệ hôn nhân, quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.
Hôn nhân được công nhận qua thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, xã hội ngày càng thay
đổi, kéo theo đời sống vật chất, tư duy, tinh thần của con người cũng biến đổi để đáp ứng
nhu cầu cuộc sống.

Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã không còn thừa nhận việc nam,
nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2001.
Tuy nhiên, việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trước thời
điểm đó vẫn còn nhiều vấn đề pháp lý chưa được giải quyết. Đáp ứng được tình hình đó,
nhà nước đã ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân gia đình 2000 và
hướng dẫn giải quyết các trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn như: Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định về đăng ký
kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn cụ thể về việc giải quyết đối với những trường hợp
vi phạm việc đăng ký kết hôn từ trước ngày 01/01/2001,...

Dù đã có những văn bản pháp luật được ban hành như trên nhưng vẫn chưa có quy
định cụ thể để giải quyết những tranh chấp về nam nữ chung sống như vợ chồng không
đăng ký kết hôn đã xảy ra. Gây khó khăn cho việc xác lập thời điểm hôn nhân, xác định
tài sản chung, cách nhìn nhận và đánh giá của Tòa án ảnh hưởng đến phán quyết và
quyền lợi của những người trong cuộc.

Hiện nay, việc nam nữ chung sống với nhau trước khi kết hôn đang rất phổ biến ở
Việt Nam. Tiếp xúc với văn hóa của các nước trên thế giới, người Việt Nam phóng
khoáng, cởi mở hơn. Họ yêu nhau, tự nguyện sống, thực hiện các quyền và nghĩa vụ như
vợ chồng nhưng lại không muốn ràng buộc với nhau về mặt pháp pháp lý và ngại thực
hiện các thủ tục khi đăng ký kết hôn. Nên không được pháp luật công nhận quan hệ vợ
chồng. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã ban hành, áp dụng pháp luật vào thực tiễn vẫn
còn nhiều hạn chế.

1
Nghiên cứu pháp luật về việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không
đăng ký kết hôn là vô cùng cấp thiết. Để nâng cao được ý thức và trách nhiệm của người
dân, đảm bảo quyền lợi của các bên trong quan hệ hôn nhân, góp phần xây dựng hệ thống
pháp luật hoàn thiện hơn và giúp ổn định xã hội.

Chính vì những lý do trên, nhóm đã lựa chọn đề tài “Chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hôn. Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn” để làm rõ những quy định
của pháp luật và việc áp dụng vào thực tế.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài

Nam nữ chung sống như vợ chồng là vấn đề rất phổ biến, việc nghiên cứu nhằm đáp
ứng các mục đích sau đây:

Nhận biết và nghiên cứu cơ sở lý luận của kết hôn để nhận biết được tầm quan trọng
của việc đăng ký kết hôn trong xây dựng và phát triển gia đình ở Việt Nam.

Làm rõ, đánh giá và phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về việc nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn.

Đưa ra thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp liên quan đến vấn đề
nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn.

Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam và hạn
chế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu hệ thống đường lối, quan điểm, chính sách của Nhà nước và Đảng ta về
kết hôn, đăng ký kết hôn và việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn.

Nghiên cứu các quy định của pháp luật về kết hôn, đăng ký kết hôn và việc nam nữ
chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn.

Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong giải quyết tranh
chấp liên quan đến vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn.

Về phạm vi nghiên cứu:

2
Phạm vi nghiên cứu tiểu luận là nghiên cứu các quy định của pháp luật trong kết
hôn và đăng ký kết hôn. Trong đó tập trung nghiên cứu về những vấn đề pháp lý và thực
tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp, hậu quả của việc nam nữ chung sống
như vợ chồng không đăng ký kết hôn. Đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và hạn chế thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Bài tiểu luận được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp chủ yếu như
phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp tổng
hợp… đồng thời, cũng dựa trên các cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, các quan
điểm của Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quy định của pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra, còn có phương pháp lý luận gắn với thực tiễn. Tạo mối quan hệ với nhau
để kiếm chứng cho nhau.

5. Kết cấu bài tiểu luận

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Bài tiểu luận gồm 3
chương như sau:

Chương I: Kết hôn và đăng ký kết hôn

Chương II: Quy định của pháp pháp luật đối với nam nữ chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hôn

Chương III: Một số vấn đề thực tiễn và quan điểm về việc nam nữ chung sống như
vợ chồng k đăng ký kết hôn.

3
CHƯƠNG I: KẾT HÔN VÀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.1. Khái niệm, vai trò, ý nghĩa kết hôn và giấy đăng ký kết hôn

1.1.1. Khái niệm kết hôn, đăng ký kết hôn

Theo quan niệm của xã hội, kết hôn là xác lập quan hệ hôn nhân. Là việc nam lấy
vợ, nữ lấy chồng khi đến tuổi trưởng thành và không trái với quy định của pháp luật,
được hợp thức hóa bằng các hình thức cưới hỏi. Sự kiện cưới hỏi để ra mắt gia đình hai
bên và thông báo việc nam nữ trở thành vợ chồng của nhau. Nam nữ khi trở thành vợ
chồng sẽ cùng chung sống, chăm lo, xây dựng hạnh phúc gia đình. Như vậy, kết hôn chỉ
đơn thuần là sự thông báo cho họ hàng, anh em, bạn bè theo phong tục tập quán của
người Việt Nam từ xưa tới nay và nam nữ về chung sống với nhau như vợ chồng một
cách đường hoàng dưới góc độ xã hội.

Kết hôn là việc nam nữ hình thành một gia đình, gia đình đóng vai trò là cái nôi
hình thành nên con người, là tế bào của xã hội. Gia đình giúp xây dựng nhân cách, giáo
dục và nuôi dưỡng con người, từ đó góp phần to lớn trong xây dựng đất nước, phát triển
xã hội. Chính vì vậy, gia đình cần phải được pháp luật điều chỉnh và làm căn cứ để xây
dựng nên gia đình.

Dưới góc độ pháp lý, kết hôn là sự kiện pháp lý để nam nữ xác lập quan hệ vợ
chồng. Quan hệ hôn nhân được Nhà nước thừa và chịu sự điều chỉnh của pháp luật qua
các văn bản pháp luật được ban hành. Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014 “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy
định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.” do vậy, xác lập quan hệ vợ
chồng phải tuân thủ về điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn và được Nhà nước bảo hộ theo
Hiến pháp 20131.

Như vậy, kết hôn là sự gắn kết lâu dài, bền vững giữa hai người khác giới với nhau
để xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Sự liên kết này phải dựa trên yếu tố tự nguyện
của nam và nữ, phải có ý chí muốn kết hôn trước cơ quan có thẩm quyền, đây cũng là
nguyên tắc để đảm bảo yếu tố tự nguyện như luật định. Để tránh trường hợp kết hôn do
cưỡng ép, lừa dối gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người kết hôn. Ngoài ra, sự

1
Điều 36 Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013:
“1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.”

4
kiện kết hôn phải đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn, thực hiện các thủ tục kết hôn theo
pháp luật quy định và phải được Nhà nước thừa nhận.

Đăng ký kết hôn được xem là một nghi thức để xác lập quan hệ hôn nhân giữa nam,
nữ. Được Nhà nước công nhận và điều chỉnh theo quy định của pháp luật về thủ tục, nơi
đăng ký kết hôn. Việc kết hôn phải thông qua hình thức đăng ký và do cơ quan có thẩm
quyền thực hiện2.

Tuy nhiên, một số trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn vẫn được coi như vợ chồng. Những trường hợp này sẽ được phân tích ở Chương
2.

1.1.2. Vai trò kết hôn, đăng ký kết hôn

Nhà nước ta kiểm soát được việc tuân thủ pháp luật về kết hôn và theo dõi được
thực trạng kết hôn thông qua đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hôn là thủ tục vô cùng quan
trọng để xác định việc kết hôn của nam nữ có đúng pháp luật và được Nhà nước thừa
nhận hay không, từ đó xác định được quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng 3. Kết hôn được
Nhà nước thừa nhận, bảo hộ theo quy định của pháp luật vì vậy để việc kết hôn có giá trị
về mặt pháp lý thì phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước và phải
được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục mà luật định. Giấy chứng nhận kết hôn là bằng
chứng pháp lý do Nhà nước cấp, để công nhận việc kết hôn, cũng là căn cứ để giải quyết
khi có tranh chấp xảy ra. Góp phần giúp Nhà nước quản lý được công tác hộ tịch tại các
địa phương

Bên cạnh đó, kết hôn là quyền tự do của mỗi công dân, thông qua việc đăng ký kết
hôn, giúp Nhà nước phát hiện và ngăn chặn kịp thời các trường hợp kết hôn trái pháp
luật, vi phạm quyền tự do kết hôn.

1.1.3. Ý nghĩa kết hôn, đăng ký kết hôn

Giấy đăng ký kết hôn là minh chứng cho thấy sự ràng buộc về mặt pháp luật giữa
vợ chồng, góp phần thôi thúc họ xây dựng cuộc sống ấm no, vun đắp gia đình. Từ đó,
đóng góp rất lớn cho công cuộc đổi mới đất nước, góp phần xây dựng và phát triển xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời, xóa bỏ những tục lệ xưa và những tư tưởng lạc hậu như “cha mẹ
đặt đâu con ngồi đó”, ép hôn,...

2
Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
3
Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ
và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”
5
Việc đăng ký kết hôn phải được tiến hành tại các cơ quan Nhà nước giúp cho Nhà
nước và nhân dân gắn kết hơn, nhân dân tin tưởng pháp luật Việt Nam hơn vì được Nhà
nước bảo hộ. Ngoài ra, còn phổ biến được rộng rãi pháp luật nước ta vì từ trước tới nay,
nhân dân đa số rất quan ngại khi tiếp cận và áp dụng pháp luật vào đời sống.

1.2. Điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn

1.2.1. Điều kiện về mặt nội dung

Để hôn nhân có giá trị pháp lý, nam nữ khi kết hôn phải thỏa mãn các điều kiện
theo Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Các điều kiện này là yếu tố cơ bản
nhất và hết sức quan trọng để được kết hôn đúng theo pháp luật, nếu vi phạm một trong
các điều sau sẽ trở thành kết hôn trái pháp luật.

a) Điều kiện về độ tuổi

Pháp luật nước ta quy định “nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” 4 thì
được phép kết hôn. Quy định về độ tuổi phù hợp với sự phát triển thể chất, khả năng nhận
thức và để thực hiện chức năng sinh học một cách tốt hơn. Nhằm đảm bảo xây dựng gia
đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, giúp con cái được sinh ra một cách khỏe mạnh và được
nuôi dưỡng trong môi trường gia đình hoàn thiện nhất.

Ngoài ra, quy định độ tuổi để phù hợp với khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ của
chủ thể và phù hợp với các luật liên quan khác. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ
quy định nam từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi có thể kết hôn. Điều này làm cho nữ chưa đủ 18
tuổi thì không thể tham gia các quan hệ mua bán tài sản hoặc không thể thực hiện quyền
tự do ly hôn vì vi phạm quy định theo Bộ Luật tố tụng dân sự 2015. Việc quy định độ
tuổi như vậy đảm bảo được quyền lợi của chủ thể, cũng như đồng nhất được hệ thống
pháp luật nước ta.

b) Điều kiện về ý chí chủ thể

“Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định”5. Tự nguyện kết hôn là xuất phát
từ ý chí của nam, nữ muốn kết hôn và trở thành vợ chồng của nhau mà không bị thế lực
nào ép buộc. Việc tự nguyện là nam, nữ sẽ cùng nhau gắn bó, xây dựng gia đình, tạo nền
móng cho phát triển xã hội và cũng tránh được những hạn chế trong hôn nhân do ảnh
hưởng của thời phong kiến.

