You are on page 1of 17

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

----------

BÀI TẬP NHÓM 3

MÔN TỐ TỤNG DÂN SỰ

ĐỀ SỐ 14

Hà Nội, 2023

MỤC LỤC

1
MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
PHẦN 1. PHÂN TÍCH QUAN HỆ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ..............5
1. Khái niệm quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.....................................................5
2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự................................................6
3. Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự............................................7
3.1. Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự............................................8
3.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự................................................8
3.3. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.............................................9
PHẦN 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI MỘT
SỐ MỐI QUAN HỆ PHÁP LUẬT KHÁC...........................................................9
1. Mối quan hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự với Luật hôn nhân và gia đình năm
2014.......................................................................................................................9
1.1. Các vụ việc trong chế định kết hôn trong mối liên hệ với BLTTDS năm
2015.....................................................................................................................11
1.2. Các vụ việc về chế độ tài sản của vợ chồng trong mối liên hệ với BLTTDS.......12
1.3. Các vụ việc về xác định cha, mẹ, con trong mối liên hệ với BLTTDS năm
2015.....................................................................................................................13
1.4. Các vụ việc về ly hôn, cấp dưỡng trong mối liên hệ với BLTTDS năm 2015.....14
KẾT LUẬN.........................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................17

2
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3

Mã sinh
Họ và tên Phân công công việc Đánh giá
STT viên

1.3 và 1.4 của Phần 2, Mở


1 433343 Phạm Minh Châu A
đầu và Kết luận

2 463334 Trần Trọng Thành 3 của Phần 1 A

3 463338 Nguyễn Khánh Tùng 1, 1.1 và 1.2 của Phần 2 A

4 463418 Trần An Dương Powerpoint A

5 463340 Nguyễn Hoàng Việt Powerpoint A

6 463347 Nguyễn Anh Tú 1 và 2 của Phần 1 A

ĐỀ BÀI SỐ 14:
Phân tích quan hệ pháp luật tố tụng dân sự? so sánh với quan hệ pháp luật khác
(Dân sự, hôn nhân gia đình , kinh doanh thương mại, lao động, tố tụng hành
chính, tố tụng hình sự.)

3
MỞ ĐẦU

Trong đời sống xã hội, những quan hệ xuất hiện trong quá trình hoạt động xã hội
của con người, từ việc sản xuất đến phân phối, lưu thông tài sản nhằm thỏa mãn các
nhu cầu về vật chất, tinh thần của từng chủ thể thì được gọi là quan hệ xã hội. Quan hệ
xã hội có thể hình thành giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, với nhà
nước, giữa các tổ chức với nhau trong các lĩnh vực về tài sản, chính trị, lao động, đất
đai, hôn nhân – gia đình,…
Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi một tổng thể phức tạp các quy phạm xã
hội. Đó có thể là quy phạm pháp luật, quy phạm đạo đức, quy phạm của các tổ chức,
phong tục tập quán, các tín điều tôn giáo,… Các quy phạm pháp luật quy định cho các
bên tham gia quan hệ xã hội có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định cũng như
trách nhiệm áp dụng cho mỗi bên khi có hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của bên kia.
Khi đó, sẽ xuất hiện quan hệ pháp luật tương ứng với quan hệ xã hội được quy
phạm pháp luật điều chỉnh. Các quy phạm pháp luật dân sự quy định cho các chủ thể
tham gia quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phải thực hiện hoặc kiềm chế không
thực hiện những hành vi nhất định để thỏa mãn lợi ích của mình nhưng phải phù hợp
với lợi ích nhà nước, được hưởng những quyền nhất định và gánh chịu trách nhiệm khi
có hành vi vi phạm.
Chính vì vậy, qua môn học em chọn vấn đề: “Phân tích quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự. So sánh với quan hệ pháp luật khác” làm bài tiểu luận kết thúc học
phần của mình.

