You are on page 1of 95

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ HƯỚNG

ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA,


DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

LÊ THỊ HƯỚNG

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA,
DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Kinh Tế


Mã số:60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đoàn Trung Kiên

Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.

Tác giả luận văn

Lê Thị Hướng
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên xin cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tập thể
giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình dạy dỗ và truyền đạt
cho tôi những kiến thức, kỹ năng cũng như lòng yêu mến, tâm huyết với
nghề.
Xin trân trọng cảm ơn TS. Đoàn Trung Kiên người đã hướng dẫn
cho tôi rất tận tình trong quá trình hoàn thành Luận văn. Nhờ có sự chỉ
bảo và giúp đỡ của Thầy mà tôi đã học hỏi được rất nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu trong việc thực hiện và hoàn thiện Luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, anh em, bạn bè đã quan tâm, tạo điều kiện hết
sức để giúp tôi hoàn thành Luận văn của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, vì lý do thời gian cũng như kiến thức,
kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, tôi không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân
thành từ các thầy cô, bạn bè cùng những người quan tâm đến đề tài để tôi
có thể bổ sung kiến thức và giúp cho Luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 11 năm 201 7


Tác giả luận văn

Lê Thị Hướng
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1

NỘI DUNG................................................................................................. 7

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU HÀNG


HÓA, DỊCH VỤ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA,
DỊCH VỤ .................................................................................................. 7

1.1. Một số vấn đề lý luận về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ...................... 7

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ................... 7

1.1.1.1. Khái niệm đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ........................................... 7

1.1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ .................................... 10

1.1.2. Phân biệt đấu thầu hàng hóa, dịch vụ với đấu giá hàng hóa ............... 12

1.1.3. Các nguyên tắc của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ .................................. 15

1.1.4. Phân loại đấu thầu hàng hóa, dịch vụ .................................................. 19

1.2. Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ....................................... 23

1.2.1. Khái niệm và nội dung của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ .. 23

1.2.2. Vai trò của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ .......................... 25

1.2.3. Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ của một số nước trên thế
giới................................................................................................................... 26

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG


HÓA, DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM ............................................................. 30
2.1. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam ................................................................ 30

2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ ở Việt Nam ................................................................................. 33

2.2.1. Chủ thể tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ...................................... 33

2.2.2. Đối tượng của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ........................................... 35

2.2.3. Hình thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ .................................................. 36

2.2.4. Phương thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ............................................. 38

2.2.5. Trình tự, thủ tục đấu thầu hàng hóa, dịch vụ........................................ 39

Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU


HÀNG HÓA, DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP .... 56

3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở
Việt Nam và một số yêu cầu đặt ra ........................................................ 56

3.1.1. Những kết quả đạt được từ thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam ......................................................................... 57

3.1.1.1. Hệ thống văn bản pháp quy về đấu thầu về cơ bản được hoàn
thiện, thống nhất . .................................................................................... 57

3.1.1.2. Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ngày càng trở lên phổ
biến, tính cạnh tranh và số lượng gói thầu không ngừng tăng lên ............ 57

3.1.1.3. Xây dựng thành công hệ thống đấu thầu qua mạng ..................... 58

3.1.1.4. Các thông tin đấu thầu hầu như đã được công khai hóa .............. 60
3.1.2. Một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thi
hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam ....................... 60

3.1.3. Một số yêu cầu đặt ra đối với vấn đề thi hành pháp luật về đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ ............................................................................................ 63

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam .... 65

3.2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ ở Việt Nam .......................................................................................... 65

3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam ................................................................. 68

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ....................................................................... 72

KẾT LUẬN ............................................................................................. 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................ 75


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trong thời kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử xã hội loài người,
các hoạt động kinh tế luôn chiếm giữ vị trí đặc biệt quang trọng và tác động
mạnh mẽ tới các hoạt động xã hội khác. Hoạt động kinh tế là yếu tố có ý
nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của xã hội loài người, sự phát sinh, tồn
tại, phát triển và tiêu vong của các chế độ khác nhau nhằm duy trì và bảo
đảm cho lợi ích của giai cấp mình. Dù ở bất kỳ chế độ nào cũng không thể
phủ nhận vai trò quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, và
cùng với lịch sử phát triển loài người thì vai trò ấy ngày càng được khẳng
định và không ngừng được mở rộng. Để tác động tới nền kinh tế, Nhà nước
thường sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau, trong đó, hệ thống
pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế vừa là công cụ để Nhà nước
quản lý nền kinh tế, vừa là công cụ của nhà kinh doanh bởi vậy pháp luật là
một bộ phận không thể thiếu cơ chế thị trường.

Do đó hoạt động đấu thầu đang ngày càng trở thành một hoạt động
kinh tế phổ biến, diễn ra ở hầu khắp các quốc gia và trên hầu hết các lĩnh
vực của đời sống kinh tế xã hội. Xuất hiện trên thế giới vào khoảng cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nhưng ở Việt Nam hoạt động đấu thầu mới chỉ
được quan tâm và phát triển từ hơn 10 năm trở lại đây khi nước ta chuyển
từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng
xã hội chủ nghĩa. Có thể nói sự ra đời và tồn tại của hoạt động đấu thầu
trong cơ chế kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan, một mắt xích
quan trọng phục vụ cho các hoạt động sản xuất, tiêu dùng của mọi chủ thể
trong xã hội. Thông qua đấu thầu, việc mua sắm và cung ứng hàng hoá,
2

dịch vụ trên thị trường trở nên linh hoạt, có hiệu quả, đảm bảo lợi ích của
các bên tham gia. Thực tiễn cho thấy, nội dung của công việc đấu thầu rất
đa dạng, tuy nhiên không thể không đề cập đến đấu thầu hàng hoá, dịch vụ
trong thương mại. Hoạt động đấu thầu này lần đầu tiên được ghi nhận tại
Luật Thương mại 1997. Tuy nhiên, Luật Thương mại 1997 mới chỉ quy
định những vấn đề mang tính nguyên tắc về đấu thầu hàng hoá trong
thương mại. Vì vậy, khi thực hiện các hoạt động đấu thầu hàng hoá trong
thương mại, các thương nhân thường phải áp dụng chung những quy định
tại Quy chế đấu thầu dành cho đấu thầu mua sắm hàng hoá công, đấu thầu
xây lắp, đấu thầu tuyển chọn tư vấn… Việc áp dụng chung những quy định
như vậy đã gây không ít khó khăn và làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu
quả của hoạt động đấu thầu hàng hoá trong thương mại này. Nhận thấy
được hạn chế đó, Luật Thương mại năm 2005 ra đời đã sửa đổi và bổ sung
nhiều quy định về đấu thầu hàng hóa dịch vụ, phù hợp với tình hình thực
tiễn. Tuy nhiên với sự phát triển nhanh của hoạt động đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ trong thực tế, một số quy định của pháp luật đã bộc lộ sự thiếu chặt
chẽ, thiếu thống nhất cần sửa đổi theo hướng cụ thể hóa nhằm tạo thuận lợi
cho việc áp dụng thi hành, từ đó dần hoàn thiện khung pháp lý cho việc tổ
chức và thực hiện đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại ở nước ta.

Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn khách quan trên, tôi đã lựa chọn
đề tài: “Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam – Thực trạng
và giải pháp” làm đề tài luận văn tốt nghiệp với mong muốn nghiên cứu
sâu về hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cũng như những quy định của
pháp luật điều chỉnh vấn đề này, qua đó đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả của lĩnh vực pháp luật này ở Việt Nam.
3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Liên quan đến hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam,
trước đây đã có một số đề tài nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về những
vấn đề lý luận nền tảng và những khía cạnh riêng lẻ của đề tài này. Cụ thể:
Trần Thị Thanh Hợp (2007), Tìm hiểu pháp luật về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Phạm Thúy Hà, Một số vấn đề pháp lý về đấu thầu quốc tế theo quy định
của một số tổ chức quốc tế và pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội; Đặng Phương Nhung, Tìm hiểu pháp luật
hiện hành về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thị Thu Trang, Những vấn đề lý luận
và thực tiễn về pháp luật đấu thầu ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội; Đào Thị Thu Hằng (2016), Sách tham khảo
Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Đại học Quốc gia Tp.
Hồ Chí Minh….Ngoài ra còn một số tạp chí, một số bài viết như: Đặng
Văn Được & Ths. Ngô Quỳnh Hoa, Luật Thương mại và các văn bản
hướng dẫn thi hành - 240 câu hỏi đáp Nhà xuất bản Lao động xã hội 2006;
Dương Anh Sơn & TS. Nguyễn Thành Đức (2007), Nhân việc bàn về chất
lượng của Luật thương mại 2005 nên thay đổi cách làm luật, Tạp chí Khoa
học pháp lý số 3/2007…. Có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu, đề
tài khoa học phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc những vấn đề về đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ còn rất ít chủ yếu là các bài nghiên cứu, các khóa luận tốt
nghiệp.