4
Điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
5
Điểm b khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
6
Để đảm bảo cho sự tự nguyện hôn nhân, pháp luật nước ta cũng quy định những
người muốn kết hôn với nhau phải có mặt tại nơi đăng ký kết hôn, bày tỏ ý chí muốn kết
hôn của mình và thực hiện các thủ tục theo quy định. Việc đăng ký kết hôn không được
phép ủy quyền cho người khác vì không thể kiểm tra được sự tự nguyện của chủ thể
trong hôn nhân.

c) Điều kiện về nhận thức

Để được kết hôn nam, nữ phải là người không mất năng lực hành vi dân sự 6. Để
đảm bảo cho sự tự nguyện, việc thực hiện được quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Nếu
người không thể nhận thức như bình thường thì không thể xác định được sự tự nguyện có
chính xác hay không và họ không thể chịu trách nhiệm trước những hành vi của mình.
Những người này phải được Tòa án tuyên là mất năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch
của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật thực hiện 7,
tuy nhiên lại không phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình là nam, nữ phải
tự mình thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Hơn nữa còn đảm bảo
được sự phát triển của thế hệ con cái sau này, con cái sẽ không bị di truyền những biến
đổi nhận thức và được nuôi dạy dưới vòng tay cha mẹ trọn vẹn nhất. Vì vậy, điều kiện về
nhận thức cũng đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ hôn nhân.

d) Điều kiện không thuộc diện bị cấm kết hôn

Nam, nữ không thuộc diện bị cấm kết hôn theo điểm d khoản 1 Điều 8 Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 “Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.” Các trường hợp bị
cấm kết hôn như sau:

“Kết hôn do giả tạo”:

“Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập
quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để
đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình” 8. Kết hôn giả tạo
thường là kết hôn với mục đích cá nhân dựa trên thỏa thuận của các bên để đạt được mục
đích khác ngoài mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình dựa trên cơ sở tình yêu và
không sinh con. Vì kết hôn giả tạo có thể xuất phát từ ý chí của chủ thể trong quan hệ hôn
nhân để đạt được những lợi ích khác nên về mặt giấy tờ, thủ tục, pháp lý vẫn đảm bảo và
không bị phát hiện, tuy nhiên vợ chồng sẽ không chung sống hoặc ly hôn khi đạt được
6
Điểm c khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
7
Điều 22 Bộ luật dân sự 2015
8
Khoản 11 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
7
mục đích. Vì vậy, pháp luật cấm hành vi kết hôn do giả tạo và sẽ được xử lý theo pháp
luật nếu xảy ra.

“Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn”:

“Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết
hôn theo quy định”9. Tảo hôn là vi phạm điều kiện về độ tuổi trong kết hôn, hiện nay việc
tảo hôn vẫn còn tồn tại ở những vùng đồng bào khó khăn, ít được tiếp xúc với pháp luật.

Cưỡng ép kết hôn như thủ tục “bắt vợ” ở một số dân tộc miền núi, nữ giới thường
không được lựa chọn chồng cho mình mà bị ép buộc kết hôn với một người xa lạ hoặc
dùng của cải, hành vi đe dọa để bắt người khác kết hôn.

Cản trở kết hôn là dùng những hành vi sai trái để cản trở hôn nhân của người khác
hoặc bắt người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân không phải mong muốn của họ.10

Mặc dù pháp luật nước ta đã ngăn cấm việc tảo hôn, nhưng trên thực tế, tảo hôn vẫn
luôn là vấn đề nhức nhối trong xã hội. Điển hình là ở Kon Tum, là một tỉnh miền núi nằm
ở phía Bắc Tây Nguyên với hơn 28 dân tộc cùng sinh sống và chiếm hơn 53% là đồng
bào dân tộc thiểu số. “Qua khảo sát về tình trạng tảo hôn trên địa bàn tỉnh có thể thấy
năm 2016 có 314 cặp tảo hôn, năm 2017 có 351 cặp tảo hôn, năm 2018 có 172 cặp tảo
hôn, năm 2019 có 135 cặp tảo hôn”.11 Nguyên nhân dẫn đến số cặp vợ chồng do tảo hôn
còn tồn tại nhiều là pháp luật về hôn nhân và gia đình vẫn chưa được phổ biến rộng rãi
đến những vùng sâu, vùng xa và khu vực các tỉnh miền núi. Chính quyền vẫn chưa tiếp
cận để phổ cập tới đồng bào do trình độ dân trí thấp, cản trở ngôn ngữ và thiếu kinh phí,
lực lượng triển khai tuyên truyền. Những tục lệ của các bản, làng vẫn được đặt lên trên
pháp luật. Chính vì vậy, cần tăng cường sự tiếp cận của chính quyền, pháp luật đến các
vùng núi, vùng sâu, vùng xa bằng nhiều hình thức để xóa bỏ các tục lệ tảo hôn, xóa bỏ
tàn dư phong kiến.

“Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ”

Những người đang trong một quan hệ hôn nhân thì không được kết hôn với người
khác và những người độc thân thì không được kết hôn với người đang trong quan hệ hôn

9
Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
10
Khoản 10 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
11
Báo cáo Kết quả khảo sát việc thực hiện Quyết định 498/QĐ-TTg ngày 14/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án "Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giai
đoạn 2015-2025" từ năm 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Kon Tum
8
nhân. Điều này đảm bảo cho nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, tiến bộ và tự
nguyện12. Nhằm xóa bỏ tư tưởng “năm thê bảy thiếp” của vua thời xưa, người phụ nữ bị
tước đi nhiều quyền lợi.

Tuy nhiên, một số trường hợp kết người đã có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống với người khác vẫn được chấp nhận như kết hôn vi phạm chế độ một vợ một chồng
thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, đã có vợ, có chồng ở
miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc. Nếu một trong những người trong cuộc hôn
nhân muốn ly hôn thì Nhà nước sẽ khuyến khích cho ly hôn, nếu cả các bên đều không
muốn ly hôn thì Tòa án cho những người trong cuộc tự dàn xếp, ngầm thừa nhận cả 2
cuộc hôn nhân.13

“Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ
vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”

Cấm người cùng huyết thống kết hôn với nhau vì theo khoa học, con cái sinh ra sẽ
bị đột biến gen và mắc phải các bệnh về dị tật bẩm sinh hoặc kém phát triển, dẫn đến suy
giảm nòi giống và giảm chất lượng nhân lực làm ảnh hưởng tới gia đình và cả xã hội. Về
đạo đức, kết hôn cận huyết được xem là “loạn luân” ở Việt Nam. Điều đó là không phù
hợp với chuẩn mực và truyền thống tốt đẹp của người Việt và gây ảnh hưởng đến lối
sống, tư duy của đời sau, mất tôn ti trật tự.

Pháp luật cấm những trường hợp không cùng huyết thống nhưng không được phép
kết hôn với nhau như cha mẹ nuôi và con nuôi, cha mẹ chồng hoặc vợ với con dâu hoặc
con rể để tránh đảo lộn trật tự trong gia đình, suy giảm giá trị đạo đức của con người,
đảm bảo về mặt luân lý.

“Kết hôn giữa những người cùng giới tính”

Quan hệ hôn nhân phải được xác lập giữa nam và nữ để phù hợp với quy luật tự
nhiên, đảm bảo mặt sinh học có thể sinh con, duy trì nòi giống. Tuy nhiên, xã hội ngày
càng phát triển, giới trẻ trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có xu hướng cởi
mở hơn, những người cùng giới yêu nhau và muốn kết hôn với nhau như nam nữ. Trên
thế giới đã có cuộc biểu tình đòi quyền bình đẳng cho những người yêu nhau cùng giới,
vì vậy nhiều nước đã công nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới. Để phù
12
Khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
13
Thông tư 60/TATC năm 1978 hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ
đội đã có vợ, có chồng trong Nam tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.
9
hợp với xu thế hiện đại, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của nước ta cấm kết hôn
cùng giới14 là không còn phù hợp. Chính vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã
bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, tuy nhiên “Nhà nước không
thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”15. Như vậy, Nhà nước không cấm
nhưng cũng không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới.

1.2.2. Điều kiện về mặt hình thức

Việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và đúng thủ
tục được quy định:

a) Thẩm quyền đăng ký kết hôn

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, đăng ký kết hôn
được thực hiện tạo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nơi mà một trong hai bên cư
trú. Trường hợp người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đăng ký kết hôn với nhau thì
đăng ký tại cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài: cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự

b) Thủ tục đăng ký kết hôn

Khi đăng ký kết hôn phải xuất trình giấy tờ và hồ sơ thảo Điều 10 Nghị định
123/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hộ tịch 2014 và các quy định trong Luật Hộ tịch
201416. Ngoài ra, các bên tham gia trong quan hệ hôn nhân phải có mặt đầy đủ tại địa
điểm theo quy định để nộp tờ khai đăng ký kết hôn và xuất trình trình các giấy tờ liên
quan khác.

1.3. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận đăng ký kết hôn

Giấy chứng nhận kết hôn là bằng chứng pháp lý cho việc kết hôn đúng quy định của
pháp luật và được Nhà nước bảo hộ, khi hoàn thành thủ tục đăng ký kết hôn, giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn sẽ làm phát sinh những vấn đề pháp lý sau :

a) Làm phát sinh quan hệ nhân thân giữa vợ, chồng

Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng được hình thành sau khi đăng ký kết
hôn. Quan hệ nhân thân chỉ chấm dứt khi ly hôn hoặc một bên bị Toà án tuyên bố đã

14
Khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân gia đình năm 2000
15
Khoản 2 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình năm 2014
16
Điều 17, Điều 37 Luật Hộ tịch năm 2014
10
chết. Quyền và nghĩa vụ nhân thân này không được chuyển giao cho người khác và do
người thứ ba thực hiện. Được Nhà nước bảo hộ và thừa nhận.

Nghĩa vụ và quyền về nhân thân mang tính tình cảm theo Điều 19 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014. Vợ chồng phải chung thủy, yêu thương, chăm sóc nhau. Cùng nhau sống
chung và chia sẻ các công việc trong gia đình.

Nghĩa vụ và quyền về nhân thân mang tính tự do dân chủ theo Điều 17, 20, 21, 22,
23 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Vợ chồng phải bình đẳng, cùng nhau quyết định mọi
chuyện trong gia đình, được tự do lựa chọn nơi cư trú. Vợ chồng phải tôn trọng danh dự,
uy tín, nhân phẩm, tôn giáo của nhau.

Ngoài ra vợ chồng có thể đại diện cho nhau theo pháp luật hoặc theo ủy quyền theo
quy định tại Mục 2 Chương III từ Điều 24 đến Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
trong các hợp đồng mua bán hoặc một bên bị mất năng lực hành vi dân sự.

b) Làm phát sinh quan hệ tài sản giữa vợ, chồng

Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng phải dựa trên những nguyên tắc đảm bảo quyền
bình đẳng giữa vợ chồng, đảm bảo lợi ích chung của gia đình, đảm bảo quyền và lợi ích
chính đáng của người thứ ba ngay tình.

Việc xác định tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân để xác định tài sản chung do vợ chồng tạo
ra, hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng, thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng. Việc xác định
tài sản chung theo chế độ luật định là tài sản chung hợp nhất nhằm đảm bảo đáp ứng
được nhu cầu của gia đình. Việc sử dụng tài sản chung được hướng dẫn tại Điều 13 Nghị
định 126/2014/NĐ-CP. Về tài sản riêng thuộc về vợ, chồng cũng được quy định tại Điều
43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP. Tài sản
riêng là tài sản mà vợ, chồng có trước thời kỳ hôn nhân, được tặng cho hoặc thừa kế riêng
trong thời kỳ hôn nhân.