4
PHẦN 1
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

1. Khái niệm quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự làm nảy sinh nhiều quan hệ
khác nhau giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đương sự, người đại
diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và những người liên
quan. Các quan hệ này phát sinh trong tố tụng dân sự – từ khi người khởi kiện nộp đơn
khởi kiện đến khi thi hành xong bản án, quyết định của toà án. Các chủ thể tham gia
vào các quan hệ này với những động cơ, mục đích nhất định nhưng nhận thức của họ
rất khác nhau dẫn đến cách xử sự của họ có thể khác nhau. Để bảo đảm việc giải quyết
vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng và đúng đắn, luật tố tụng dân sự đã
tác động lên các quan hệ này bằng việc quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham
gia các quan hệ đó, tức là điều chỉnh nó. Theo lý luận Mác – Lê-nin về nhà nước và
pháp luật thì quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội. Do vậy,
các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự nói trên là quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.

Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật tố tụng dân sự điều chỉnh. Đó là quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi
hành án dân sự, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, người làm chứng; người giám định, người phiên dịch, người
định giá tài sản và những người liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự và được các
quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh.

Quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật. Tuy
vậy, tính đa dạng và phong phú của các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự đã dẫn
đến Sự đa dạng và phong phú của các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Như tất cả các
quan hệ pháp luật khác, các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự đều được hình thành, tồn
tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế xã hội.

Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự không có sự bình
đẳng giữa các chủ thể, trong đó có Tòa án, Cơ quan thi hành án là các chủ thể có vai
trò quyết định đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Vụ việc dân sự là vụ việc phát
sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và

5
lao động do Tòa án giải quyết. Vụ việc dân sự được chia làm 2 loại: vụ án dân sự và
việc dân sự.

- Vụ án dân sự là việc có sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự


mà họ không thể thương lượng được nên nhờ Tòa án giải quyết.

- Việc dân sự là loại vụ việc dân sự mà phát sinh, chấm dứt, thay đổi các quan hệ
pháp luật phải do tòa án xem xét quyết định như: Tòa án xem xét yêu cầu tuyên bố một
người là mất tích hoặc đã chết; bị hạn chế hay bị mất năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ
quyết định tuyên bố một người là mất tích hay đã chết; yêu cầu hủy bỏ việc kết hôn
trái pháp luật,…

2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự mang
đầy đủ các đặc điểm của quan hệ pháp luật là quan hệ có ý chí, xuất hiện trên cơ sở các
quy phạm pháp luật, nội dung được cấu thành bởi quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc
thực hiện được bảó đảm bằng sự cưỡng chế nhà nước. Tuy vậy, do quan hệ pháp luật
tố tụng dân sự cụ thể là quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể nhất định cổ quyền và nghĩa
vụ pháp lý nên ngoài những đặc điểm chung của quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa,
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự còn có những đặc điểm riêng sau:

- Toà án thường là một bên của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự Toà án là chủ
thể đặc biệt duy nhất được thực hiện quyền lực của Nhà nước để giải quyết vụ việc dân
sự, có quyền ra các quyết định buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải thi
hành. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình toà án tham gia vào hầu hết các
quan hệ nảy sinh trong tố tụng nên trở thành chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự.

- Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh trong tố tụng và do luật tố tụng
dân sự điều chỉnh. Việc giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh các quan hệ khác nhau
giữa những cơ quan, tổ chức và những người tham giạ vào quá trình đó. Các quan hệ
này được các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh nên trở thành quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự. Tuy vậy, đối với những quan hệ phát sinh ngoài tố tụng thì
không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự nên không phải là các quan
hệ pháp luật tố tụng dân sự. Trên thực tế, quá trình giải quyết vụ việc dân sự có thể
phát sinh nhiều quan hệ khác nữa như quan hệ giữa đương sự với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc công chứng, chứng thực bản sao các giấy tờ tài liệu liên quan

6
đến vụ việc dân sự, chứng thực việc uỷ quyền... Các quan hệ này cũng không thuộc
đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự mà thuộc đối tượng điều chỉnh của luật
hành chính. Chính vì thế, những quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng nhưng phải
được luật tố tụng dân sự điều chỉnh mới là quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.