Tuy nhiên các công trình khoa học nghiên cứu này cũng chỉ dừng lại
nghiên cứu ở một số nội dung nhất định, đối với từng nhóm đối tượng cụ
4

thể mà chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích tất cả các nội dung chung cơ bản
nhất xung quanh đề tài pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt
Nam. Đồng thời, chưa có đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực
hiện các quy định pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam.
Chính vì vậy, tác giả mong muốn đóng góp công sức và kiến thức để hoàn
thành đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề về đấu thầu
hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu đề tài là những văn bản pháp luật thực định về
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam mà trước hết và chủ yếu là Luật
Thương mại năm 2005.

Phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn ở việc chủ yếu phân tích và đánh
giá những quy định của Luật Thương mại năm 2005 về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ. Đó là khái niệm, đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, nội
dung cơ bản của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và thực tiễn thi hành
pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.

Luận văn được nghiên cứu sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu chung và các phương pháp cụ thể như: Phân tích so sánh, biện chứng,
thống kê, sơ đồ, logic và lịch sử.
5

5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài


Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ
những vấn đề lý luận về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và pháp luật về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ cũng như phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam,
để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này.

Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải giải quyết là:

- Làm sáng tỏ được những vấn đề lý luận cơ bản nhất về đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ và những vấn đề pháp lý liên quan đến đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ.

- Xác định và phân tích được những nội dung cơ bản của pháp luật
về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam.

- Đánh giá được thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ và kiến nghị được một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam.

6. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu tổng thể, chi tiết những quy định
của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, thực trạng và thực tiễn thi
hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó, Luận văn đưa
ra những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của
việc thực thi các quy định pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Luận
văn đạt được những kết quả nghiên cứu sau đây:

- Về mặt lý luận: Luận văn phân tích, bổ sung những lý luận cơ bản
về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ; phân tích đặc trưng pháp lý của đấu thầu
6

hàng hóa, dịch vụ và các quy định pháp luật có liên quan.

- Về mặt thực tiễn: Luận văn phân tích những nội dung cơ bản của
pháp luật; đánh giá và chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong các qui định
của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ,
từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 03 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và
pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt
Nam.

Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ ở Việt Nam và một số giải pháp.

Vì thời hạn cũng có hạn cũng như kiến thức và trình độ hiểu biết về
vấn đề này còn nhiều hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô,
bạn bè cùng những người quan tâm đến đề tài để có thể bổ sung kiến thức
và giúp cho luận văn được hoàn thiện hơn.
7

NỘI DUNG

Chương 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH


VỤ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH VỤ

1.1. Một số vấn đề lý luận về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

1.1.1.1. Khái niệm đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Khoảng cuối thế kỷ XIX, trên thế giới, nền kinh tế thị trường dưới
tác động của nền cách mạng khoa học kỹ thuật bắt đầu có sự phát triển.
Trong nền kinh tế đó, hầu như không tồn tại sự độc quyền cung cấp một
loại hàng hóa, dịch vụ cho bất kỳ một nhà cung cấp nào mà đòi hỏi các nhà
cung cấp luôn phải cạnh tranh nhau để giành được quyền cung cấp hàng
hóa, dịch vụ trên thị trường. Và để đạt được mục tiêu của mình, những
người bán đã nghĩ ra nhiều phương thức khác nhau, gồm cả phương thức
tích cực và phương thức tiêu cực nhằm làm sao cung cấp được nhiều hàng
hóa nhất. Trước tình hình đó, việc đảm bảo quyền lợi của người mua bắt
đầu được đặt ra với mục đích giúp cho người mua lựa chọn được một nhà
cung cấp hàng hóa, dịch vụ có chất lượng tốt nhất, chi phí thấp nhất, với
thời gian nhanh nhất và hạn chế được nhiều rủi ro nhất… Xuất phát từ
những yêu cầu đó, hình thức mua sắm hàng hóa, dịch vụ thông qua đấu
thầu ra đã đời.

Theo từ điển kinh doanh của Anh (Longman dictionary of Business


English): “Đấu thầu mua sắm là việc sử dụng các phương pháp hoặc nỗ
lực đặc biệt để nhận được hay mua được” còn theo từ điển Luật của
8

Black’s thì: “Đấu thầu mua sắm là các hành động hay cách thức để nhận
được, mua được, là việc người mua và người bán gặp gỡ nhau sao cho
người bán có cơ hội để bán hàng của mình”.

Ngày nay, đấu thầu dần càng phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động này được thực hiện trong nhiều lĩnh vực như thương mại, xây
dưng, điện ảnh, y tế, công nghệ viễn thông, du lịch…. Tuy nhiên, khái niệm
đấu thầu là gì cho đến nay còn tồn tại nhiều khái niệm trái chiều khác nhau,
phụ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, từng khía cạnh khác nhau mà đánh giá.
Theo Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, thì “Đấu thầu là phương thức giao
dịch đặc biệt, người muốn xây dựng một công trình (người gọi thầu) công
bố trước các yêu cầu và điều kiện xây dựng công trình, người dự thầu công
bố giá mà mình muốn nhận, người gọi thầu qua so sánh để lựa chọn nhà
thầu có lợi ích nhất cho mình theo các điều kiện mình đưa ra. Cuộc đấu
thầu chỉ có nhà thầu trong nước tham dự gọi là đấu thầu trong nước. Cuộc
đấu thầu có các nhà thầu trong nước và nước ngoài tham dự gọi là đấu
thầu quốc tế”.1

Một khái niệm khác về đấu thầu được quy định trong Khoản 12 –
Điều 4 Luật Đấu thầu 2013: “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để
ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn,
mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện
hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử
dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu
quả kinh tế”. Tuy nhiên quy định này chỉ áp dụng chủ yếu trong đấu thầu

1
Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa và Nxb Tư pháp, 2013, tr240
9

mua sắm hàng hóa, dịch vụ công, thanh toán bằng tiền ngân sách hoặc có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.

Tùy thuộc vào nội dung công việc phải thực hiện, đấu thầu được
phân thành các loại tương ứng: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, thiết kế, đấu
thầu thi công, xây lắp; đấu thầu mua sắm hàng hóa; đấu thầu thực hiện dịch
vụ; đấu thầu chọn đối tác để thực hiện dự án…

Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại là một loại đấu thầu
tồn tại trên thực tế. Trong thương mại, khái niệm đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ thường được tiếp cận trên cả hai phương diện kinh tế và pháp lý.

Trên phương diện kinh tế, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quan hệ
kinh tế khách quan, ra đời do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, khi
sản xuất và trao đổi hàng hóa diễn biến trong trạng thái cung lớn hơn cầu.
Cơ chế thị trường không đòi hỏi bất kỳ sự tiếp xúc trực tiếp nào giữa nhà
sản xuất và khách hàng, tiếp xúc giữa họ là gián tiếp thông qua giá cả và
việc bán hàng. Khi một chủ thể nào đó có nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử
dụng dịch vụ thì cũng là lúc có rất nhiều người có khả năng đáp ứng nhu
cầu đó, vì vậy, bên mua phải tổ chức đấu thầu để lựa chọn trong số đó
người nào có khả năng cung cấp hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ thỏa mãn
những điều kiện của mình với giá cả hợp lý nhất. Do đó, “đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ là phương thức giao dịch đặc biệt, trước khi thực hiện việc
mua bán, giao kết hợp đồng phải thông qua quá trình lựa chọn nhà thầu
(bên bán) đáp ứng các điều kiện về giá cả và các yêu cầu khác của người
mua”. Bản chất của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở phương diện này cũng
giống với các loại đấu thầu khác.
10

Còn trên phương diện pháp lý, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một
hành vi pháp lý do một nhóm chủ thể đặc biệt trong xã hội – các thương
nhân thực hiện và là đối tượng điều chỉnh của Luật Thương mại.

Theo khoản 1 Điều 214 Luật Thương mại 2005: “Đấu thầu hàng
hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch
vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các
thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng
tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và
thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)”.

Như vậy, dù tiếp cận ở góc độ nào thì đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
trong thương mại đều là hoạt động nhằm lựa chọn bên bán tốt nhất theo yêu
cầu của bên mua để tiến tới giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng
cung ứng dịch vụ.

1.1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể thấy hoạt động đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ trong thương mại mang những đặc điểm nổi bật sau:

Trước hết, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một hoạt động thương mại
nên nó cũng có những đặc điểm chung với các hoạt động thương mại khác,
đó là:

- Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện bởi những
nhà thầu tham dự có tư cách pháp nhân;

- Hoạt động đấu thầu được thực hiện nhằm mục đích sinh lời;

- Đối tượng của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là các hàng hóa thương
mại được phép lưu thông theo quy định của pháp luật;
11

- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ đấu thầu được xác
lập theo những hình thức pháp lý nhất định do pháp luật quy định.