Ngoài ra, còn có chế độ tài sản theo thỏa thuận, tùy vào ý chí của vợ, chồng. Nhà
nước cho phép thỏa thuận về tài sản giữa hai người, việc này rất thuận lợi nếu xảy ra
tranh chấp, Tòa án sẽ căn cứ vào hợp đồng thỏa thuận tài sản để xử lý.

Không phải cặp vợ chồng nào cũng đi cùng nhau tới cuối cuộc đời, khi một bên vợ
hoặc chồng chết thì người còn lại sẽ được quyền thừa kế tài sản theo pháp luật hoặc theo
di chúc17. Vợ, chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người đã chết, thời điểm mở thừa

17
Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
11
kế là khi người kia bị Tòa án tuyên là đã chết18 hoặc được hưởng tài sản theo di chúc của
người đã chết.

c) Làm phát sinh quyền, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ, chồng

“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên,
người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này”19

Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi vợ, chồng ly hôn đúng pháp luật, khi một bên
đang trong tình trạng khó khăn, túng thiếu từ lý do chính đáng có quyền yêu cầu được
cấp dưỡng, tuy nhiên cấp dưỡng chỉ xảy ra khi bên còn lại có khả năng cấp dưỡng20.

Mức cấp dưỡng dựa trên khả năng thực tế của người có nghĩa vụ, nhu cầu thiết yếu
của người được cấp dưỡng, chi phí thông thường để đảm bảo cuộc sống thiết yếu bằng
phương thức cấp dưỡng một lần hoặc định kỳ. Tuy nhiên, cấp dưỡng dưỡng định kỳ sẽ
không thể đảm bảo được một bên luôn có khả năng để cấp dưỡng, nếu không còn khả
năng thì nghĩa vụ cấp dưỡng bị tạm ngưng, vì vậy việc yêu cầu cấp dưỡng một lần sẽ an
toàn hơn mặc dù sẽ bị thiệt thòi ít nhiều về chênh lệch mức sống sau này. Cấp dưỡng là
việc gắn liền với chủ thể, không thể chuyển giao nghĩa vụ hoặc quyền cấp dưỡng cho
người khác dưới bất kỳ hình thức nào.

d) Xác định quan hệ cha, mẹ, con

Xác định quan hệ cha mẹ, con thông qua Giấy khai sinh có ghi họ tên cha mẹ đẻ
theo Luật hộ tịch 2014. Vì vậy, khi đi làm giấy khai sinh phải mang theo Giấy chứng sinh
để ghi tên của mẹ đẻ, Giấy đăng ký kết hôn của cha mẹ để ghi tên cha. Nếu mẹ đi làm
Giấy khai sinh cho con không có Giấy đăng ký kết hôn thì người mẹ không thể ghi tên
cha trong Giấy khai sinh cho con mà chỉ được ghi tên mẹ. Do đó, Giấy khai sinh là cơ sở
pháp lý để xác định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con.

18
Điều 611 Bộ luật dân sự 2015
19
Khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
20
Điều 115 Bộ luật dân sự 2015
12
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NAM NỮ
CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
2.1. Khái niệm về nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn

Kết hôn được Nhà nước ta công nhận thông qua việc đăng ký kết hôn, tuy nhiên có
nhiều trường hợp nam nữ chung sống và coi nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn.

Theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có nêu khái niệm như sau:
“chung sống như vợ, chồng là việc nam, nữ tổ chức sống chung và coi nhau là vợ
chồng”21. Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà đáp ứng được các điều kiện kết
hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và đăng ký kết hôn theo đúng
trình tự luật định thì được Nhà nước công nhận quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, nam nữ
nếu không đăng ký kết hôn mà chỉ cùng chung sống dưới một mái nhà, cùng có con và
coi nhau như vợ chồng thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ về mặt pháp lý. Như
vậy, việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo luật năm 2014 sẽ
không được công nhận quan hệ vợ chồng.

Tuy nhiên, sẽ có những trường hợp được Nhà nước coi như vợ chồng mà không cần
đăng ký kết hôn. Những trường hợp nam nữ chung sống được coi như vợ chồng theo
điểm d Điều 2 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP:

“d. Được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện
để kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong
các trường hợp sau đây:

- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp
nhận;

- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng
gia đình.

Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ
chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên)

21
Khoản 7, Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
13
chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng
kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng
nhau xây dựng gia đình.”

Thực tế, nam nữ sống chung coi nhau như vợ chồng phải xảy ra sự kiện “chung
sống”, họ ở cùng nhau và được họ hàng, bạn bè thừa nhận việc chung sống. Qua việc
chung sống thì họ “coi nhau như vợ chồng”, tức là họ sẽ quan tâm, yêu thương nhau, sinh
con với nhau, vun đắp hạnh phúc gia đình cùng nhau, thực hiện các quyền và nghĩa vụ
như vợ chồng với nhau mà không cần dựa vào việc có đăng ký kết hôn hay chưa.

2.2. Đặc điểm chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn

Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn cũng có những đặc điểm cơ bản
để có thể dễ dàng phân biệt được việc sống chung và đã kết hôn theo quy định của pháp
luật. Hai phạm trù có nhiều điểm tương đồng nhau song chung sống như vợ chồng không
đăng ký kết hôn vẫn có những đặc điểm riêng biệt. Dưới đây là những đặc điểm mà nhóm
nghiên cứu đã tìm hiểu và phân tích ra.

Thứ nhất, có đủ điều kiện kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn. Trường hợp này có thể hiểu hai bên đều không bị ràng buộc về pháp luật,
nam nữ điều đáp ứng đủ điều kiện kết hôn được quy định tại điều 8 Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 nhưng cả hai không tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mặc dù đã tự nguyện chung sống như vợ chồng. Điều này dẫn tới quan hệ hôn
nhân của họ không có chứng cứ hay cơ sở pháp lý nào chứng minh mối quan hệ giữa họ
là vợ chồng mà chỉ có gia đình, họ hàng, bạn bè công nhận. Việc này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau có thể do đời sống phát triển, tư tưởng xã hội thoải mái hơn,
cũng có thể là do ảnh hưởng từ các trang mạng xã hội, cổ vũ lối sống “Tây hóa” … hoặc
cũng có thể là do tập tục ở nhiều dân tộc thiểu số, họ xem việc kết hôn chỉ cần có sự
chứng kiến của già làng, trưởng làng là đã kết hôn mà không quan tâm tới việc đăng ký
kết hôn.

Thứ hai, trong khoảng thời gian chung sống, cả hai người đều thực sự coi nhau như
vợ chồng. Tuy nhiên, để đánh giá việc cả hai “thực sự coi nhau như vợ chồng” tránh cho
hiểu nhầm là “chung sống tạm bợ” là một điều không hề dễ dàng bởi còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố đặc biệt là ý chí của chủ thể. Giới trẻ ngày nay hay có xu hướng “sống thử”,
khi sống thử họ thực sự coi nhau là vợ chồng nhưng chưa từng ra mắt gia đình, tổ chức
kết hôn và đăng ký kết hôn, điều này có thể được xem là sống chung tạm bợ chứ không
phải là chung sống với nhau không đăng ký kết hôn. Phải căn cứ đến tình cảm, cách cư

14
xử, thái độ của các chủ thể với nhau và hơn hết là hậu quả trong quá trình sống chung để
đánh giá.

Thứ ba, tham gia quan hệ chung sống như vợ chồng với nhiều mục đích khác nhau.
Mục đích cuối cùng của nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn là
cùng nhau xây dựng một gia đình đích thực, một mái ấm hạnh phúc lâu dài, cùng xây
dựng tài sản chung và sinh con với nhau. Nếu mục đích của việc chung sống chỉ để thỏa
mãn những nhu cầu tình dục, tiền bạc, địa vị… dù là với bất kể mục đích gì thì đích cuối
cùng của họ trong thời điểm chung sống như vợ chồng không phải là kết hôn và việc
chung sống sẽ kết thúc khi đáp ứng được nhu cầu của chủ thể thì đó không phải là “chung
sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn”.

2.3. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không
đăng ký kết hôn

2.3.1. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký
kết hôn trước ngày 03/01/1987

Lấy sắc lệnh số 159-SL về việc quy định vấn đề ly hôn làm tiền đề, Quốc hội khoá I
đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình 1959 là luật quy định về hôn nhân đầu tiên của
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Luật này đặt ra nguyên tắc chế độ một vợ một
chồng, xóa bỏ tàn tích của hôn nhân phong kiến. Do còn tàn dư của chế độ phong kiến và
tình hình chiến tranh diễn ra ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, Luật hôn nhân và gia
đình 1959 không quy định việc nam nữ phải đăng ký kết hôn mới là vợ chồng. Vậy nên
khi Luật hôn nhân gia đình năm 2000 có hiệu lực, chỉ công nhận quan hệ vợ chồng với
trường hợp đã đăng ký kết hôn với cơ quan có thẩm quyền, thì xảy ra các vấn đề liên
quan đến quyền lợi hôn nhân của quan hệ vợ chồng trước năm 1987.

Nếu hai người nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng (chung sống như vợ chồng) trước
thời điểm ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực) thì sẽ
được nhà nước công nhận là vợ chồng hợp pháp kể từ thời điểm họ xác lập quan hệ. Nhà
nước công nhận quan hệ vợ chồng không bắt buộc thông qua đăng ký kết hôn và chỉ
khuyến khích các đối tượng này tiến hành đăng ký kí kết hôn. Nếu các bên có yêu cầu ly
hôn hoặc giải quyết tranh chấp thì sẽ áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để
giải quyết. Việc công nhận quan hệ vợ chồng trước ngày 03/01/1987 phải căn cứ vào các
điều kiện để kết hôn theo đúng pháp luật. Mặc dù Nhà nước điều chỉnh quan hệ hôn nhân
là phụ thuộc vào tình hình thực tế, tuy nhiên cũng phải đảm bảo nguyên tắc của Luật Hôn
nhân và gia đình, không thể thừa nhận tùy tiện. Vậy nên không thể thừa nhận quan hệ
hôn nhân nếu có sự vi phạm các điều kiện kết hôn.
15
2.3.2. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký
kết hôn từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có phạm vi áp dụng đã được mở rộng ra cả
nước trên cơ sở hai miền Nam Bắc đã thống nhất, tuy vậy vẫn chưa xuất hiện chế định
đăng ký kết hôn. Thời điểm nam nữ chung sống như vợ chồng căn cứ vào việc chung
sống cùng nhau xây dựng gia đình và làm đám cưới trước sự công nhận của gia đình, bạn
bè, họ hàng.22

Khoản b, Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và
gia đình có quy định như sau: “Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03
tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy
định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày
Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm
2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;” 23.
Như vậy, với những trường hợp sống chung như vợ chồng trong thời điểm từ ngày
03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 mà có đầy đủ điều kiện để đăng ký kết hôn thì có
nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Thời hạn để nhóm đối tượng này thực hiện đăng ký kết hôn là
trong vòng hai năm kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực (từ ngày
01/01/2001 đến ngày 01/01/2003). Theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP sẽ xảy ra các trường hợp sau:

+ Nếu đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm quy định: Thời điểm xác lập quan hệ
vợ chồng là vào thời điểm chung sống. Trong thời hạn này, nếu đã đăng ký kết hôn và
sau đó muốn ly hôn thì Tòa án giải quyết theo quy định ly hôn của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000.