- Các quan hệ pháp luật tố tụ ng dân sự phát sinh, tồn tại trong một thể thống
nhất. Tuy trong tố tụng, địa vị pháp lý của các chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
khác nhau nhưng hoạt động tố tụng các chủ thể đều liên quan đến việc thực hiện mục
đích của tố tụng dân sự là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, mỗi
hành vi tố tụng của một chủ thể đều liên quan đến nhau, dẫn đến những hậu quả pháp
lý đối với nhiều chủ thể khác và góp phần tạo nên sự vận động và phát triển của quá
trình tố tụng. Chính điều này đã làm cho các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng
dân sự gắn kết lại với nhau, tồn tại cùng nhau.

3. Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Cũng như quan hệ pháp lý khác, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm ba
thành phần: khách thể, chủ thể, nội dung.

3.1. Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, mỗi chủ thể có những nhiệm
vụ, mục đích khác nhau. Nguyên đơn mong muốn yêu cầu của mình được toà án chấp
nhận, bị đơn mong muốn toà án bác yêu cầu của nguyên đơn, toà án mong muốn giải
quyết nhanh chóng và đúng đắn được vụ việc dân sự... Tuy vậy, tất cả các chủ thể đều
có một mong muốn chung là làm sao toà án có thể giải quyết được yêu cầu của đương
sự hay vụ việc dân sự để chẩm dứt tranh chấp giữa các đương sự tức là giải quyết quan
hệ pháp luật nội dung giữa các đương sự. Đây chính là động lực thúc đẩy các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự và là mục đích, mối quan tâm chung của các
chủ thể. Theo lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, khách thể của quan hệ
pháp luật là những gì các bên chủ thể mong muốn đạt được. Do vậy:

Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là việc giải quyết quan hệ pháp
luật nội dung tranh chấp giữa các đương sự hay việc giải quyết quan hệ pháp luật nội
dung có chứa đựng những sự kiện pháp lý mà toà án có nhiệm vụ xác định.

Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có đầy đủ những đặc điểm của
khách thể quan hệ pháp luật nói chung: là cái mà các chủ thể mong muốn đạt được, là
động lực thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ. Tuy vậy, khách thể của quan hệ pháp
7
luật tố tụng dân sự có điểm khác với khách thể của nhiều quan hệ pháp luật khác ở chỗ
lợi ích về vật chất không hoàn toàn chi phối việc tham gia quan hệ của tất cả cảc chủ
thể. Trong nhiều trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
xuất phát từ nghĩa vụ do pháp luật quy định.

3.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là một yếu tố cấu thành cơ bản của
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tính đa dạng của các quan hệ được các quy phạm
pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh dẫn đến tính đa dạng của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tuy vậy, không phải bất kỳ cá nhân, tổ chức nào
cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Để bảo đảm việc giải quyết
nhanh chóng, đúng đắn các vụ việc dân sự và quyền, lợi ích của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức liên quan đến vụ việc dân sự, Nhà nước quy định điều kiện cầc chủ thể quan
hệ pháp luật tố tụng dân sự. Do vậy, việc xác định đúng các chủ thể cùa quan hệ pháp
luật tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành
án dân sự.

Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các cá nhân, tổ chức tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự thì chủ thể của quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự bao gồm: Toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đương sự,
người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và người
liên quan.

Tuỳ theo mục đích, vai trò tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể này mà pháp
luật quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Căn cứ vào mục đích tham gia
tố tụng và địa vị pháp lý của các chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có thể phân
các chủ thể thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm các chủ thể có nhiệm vụ, quyền
hạn giải quyết vụ việc dân sự, tổ chức thi hành án dân sự, kiểm sát việc tuận theo pháp
luật trong quá trình tố tụng như toà án, viện kiểm sát… Nhóm thứ hai bao gồm các chủ
thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác
như đương sự, người đại diện của đương sự… Nhóm thứ ba bao gồm các chủ thể tham
gia tố tụng để hỗ trợ toà án trong việc giải quyết vụ việc dân sự như người làm chứng,
người giám định… và người liên quan.

8
3.3. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

Nội dung của quan hệ pháp luật phản ánh địa vị pháp lý của các chủ thể. Theo
quan điểm cụ thể, nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự gồm quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.