Bên cạnh đó, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại còn có
những đặc trưng cơ bản như sau:

Thứ nhất, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại luôn gắn liền
với quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại. Đấu thầu chỉ
được tổ chức khi một bên chủ thể có nhu cầu mua sắm hàng hóa hoặc sử
dụng dịch vụ với mục đích lựa chọn người cung cấp hàng hóa, dịch vụ tốt
nhất theo yêu cầu. Kết quả đấu thầu sẽ là cơ sở để các bên thương thảo hợp
đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại, trong đó nội dung
hợp đồng bao gồm cả những chi tiết của hồ sơ dự thầu. Vì thế, thực chất,
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ chỉ là giai đoạn tiền hợp đồng thương mại chứ
không hẳn là một hoạt động thương mại độc lập.

Thứ hai, các bên trong quan hệ đấu thầu hàng hóa dịch vụ cũng
chính là bên mua và bên bán hàng hóa, dịch vụ. Bên mời thầu có nhu cầu
mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ, còn bên dự thầu là thương nhân có
năng lực cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho gói thầu. Nếu đấu thầu thành
công, các bên ký kết được hợp đồng, thì bên dự thầu sẽ trở thành bên mua,
bên mời thầu sẽ trở thành bên bán trong quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ
thương mại.

Thứ ba, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quá trình mua bán hàng
hóa, dịch vụ luôn có sự tham gia của một bên mời thầu và nhiều nhà thầu.
Sở dĩ có đặc điểm này là vì xuất phát từ bản chất của đấu thầu là phương
thức để giúp người mua lựa chọn người bán nên trong mỗi gói thầu phải tạo
12

ra sự cạnh tranh càng lớn càng tốt giữa những người có năng lực bán hàng,
thông qua đó, người mua có thể lựa chọn được người bán tốt nhất.

Thứ tư, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện dưới hình thức
pháp lý là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu là văn bản do
bên mời thầu lập ra, trong đó thể hiện đầy đủ những yêu cầu về mặt kỹ
thuật, tài chính, thương mại… của hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm, sử dụng
và những điều kiện khác của gói thầu. Căn cứ vào hồ sơ dự thầu, bên mời
thầu xem xét, lựa chọn người thắng cuộc để ký kết hợp đồng. Những hồ sơ
này chính là những căn cứ pháp lý làm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

Thứ năm, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một quá trình gồm nhiều giai
đoạn. Muốn tiến hành hoạt động đấu thầu, các bên phải thực hiện qua nhiều
giai đoạn mời thầu, dự thầu, mở thầu, xét thầu, xếp hạng và lựa chọn nhà
thầu, công bố kết quả đấu thầu đến ký kết hợp đồng. Mỗi giai đoạn của quá
trình đấu thầu đều hướng tới một mục tiêu khác nhau nhưng giữa chúng
vẫn có mối liên hệ mật thiết, gắn bó.

1.1.2. Phân biệt đấu thầu hàng hóa, dịch vụ với đấu giá hàng hóa

Bên cạnh đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, đấu giá hàng hóa cũng đã và
đang trở thành một hoạt động thương mại ngày càng trở nên phổ biến trong
nền kinh tế thị trường. Xét về bản chất, rõ ràng đây là hai hoạt động hoàn
toàn độc lập, tuy nhiên giữa chúng cũng có khá nhiều điểm tương đồng, cụ
thể như về mục tiêu lợi nhuận; nguyên tắc chung đảm bảo tính cạnh tranh,
công bằng và minh bạch; đối tượng là hàng hóa thương mại được phép lưu
thông; quyền và nghĩa vụ được xác định theo pháp luật thương mại… Mặc
13

dù vậy, cho dù giữa hai hoạt động có nhiều điểm tương đồng như đã nêu
trên nhưng vẫn không khó để phân biệt chúng bởi giữa hai hoạt động này
vẫn có những điểm khác biệt cơ bản có thể kế đến như:

Thứ nhất, về bản chất kinh tế: Nếu đấu thầu được biết đến là một
phương thức để bên mua lựa chọn đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ
(bên bán) thì đấu giá lại là phương thức để bên bán xác định đối tượng mua
hàng (bên mua). Đối với đấu thầu, thông qua hoạt động mời thầu, người
mua (bên mời thầu) có thể lựa chọn thương nhân dự thầu đáp ứng được các
yêu cầu về giá cả, điều kiện kinh tế - kỹ thuật nhằm mua hàng hóa, dịch vụ
với mức giá hợp lý và chất lượng tốt tương ứng. Đấu thầu xuất hiện trong
nền kinh tế khi quan hệ cung lớn hơn quan hệ cầu về hàng hóa, và thị
trường thuộc về người mua. Ngược lại, bán đấu giá lại là hình thức bán tài
sản công khai để chọn lựa trong nhiều người mua người trả giá cao nhất, ít
nhất bằng giá khởi điểm và người chiến thắng là người mua được tài sản. Ở
trường hợp này, quan hệ về cầu lớn hơn về cung, hay thị trường của bán
đấu giá tài sản thuộc hoàn toàn về người bán. Mặc dù vậy, trên thực tế, đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ được áp dụng khá thường xuyên, phổ biến, trong
khi đó đấu giá hàng hóa thường chỉ áp dụng cho những thị trường mang
tính cục bộ hoặc một số loại hàng hóa nhất định.

Thứ hai, về bản chất pháp lý: Về bản chất pháp lý, đấu giá hàng hóa
là một hành vi pháp lý nhưng đôi khi do sự khác nhau về chủ thể, mục đích
mà đấu giá hàng hóa có thể là một hành vi dân sự thông thường hoặc trở
thành một hoạt động thương mại độc lập của thương nhân. Do đó, trong
hoạt động đấu giá hàng hóa có thể có những trung gian làm dịch vụ bán đấu
giá, tiến hành việc bán đấu giá theo ủy quyền của người bán hàng hóa.
14

Thứ ba, về đối tượng: Xuất phát từ tính chất đặc thù của việc bán
hàng theo phương thức đấu giá mà không phải bất kỳ hàng hóa thương mại
nào cũng được các chủ sở hữu lựa chọn bán theo phương thức này. Chính
vì vậy, hầu hết chỉ những hàng hóa có đặc thù về giá trị cũng như giá trị sử
dụng thì mới được cân nhắc để lựa chọn bán theo phương thức đấu giá. Bởi
những hàng hóa này, không như những loại hàng hóa khác rất khó trong
việc xác định giá trị thực của nó… Còn đối với đấu thầu hàng hóa dịch vụ
trong thương mại, hàng hóa trong đấu thầu hàng hóa dịch vụ cũng vô cùng
đa dạng bao gồm tất cả các loại hàng hóa, kể cả những loại hàng hóa thông
thường mà pháp luật cho phép kinh doanh. Trong đấu giá hàng hóa người
bán chỉ đưa ra một mức giá cơ sở (giá khởi điểm) để người mua tham khảo,
người mua được hàng bán đấu giá là người trả giá cao nhất. Đấu thầu hàng
hóa dịch vụ lại khác, người thắng thầu là người có giá được đánh giá là
thấp nhất sau khi xét thầu. Hơn nữa, nếu như đối tượng đem ra bán đấu giá
chỉ có thể là hàng hóa thì đối tượng đem ra đấu thầu không chí có hàng hóa
mà còn có cả dịch vụ.

Thứ tư, về hình thức pháp lý: Nếu như hình thức pháp lý của quan hệ
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu, thì hình
thức pháp lý của quan hệ bán đấu giá hàng hóa là hợp đồng dịch vụ tổ
chức đấu giá hàng hóa và văn bản đấu giá hàng hóa.

Thứ năm, về chủ thể: Trong đấu thầu các chủ thể bao gồm: bên mời
thầu và bên dự thầu. Bên mời thầu có thể là thương nhân hoặc không,
nhưng bên dự thầu phải là thương nhân. Trong bán đấu giá hàng hóa lại bao
gồm các chủ thể: người tổ chức đấu giá, người tham gia đấu giá và người
điều hành đấu giá. Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh
15

doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong trường hợp
người bán hàng tự tổ chức đấu giá. Người điều hành đấu giá là người tổ
chức đấu giá hoặc người được người tổ chức đấu giá uỷ quyền điều hành
bán đấu giá. Tức là ở bán đấu giá hàng hóa, hoạt động bán hàng có thể
thông qua trung gian - thương nhân chuyên kinh doanh dịch vụ bán đấu giá.
Còn đối với đấu thầu hàng hóa dịch vụ, để đảm bảo tính hiệu quả trong
công tác tổ chức đấu thầu, pháp luật không cho phép có các thương nhân
chuyên kinh doanh dịch vụ đấu thầu.

Ngoài các tiêu chí chính để phân biệt như trên, chúng ta có thể kể
đến một số tiêu chí khác như về tính công khai, đối tượng được bảo vệ
quyền lợi… Việc phân biệt được đấu thầu hàng hóa, dịch vụ với đấu giá
hàng hóa sẽ giúp chúng ta lựa chọn được phương thức phù hợp, có lợi nhất
trước những biến động cung - cầu trên thị trường, thỏa mãn tối đa nhưng
mục tiêu đặt ra.