+ Nếu không đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm quy định: Không công nhận
quan hệ vợ chồng. Nếu sau thời gian 2 năm không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn
thì Tòa án sẽ quyết định hủy kết hôn trái pháp luật và xử lý hậu quả pháp lý theo quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Trong đó, về quan hệ thân nhân thì sẽ không được công nhận quan hệ vợ chồng. Về
quan hệ tài sản thì sẽ chia theo nguyên tắc tài sản chung và tài sản riêng, tài sản chung sẽ
được chia theo thỏa thuận, nếu không thể thỏa thuận thì Tòa án sẽ giải quyết trên nguyên

22
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
23
Chi tiết tại khoản b, Điều 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
16
tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em và phụ nữ. 24 Còn về quyền và nghĩa vụ liên quan đến con
chung thì sẽ được giải quyết như trường hợp ly hôn theo quy định của pháp luật.25

+ Nếu đăng ký kết hôn muộn hơn thời hạn quy định (sau ngày 01/01/2003): Thời
điểm xác lập quan hệ vợ chồng là thời điểm đăng ký kết hôn. Tuy nhiên tại thời điểm đó,
pháp luật vẫn chưa được phổ biến rộng rãi hoặc vì những nguyên nhân nào đó khiến cho
một số cặp vợ chồng bắt đầu sống chung từ 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001
không thể thực hiện đăng ký kết hôn. Vì vậy, pháp luật nước ta đã có chính sách ưu đãi
dành cho những trường hợp này được gia hạn thêm thời gian đăng ký kết hôn theo Chỉ thị
số 02/2003/CT-BTP về việc tiếp tục đăng ký kết hôn cho các trường hợp nam nữ sống
chung với nhau như vợ chồng từ 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001. Theo đó, vẫn sẽ
được xác lập thời điểm hôn nhân từ thời điểm chung sống chứ không phải từ thời điểm
đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, chỉ áp dụng đối với những cặp vợ chồng đã được cơ quan
chức năng rà soát và lập danh sách để tránh các trường hợp không bắt đầu sống chung từ
thời điểm 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 chậm trễ đăng ký kết hôn mà vẫn muốn
được xác lập thời điểm hôn nhân từ ngày sống chung.

2.3.3. Pháp luật về điều chỉnh nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký
kết hôn từ sau ngày 01/01/2001

Luật hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực ghi nhận lần đầu tiên Việt Nam đưa
đăng ký hôn nhân làm một trong những điều kiện để xác lập quan hệ vợ chồng. Trên cơ
sở đất nước đã hoà bình và hàn gắn lại vết thương chiến tranh về kinh tế, văn hoá và xã
hội, các nhà làm luật cho rằng đã đến lúc thích hợp để quy định về việc đăng ký kết hôn.
Việc đăng ký kết hôn giúp xác định rõ ý chí tự nguyện của hai bên trong quan hệ vợ
chồng, cũng như thể chế hoá các nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình như nguyên
tắc tuân thủ chế độ một vợ một chồng. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng Luật Hôn nhân
gia đình 2000 thì vẫn còn nhiều bất cập đáng chú ý. Một trong các bất cập thực tiễn đáng
chú ý trong 12 năm thi hành Luật Hôn nhân gia đình 2000 là các quy định về sống chung
như vợ chồng và các quy định về giải quyết hậu quả phát sinh khi chung sống như vợ
chồng mà không tiến hành đăng ký kết hôn.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, các trường hợp nam nữ chung sống với
nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật thừa nhận quan hệ
hôn nhân. Luật cũng không có quy định cụ thể về cách thức giải quyết hậu quả pháp lý về
thân nhân, tài sản và quan hệ con cái trong trường hợp này. Chỉ có Nghị quyết thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị định của Chính phủ và văn bản hướng dẫn của Tòa án
24
Khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
25
Khoản 2 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
17
quy định về vấn đề này, song chủ yếu điều chỉnh các quan hệ chung sống phát sinh trước
ngày 01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân gia đình 2000 có hiệu lực). Dù luật không quy
định về vấn đề chung sống như vợ chồng, nhưng vấn đề chung sống như vợ chồng vẫn
tồn tại, tình trạng “sống thử” giữa các cặp đôi, đặc biệt là sinh viên, công nhân diễn ra
ngày càng nhiều. Việc họ sống chung mà không đăng ký kết hôn đã làm nảy sinh nhiều
vấn đề ảnh hưởng đến các chủ thể khác.

Từ những bất cập trên thì Luật Hôn nhân gia đình ra 2014 đã được ban hành, nắm
chắc những thiếu sót thực tiễn thì Nhà nước đã ban hành những điều khoản mới về vấn
đề chung sống như vợ chồng. Theo quy định tại điều 131 Luật hôn nhân gia đình
2014:“Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì
áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết” 26. Việc
sống chung như vợ chồng trước 01/01/20015 được áp dụng pháp luật của thời điểm hai
người bắt đầu sống chung. Nếu nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ
03/01/1987 đến trước 01/01/2001 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn.

Về nghĩa vụ đăng ký kết hôn, khoản 1 điều 11 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy
định:
“Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được
pháp luật công nhận là vợ chồng.”

Kế thừa quy định trên, Luật hôn nhân và gia đình 2014 ghi nhận tương tự ở khoản 1
điều 9:

“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.

Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị
pháp lý.”

Trên cơ sở các quy định trên, các cặp đôi có thời điểm chung sống như vợ chồng kể
từ ngày 01/01/2001 trở đi nếu không đăng ký kết hôn sẽ không được nhà nước công nhận
quan hệ vợ chồng.

26
Điều 131, Luật Hôn nhân gia đình 2014.
18
2.4. Cách thức giải quyết nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng
ký kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

2.4.1 Quyền yêu cầu giải quyết

Quyền yêu cầu có thể hiểu là quyền của một cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án giải
quyết những trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có quy định về quyền yêu cầu trong trường hợp
này. Pháp luật nước ta mới chỉ quy định quyền yêu cầu ly hôn, quyền yêu cầu hủy kết
hôn trái pháp luật bao gồm: “vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với
người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của
người kết hôn trái pháp luật. Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em. Cơ quan quản lý Nhà
nước về gia đình. Hội liên hiệp phụ nữ”27

Việc quy định quyền yêu cầu như các trường hợp trên nhằm đảm bảo quyền lợi của
những chủ thể trong quan hệ hôn nhân và những cá nhân, tổ chức khác bị ảnh hưởng bởi
kết hôn trái pháp luật. Như vậy, những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân của họ không được công nhận dẫn đến
quyền và nghĩa vụ của họ đối với những hợp đồng mua bán tài sản hoặc nghĩa vụ đối với
con cái sẽ không được thực hiện gây ảnh hưởng ít nhiều đến những chủ thể khác.

Chính vì vậy, nên có quy định về quyền yêu cầu giải quyết liên quan đến nam nữ
chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn. Vì việc chung sống là do nam nữ tự
nguyện, không bị gây sức ép từ các cá nhân, tổ chức nào nên phải chịu trách nhiệm trước
những hành vi của mình. nhóm nghiên cứu kiến nghị cần phải bổ sung quyền yêu cầu
trong trường hợp này gồm các cá nhân có quyền lợi liên quan và các tổ chức như: Hội
liên hiệp phụ nữ, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình và trẻ em.

2.4.2 Hậu quả pháp lý

a) Về thân nhân

Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định : “Nam, nữ có đủ
điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn thi không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Do
đó, Nhà nước ta không thừa nhận quan hệ hôn nhân mà không đăng ký kết hôn theo quy
trình mà pháp luật quy định. Việc quy định nhằm đảm bảo tính thống nhất của các văn
bản pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân hợp
pháp.
27
Khoản 2 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
19
Hơn nữa, trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
sẽ không phát sinh các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ vợ chồng như vấn đề di sản thừa
kế, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng. Do đó, nếu xảy ra tranh chấp và ly hôn thì Tòa án
sẽ tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng. Còn đối với trường hợp chung sống như vợ
chồng trái pháp luật thì Tòa án tuyên bố buộc chấm dứt hành vi chung sống trái pháp luật
đó.

Về mặt xã hội thì quan hệ chung sống với nhau như chồng mà không đăng ký kết
hôn sẽ mang lại các hệ lụy xấu cho các bên. Bởi vì không có pháp luật đảm bảo quyền lợi
nên khi xây dựng hôn nhân, họ sẽ gặp phải nhiều vấn đề như bạo lực gia đình, phá thai,
hay bị tổn hại về danh dự và nhân phẩm. Với văn hóa Việt Nam, khó có bố mẹ nào chấp
nhận việc con gái mình chung sống với người khác bao nhiêu năm nhưng không kết hôn
và rồi chia tay, đánh mất giá trị của bản thân mình. Do vậy Nhà nước dù không thừa nhận
quan hệ chung sống như vợ chồng nhưng vẫn khuyến khích họ đi đăng ký kết hôn để có
hôn nhân hợp pháp, đảm bảo được quyền lợi và nghĩa vụ cho các bên.

b) Về tài sản

Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và
hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên, trong trường hợp không có thỏa thuận thì
giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên
quan...”. Dù không đăng ký kết hôn nhưng nam, nữ chung sống như vợ chồng dựa trên
sự tự nguyện, cùng hướng tới mục đích xây dựng gia đình, xây dựng khối tài sản chung
và có con chung. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không có quy định cụ thể về tài
sản chung của vợ chồng không đăng ký kết hôn. Vì vậy, quy định này đảm bảo được sự
tôn trọng và thỏa thuận giữa các bên trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản, nếu
không thỏa thuận được thì áp dụng Bô Luật dân sự 28 và các luật có liên quan khác dựa
trên nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của trẻ em và phụ nữ. Bởi trên thực tế, khi quan hệ
chung sống chấm dứt thì người phụ nữ thường phải chịu thiệt thòi hơn nên việc đảm bảo
quyền và lợi ích của phụ nữ trẻ em sẽ hướng tới sự công bằng, văn minh hơn.

c) Về quan hệ cha mẹ con

Quan hệ cha mẹ, con được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ hoặc nuôi dưỡng. Nếu
con sinh ra trong trường hợp cha mẹ chung sống không đăng ký kết hôn thì vẫn được cha
mẹ thực hiện các nghĩa vụ và có quyền lợi như con cái được sinh ra trong quan hệ hôn

28
Điều 219 Bộ Luật dân sự 2015
20
nhân được pháp luật công nhận29. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ, con được pháp luật
quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Vì để xác định quan hệ cha mẹ, con phải tiến hành thủ tục làm Giấy khai sinh cho
con thông qua Giấy chứng sinh để xác định mẹ ruột, qua Giấy đăng ký kết hôn để xác
định cha ruột. Nếu trong trường hợp cha mẹ không đăng ký kết hôn thì người cha đi làm
Giấy khai sinh trước tiên là làm thủ tục khai nhận con rồi mới được ghi tên cha vào Giấy
khai sinh. Nếu chỉ người mẹ đi làm Giấy khai sinh mà không có Giấy đăng ký kết hôn thì
chỉ được ghi tên của mẹ chứ không được ghi tên cha. Vì vậy, nam nữ chung sống không
đăng ký kết hôn mà có con chung thì vẫn được làm cha mẹ hợp pháp của con.

Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ đối với con theo quy định tại Điều 69 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014. Trước hết, cha mẹ phải yêu thương, chăm sóc con, đảm bảo cho con
được giáo dục tốt và phát triển lành mạnh về tất cả mọi mặt. Cha mẹ phải nuôi dưỡng con
cái khi chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự để bảo vệ các quyền lợi chính
đáng của con. Không được phân biệt giới tính, đối xử bất công giữa các con, không được
lợi dụng hay bóc lột sức lao động của con, không sai bảo hay ép buộc con làm những
điều sai trái, vi phạm pháp luật. Nếu vi phạm sẽ chịu sự xử lý theo quy định của pháp
luật. Cha mẹ là “Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự” 30. Chính vì thế, cha mẹ có
quyền ngang nhau trong việc đại diện cho con để thay con thực hiện các giao dịch dân sự.