Quyền tố tụng dân sự là cách xử sự mà pháp luật tố tụng dân sự quy định cho các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện. Tuỳ theo mục đích,
tính chất tham gia tố tụng của các chủ thể mà pháp luật tố tụng dân sự quy định cho
mỗi chủ thể các quyền tố tụng dân sự nhất định. Trong đó, các quyền của toà án, viện
kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự có tính chất đặc biệt, mang tính quyền lực nhà
nước, ngoài các cơ quan này không chủ thể nào có.

Nghĩa vụ tố tụng dân sự là cách xử sự bắt buộc mà pháp luật tố tụng dân sự quy
định cho các chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc
giải quyết vụ việc dân sự và tính chất tham gia tố tụng của các chủ thể mà pháp luật tố
tụng dân sự quy định cho mỗi chủ thể có các nghĩa vụ tố tụng nhất định. Trong đó,
việc quy định cụ thể nghĩa vụ tố tụng dân sự của các đương sự là vấn đề rất cần thiết,
tạo được điều kiện thuận lợi cho toà án trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của các chủ thể trong quá trình
tố tụng dân sự có ý nghĩa tạo nên sự vận động và phát triển của tố tụng dân sự. Để bảo
đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự được tốt thì các chủ thể phải
thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của mình theo quy định của pháp
luật và có thiện chí. Việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quyền, nghĩa
vụ tố tụng dân sự của các chủ thể sẽ ảnh hưởng lớn đối với tiến trình tố tụng dân sự.
Do vậy, để bảo đảm được điều này luật tố tụng dân sự đã quy định việc áp dụng chế tài
pháp lý đổi với các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các qụyền,
nghĩa vụ tố tụng của họ.