1.1.3. Các nguyên tắc của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Nguyên tắc trong đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là những tư tưởng chỉ
đạo được rút ra từ những quy định pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
do nhà nước ban hành cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia, ký kết, buộc các bên tham gia quan hệ đấu thầu phải tuân theo.
Về cơ bản, hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được thực hiện dựa vào
các nguyên tắc sau.

- Nguyên tắc coi trọng tính hiệu quả:

Tính hiệu quả luôn được coi là mục tiêu hàng đầu khi thực hiện đấu
thầu nói chung cũng như đấu thầu hàng hóa, dịch vụ nói riêng. Các gói thầu
16

mua sắm hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở có sự tính toán kĩ về hiệu
quả kinh tế - xã hội mà nó mang lại. Hoạt động đấu thầu chỉ được tổ chức
khi bên mời thầu chứng minh được ưu thế của đấu thầu so với áp dụng các
hình thức cung ứng hàng hóa, dịch vụ khác và không được lợi dụng tổ chức
đấu thầu một cách tùy tiện nhằm thu lợi bất chính cho các tổ chức, cá nhân
có liên quan. Việc lựa chọn hình thức, phương thức đấu thầu nào cũng phải
xuất phát từ đặc điểm yêu cầu và tính hiệu quả của từng gói thầu.

- Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau:

Đây được xem như là nguyên tắc then chốt và quan trọng nhất trong
hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Nội dung của nguyên tắc này chính
là yêu cầu mội gói thầu phải có sự tham gia của một số lượng nhà thầu nhất
định có năng lực, đủ để đảm bảo sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Những
điều kiện mà bên mời thầu đưa ra, những thông tin cung cấp cho các nhà
thầu phải ngang bằng nhau, tạo sự bình đẳng về cơ hội mỗi nhà thầu. Hồ sơ
mời thầu không được đưa ra yêu cầu mang tính định hướng như về xuất xứ,
nguồn gốc hàng hóa, về thương hiệu cụ thể nhằm ngăn cản sự tham gia của
các nhà thầu. Bên mời thầu không được phân biệt đối xử trong việc xem
xét, đánh giá hồ sơ dự thầu giữa những người dự thầu hợp lệ.

Mặc dù nguyên tắc là vậy tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế thì vẫn
có tính linh hoạt nhất định. Ví dụ như pháp luật của hầu hết các nước vẫn
có những quy định ưu đãi đối với nhà thầu trong nước. Sự ưu đãi này
không phải phân biệt đối xử mà chính là để đảm bảo sự cạnh tranh công
bằng với các nhà thầu nước ngoài có kinh nghiệm và năng lực lớn hơn.

- Nguyên tắc thông tin đầy đủ, công khai:


17

Xuất phát từ yêu cầu cạnh tranh, hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ cần dựa trên nguyên tắc công khai và thông tin đầy đủ. Ngay từ giai
đoạn mời thầu, các dữ liệu, tài liệu liên quan đến gói thầu phải được bên
mời thầu cung cấp với các thông tin chi tiết, rõ ràng về quy mô, khối lượng,
quy cách, yêu cầu chất lượng, giá cả và điều kiện hợp đồng (kể cả sửa đổi,
bổ sung nếu có) để các nhà thầu xem xét khả năng đáp ứng của mình.
Thông báo mời thầu phải được đăng tải công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng đối với đấu thầu rộng rãi và công khai đối với các nhà
thầu với đấu thầu hạn chế. Việc mở thầu cũng phải công khai, các nhà thầu
đã than gia đấu thầu phải được mời tới dự. Những nội dung cơ bản của
từng hồ sơ dự thầu phải được công bố công khai ngay khi mở thầu và được
ghi vào biên bản mở thầu. Kết quả đấu thầu cũng phải được công bố công
khai, bên dự thầu nào thua cuộc cũng phải có văn bản giải thích rõ ràng.

Như vậy, có thể thấy nguyên tắc này được tiến hành xuyên suốt
trong quá trình đấu thầu. Việc tiến hành nghiêm túc nguyên tắc này sẽ góp
phần tạo nên sự thành công cho cuộc đấu thầu.

- Nguyên tắc bảo mật thông tin đấu thầu:

Nguyên tắc này đòi hỏi mọi thông tin liên quan tới đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ phải được coi là những thông tin mật và các chủ thể tiến hành
hoạt động đấu thầu phải có trách nhiệm giữ bí mật. Do tính chất cạnh tranh
gay gắt giữa các bên dự thầu để trở thành người cung cấp hàng hóa và dịch
vụ cho bên mới thầu, việc bảo mật các thông tin đấu thầu đã được coi là
một nguyên tắc không thể xâm phạm. Theo đó, bên mời thầu phải bảo mật
hồ sơ dự thầu đồng thời, tổ chức cá nhân có liên quan đến việc tổ chức đấu
thầu và xét chọn thầu phải giữ kín các thông tin liên quan đến việc đấu
18

thầu. Tất cả các hành vi làm tiết lộ thông tin đều phải bị xử lý theo quy
định của pháp luật.

- Nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng:

Đây là nguyên tắc quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ, giúp hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ đạt được
tính hiệu quả. Việc các hồ sơ dự thầu hợp lệ đều phải được xem xét, đánh
giá khách quan, công bằng với cùng một tiêu chuẩn như nhau và bởi một
hội đồng xét thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm và tư cách. Những tiêu chí
đánh giá hồ sơ, tiêu chuẩn xét thầu phải được công bố trước trong hồ sơ
mời thầu và bên mời thầu không được tự ý thay đổi trong quá trình xét
thầu. Việc bảo mật các thông tin liên quan đến đấu thầu cũng có thể giúp
cho việc đánh giá hồ sơ dự thầu khách quan, công bằng hơn do không bị
tác động của những luồng thông tin đó. Mọi lí do về việc hồ sơ dự thầu
được chọn hay bị loại đều phải được giải thích rõ bằng văn bản cho các nhà
thầu khi có yêu cầu.

- Nguyên tắc bảo đảm dự thầu hoặc bảo đảm thực hiện hợp đồng.

Để có được sự hài hòa về lợi ích giữa bên mời thầu và nhà thầu, hai
bên chủ thể đều cần cố gắng nỗ lực bởi có thể sự ứng xử thiếu nghiêm túc
của một trong hai bên sẽ gây thiệt hại cho bên kia. Các biện pháp bảo đảm
dự thầu đã được ra đời trên nhu cầu đó với mục đích để quá trình đấu thầu
diễn ra một cách trọn vẹn, tránh sự thay đổi ý định và hủy bỏ việc đấu thầu
của nhà thầu, loại bỏ những nhà thầu không nghiêm túc. Theo nguyên tắc
này, các bên khi tham dự đấu thầu phải nộp một khoản tiền bảo đảm dự
thầu kèm theo hồ sơ mời thầu. Khoản tiền này sẽ được trả lại cho những
19

nhà thầu thua cuộc trong một khoảng thời gian nhất định sai khi quá trình
đấu thầu kết thúc. Còn đối với các nhà thầu thắng cuộc, khoản tiền này sẽ
được trả sau khi nhà thầu nộp tiền bảo đảm thực hiện hợp đồng. Tiền bảo
đảm thực hiện hợp đồng sẽ được trả lại sau khi thanh lý hợp đồng. Mục
đích của nguyên tắc này là nhằm tránh tình trạng các nhà thầu thay đổi ý
định sau khi đã dự thầu hoặc đã ký kết hợp đồng, loại bỏ được những nhà
thầu thiếu nghiêm túc, bảo đảm được lợi ích cho bên mời thầu. Mặt khác,
nó có tác dụng kích thích nỗ lực của các nhà thầu khi tham gia đấu thầu,
thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất
lượng, tài chính, tiến độ…

Ngoài những nguyên tắc nêu trên, trong những gói thầu mua sắm
hàng hóa bằng nguồn vốn tín dụng của các định chế tài chính quốc tế như
Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Châu Á (ADB), Ngân hàng hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JBIC)… thì việc tổ chức đấu thầu còn phải tuân theo các
nguyên tắc riêng do các định chế này đặt ra. Chẳng hạn trong bản hướng
dẫn mua sắm bằng nguồn vốn vay của WB còn quy định thêm nguyên tắc
“chống tham nhũng”, nguyên tắc “đấu thầu cạnh tranh quốc tế” (ICB)…

1.1.4. Phân loại đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trên thực tế diễn ra vô cùng đa
dạng, thể hiện trên mọi lĩnh vực, ở nhiều đối tượng và đều hướng tới những
mục đích khác nhau. Dựa trên một số tiêu chí, ta có thể phân chia đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ thành nhiều loại khác nhau như sau:
20