Nếu cha mẹ không còn sống cùng nhau thì việc nuôi con sẽ do vợ chồng thỏa thuận.
Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định ai nuôi con dựa vào số tuổi của con
và khả năng kinh tế của cha mẹ theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Con dưới
36 tháng tuổi vẫn cần bú sữa mẹ nên thông thường sẽ được mẹ nuôi; con trên 36 tháng và
dưới 7 tuổi thì sẽ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của bố mẹ, ai có điều kiện hơn thì sẽ
nuôi con; con từ 7 tuổi trở lên thì có thể hỏi ý con, việc hỏi ý kiến của con chỉ mang tính
chất tham khảo. Người không trực tiếp nuôi con sẽ phải cấp dưỡng con tới khi thành niên
hoặc con thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự và không có tài sản để tự nuôi
mình31. Việc cấp dưỡng là quyền và nghĩa vụ gắn liền với cá nhân nên không thể chuyển
giao cho chủ thể khác.

Ngoài ra, con cái cũng phải có nghĩa vụ đối với cha mẹ theo Điều 70 Luật này. Cha
mẹ đã có công sinh thành và dưỡng dục, vì thế con cái phải biết yêu thương, kính trọng

29
Khoản 2 Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
30
Khoản 3 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
31
Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
21
cha mẹ, lấy chữ hiếu đặt lên làm đầu. Khi con cái đã thành niên có nghĩa vụ cấp dưỡng
nếu cha mẹ không còn khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.32

Như vậy, dù cha mẹ không đăng ký kết hôn thì vẫn phải thực hiện các quyền và
nghĩa vụ với con cái theo quy định của pháp luật.

2.5. Chung sống như vợ chồng trái pháp luật

Hiện nay, có nhiều trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật đang xảy ra
ở nước ta, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi vùng sâu, vùng xa vì sự thiếu hiểu biết, nhận
thức kém về pháp luật. Về khái niệm, có thể hiểu chung sống như vợ chồng trái pháp luật
là việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không tiến hành đăng ký kết
hôn theo pháp luật và vi phạm các điều kiện để kết hôn đúng pháp luật, các trường hợp
cấm kết hôn. Như vậy, để kết luận việc chung sống như vợ chồng là trái pháp luật thì
phải thỏa hai điều kiện: đầu tiên là họ đang chung sống như vợ chồng mà không tiến
hành đăng ký kết hôn; thứ hai là một hoặc cả hai bên đều vi phạm điều kiện kết hôn đúng
pháp luật, vi phạm điều cấm kết hôn.

Trường hợp vi phạm về điều kiện độ tuổi, theo khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014 thì nam, nữ được kết hôn với nhau khi nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ
18 tuổi trở lên33. Đối với việc chung sống như vợ chồng thì hai bên cũng phải thỏa mãn
được quy định về độ tuổi khi kết hôn của pháp luật, chỉ cần một bên không thỏa điều kiện
về độ tuổi thì việc chung sống này cũng sẽ được coi là trái pháp luật. Khi vi phạm về điều
kiện độ tuổi trong quan hệ vợ chồng thì sẽ dẫn đến trường hợp tảo hôn gây hậu quả
nghiêm trọng. Mặc dù, hành vi chung sống này có thể là sự tự nguyện của các bên nhưng
cũng gây ra các hậu quả như không đảm bảo về sức khỏe vì ở độ tuổi này thì tâm sinh lí
chưa phát triển đầy đủ và toàn diện, chất lượng cuộc sống không tốt gây ảnh hưởng đến
xã hội. Ngoài ra, tại khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì “Tảo hôn là việc
lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 8”34 và tại khoản 2 Điều 5 thì pháp luật cũng cấm việc tảo hôn.
Hình thức này không chỉ diễn ra ở các vùng nông thôn mà còn xuất hiện ở cả trong thành
thị. Nam, nữ sẽ chỉ tổ chức nghi lễ cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương mà
không đăng ký kết hôn. Có thể do sự thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc bị dụ dỗ thì việc
tảo hôn cũng sẽ gây ra nhiều hệ lụy cho các cặp đôi. Tại Điều 58 NĐ 82/2020 có quy
định về xử phạt hành chính từ 1 triệu tới 5 triệu với các hành vi tảo hôn và tổ chức tảo
hôn. Nếu trong trường hợp tái phạm thì sẽ bị xử lý hình sự từ 10 triệu tới 30 triệu hoặc
32
Điều 111 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
33
Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014
34
Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
22
cải tạo không giam giữ 2 năm. Thậm chí, nếu hành vi tảo hôn này xảy ra với trẻ em dưới
16 tuổi thì đây sẽ được xem là hành vi giao cấu với trẻ em và truy cứu trách nhiệm hình
sự.

Trường hợp vi phạm về sự tự nguyện, trong pháp luật hôn nhân và gia đình, sự tự
nguyện đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định quan hệ hôn nhân. Điều này được
thể hiện rõ qua các giai đoạn của phát triển luật hôn nhân và gia đình. Ngay từ Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959, pháp luật đã đưa quy định về chế độ hôn nhân tự do, cấm
cưỡng ép kết hôn và được hoàn thiện dần cho đến hiện nay đã tương đối bảo đảm sự tự
nguyện. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là chủ trương hiện nay của Nhà nước nhằm đảm
bảo an ninh xã hội, các quyền tự do, bình đẳng và xóa bỏ được các hủ tục phong kiến như
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, kén rể, chọn dâu,... Sự tự nguyện có thể hiểu là việc nam,
nữ được tự mình quyết định kết hôn, tham gia vào quan hệ hôn nhân, không có sự can
thiệp từ người khác. Mọi hành vi như cưỡng ép, đe dọa, lừa dối, cản trở việc kết hôn
được xem là vi phạm pháp luật. Sự tự nguyện còn thể hiện ở việc nam, nữ có quyền yêu
cầu ly hôn khi phát sinh mâu thuẫn và khi họ sống hạnh phúc không ai có quyền cản trợ,
bắt họ ly hôn. Vì vậy, sự tự nguyện trong quan hệ chung sống như vợ chồng cũng đóng
vai trò rất quan trọng để đảm bảo chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ của Nhà nước. Ví
dụ gia đình chị B nợ anh A một khoản tiền lớn mà gia đình chị B không thể trả. Do thấy
chị B xinh đẹp nên anh A yêu cầu chị B về sống chung với anh như vợ chồng để trả nợ.
Mặc dù chị B không hề muốn ở với anh A. Thì có thể thấy trong trường hợp này, nguyên
tắc tự nguyện đã bị vi phạm. Điều này sẽ dẫn đến cuộc hôn nhân không có tình yêu là cơ
sở vun đắp, gây nhiều mâu thuẫn giữa các bên và tạo tiền đề xấu cho xã hội. Vì vậy sống
chung như vợ chồng mà có yếu tố cưỡng ép, vi phạm sự tự nguyện thì được coi là trái
pháp luật.

Trường hợp chung sống như vợ chồng khi một hoặc cả hai bên đang có vợ, chồng.
Để bảo vệ chế độ hôn nhân tại Việt Nam, pháp luật đã quy định về việc cấm “Người
đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có
chồng, có vợ”35. Đầu tiên ta phải hiểu người đang có vợ, có chồng là người đã có và vẫn
đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định. Ở Việt Nam, chúng ta pháp luật
bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, vậy nên việc sống chung với người khác như
vợ chồng mà đang có vợ, chồng đã vi phạm nghiêm trọng chế độ này. Tuy nhiên, trên
thực tế, tình trạng này đang xảy ra khá phổ biến mặc dù có thể đã biết việc bên còn lại đã
kết hôn. Có không ít các vụ việc đánh ghen vì chồng, vợ mình chung sống với người

35
Khoản 2, Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
23
khác. Điều này nãy đến vấn đề an ninh, xã hội bị đe dọa khi có những đứa trẻ vừa chào
đời đã không được sống cùng cha, cùng mẹ bởi vì cha mẹ mình còn có một gia đình khác.
Hoặc nhiều trường hợp bị lừa dối, không biết đối phương đã kết hôn và đến khi phát hiện
ra sự thật thì tinh thần, cuộc sống bị ảnh hưởng gây nhiều hệ quả xấu khác. Do vậy, pháp
luật nước ta đã coi việc chung sống như vợ chồng này là trái pháp luật và sẽ bị xử phạt
theo nghị định 82/2020/NĐ-CP. Tại Điều 59 NĐ 82/2020 có quy định về việc xử phạt
hành chính từ 3 triệu tới 5 triệu về hành vi chung sống như vợ chồng với người đang có
vợ hoặc chồng. Ngoài ra hành vi này cũng có thể bị xử lý hình sự theo Điều 182 Bộ luật
hình sự 2015 nếu người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ36 gây ra các hậu
quả nghiêm trọng như sau khi bị xử phạt hành chính mà lại tại phạm; làm quan hệ hôn
nhân dẫn đến ly hôn thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc
phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm37. Trong trường hợp làm cho vợ hoặc chồng của các bên
tự sát; đã có quyết định của tòa tuyên việc chung sống là trái pháp luật và yêu cầu chấm
dứt mà vẫn tiếp tục thì sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Qua đó, có thể thấy pháp luật
nước ta đang rất cố gắng duy trì và bảo vệ hôn nhân một vợ một chồng bình đẳng, bền
vững. Ngoài ra, cần lưu ý về các trường hợp sau năm 1954 khi các cán bộ, bộ đội ở miền
Nam tập kết ra miền Bắc, mặc dù đã có vợ, chồng ở trong miền Nam nhưng họ lại lấy vợ,
chồng ở miền Bắc do hậu quả của chiến tranh chia cắt, không thể giao tiếp liên lạc thì
trường hợp chung sống này không bị coi là trái pháp luật.

Trường hợp “chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể,
cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.” Đây là trường hợp bị
pháp luật cấm tại điểm d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, do đó chung
sống như vợ chồng trong trường hợp này là trái pháp luật. Các quan hệ nêu trên mang
tính chất “loạn luân” và gây ra nhiều hệ lụy. Theo nghiên cứu về gen di truyền thì đời sau
của việc loạn luân dễ bị dị tật bẩm sinh và các hậu quả nghiêm trọng cho người mẹ.
Ngoài ra, nó cũng sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nhận thức và văn hóa khi những người có
quan hệ gần gũi, huyết thống lại kết hôn trở thành vợ chồng với nhau. Tại Việt Nam,
trong các gia đình đều có sự tôn trọng về thứ bậc, trật tự trên dưới trong gia đình, vậy nên
việc chung sống như vợ chồng với cha mẹ nuôi, bố chồng con dâu, mẹ kế con riêng,... sẽ
làm mất đi giá trị văn hóa gia đình tốt đẹp của người Việt. Tại Điều 59 NĐ 82/2020 cũng

36
Điều 182 Bộ luật hình sự 2015
37
Điều 182 Bộ luật hình sự 2015
24
đã có quy định về phạt vi phạm hành chính và tại Điều 184 Bộ luật hình sự 2015 cũng có
quy định về tội loạn luân với án phạt từ 1 tới 5 năm tù giam. Theo đó, pháp luật cũng sẽ
giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc. Vì thế dù có
huyết thống hay không nhưng giữa họ đã tồn tại mối liên hệ gia đình và có trách nhiệm
bảo vệ giá trị gia đình.

Việc phát hiện kịp thời các hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật là điều
rất cần thiết để có thể kịp thời xử lý, ngăn chặn và giảm bớt những hậu quả khôn lường
xảy ra. Nhìn chung, mặc dù không phải bất kì trường hợp chung sống như vợ chồng trái
pháp luật đều có hệ quả xấu nhưng nó có nhiều tác động đến quan hệ hôn nhân và gia
đình, giá trị văn hóa và quyền của trẻ em, phụ nữ. Vậy nên phải cần ngăn cản và hạn chế
việc sống chung này để đảm bảo an ninh xã hội, bảo vệ các chế độ của Nhà nước và
quyền, nghĩa vụ của người dân.