PHẦN 2
MỐI QUAN HỆ GIỮ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI MỘT SỐ MỐI
QUAN HỆ PHÁP LUẬT KHÁC

1. Mối quan hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự với Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014
Luật HNGĐ năm 2014 quy định các chế định như kết hôn, ly hôn, quyền và
nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, cấp dưỡng… trong mỗi chế định đều
có quy định rõ thẩm quyền giải quyết các vụ việc thuộc về cơ quan hành chính nhà nước
9
hay cơ quan tư pháp. Từ đó, BLTTDS cũng quy định các vụ việc hôn nhân và gia đình
thuộc thẩm quyền giải quyết tại Tòa án. Cụ thể như sau:
+ Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án:
Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly
hôn.
Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp người nuôi con sau khi ly hôn;
Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ;
Tranh chấp về cấp dưỡng;
Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ về mục đích
nhân đạo.
Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật.
Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp theo quy định của
pháp luật thuộc thẩm quyên giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.
+ Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án:
Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;
Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình.
Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm
nom con sau khi ly hôn.
Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp Luật HNGĐ;
Yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện the bản án, quyết định của Tòa án.
Yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng theo quy định
của pháp Luật HNGĐ;
Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không côn nhận bản án,
quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia
đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài không
có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
10
Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp
Luật HNGĐ.
Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, so với Bộ luật tố tụng năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011) thì một số
vụ việc hôn nhân và gia đình đã được bổ sung kịp thời. Quy định này xuất phát từ việc
Luật HNGĐ năm 2014 đã sửa đổi và bổ sung một số vấn đề mới đã và đang phát sinh
trên thực tế đời sống xã hội. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, BLTTDS chưa có sự
thay đổi Tòan diện để có thể bao quát được các vấn đề mới mà Luật HNGĐ năm 2014
đã đề cập đến, hoặc xét dưới góc độ tố tụng, Luật HNGĐ năm 2014 cũng còn nhiều
vấn đề đã đề cập nhưng không giải quyết triệt để, do đó, việc áp dụng pháp luật giải
quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình trên thực tế vẫn gặp nhiều vướng mắc, khó
khăn.
1.1. Các vụ việc trong chế định kết hôn trong mối liên hệ với BLTTDS năm
2015
Theo Luật HNGĐ năm 2014, những vụ việc trong chế định kết hôn thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án bao gồm hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc kết
hôn không đúng thẩm quyền, nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn. BLTTDS năm 2015 đã quy định các vụ việc trong chế định kết hôn mà có tranh
chấp, bao gồm, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật (Điều 28 BLTTDS
năm 2015); các vụ việc trong chế định kết hôn mà có yêu cầu đó là hủy việc kết hôn trái
pháp luật (Điều 29 BLTTDS năm 2015).
Qua đó chúng tôi thấy, chưa có sự tương thích giữa luật nội dung và luật hình
thức khi điều chỉnh các vụ việc trong chế định kết hôn. BLTTDS năm 2015 quy định
về yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật nhưng không đề cập đến yêu cầu buộc chấm
dứt việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật, hoặc yêu cầu tuyên bố không công
nhận là vợ chồng. Trong khi đó, trong các vụ việc có tranh chấp thì BLTTDS quy định
về chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật (khoản 7 điều 28). Đây chỉ là phần giải quyết
hậu quả khi xử lý việc hủy kết hôn trái pháp luật hay xử lý quan hệ nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng. Điều này là không hợp lý vì đối với hủy việc kết hôn trái
pháp luật, BLTTDS chia ra hai trường hợp: nếu yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
thì xếp vào phần yêu cầu (Điều 29 BLTTDS), nếu không thỏa thuận được về chia tài
sản khi hủy việc kết hôn trái pháp luật thì xếp vào phần tranh chấp (Điều 28
BLTTDS). Vậy đối với trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng cũng phải áp
dụng tương tự như hủy kết hôn trái pháp luật mới là hợp lý và đầy đủ.
11
Theo Luật HNGĐ năm 2014, những trường hợp chung sống như vợ chồng trái
pháp luật được xác định bao gồm: Tảo hôn; người đang có vợ, có chồng mà chung
sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà chung sống
như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng; chung sống như vợ chồng giữa những
người cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha
mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ, nuôi với con nuôi, cha chồng với
con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng. Ngoài ra còn có các trường hợp chung sống như vợ chồng không trái pháp luật
như hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng không vi phạm điều cấm, một người
chung sống như vợ chồng với một người đang bị mất năng lực hành vi dân sự, hai
người đồng tính chung sống với nhau như vợ chồng; Trường hợp kết hôn không đúng
thẩm quyền. Đối với quan hệ chung sống giữa những người cùng giới tính là loại quan
hệ đặc biệt, việc giải quyết hậu quả pháp lý không hoàn tòan giống như hậu quả của
trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng. Điều này sẽ gây khó khăn khi áp dụng
pháp luật giải quyết các vấn đề phát sinh trên thực tế. Khoản 11 điều 29 BLTTDS năm
2015 cũng có quy định dự phòng “các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình…”; và
BLTTDS năm 2015 còn đề cập đến một nguyên tắc rất hay là “Tòa án không được từ
chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” (khoản 2 điều 4).
BLTTDS có đưa ra nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có
điều luật áp dụng (Điều 45), theo đó, thứ tự ưu tiên áp dụng lần lượt là tập quán, tương
tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng. Tuy
nhiên, việc áp dụng như thế nào để giải quyết vấn đề khi chưa có điều luật áp dụng là
rất khó khăn đối với các Tòa án, đặc biệt là những quan hệ mới phát sinh trong thực tế
đời sống xã hội. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ nếu đã xác định được rõ ràng quan hệ cần
giải quyết thì nên bổ sung như các trường hợp cụ thể khác.
1.2. Các vụ việc về chế độ tài sản của vợ chồng trong mối liên hệ với BLTTDS
Theo Luật HNGĐ năm 2014 thì những vụ việc trong chế định quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bao gồm: Chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ một bên vợ hoặc chồng không đồng
ý chia, hoặc vợ chồng đồng ý chia nhưng không thỏa thuận được chia như thế nào,
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; tuyên bố việc
chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu, tuyên bố chế độ tài sản của vợ chồng bị
vô hiệu do thỏa thuận. BLTTDS năm 2015 quy định vụ việc trong chế định quyền và
nghĩa vụ giữa vợ và chồng có tranh chấp là tranh chấp về chia tài sản của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; Vụ việc trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng có
yêu cầu bao gồm: Công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án, tuyên bố
12
vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp Luật
HNGĐ. 
Về cơ bản đã có sự tương thích giữa Luật HNGĐ năm 2014 với BLTTDS năm
2015 về các vụ việc trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Đối với yêu
cầu tuyên bố việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị coi là vô hiệu thì
BLTTDS năm 2015 không đề cập đến là một sự thiếu sót cần phải bổ sung. Ở Thông
tư số 01/2016/TTLT-TANNTC-VKSNDTC-BTP có hướng dẫn quyền yêu cầu tuyên
bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu bao gồm: “vợ, chồng hoặc vợ
chồng đã thỏa thuận về chế độ tài sản; người bị xâm phạm, người giám hộ của người
bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp do có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng”. Tuy nhiên, văn bản này lại không hướng dẫn gì về quyền yêu cầu tuyên bố
việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị coi là vô hiệu. Theo
quan điểm của chúng tôi, văn bản hướng dẫn luật cần bổ sung vấn đề này theo hướng
tương tự như quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô
hiệu.
1.3. Các vụ việc về xác định cha, mẹ, con trong mối liên hệ với BLTTDS năm
2015
Luật HNGĐ năm 2014 quy định các vụ việc xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án, bao gồm: việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có
tranh chấp, người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết, trường hợp có yêu
cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết, sau đó, người thân thích
của người đó yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người có yêu cầu đã chết,
trường hợp có tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ (như
trường hợp bên mang thai hộ có yêu cầu buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con khi bên
nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, trường hợp bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên
mang thai hộ giao con khi bên mang thai hộ từ chối giao con).
Tuy nhiên, Luật HNGĐ năm 2014 không quy định cụ thể các trường hợp có tranh
chấp trong việc mang thai hộ khi vi phạm điều kiện mang thai hộ hay mang thai hộ vì
mục đich thương mại. BLTTDS quy định các vụ việc trong chế định xác định cha, mẹ,
con khi có tranh chấp bao gồm: Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định
con cho cha, mẹ, tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ về
mục đích nhân đạo; Các vụ việc trong chế định xác định cha, mẹ, con khi có yêu cầu,
đó là, yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp
Luật HNGĐ.
Đối với tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ - đây
là loại tranh chấp mới được bổ sung trong BLTTDS:

13
- Đối với tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cần chỉ rõ là những
tranh chấp nào? Chẳng hạn, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thực hiện trong
nội bộ cặp vợ chồng vô sinh, nhưng sau khi sinh con, vợ chồng đó đã giám định gen
và thấy rằng, đứa trẻ không phải là con mình thì họ có quyền xác định lại quan hệ cha
mẹ và con? Họ có quyền kiện cơ sở y tế đã tiến hành kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không?
Và trường hợp này có thuộc tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
không?
- Đối với tranh chấp về mang thai hộ cũng cần xác định rõ là những tranh chấp
nào? Chẳng hạn, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, chứ không phải vì mục
đích nhân đạo, việc mang thai hộ vi phạm điều kiện mang thai hộ như người mang thai
hộ không phải là người thân thích cùng hàng, việc mang thai hộ không có sự đồng ý
của chồng người mang thai hộ và trong thời gian người mang thai hộ đang mang thai
hoặc sau khi đứa trẻ được sinh ra thì có yêu cầu hủy bỏ việc mang thai hộ. Đây là
những loại vụ việc mà Tòa án vẫn phải giải quyết cho dù không có điều luật áp dụng
theo Điều 4 BLTTDS năm 2015. Trong những trường hợp này, việc giải quyết tuyên
bố văn bản thỏa thuận về mang thai hộ thì không có gì khó khăn vì vẫn có luật áp
dụng, nhưng vấn đề ở chỗ, việc giải quyết hậu quả của nó, mà đặc biệt là xác định cha,
mẹ, con như thế nào? Do đó, pháp Luật HNGĐ cần có những hướng dẫn cụ thể về vấn
đề này.
Mặt khác, đối với quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ thì Luật HNGĐ năm 2014, BLTTDS quy định khá
chung chung, vì vậy, việc xác định chủ thể có quyền yêu cầu là rất khó khăn. Chẳng
hạn ai là người có quyền tuyên bố văn bản thỏa thuận về mang thai hộ là vô hiệu…
1.4. Các vụ việc về ly hôn, cấp dưỡng trong mối liên hệ với BLTTDS năm 2015
Về cơ bản, BLTTDS năm 2015 quy định các vụ việc về ly hôn là tương thích với
Luật HNGĐ năm 2014, bao gồm các tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.; tranh chấp về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp người
nuôi con sau khi ly hôn; tranh chấp về cấp dưỡng và các yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận
của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc
thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; yêu cầu quyền thăm nom con sau khi ly
hôn. Xét trong nội dung áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc về ly hôn thì
BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ
việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng và dựa trên nguyên tắc này BLTTDS
năm 2015 đã quy định nguyên tắc giài quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có
14
điều luật để áp dụng, bao gồm, áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.
Về án lệ, trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đã
có án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua ngày
06/04/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/04/2016 của
Chánh án TANDTC. Trong đó quy định rằng: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng
người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện
tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những
người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử
dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được
tặng cho quyền sử dụng đất.”. Đây là vấn đề rất thực tế gây nhiều tranh cãi trong thực
tiễn xét xử các vụ việc tranh chấp về tài sản khi ly hôn. Luật HNGĐ năm 2014 và các
văn bản Luật trước đây cũng không có quy định nào cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Do
đó, khi án lệ này được thông qua có thể coi đây là một nguồn để các Tòa án sử dụng để
giải quyết các vụ việc tương tự. Tuy nhiên, nếu trên thực tế cũng có những vụ việc xảy
ra tương tự như trên, chỉ khác là quyền sử dụng đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng cho người vợ hoặc người chồng mà vẫn đứng tên cha mẹ chồng hoặc
cha mẹ vợ thì có áp dụng án lệ này để xác định là tài sản chung của vợ chồng hay
không? Trong phần tóm tắt nội dung án lệ nêu trên có đoạn là “đã tiến hành kê khai
đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…”, vậy, đây có được coi là một điều
kiện bắt buộc để xác định đó là tài sản chung của vợ chồng người con hay không?
Theo quan điểm của chúng tôi, không nên coi đây là điều kiện bắt buộc, bởi vì
trên thực tế hiện nay, cán bộ địa chính sẽ không bao giờ tiến hành thực hiện việc đăng
ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng nếu không có hợp đồng
tặng cho tài sản của bố mẹ. Do đó, chỉ cần điều kiện “cha mẹ đã cho vợ chồng người
con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích
đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người
khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà,
đất liên tục, công khai, ổn định…” là đủ. Đây cũng là cơ sở pháp lý để sau này khi sửa
đổi, bổ sung Luật nội dung thì có thể xây dựng thành một quy phạm mới, điều chỉnh
kịp thời và áp dụng pháp luật dễ dàng để giải quyết các tranh chấp về tài sản khi ly
hôn.