1.1.4.1. Căn cứ vào hình thức đấu thầu


- Đấu thẩu rộng rãi: Là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không
hạn chế số lượng các bên dự thầu. Bên mời thầu có trách nhiệm thông báo
công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về các điều kiện và thời
gian dự thầu để thu hút những nhà đầu tư có năng lực tham gia trước khi
phát hành hồ sơ mời thầu. Hình thức này được áp dụng chủ yếu trong đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ vì nó tạo ra sự cạnh tranh lớn nhất giữa các nhà
thầu.
- Đấu thầu hạn chế: Đây là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ
mời một số nhà thầu nhất định tham dự. Với hình thức này, chỉ những nhà
thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm mới được mời tham dự. Thông thường
mỗi gói thầu phải có từ năm nhà thầu trở lên để đảm bảo có sự cạnh tranh.
Bên mời thầu khi lựa chọn hình thức này không cần thông báo công khai
trên phương tiện thông tin đại chúng mà trực tiếp gửi thư mời thầu cho
từng nhà thầu được mời.
Việc lựa chọn hình thức đấu thầu rộng rãi hay đấu thầu hạn chế là do
bên mời thầu quyết định.
1.1.4.2. Căn cứ vào phương thức đấu thầu
- Đấu thầu một túi hồ sơ: Là phương thức đấu thầu mà khi dự thầu,
các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật, đề xuất về tài
chính trong một túi hồ sơ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu và việc mở thầu
được tiến hành một lần.
- Đấu thầu hai túi hồ sơ: Là phương thức đấu thầu mà khi dự thầu,
các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất kỹ thuật, đề xuất về tài chính
trong từng túi hồ sơ riêng biệt, được nộp vào cùng một thời điểm và việc
21

mở thầu được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở


trước. Những nhà thầu nào đạt tiêu chuẩn về kỹ thuật do bên mời thầu quy
định sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về tài chính để đánh giá. Phương
thức đấu thầu này thường được áp dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ có
yêu cầu đặc biệt về chỉ tiêu kỹ thuật.
1.1.4.3. Căn cứ vào quốc tịch nhà thầu

- Đấu thầu trong nước: Là hình thức đấu thầu chỉ có các nhà thầu
trong nước tham dự.

- Đấu thầu quốc tế:Là hình thức đấu thầu có cả sự tham gia của cả
các nhà thầu trong nước và các nhà thầu nước ngoài.

1.1.5. Vai trò của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Đấu thầu là một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo các
quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung – cầu, quy luật giá cả –
giá trị. Thông qua hoạt động đấu thầu, những người mua có nhiều cơ hội để
lựa chọn những người bán phù hợp với mình, mang lại hiệu quả cao nhất –
xứng với giá trị của đồng tiền mà người mua sẵn sàng bỏ ra. Đồng thời những
người bán (nhà thầu) có nhiều cơ hội để cạnh tranh nhằm đạt được các hợp
đồng, có thể cung cấp các hàng hóa sản xuất ra, cung cấp các kiến thức mà
mình có hoặc các dịch vụ mà mình có khả năng đáp ứng nhằm tối đa hóa lợi
nhuận. Thông qua đấu thầu, các hoạt động kinh tế đều được kích thích phát
triển như các ngành sản xuất trực tiếp, các ngành công nghiệp phụ trợ, chế
biến.

Với việc nhiều nhà thầu đứng vai trò tổng thầu để kết hợp được các
nhà chế tạo, nhà sản xuất, các chuyên gia tư vấn nhằm thực hiện các gói
22

thầu quy mô lớn, tổng hợp nhiều lĩnh vực đã làm cho hoạt động kinh tế
được diễn ra theo hướng chuyên môn hóa sâu và đa phương hóa rộng. Bởi
vậy công tác đấu thầu đóng góp những thành tựu to lớn cho sự phát triển
kinh tế, thể hiện vai trò quan trọng trong các hoạt động của kinh tế thị
trường, cụ thể vai trò của hoạt động đấu thầu thể hiện cơ bản qua các mặt
sau:

1.1.5.1. Đối với bên mua hàng hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ

Thông qua đấu thầu, bên mua không còn bị phụ thuộc bởi một nhà
cung cấp duy nhất mà có cơ hội chủ động lựa chọn người có năng lực nhất,
thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu kỹ thuật, tài chính, thương mại. Nhờ thế, bên
mua giảm được chi phí đầu tư, tăng lợi ích kinh tế của việc mua sắm hàng
hóa, tìm kiếm nhà cung ứng dịch vụ, và cũng giúp cho người tiêu dùng nói
chung được sử dụng những hàng hóa , dịch vụ có chất lượng tốt mà giá lại
rẻ.

1.1.5.2. Đối với nhà thầu

Đấu thầu giúp các nhà thầu nâng cao tính chủ động, linh hoạt nhằm
đáp ứng những yêu cầu từ phía thị trường và người mua. Khi tham dự đấu
thầu, các nhà thầu bắt buộc phái cạnh tranh với nhau bằng chính năng lực,
bằng chất lượng, giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, các nhà thầu
phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo, cải tiến quy trình công nghệ, giảm chi
phí sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh trong đấu thầu. Việc thắng
thầu cũng giúp cho các thương nhân nâng cao uy tín và vị thế của mình trên
thị trường, mở rộng quan hệ với các thương nhân khác.

1.1.5.3. Đối với nền kinh tế - xã hội


23

Đấu thầu là một hoạt động quan trọng của kinh tế thị trường, giúp
người mua và người bán (nhà thầu) gặp nhau thông qua cạnh tranh. Phát
triển các ngành sản xuất theo hướng chuyên môn hoá sâu và hợp tác hoá
rộng đồng thời phát triển thị trường đấu thầu. Thông qua đấu thầu đã phát
triển được thị trường người bán, nhiều doanh nghiệp nhà thầu lớn mạnh,
nhiều doanh nghiệp được thành lập mới hoặc đặt chân vào thị trường đấu
thầu, kích thích thị trường trong nước phát triển chống được sự độc quyền
tự nhiên. Các chủ đầu tư, người mua cũng được tăng cường về năng lực, họ
có thêm kiến thức, thông tin và trở thành những người mua ngày một thông
thái hơn. Bên cạnh đó, hoạt động đấu thầu góp phần tạo động lực cho sự
phát triển nhờ tăng cường sự công khai, minh bạch, công bằng, hiệu quả và
thúc đẩy cạnh tranh các hoạt động mua sắm bằng nguồn vốn của Nhà nước
cho các công trình công cộng.

Bên cạnh những vai trò nêu trên, việc thực hiện đấu thầu trong thực
tế cũng xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực gây ảnh hưởng không ít đến nền
kinh tế như: không đảm bảo tính cạnh tranh, đánh giá đấu thầu không
khách quan, công bằng, tiết lộ những thông tin bí mật… Do đó, nếu biết
cách khắc phục những hạn chế này sẽ giúp hoạt động đấu thầu diễn ra lành
mạnh, đạt hiệu quả, phát huy cao nhất vai trò của nó trong nền kinh tế.

1.2. Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

1.2.1. Khái niệm và nội dung của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ

Sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ chính là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật
24

về đầu thầu hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, hoạt động đầu thầu hàng hóa,
dịch vụ muốn đi vào đời sống và được thực hiện trong một khuôn khổ, trật
tự nhất định thì phải được Nhà nước ghi nhận, cụ thể hóa bằng pháp luật.

Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là tổng thể các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý
hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại. Các quy phạm
pháp luật này được quy định trong các văn bản pháp luật về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ. Việc quy định tại luật đấu thầu hoặc luật thương mại là tùy
thuộc vào pháp luật của mỗi nước.

Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thường quy định những nội
dung cơ bản sau:

- Khái niệm về đấu thầu hàng hóa dịch vụ, trong đó nêu những dấu
hiệu cơ bản để nhận biết về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

- Các nguyên tắc trong đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, gồm các tư tưởng
chủ đạo buộc các bên tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ phải tuân theo.

- Chủ thể tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là những tổ chức, cá
nhân thỏa mãn những điều kiện pháp luật quy định để có thể tổ chức và
thực hiện hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, bao gồm bên mời thầu và
bên dự thầu.

- Đối tượng của đấu thầu hàng hóa dịch vụ là những loại hàng hóa,
dịch vụ được phép đấu thầu. Đây là những hàng hóa, dịch vụ được phép
lưu thông và không thuộc danh sách những hàng hóa, dịch vụ cấm lưu
thông do pháp luật quy định.
25

- Các hình thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là loại hình tổ chức do
bên mời thầu áp dụng nhằm lựa chọn nhà thầu đủ điều kiện để thực hiện
gói thầu.

- Phương thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là cách thức tiến hành các
hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

- Trình tự, thủ tục đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là các bước, các công
việc chủ thể tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ phải tuân thủ khi thực
hiện hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ là những việc mà các chủ thể tham gia vào quan hệ đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ được hưởng cũng như bắt buộc phải thực hiện.