2.6. Chung sống như vợ chồng với người nước ngoài

Trong thời kỳ kinh tế thị trường, Việt Nam đang mở rộng quan hệ ngoại giao với
nhiều quốc gia trên thế giới. Từ đó, sự giao lưu văn hóa-kinh tế với nước ngoài cũng
ngày càng mở rộng và sự giao lưu của người Việt Nam với các nước trên thế giới cũng
rất rộng rãi. Việc gặp gỡ, chung sống và kết hôn với người nước ngoài cũng càng phổ
biến hơn. Từ đó đặt ra các chế định của pháp luật về quan hệ hôn nhân với người nước
ngoài. Khi đó chủ thể tham gia vào quan hệ chung sống như vợ chồng có bao gồm cả
người nước ngoài.

Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước
ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam. 38 Đối với trường
hợp người không quốc tịch có thể định nghĩa là họ không là công dân của bất kỳ đất nước
nào đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam nhưng không mang quốc tịch Việt Nam. Tại Việt
Nam thì người không quốc tịch có địa vị pháp lý như công dân nước ngoài, phải tuân thủ
pháp luật nơi họ thường trú và chịu sự điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình ở Việt
Nam. Ngược lại với quan hệ chung sống như vợ chồng trong nước, quan hệ có yếu tố
nước ngoài có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, nó có thể phải chịu sự điều chỉnh của Luật
Việt Nam và Luật nơi người nước ngoài có quốc tịch hoặc các tập quán, công ước quốc
tế.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trong quan hệ hôn nhân và gia đình thì
người nước ngoài có quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Tại Điều 122 Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 thì sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam trong quan hệ hôn nhân gia
38
Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008
25
đình có yếu tố nước ngoài, nếu trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó39, nếu có dẫn chiếu áp dụng luật nước ngoài thì sẽ
áp dụng luật nước ngoài. Do đó ta có thể xét quan hệ chung sống như vợ chồng có yếu tố
nước ngoài như quan hệ trong nước.

Đối với trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì sẽ
không được coi là trái pháp luật. Nhà nước công nhận quan hệ hôn nhân thực tế giữa họ
và không bắt buộc phải đăng ký kết hôn. Các trường hợp chung sống từ ngày 03/01/1987
đến trước ngày 01/01/2001 thì phải đăng ký kết hôn mới được nhà nước công nhận quan
hệ hôn nhân và họ cũng có thời gian từ 01/01/2001 đến hết ngày 01/01/2003 để thực hiện
thủ tục đăng ký kết hôn như công dân Việt Nam. Sau ngày 01/01/2003 thì việc chung
sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật công nhận quan
hệ hôn nhân. Người nước ngoài cũng phải tuân thủ pháp luật Việt Nam về các quy định
chung sống như vợ chồng trái pháp luật như quy định về độ tuổi, chế độ hôn nhân một vợ
một chồng,... Nhà nước Việt Nam công nhận các quan hệ hôn nhân ở nước ngoài vậy nên
người nước ngoài đang có vợ, chồng ở nước ngoài cũng không được phép chung sống
như vợ chồng với công dân Việt Nam chưa có vợ, có chồng. Ví dụ, ông A là người nước
ngoài đã kết hôn ở nước ngoài. Sau đó ông đến Việt Nam sinh sống, làm việc và thường
trú tại Việt Nam. Trong quá trình làm việc, ông quen bà B chưa kết hôn và hai người nảy
sinh tình cảm quyết định chung sống như vợ chồng với nhau mà không đăng ký kết hôn.
Vì vợ ông A ở nước ngoài nên bà B nghĩ rằng ông A còn độc thân và chung sống với ông
B. Vậy trong trường hợp này, việc chung sống như vợ chồng giữa ông A và bà B là trái
pháp luật.

Khi giải quyết hậu quả pháp lý của các trường hợp nam, nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thì Điều 130 Luật hôn nhân và gia
đình 2014 quy định áp dụng Luật này và các Luật khác có liên quan ở Việt Nam ở giải
quyết. Có thể thấy pháp luật Việt Nam đã có các quy định rõ ràng về hôn nhân có yếu tố
nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên nam nữ tham gia vào quan hệ hôn
nhân gia đình. Ngoài ra, việc ghi nhận quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là yêu cầu
khách quan trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa
vụ của các chủ thể, phù hợp với nhu cầu thực tiễn xã hội hiện nay.

39
Điều 122 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
26
2.7. Pháp luật về ly hôn trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng được
pháp luật công nhận

Theo pháp luật Việt Nam, nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn
được pháp luật thừa nhận và coi là hôn nhân thực tế với trường hợp nam nữ chung sống
như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn. Theo Điều 1 Thông tư
liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì: “trong trường hợp quan hệ
vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly
hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung.”40 Như vậy, với quan hệ hôn
nhân này việc xử lý ly hôn sẽ giống như các trường hợp ly hôn thông thường. Theo
khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Quan hệ hôn nhân xác lập
trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng luật hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác
lập để giải quyết.”41 Với quan hệ hôn nhân này thời điểm xác lập là trước ngày
03/01/1987 vậy nên sẽ áp dụng Luật hôn nhân và gia đình 2000 và Nghị quyết số
35/2000/QH10 để giải quyết. Về quan hệ nhân thân, sau khi tòa án tuyên bố ly hôn các
bên sẽ chấm dứt quan hệ vợ chồng. Nếu có con thì các bên phải có nghĩa vụ trông nom,
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất
năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con42. Việc ai là người
trực tiếp chăm sóc con sẽ do các bên tự thỏa thuận, bên còn lại sẽ vẫn có quyền thăm
nom con trừ các trường hợp bị pháp luật hạn chế quyền. Về quan hệ tài sản, khi ly hôn
việc chia tài sản sẽ dựa trên nguyên tắc thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì tòa sẽ
phân chia tài sản chung dựa trên tình trạng, công sức đóng góp của các bên, còn tài sản
riêng thì của ai sẽ thuộc về người ấy. Ngoài ra hiện nay có một án lệ về việc chấm dứt
quan hệ hôn nhân thực tế dẫn đến tranh chấp về chia di sản thừa kế và chia tài sản chung
- án lệ số 41/2021/AL dựa vào nguồn Bản án dân sự phúc thẩm số 48/2010/DSPT. Có thể
khái quát vụ án như sau, vào năm 1969 ông T1 chung sống như vợ chồng với bà T2 sinh
hai người con là P2 và P3. Do mâu thuẫn, nên bà T2 bỏ vào Vũng Tàu sinh sống và kết
hôn với người khác. Năm 1987, ông T1 chung sống với bà S có con là P1. Ngày
26/3/2003, ông T1 mất mà không để lại di chúc. Như vậy theo quyết định của án lệ thì bà
T2 chung sống và ông T1 không đăng ký kết hôn nhưng đến năm 1982 bà T2 bỏ đi và kết
hôn với người khác, nên quan hệ hôn nhân giữa ông T1 và bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên
bà không có nghĩa vụ và quyền được hưởng di sản của ông T1. Tiếp theo, sau khi bà T1
40
Điều 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
41
Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
42
Khoản 1 Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình 2000
27
đi thì bà S và ông T1 chung sống với nhau từ năm 1987, có tài sản chung hợp pháp nên
công nhận đây là quan hệ hôn nhân thực tế và bà S được hưởng di sản của ông T1. Có thể
thấy trước đây đất nước ta còn khó khăn, trải qua nhiều năm chiến tranh, chia cắt vùng
miền khiến nền giáo dục, kinh tế bị ảnh hưởng, dẫn đến nhiều bất cập trong quan hệ hôn
nhân và gia đình. Và khi những quan hệ này bị đổ vỡ sẽ có nhiều hệ lụy dẫn đến khó
khăn cho các cơ quan chức năng, chính quyền khi giải quyết, nghiêm trọng hơn sẽ dẫn tới
ảnh hưởng về sức khỏe, nhân phẩm quyền lợi đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Vậy nên việc
áp dụng các án lệ trong giải quyết pháp lý sẽ giúp cho các cơ quan chức năng bớt gánh
nặng, giảm được các thiệt hại đáng kể trong giải quyết, tránh các vụ việc án sai.

Còn với các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không được
pháp luật công nhận thì quan hệ “ly hôn” giữa họ là quan hệ thực tế chứ không phải quan
hệ pháp lý. Có nghĩa là họ không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng, không phát sinh
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ vợ chồng nên không cần làm thủ tục ly hôn. Tuy nhiên,
nó vẫn đặt ra quan hệ tài sản giữa họ, khi đó tài sản do hai bên làm ra không phải là tài
sản thuộc sở hữu chung hợp nhất mà là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần. Vậy nên
khi phân chia tài sản, Tòa án phải xác định công sức đóng góp của từng người vào khối
tài sản chung. Với các quan hệ khác thì pháp luật có quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014, theo đó việc xử lý phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ
và trẻ em. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng
chứ không phải là chấm dứt quan hệ vợ chồng.

28
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
3.1. Tình trạng nam, nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn tại
Việt Nam

3.1.1 Tình hình thực tế tại Việt Nam

Hiện tượng xã hội “Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn” hiện tại đang
có xu hướng phát triển, gia tăng, phức tạp hơn cả về số lượng lẫn tính chất. Sau đây là
thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thông qua “báo cáo hàng năm của ngành số vụ án
xin ly hôn mà không được công nhận là vợ chồng”43

Từ: 01/10/2006 Từ: 01/10/2007 Từ: 01/10/2008 Từ: 01/10/2010

Đến: 30/09/2007 Đến: 30/09/2008 Đến: 30/09/2010 Đến: 30/09/2016

Không công 2.251 2.336 2.455 3.245


nhận là vợ
chồng

Bảng dữ liệu: Tổng số án xin ly hôn mà Tòa án không công nhận là vợ chồng

(Nguồn: Toà án nhân dân tối cao)

3.1.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên

Hiện nay, có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc nam nữ chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hôn ở Việt Nam. Nhóm nghiên cứu cho rằng:

a) Thứ nhất, do ảnh hưởng của dân trí thấp, phong phục tập quán lạc hậu

Tình trạng này xảy ra chủ yếu ở các vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống như các tỉnh có biên giới với nước bạn như Cao Bằng, Thanh Hoá, các tỉnh Tây
Nguyên,... Việc kết hôn giữa những người thuộc cộng đồng dân tộc thiểu số chủ yếu qua
việc tổ chức lễ cưới và các nghi thức mà không tiến hành đăng ký kết hôn. Nguyên nhân
dẫn đến điều này có thể do họ chưa tiếp cận được với pháp luật về hôn nhân và gia đình
43
Th.S Lương Thị Hoà, “Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn: Thực trạng, đánh giá và hướng hoàn
thiện pháp luật” <http://gopfp.gov.vn/chi-tiet-an-pham/-/chi-tiet/chung-song-nhu-vo-chong-khong-%C4%91ang-ky-
ket-hon-%0Athuc-trang-%C4%91anh-gia-va-huong-hoan-thien-phap-luat-8312-3307.html>, truy cập ngày
17/8/2021
29
để hiểu được tầm quan trọng của việc đăng ký kết hôn trong việc bảo vệ quyền lợi cho
mình. Hoặc do họ thuộc trường hợp chung sống như vợ chồng trái luật, không đủ điều
kiện kết hôn (do ảnh hưởng của tục tảo hôn, cướp vợ, v.v..)