KẾT LUẬN

15
Quan hệ xã hội do các quan hệ pháp luật dân sự điều chỉnh, tức là quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ liên quan đến yếu tố nhân thân và tài sản
trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại…Quan hệ pháp
luật dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh từ những lợi ích vật chất, lợi ích nhân
thân được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh, trong đó các bên tham gia bình
đẳng về mặt pháp lý, quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên được nhà nước bảo đảm
thực hiện bằng những biện pháp mang tính cưỡng chế.
Do có sự tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội nên các bên
tham gia vào các quan hệ đó có các quyền và nghĩa vụ pháp lí tương ứng. Các quyền,
nghĩa vụ pháp lí này được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự tác động của các quy
phạm pháp luật vào các quan hệ xã hội không làm mất đi tính xã hội của các quan hệ
đó mà làm cho các quan hệ này mang một hình thức mới “quan hệ pháp luật”. Hậu quả
của nó là các quyền và nghĩa vụ của các bên được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng
những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, các bên đều có mục đích và lợi
ích nhất định nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất hoặc tinh thần. Tuy các quan hệ dân
sự hình thành một cách khách quan nhưng được thực hiện thông qua hoạt động có ý
thức của con người, do vậy việc tham gia hay không tham gia vào quan hệ pháp luật
dân sự, xác định nội dung mối quan hệ mà họ tham gia phải xuất phát từ ý chí của các
bên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16
1. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hà Nội.
2. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hà Nội.
3. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự 2015, Hà Nội.
4. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp
(2016), Thông tư số 01/2016/TTLT-TANNTC-VKSNDTC-BTP, Hà Nội.

17

You might also like