- Những quy định về quản lý nhà nước và xử lý các vi phạm pháp


luật trong đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

1.2.2. Vai trò của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Sự xuất hiện và phát triển của hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
là cơ sở lí luận và thực tiễn cho sự ra đời của pháp luật về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ. Sự ra đời của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ sẽ tạo
hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn và minh bạch trong quá trình tổ chức
và thực hiện hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, đồng thời góp phần tạo
nên sự thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật về đấu thầu. Bên cạnh
đó, pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ chính là một bộ phận của pháp
luật về đấu thầu nói chung, là biểu hiện của sự quản lý kinh tế của Nhà
nước trong lĩnh vực đấu thầu. Thế nên một khi pháp luật đã có thể bao quát
hết được tất cả các nội dung, các tình huống nảy sinh thì hoạt động đấu
26

thầu hàng hóa, dịch vụ trong thực tế sẽ diễn ra thuận lợi, đạt được hiệu quả
cao, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước.

Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cũng tạo ra tâm lý yên tâm,
tin tưởng đối với các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ do có sự đảm bảo từ phía Nhà nước bằng pháp luật, khiến cho hoạt
động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ diễn ra sôi nổi, đa dạng hơn.

Pháp luật về đấu thầu, hàng hóa khi bao quát hết được các nội dung,
các tình huống của hoạt động đấu thầu thì sẽ giúp cho hoạt động đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ đạt được hiệu quả cao và góp phần thúc đẩy sự phát triển
nền kinh tế của đất nước.

1.2.3. Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ của một số nước trên thế
giới

Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ hiện nay không còn xa lạ đối
với các nước có nền kinh tế thị trường, tuy nhiên, do mỗi nước đều có
những đặc thù về điều kiện kinh tế, trình độ phát triển, truyền thống và kỹ
năng lập pháp nên việc điều chỉnh bằng pháp luật về hoạt động đấu thầu
của mỗi nước lại có những nét đặc thù. Pháp luật về đấu thầu của một số
nước không có nhiều quy định riêng về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong
thương mại mà chủ yếu là các quy định về đấu thầu mua sắm công. Nguyên
nhân là do đấu thầu mua sắm công là hoạt động quan trọng ảnh hưởng đến
lợi ích của Nhà nước, của nhân dân và của toàn xã hội nên cần được điều
chỉnh để tránh các hiện tượng tiêu cực xảy ra, gây thất thoát tài sản của Nhà
nước. Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thương mại là hoạt động sử dụng vốn
27

của tư nhân, do đó cũng được điều chỉnh giống như các hoạt động thương
mại khác.

Dưới đây là pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ của một số nước
trên thế giới:

1.2.3.1. Pháp luật về đấu thầu của Nga

Để quản lý hoạt động đấu thầu nói chung, Tổng thống Nga đã ban
hành Nghị định kèm theo quy chế đấu thầu về mua sắm hàng hoá, xây lắp
công trình, dịch vụ cho các nhu cầu quốc gia (năm 2005). Một trong những
điểm nổi bật của hoạt động đấu thầu của nước Nga là sự phù hợp cao của
pháp luật về đấu thầu và quy chế đấu thầu quốc tế. Điều này đã đảm bảo
cho các hoạt động đấu thầu quốc tế diễn ra ở nước Nga tiết kiệm được thời
gian, công sức do không phải nghiên cứu tìm hiểu nhiều về các quy định
của các tổ chức quốc tế trước khi tiến hành. Cơ chế quản lý, giám sát, xử
phạt nghiêm minh các hành vi tiêu cực trong các hoạt động đấu thầu ở Nga
cũng đã tránh được tình trạng lạm dụng quyền lực của các quan chức chính
phủ trong việc đấu thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp và dịch vụ cho các nhu
cầu quốc gia. Chính chính sách xử phạt thích đáng những cá nhân, tổ chức
vi phạm quy chế đấu thầu đã thúc đẩy việc thực hiện các yêu cầu công
bằng, bình đẳng trong đấu thầu, giúp hoạt động đấu thầu đạt được hiệu quả
cao nhất.

1.2.3.2. Pháp luật về đấu thầu của Hàn Quốc

Luật hợp đồng mà trong đó Nhà nước là bên tham gia năm 2002 là
luật điều chỉnh các hoạt động đấu thầu ở Hàn Quốc. Luật này quy định
những nguyên tắc cơ bản cũng như trình tự, thủ tục cho các hoạt động mua
28

sắm công. Trên cơ sở văn bản luật hợp đồng nói trên, tổng thống và thủ
tướng đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác hướng dẫn thực
hiện… Hàn Quốc có hệ thống mua sắm tập trung thống nhất cao, họ có hẳn
một cơ quan tập trung có tên viết tắt là Sarok với số lượng cán bộ chuyên
gia lên tới hàng ngàn người, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện đấu thầu tất cả
các nhu cầu mua sắm lớn của đất nước. Không chỉ vậy, những nhu cầu mua
sắm có giá trị nhỏ cũng được phân cấp để tránh được việc phát sinh các tệ
nạn như cục bộ, địa phương chủ nghĩa, áp dụng thiếu thống nhất, thiếu nhất
quán giữa các địa phương, các ngành nghề.

1.2.3.3. Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ của Campuchia

Campuchia quốc gia ở ngay bên cạnh nước ta, tuy có diện tích nhỏ
nhưng đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua. Quy chế
quản lý đấu thầu Nhà nước của Campuchia khá đơn giản, ngắn gọn, chỉ bao
gồm 9 điều quy định một cách khái quát các hình thức đấu thầu, quy trình
đấu thầu, tổng quát và quản lý, giám sát hoạt động đấu thầu. Việc tổ chức
đấu thầu ở Campuchia được tiến hành một cách tập trung chỉ thông qua
một Hội đồng. Tính đơn giản, gọn nhẹ và tập trung là điểm nổi bật trong
Quy chế Đấu thầu ở Campuchia bởi các quy chế quản lý của Campuchia
mặc dù rất đơn giản nhưng có hiệu lực rất cao.

Qua phân tích công tác đấu thầu ở một số nước trên thế giới và các tổ
chức quốc tế, chúng ta có thể thấy được những ưu điểm so với Việt Nam từ
đó hoàn thiện hơn nữa pháp luật của mình trong lĩnh vực đấu thầu nói
chung và đấu thầu hàng hóa, dịch vụ nói riêng.
29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Đấu thầu hàng hóa dịch vụ là một hoạt động đặc biệt trong thương
mại. Đây cũng được xem là một bước tiến lớn trong bối cảnh kinh tế thị
trường đầy sức cạnh tranh. Với vị thế là một đất nước đang từng bước hội
nhập với nền kinh tế thế giới, việc hiểu rõ bản chất, nguyên tắc và quy định
đối với hoạt động đấu thầu là điều hết sức quan trọng và cần thiết đối với
thị trường Việt Nam. Qua phân tích về những nội dung cơ bản của hoạt
động đấu thầu, chúng ta có thể thấy vai trò của hoạt động đấu thầu đối với
mọi chủ thể trong nền kinh tế thị trường là quan trọng ngang nhau. Song
song với đó, để đảm bảo tính cạnh tranh công bằng trong đấu thầu hàng hóa
dịch vụ, pháp luật cũng đã đưa ra những quy định cơ bản cho tất cả các bên
nhằm hạn chế tối đa những phát sinh tranh chấp thương mại. Việc nhìn
nhận và đánh giá tình hình đấu thầu hàng hóa dịch vụ của một số nước
trong khu vực cũng như các tổ chức kinh tế thế giới chính là cơ sở để hoàn
thiện và phát triển những quy định pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu
thầu hàng hóa dịch vụ nói riêng tại Việt Nam, từ đó sẽ thúc đẩy sự phát
triển chung của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập.
30

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG HÓA, DỊCH


VỤ Ở VIỆT NAM

2.1. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ ở Việt Nam

Trước năm 1990, do đặc thù của kinh tế Việt Nam là tập trung bao
cấp và chế độ nên chưa có văn bản pháp luật nào quy định về hoạt động
đấu thầu nói chung và đấu thầu hàng hóa dịch vụ nói riêng. Với sự thay đổi
của nền kinh tế thị trường, đến năm 1994, Việt Nam đã ban hành văn bản
đầu tiên quy định một nguyên tắc hoàn chỉnh cho hoạt động đấu thầu, đó là
quyết định 183/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 16/4/1994 về việc
thành lập Hội đồng xét thầu quốc gia để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ
quyết định kết quả đấu thầu các dự án đầu tư có giá trị 100 tỷ đồng trở lên.
Đến năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 về
việc ban hành Quy chế đấu thầu thay thế cho những quy định tại Quyết
định 183/TTg trước đó. Hai văn bản này khi ra đời mới chỉ điều chỉnh hoạt
động đấu thầu nói chung, nhưng đã tạo tiền đề cho sự ra đời của các văn
bản pháp lý điều chỉnh hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ sau này.