b) Thứ hai, do tác động của xu thế toàn cầu hoá

Quan điểm “thế giới phẳng” ngày càng tác động đến đời sống xã hội của người Việt
Nam nói chung và giới trẻ nói riêng. Việc tiếp thu tinh hoa, quan điểm của các nền văn
hoá khác nhau về khoa học, văn hoá, xã hội đang ngày càng trở nên dễ dàng hơn với sự
giúp sức của Internet và các thiết bị công nghệ. Trong đó quan điểm “chung sống không
cần phải kết hôn” đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ của thế hệ trẻ Việt Nam làm cho họ
hình thành lối sống buông thả, cởi mở hơn. Tại Hoa Kỳ, số người sống với một partner
(người tình) mà không kết hôn vào khoảng 18 triệu vào năm 2016, tăng 29% kể từ năm
200744. Tại Hàn Quốc có hàng nghìn cặp đôi chung sống mà không đăng ký kết hôn, với
số lượng cặp vợ chồng kết hôn vào năm 2020 đạt mức thấp kỷ lục kể từ lần đầu tiên nước
này bắt đầu thống kê vào năm 198145. Có thể thấy hiện tượng này đang có xu hướng gia
tăng ở các nước khác trên thế giới. Có nhiều lý do để giới trẻ bỏ qua việc đăng ký kết
hôn, có thể là không muốn bị thay tên đổi họ46 vì điều này ảnh hưởng đến các mối quan
hệ với đồng nghiệp, lo ngại về các khoản thuế sau khi kết hôn, không muốn bị lệ thuộc về
mặt pháp lý, v.v…

c) Thứ ba, do quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thời điểm trước và ý chỉ
chủ quan và yếu tố khách quan của các cặp vợ chồng

Chế định đăng ký kết hôn chỉ mới xuất hiện từ thời điểm Luật hôn nhân và gia đình
2000 có hiệu lực. Kèm với đặc điểm của quan hệ hôn nhân là có tính chất lâu dài, dẫn
đến nhiều cặp vợ chồng tuy không đăng ký kết hôn nhưng được thừa nhận hôn nhân thực
tế (các quy định được phân tích ở mục 2.3. và họ vẫn chưa đăng ký kết hôn cho tới thời
điểm này.

Một số người khi có ý định tái hôn hoặc kết hôn với người khác sau một cuộc hôn
nhân đã chấm dứt có suy nghĩ rằng họ không nhất thiết phải đăng ký kết hôn với nhau.
Họ không quan tâm đến việc đăng ký kết hôn và cảm thấy tự nguyện sống cùng nhau là
đủ. Tình trạng này một phần cũng do tâm lý ngại tiếp xúc với chính quyền, thực hiện các
44
Pew research center, “8 facts about love and marriage in America”,
<https://www.pewresearch.org/fact-tank/2019/02/13/8-facts-about-love-and-marriage/>, truy cập ngày 17/8/2021
45
Báo Zing News, “Người trẻ Hàn Quốc sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn”
<https://zingnews.vn/nguoi-tre-han-song-chung-nhu-vo-chong-nhung-khong-dang-ky-ket-hon-post1192085.html>,
truy cập ngày 17/8/2021
46
Ở Nhật Bản, phụ nữ sau khi kết hôn phải theo họ của chồng. Tuy các nước phương Tây tuy pháp luật không quy
định điều tương tự, nhưng nếu người phụ nữ không theo họ chồng sau khi kết hôn sẽ bị xã hội xem là lập dị.
30
thủ tục đăng ký kết hôn và sự thiếu hiểu biết về quyền lợi và nghĩa vụ của mình nếu có
đăng ký kết hôn, như được nằm trong hàng thừa kế của người chồng / vợ của mình.

3.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp do chung sống như vợ chồng không đăng
ký kết hôn

Với thực tế rằng việc hai người chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn
đã, đang và sẽ luôn tồn tại trong xã hội, quan điểm của nhà làm luật xem nó là một quan
hệ xã hội đang tồn tại và cần được điều chỉnh. Về mặt pháp lý hai người nam nữ này sẽ
không được coi là vợ chồng hợp pháp, nhưng hành vi chung sống và coi nhau như vợ
chồng đã xác lập cho họ những quyền và nghĩa vụ cần được pháp luật điều chỉnh và bảo
vệ. Tuy vậy thực tiễn xét xử tại các Toà án cho thấy rằng vẫn còn hiện tượng chưa nắm
rõ được quy định pháp luật của hội đồng xét xử, từ đó dẫn đến sai sót trong các phán
quyết liên quan đến tranh chấp do chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, làm
ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên.

3.2.1. Về xác định thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng

Khi các cặp đôi chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn quyết
định đăng ký kết hôn, hành vi pháp lý này sẽ xác lập một thời điểm đăng ký kết hôn.
Thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng này phụ thuộc vào các yếu tố như thời điểm phát
sinh quan hệ chung sống như vợ chồng, thời điểm đăng ký kết hôn. Việc xác định chính
xác thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng là cần thiết và quan trọng trong việc xác định các
quyền, nghĩa vụ khác như quyền tài sản. Sau đây là một số ví dụ về việc nhầm lẫn trong
xác định thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng:

Ví dụ 1:

“Bà Th và ông L trú tại thị trấn Hữu Lũng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Ngày
14/12/1982 hai người làm đám cưới và chung sống như vợ chồng, hai người không đăng
ký kết hôn do thiếu hiểu biết về quy định pháp luật. Năm 1985, hai người mua một mảnh
đất 150m2, mảnh đất này đứng tên ông L. Năm 2000 hai người đi đăng ký kết hôn tại
UBND thị trấn Hữu Lũng. Năm 2002 hai người bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do ông L có
quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác và thường xuyên chửi bới, đánh đập vợ con.
Tháng 6/2008, bà Th gửi đơn lên Tòa án xin được ly hôn.

31
TAND huyện Hữu Lũng trong bản án sơ thẩm đã xác định thời điểm xác lập quan
hệ vợ chồng vào năm 2000 khi hai người đăng ký kết hôn. Từ đó xác định mảnh đất
150m2 mua vào năm 1985 là tài sản riêng của ông L.”47

Nhận thấy phán quyết của bản án sơ thẩm là không đúng với quy định tại Nghị
quyết 35/2000/NQ-QH10 và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BTP trong việc xác định thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng của bà Th và
ông L, TAND tỉnh Lạng Sơn đã huỷ bản án sơ thẩm trên và xét xử lại theo đúng quy định
pháp luật, xác định thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng của hai người là vào năm 1982.
Từ đó xác định mảnh đất 150m2 là tài sản chung có được trong thời kỳ hôn nhân của hai
người.

3.2.2. Về giải quyết tranh chấp về tài sản

Trường hợp quan hệ vợ chồng không được công nhận thì tài sản do hai người tạo
lập nên trong thời gian chung sống như vợ chồng không được xem là tài sản chung hợp
nhất mà là sở hữu chung theo phần. Nguyên tắc xác định phần sở hữu của từng người còn
phải dựa vào công sức đóng góp. Hội đồng xét xử trong nhiều trường hợp không phân
định được công sức đóng góp của mỗi bên vào khối tài sản chung nên đã quyết định chia
đôi cho mỗi bên.

Ví dụ:

“Tại Quảng Nam, ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị P chung sống với nhau như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn vào năm 1989, hai ông bà đăng ký kết hôn vào cuối
năm 1990. Năm 2006 hai người xảy ra mâu thuẫn, bà T làm đơn xin ly hôn với ông H.
Tài sản tranh chấp là lô đất 132m2 và hai căn nhà cấp bốn nằm trên lô đất. Bà P khai
rằng nhà là tài sản chung, còn đất là tài sản riêng do bà mua vào năm 1993. Người
chồng khai rằng cả nhà và đất đều là tài sản chung do ông góp tiền mua. Hồ sơ vụ án
cho thấy bà P nhận chuyển nhượng một lô đất diện tích 250m2 từ người chủ cũ vào đầu
năm 1990 với giá 16 chỉ vàng. Đến cuối năm 1990 bà mới kết hôn, sau đó vợ chồng xây
nhà chung sống trên lô đất này. Đến năm 1999 hai người viết giấy bán nửa lô đất. Nửa
lô còn lại được UBND thành phố T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ
chồng bà cùng đứng tên.

Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm xác định quan hệ vợ chồng giữa hai người
được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn là cuối năm 1990, do đó mảnh đất là tài sản
riêng của bà P. Nhưng đến năm 1999 hai người cùng viết giấy bán nửa lô đất nói trên,
47
Nông Thị Hồng Yến, "Hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam hiện hành", Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, 2015, Tr.71
32
do đó là hành động tự nguyện xác lập tài sản riêng thành tài sản chung, vậy nhà đất trị
giá 2,3 tỷ đồng được Toà án tuyên chia đôi, trong đó bà P được hưởng toàn bộ nhà đất
và phải trả cho ông H 1,1 tỷ đồng trên cơ sở cho rằng hai người có đóng góp ngang
nhau trong việc xây dựng khối tài sản này.”48

Cấp giám đốc thẩm đã xác định: “Việc hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định nhà
đất là tài sản chung của vợ chồng bà P là đúng vì có cơ sở xác định bà P đã tự nguyện
nhập phần đất vào khối tài sản chung. Tuy nhiên, đất có nguồn gốc do bà P mua trước khi
kết hôn nên phải xác định rằng bà có công sức đóng góp chủ yếu trong khối tài sản
chung, tức bà phải được phần tài sản nhiều hơn người chồng mới đúng”.

Qua một số ví dụ có thể thấy rằng trên thực tế việc xét xử đúng luật và công bằng ở
các vụ án về hôn nhân và gia đình còn gặp nhiều bất cập. Tuy vậy có thể thấy những tín
hiệu đáng mừng, đó là ngành Toà án luôn tổ chức Hội nghị tổng kết ngành tòa án hằng
năm nhằm rút kinh nghiệm cho những sai sót trước đó, trong đó có những sai sót về xét
xử vụ án hôn nhân và gia đình.

3.3. Một số kiến nghị nhằm hạn chế việc nam nữ chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hôn

Hiện nay, tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký là một hiện
tượng xã hội rất phổ biến. Việc không đăng ký kết hôn gây khó khăn cho Nhà nước trong
quản lý, gây ra nhiều hậu quả không tốt ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Quan hệ
hôn nhân bị chi phối bởi kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán và cả những quy định pháp
luật nên việc tồn tại tình trạng trên là tất yếu. Bởi vì những bất lợi của chung sống không
kết hôn so với việc kết hôn hợp pháp, Nhà nước không khuyến khích các trường hợp nam
nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn. Nhóm nghiên cứu xin phép đưa ra
một số biện pháp nhằm hạn chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong
quan hệ hôn nhân và gia đình

Một là, nâng cao hiệu lực của việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nhất
là các quy định về đăng ký kết hôn, giúp người dân hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc đăng ký kết hôn, từ đó thực hiện kết hôn đúng luật định. Để công tác tuyên truyền có
hiệu quả cần có kế hoạch cụ thể với nội dung, hình thức và biện pháp tuyên truyền hữu
hiệu phù hợp với điều kiện của từng địa phương, trình độ dân trí của người dân. Chú
trọng mở rộng và nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, người ở
vùng hải đảo xa xôi bằng sự kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục pháp luật với thuyết
phục người dân làm theo pháp luật. Xây dựng đội ngũ tuyên truyền có trình độ hiểu biết
48
Ví dụ này được tham khảo cùng nguồn với ví dụ ở phần 3.2.1.
33
về pháp luật, kiến thức xã hội nhất định và có khả năng truyền đạt tốt giúp người dân
hiểu một cách rõ nhất về pháp luật hôn nhân và gia đình.

Hai là, cần tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với công tác hộ tịch hôn nhân
và gia đình. Tại các cơ quan cấp cơ sở, cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp
vụ, kỹ năng cho các cán bộ hộ tịch để cập nhật kịp thời, nâng cao kiến thức pháp luật
cũng như các thay đổi mới của luật định. Bên cạnh đó, thường xuyên giám sát, kiểm tra
các sai phạm để phát hiện kịp thời những thiếu sót trong hoạt động quản lý hộ tịch nhằm
nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân. Thường xuyên rà soát, thống kê số liệu chính xác
nhất của từng địa phương về các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn để từ đó có biện pháp ngăn ngừa, vận động họ đi đăng ký đăng ký kết
hôn, phát hiện những trường hợp chung sống trái pháp luật để có biện pháp ngăn chặn kịp
thời.

Ba là, cần thiết phải cho rằng nam nữ tuy có đủ điều kiện kết hôn mà chung sống
không đăng ký kết hôn là bất hợp pháp. Cần có những chế tài xử phạt đối với nam nữ đủ
điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn. Điều này có thể được thực hiện bằng
cách tiến hành nhắc nhở, khuyến khích, phổ biến pháp luật về đăng ký kết hôn trước, sau
đó xử phạt nếu họ vẫn không đăng ký kết hôn sau một thời gian nhất định.

Bên cạnh đó, trong Bộ luật hình sự 2015, các tội trong chương Các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đình49 nói chung và các tội có liên quan đến việc chung sống như
vợ chồng không đăng ký hôn nhân nói riêng còn khá nhẹ, chưa đủ tính răn đe, chưa phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của tội phạm 50. Các tội như Tội vi phạm
chế độ một vợ một chồng, Tội tổ chức tảo hôn” chỉ dừng lại ở tội phạm ít nghiêm trọng.
Trên cơ sở Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm” 51, những tội phạm trên cần
được nâng khung hình phạt để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Bốn là, cần đưa ra những quy định riêng nhằm điều chỉnh quan hệ chung sống như
vợ chồng chưa đăng ký kết hôn, nhất là những quy định liên quan đến tài sản chung và
con chung. Quyền lợi của con trẻ và nghĩa vụ giữa các bên cần được làm rõ. Theo quy
định pháp luật hiện tại, trong quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn,
đứa trẻ sinh ra là con sinh ra không trong thời kỳ hôn nhân nên sẽ không có cha theo
pháp luật. Và nếu người cha không tự nguyện làm thủ tục nhận cha cho con, có thể sẽ
49
Chương XVII Bộ luật hình sự 2015, gồm các điều từ điều 181 đến điều 187
50
Phùng Văn Hoàng, “Bàn về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" theo quy định của Bộ luật Hình
sự”, <https://lsvn.vn/ban-ve-toi-vi-pham-che-do-mot-vo-mot-chong-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-hinh-
su1625654498.html>, truy cập ngày 15/08/2021
51
Điều 20 Hiến pháp 2013
34
phải chứng minh quan hệ cha con bằng con đường tố tụng, gây phức tạp và tốn kém chi
phí.

3.4. Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới

Nhóm nghiên cứu cho rằng cộng đồng LGBTQ+ 52 cũng là một trong những chủ thể
của quan hệ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, nên cần thiết được xem xét
trong khuôn khổ bài tiểu luận này như một phần mở rộng thêm. Ở Việt Nam hiện tại chưa
có bất cứ thống kê nào về tỉ lệ người thuộc LGBTQ+ trong dân số, tuy vậy bằng cái nhìn
thực tế, có thể thấy xung quanh chúng ta luôn tồn tại những người thuộc cộng đồng này.

Trước đây, hôn nhân đồng giới (kết hôn giữa những người mang cùng giới tính) là
bị cấm theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 200053 và hành vi trên có thể bị xử
phạt từ 100.000 đến 500.000 đồng54. Hiện nay, với sự ra đời của Luật hôn nhân và gia
đình 2014, quy định trên đã thay đổi theo chiều hướng cởi mở hơn. Luật này quy định:
“Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”55. Vì kết hôn
đồng giới không được xem là hành vi bị cấm, các điều khoản phạt tiền theo lẽ đương
nhiên cũng đã được bãi bỏ. Quan điểm nhóm nghiên cứu cho rằng: Sự cởi mở hơn trong
quy định này cho thấy rằng nhà làm luật đã và đang chấp nhận du nạp xu hướng thế giới
về bảo vệ quyền con người nói chung và của người thuộc LGBTQ+ nói riêng, “hé mở”
cánh cửa cho việc chấp nhận hôn nhân cùng giới trong tương lai. Tuy vậy do phong tục
tập quán, văn hoá gia đình Việt Nam thực sự chưa thể thích ứng ngay lập tức với thay đổi
này, quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 như một “vùng đệm” để các quan
điểm về đạo đức của xã hội kịp chuẩn bị cho một sự thay đổi lớn chưa từng có tiền lệ
trong tương lai.

Như vậy, trong quá trình “vùng đệm” đang được thực thi, quan hệ kết hôn giữa
những người có cùng giới tính hiện chưa được pháp luật công nhận. Họ có thể làm đám
cưới hay bất cứ lễ nghi, phong tục nào như những cặp nam nữ mà không bị cấm, nhưng
không thể đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy giữa họ không phát sinh
quan hệ vợ chồng mà chỉ là chung sống với nhau.

Điểm khác biệt lớn nhất giữa nam nữ chung sống như vợ chồng và chung sống như
vợ chồng giữa người cùng giới là: Pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng trong tất
52
LGBTQ+ là một từ viết tắt. L: Lesbian (Đồng tính nữ), G: Gay (Đồng tính nam), B: Bisexual (Song tính), T:
Transgender (Chuyển giới), Q: Queer / Questioning (Có bản dạng giới đặc biệt hoặc chưa biết rõ bản dạng giới của
mình). +: Những nhóm bản dạng giới khác.
53
Khoản 5 điều 10 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định các trường hợp cấm kết hôn có “Giữa những người
cùng giới tính”
54
điểm e khoản 1 Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP
55
Khoản 2 điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014
35
cả mọi trường hợp chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới. Khác với một
số trường hợp được công nhận quan hệ vợ chồng (như đã đề cập ở các phần trước của bài
tiểu luận). Vì vậy các vấn đề phái sinh như: Thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng, chế độ
tài sản chung hợp nhất, v.v.. là không tồn tại trong loại quan hệ này.

Việc không công nhận quan hệ vợ chồng giữa những người cùng giới trong thời
điểm hiện tại đang đặt ra nhiều khó khăn và thách thức cho những chủ thể trong quan hệ
này. Hôn nhân giữa họ là hôn nhân “do họ đặt ra”, và dù muốn kết hôn hay không, họ
không được công nhận bởi pháp luật về hôn nhân và gia đình. Vì vậy, họ không được
thừa hưởng các quyền và nghĩa vụ về nhân thân, về tài sản của Luật hôn nhân và gia đình
như: Không thuộc bất kỳ hàng thừa kế nào của “bạn đời” của mình, không được hưởng
chế độ tài sản sở hữu chung hợp nhất, không được bảo vệ bởi chế độ hôn nhân một vợ
một chồng, v.v… Bởi vì những lý do trên, quan hệ chung sống giữa những người cùng
giới thường không bền vững, do những quan hệ này chỉ được họ tự thừa nhận với nhau
mà không bị tác động bởi pháp luật hôn nhân gia đình - một công cụ để điều chỉnh và bảo
vệ các quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Trong tương lai, nếu các quy định của pháp luật về hôn nhân đồng giới tiếp tục cởi
mở hơn, quy định nhiều hơn về quyền và nghĩa vụ cho loại quan hệ này cũng như thừa
nhận nó, nhóm nghiên cứu cho rằng nó chắc chắn sẽ tác động giúp giảm đi hiện tượng
chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn cũng như giảm thiểu tác động tiêu cực
của nó đến an sinh xã hội.

36
KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để duy trì, ổn định và phát
triển tình trạng hôn nhân và gia đình ở Việt Nam trong giai đoạn đất nước đang phát
triển, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được ban hành với nhiều quy định nhằm đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn đời sống.

Nhìn từ góc độ lý luận về hôn nhân theo luật định và việc chung sống như vợ
chồng không đăng ký kết hôn, bài viết đã đi sâu phân tích về điều kiện của hôn nhân hợp
pháp (phải đăng ký kết hôn) theo quy định Luật Hôn nhân và gia đình; chỉ ra các hạn chế
và bất lợi của việc vợ chồng chung sống không đăng ký kết hôn. Về góc độ tương quan
giữa hôn nhân hợp pháp và chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết
hôn hay kết hôn trái pháp luật đều có những điểm giống nhau và khác nhau, từ đó cho
thấy hôn nhân phải đăng ký kết hôn thì mới nhận được sự công nhận từ nhà nước, pháp
luật và xã hội.

Mặc dù chưa có quy định cụ thể nhưng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã
thông thoáng trong việc giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn. Trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục nâng cao chất
lượng trong việc áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình, đặc biệt sớm ban hành văn bản
hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, nâng cao hiệu
quả trong công tác xét xử của Tòa án, tạo nền tảng trong việc xây dựng gia đình hạnh
phúc và bền vững.

Thông qua đề tài “Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn - một số
vấn đề pháp lý và thực tiễn”, nhóm đã đi sâu phân tích những vấn đề pháp lý cũng như
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định điều chỉnh về việc nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Do kiến thức còn hạn chế, bài
viết không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện, rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn.

37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT / ÁN LỆ

1. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013

2. Sắc lệnh số 159/SL về việc quy định vấn đề ly hôn do chủ tịch chính phủ
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành

3. Bộ luật dân sự 2015

4. Bộ luật hình sự 2015

5. Luật hôn nhân và gia đình 1959

6. Luật hôn nhân và gia đình 1986

7. Luật hôn nhân và gia đình 2000

8. Luật hôn nhân và gia đình 2014

9. Luật Quốc tịch Việt Nam 2008

10. Luật hộ tịch năm 2014

11. Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

12. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày


03/01/2000 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội
về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

13. Thông tư 60/TATC năm 1978 hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về
hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội đã có vợ, có chồng trong Nam tập
kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.

14. Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hộ tịch 2014

15. Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP về việc tiếp tục đăng ký kết hôn cho các trường
hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm
1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001

16. Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế

38
TÀI LIỆU LUẬN VĂN

1. Nông Thị Hồng Yến, "Hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng
theo pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành", Luận văn thạc sĩ Luật
học, Đại học quốc gia Hà Nội, 2015

2. Hoàng Hạnh Nguyên, “Những khía cạnh pháp lý của thực tế chung sống như vợ
chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
quốc gia Hà Nội, 2011

TÀI LIỆU TẠP CHÍ / BÁO CHÍ

1. Th.S Lương Thị Hoà, “Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn: Thực
trạng, đánh giá và hướng hoàn thiện pháp luật” <http://gopfp.gov.vn/chi-tiet-an-
pham/-/chi-tiet/chung-song-nhu-vo-chong-khong-%C4%91ang-ky-ket-hon-
%0Athuc-trang-%C4%91anh-gia-va-huong-hoan-thien-phap-luat-8312-
3307.html>, truy cập ngày 17/8/2021

2. Báo Zing News, “Người trẻ Hàn Quốc sống chung như vợ chồng nhưng không
đăng ký kết hôn” <https://zingnews.vn/nguoi-tre-han-song-chung-nhu-vo-chong-
nhung-khong-dang-ky-ket-hon-post1192085.html>, truy cập ngày 17/8/2021

3. Pew research center, “8 facts about love and marriage in America”,


<https://www.pewresearch.org/fact-tank/2019/02/13/8-facts-about-love-and-
marriage/>, truy cập ngày 17/8/2021

4. Tạp chí Luật sư Việt Nam, “Bàn về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" theo
quy định của Bộ luật Hình sự”, < https://lsvn.vn/ban-ve-toi-vi-pham-che-do-mot-
vo-mot-chong-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-hinh-su1625654498.html>

39

You might also like