Năm 1997, trong Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày
10/05/1997, lần đầu tiên hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ đã được quy
định (từ Điều 141 đến Điều 162). Đạo luật thương mại đầu tiên của Việt
Nam ra đời đã đánh dấu một sự biến đổi lớn trong nền kinh tế, là cột mốc
quan trọng trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ. Từ đây, hoạt động đấu thầu hàng hóa dịch vụ còn
31

khá mới mẻ song đã là cơ sở pháp lý để thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên,
Luật thương mại 1997 mới chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên
tắc nên quá trình thực hiện trong thực tế, trình tự thủ tục đấu thầu lại được
dẫn chiếu tới Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo nghị định 43/CP kể trên.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, những yêu cầu đặt ra cho pháp luật đấu
thầu ngày càng cao. Chính vì vậy sau một thời gian dài thực hiện, khi nghị
định 43/CP đã bộc lộ nhiều bất cập, ngày 1/9/1999, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 88/1999/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế mới thay thế cho
Quy chế đấu thầu trước đó. Nghị định 88/1999/NĐ-CP từ đó liên tục được
sửa đổi, bổ sung qua các văn bản:

- Nghị định của Chính phủ số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 về sửa


đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị
định số 88/1999/NĐ-CP;

- Thông tư của Bộ kế hoạch và đầu tư số 04/2000/TT-BKH ngày


26/5/2000 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị
định của Chính phủ số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999; Nghị định của
Chính phủ số 14/2000/ NĐ-CP ngày 5/5/2000;

- Nghị định của Chính phủ số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 về


sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo
Nghị định của Chính phủ số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999; Nghị định của
Chính phủ số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000;

- Thông tư của Bộ kế hoạch và đầu tư số 01/2004/TT-BKH ngày


2/2/2004 hướng dẫn Nghị định của Chính phủ số 66/2003/NĐ-CP ngày
12/6/2003.
32

Trước yêu cầu hội nhập quốc tế và đòi hỏi của thực tiễn, ngày
14/6/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Luật thương mại năm 2005 thay thế cho Luật Thương mại Việt Nam
1997, trong đó có 18 điều luật (từ Điều 214 đến Điều 232) quy định về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại. Từ nay, những vấn đề liên quan
tới đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại được điều chỉnh chủ yếu
bằng Luật Thương mại năm 2005. Các quy định trong Luật Thương mại
2005 đã được xây dựng theo hướng mở rộng quyền tự chủ cho các chủ thể
cho việc tổ chức và thực hiện đấu thầu. Các quy định này cũng đã giải
quyết tình trạng chồng chéo thiếu thống nhất trong các văn bản pháp luật
quy định về hoạt động đấu thầu bởi khoản 2 điều 214 Luật Thương mại
2005 đã quy định rõ: “Các quy định về đấu thầu trong Luật này không áp
dụng đối với đấu thầu mua sắm công theo quy định của pháp luật”. Như
vậy, Luật Thương mại 2005 sẽ được áp dụng điều chỉnh đối với hoạt động
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ do thương nhân thực hiện nhằm mục tiêu lợi
nhuận trên lãnh thổ Việt Nam nếu các bên không có thỏa thuận gì khác;
hoặc không thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam mà các bên lựa chọn áp dụng
luật này; hay các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết có quy
định áp dụng luật này. Còn các hoạt động đấu thầu công sẽ được điều chỉnh
bởi Luật Đấu thầu 2013, các văn bản luật chuyên ngành cũng như các Điều
ước quốc tế liên quan.
33

2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ ở Việt Nam

2.2.1. Chủ thể tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một hoạt động thương mại, theo đó
một bên mua hàng hóa, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu)
nhằm lựa chọn trong các số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên
dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra
và lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu). Do đó,
khi tham gia vào hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ bao gồm hai nhóm
chủ thể chính là bên mời thầu và bên dự thầu. Bên cạnh đó, có thể có sự
tham gia của các chủ thể trung gian như các nhà tư vấn, tổ chuyên gia xét
thầu hoặc các chủ thể khác như chủ sở hữu nguồn vốn, đơn vị tài trợ, cho
vay vốn….

Bên mời thầu là bên có nhu cầu mua hàng hóa, dịch vụ hoặc thực
hiện một công việc nào đó. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp,
bên mời thầu đều là người sở hữu nguồn vốn để mua sắm hàng hóa, dịch vụ
đó. Một số trường hợp nguồn vốn để thực hiện đấu thầu là do người khác
sở hữu và như vậy chủ sở hữu nguồn vốn sẽ giữ vai trò chi phối nhất định
đối với gói thầu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 214 Luật Thương mại
2005, bên mời thầu không nhất định phải là thương nhân. Tuy nhiên với
cách hiểu đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là một hoạt động thương mại nhằm
mục tiêu sinh lợi thì bên mời thầu chủ yếu sẽ là thương nhân để đảm bảo
mục đích trên.
34

Bên dự thầu (các nhà thầu) theo Luật Thương mại năm 2005 là “các
thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra, được
lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng”2. Các thương nhân tham gia dự
thầu có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Trong
trường hợp hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ có sự tham gia của
thương nhân nước ngoài thì gọi là đấu thầu quốc tế. Bên dự thầu bao gồm
nhiều thương nhân khác nhau, nhưng chỉ có thương nhân thắng cuộc trong
quá trình đấu thầu (bên trúng thầu) mới được ký kết hợp đồng cung cấp
hàng hóa, dịch vụ cho bên mới thầu. Khái niệm thương nhân trong khoản 1
Điều 6 Luật Thương mại 2005: “Bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy bên dự thầu trong hoạt động đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ phải có tư cách thương nhân, tức là thỏa mãn điều kiện:

- Là cá nhân hoặc tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, có năng
lực hành vi thương mại - là khả năng của cá nhân, pháp nhân bằng những
hành vi của mình xác lập thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý thương mại.

- Thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính
mình và vì lợi ích của bản thân mình.

- Thực hiện hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường
xuyên trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các
phương thức mà pháp luật không cấm.

- Đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2
Điều 214 Luật Thương mại, 2005
35

Ngoài ra, trong quan hệ đấu thầu cũng có thể xuất hiện các chủ thể
như các nhà tư vấn, chuyên gia xét thầu… Họ có thể tham gia tư vấn, giúp
đỡ cho bên mời thầu trong việc lập hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu, đánh
giá xét thầu… hoặc giúp đỡ bên dự thầu chuẩn bị kĩ lưỡng hồ sơ dự thầu
sao cho khả năng trúng thầu là cao nhất. Các chủ thể trung gian này tuy
chưa được quy định trong pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt
Nam nhưng họ đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình tổ chức và
thực hiện đấu thầu, giúp cho hoạt động đấu thầu được thực hiện nghiêm
túc, theo đúng thủ tục luật định, kịp thời phát hiện những bất cập và đưa ra
các biện pháp điều chỉnh thích hợp.

2.2.2. Đối tượng của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Đối tượng của đấu đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là tất cả các loại hàng
hóa được phép lưu thông và dịch vụ được phép thực hiện theo quy định của
pháp luật.

Theo khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005, hàng hóa trong thương
mại bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong
tương lai và những vật gắn liền với đất đai. Đây là một khái niệm có xu
hướng mở rộng cho các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông trong
thương mại, theo đó hàng hóa là đối tượng trong đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai;
hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương
mại.

Khái niệm về dịch vụ hiện nay chưa được quy định trong Luật
Thương mại 2005. Luật Thương mại 1997 thì chỉ giới hạn dịch vụ trong
36

thương mại là các hoạt động liên quan tới mua và bán hàng hóa. Tuy nhiên
theo xu hướng mở của Luật Thương mại 2005, ta có thể hiểu dịch vụ trong
thương mại gồm tất cả các dịch vụ mà pháp luật không cấm được các chủ
thể thực hiện nhằm mục tiêu sinh lời. Ngoài ra, ta cũng có thể tiếp cận dịch
vụ theo các hiểu của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS của Tổ
chức thương mại thế giới WTO theo đó dịch vụ gồm 12 ngành và 155 phân
ngành được xác định dựa trên Bảng phân loại các dịch vụ cơ bản của Liên
hợp quốc danh mục PCPC/CPC. Do đó dịch vụ được đấu thầu trong thương
mại trở nên rất đa dạng như dịch vụ đấu thầu thiết kế công trình, dịch vụ
đấu thầu du lịch, dịch vụ đấu thầu vận chuyển.

2.2.3. Hình thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Theo Điều 215 Luật Thương mại 2005 có quy định đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ được thực hiện theo một trong hai hình thức sau:

Thứ nhất, đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu
không hạn chế số lượng các bên dự thầu. Bên mời thầu có trách nhiệm
thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về các điều
kiện và thời gian dự thầu để thu hút những nhà đầu tư có năng lực tham gia
trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Hình thức đấu thầu này có ưu điểm là
tạo ra được môi trường cạnh tranh lớn nhất giữa các nhà thầu với nhau và
qua đó bên mời thầu cũng có cơ hội để chọn lựa được bên đáp ứng được tốt
nhất các yêu cầu của mình. Tuy nhiên vì số lượng các bên dự thầu là không
hạn chế nên sẽ gây khó khăn trong việc chấm thầu, xét thầu, chi phí cho
hoạt động đánh giá hồ sơ dự thầu cũng trở nên tốn kém và cũng dễ xảy ra
trường hợp nhà thầu liên kết giá để trúng thầu. Để khắc phục điều này, bên
mời thầu thường tiến hành sơ tuyển các nhà thầu. Nhà thầu nào đáp ứng đủ
37

điểu kiện sơ tuyển do bên mời thầu đặt ra sẽ lọt vào sanh sách tham dự đấu
thầu chính thức.

Thứ hai, đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ
mời một số nhà thầu nhất định dự thầu. Với hình thức này, chỉ những nhà
thầu có đủ kinh nghiệm, năng lực mới được tham dự. Thông thường mỗi
gói thầu phải có từ 05 (năm) nhà thầu trở lên để đảm bảo có sự cạnh tranh.
Bên mời thầu khi lựa chọn hình thức này không cần thông báo công khai
trên các phương tiện thông tin đại chúng mà trực tiếp gửi thư mời thầu cho
từng nhà thầu được mời tham dự.

Đấu thầu hạn chế được áp dụng khi chỉ có một số nhà thầu có khả
năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu hoặc do nguồn vốn sử dụng yêu
cầu phải đấu thầu hạn chế hoặc do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc
đấu thầu hạn chế có lợi thế. Đấu thầu theo hình thức này có ưu điểm ở việc
đánh giá và xét thầu nhanh chóng, ít tốn kém hơn. Tuy nhiên, nhược điểm
của hình thức này đó là không tạo ra được môi trường cạnh tranh lớn nhất
giữa các nhà thầu, vì thế có thể giảm hiệu quả của hoạt động đấu thầu.

Việc lựa chọn hình thức đấu thầu rộng rãi hay đấu thầu hạn chế là do
bên mời thầu quyết định. Thế nên bên mời thầu có thể cân nhắc giữa các ưu
điểm và hạn chế của từng hình thức đấu thầu để có thể chọn lựa được hình
thức phù hợp với mục tiêu của mình.

Cần phải phân biệt hình thức đấu thầu với các hình thức lựa chọn
nhà thầu. Việc lựa chọn nhà thầu có thể thực hiện thông qua hình thức đấu
thầu hoặc thông qua các hình thức mua sắm khác.
38

2.2.4. Phương thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Phương thức đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được quy định tại Điều 216
trong Luật Thương mại 2005, bao gồm: đấu thầu một túi hồ sơ và đấu thầu
hai túi hồ sơ. Bên mời thầu có quyền lựa chọn phương thức đấu thầu và
phải thông báo trước cho các bên dự thầu.

Đấu thầu theo phương thức đấu thầu một túi hồ sơ là phương thức
theo đó bên dự thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật, đề xuất về
tài chính trong một túi hồ sơ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu và việc mở
thầu được tiến hành một lần.

Đấu thầu theo phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ thì bên dự thầu
nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật, đề xuất về tài chính trong từng
túi hồ sơ riêng biệt được nộp trong cùng một thời điểm và việc mở thầu
được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở trước. Những
nhà thầu nào đạt tiêu chuẩn về kỹ thuật do bên mời thầu quy định sẽ được
mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về tài chính để đánh giá. Phương thức đấu thầu
này thường được áp dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ có yêu cầu đặc biệt
về chỉ tiêu kỹ thuật.

So sánh Luật Thương mại năm 2005 với Luật Đấu thầu 2013 ở
những quy định về phương thức đấu thầu có thể thấy rằng những quy định
trong Luật Thương mại khá ngắn gọn và có phần sơ sài, chưa cụ thể về các
trường hợp áp dụng cho từng phương thức. Điều này có thể gây khó khăn
cho việc áp dụng các phương thức đấu thầu của các chủ thể trong thực tế.
39

2.2.5. Trình tự, thủ tục đấu thầu hàng hóa, dịch vụ

Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ được quy định từ Điều 217 đến Điều 232 Luật Thương mại 2005,
cụ thể hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được tiến hành theo trình tự
các bước như sau:

Các giai đoạn Các hoạt động chính


Sơ tuyển nhà thầu
Mời thầu Chuẩn bị hồ sơ mời thầu
Thông báo mời thầu
Hoàn thiện và nộp Hồ sơ dự thầu
Dự thầu Tiếp nhận và quản lý hồ sơ dự thầu
Nộp tiền bảo đảm dự thầu
Mở thầu Thông qua biên bản mở thầu
Đánh giá sơ bộ
Xét thầu Đánh giá chi tiết
Xếp hạng và lựa chọn nhà thầu
Tên nhà thầu
Thông báo kết quả Giá trúng thầu
trúng thầu Loại hợp đồng
Ký kết hợp đồng
a. Mời thầu

Mời thầu là việc bên mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ đưa ra lời
đề nghị mua hàng, dịch vụ kèm theo những điều kiện cụ thể của việc cung
cấp hàng hóa, dịch vụ cho gói thầu. Để tiến hành mời thầu, bên mua hàng
hóa, dịch vụ phải chuẩn bị các công việc sau đây

* Sơ tuyển nhà thầu


40

Theo Điều 217 Luật Thương mại 2005 có quy định: “Bên mời thầu
có thể tổ chức sơ tuyển các bên dự thầu nhằm lựa chọn những bên dự thầu
có khả năng đáp ứng các điều kiện mà bên mời thầu đưa ra”.

Trên thực tế, việc sơ tuyển nhà thầu thường được áp dụng trong
những trường hợp sau: Đối với các gói thầu có giá trị lớn hoặc hàng hóa,
dịch vụ có yêu cầu phức tạp về công nghệ, tiêu chuẩn; hoặc trong những
trường hợp mà chi phí cao cho việc chuẩn bị hồ sơ có thể khiến các nhà
thầu ngần ngại tham dự; hoặc thời gian và chi phí cho việc đánh giá tất cả
các hồ sơ dự thầu quá lớn không tương xứng với giá trị gói thầu thì trước
khi phát hành hồ sơ mời thầu chính thức, bên mời thầu thường phải tiến
hành sơ tuyển nhà thầu.

Mục đích của việc sơ tuyển nhà thầu là nhằm đảm bảo thư mời thầu
sẽ được giới hạn trong phạm vi những nhà thầu có đủ năng lực, kinh
nghiệm thực hiện gói thầu. Thông thường sơ tuyển nhà thầu bao gồm
những bước sau:

- Lập hồ sơ mời sơ tuyển;

- Thông báo mời sơ tuyển;

- Tiếp nhận và quản lý hồ sơ dự sơ tuyển;

- Đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển;

- Trình và phê duyệt kết quả sơ tuyển;

- Thông báo kết quả sơ tuyển.

Thư mời sơ tuyển được thông báo một cách không hạn chế tới tất cả
các nhà thầu muốn tham gia sơ tuyển. Nội dung của hồ sơ mời sơ tuyển
41

phải thể hiện đầy đủ các thông tin về quy mô gói thầu, đặc điểm chi tiết về
kỹ thuật và các yêu cầu cụ thể khác đối với hàng hóa, dịch vụ được cung
cấp, các chỉ dẫn đối với nhà thầu trong khi sơ tuyển cũng như tiêu chuẩn
xét tuyển… Sau khi phát hành hồ sơ mời sơ tuyển, cần dành một khoảng
thời gian thỏa đáng để các nhà thầu nộp hồ sơ dự sơ tuyển.

Khi xét tuyển phải căn cứ và hoàn toàn vào năng lực của những nhà
thầu và triển vọng của họ trong việc thực hiện các yêu cầu của gói thầu,
dựa trên các khía cạnh như sau: kinh nghiệm của nhà thầu và kết quả thực
hiện những gói thầu tương tự trước đó, khả năng hiện tại về đội ngũ nhân
sự, năng lực sản xuất, tình hình tài chính, máy móc, thiết bị… Những nhà
thầu nào đáp ứng được các tiểu chuẩn sơ tuyển đã đề ra sẽ được quyền dự
thầu chính thức. Thư mời thầu và hồ sơ mời thầu sẽ được gửi trực tiếp đến
họ. Kết quả sơ tuyển phải được thông báo tới tất cả các nhà thầu đã dự
tuyển.

* Chuẩn bị hồ sơ mời thầu

Theo khoản 1 Điều 218 Luật Thương mại năm 2005, hồ sơ mời thầu
bao gồm: “a) Thông báo mời thầu; b) Các yêu cầu liên quan đến hàng hóa,
dịch vụ được đấu thầu; c) Phương pháp đánh giá, so sánh, xếp hạng và lựa
chọn nhà thầu; d) Những chỉ dẫn khác liên quan đến việc đấu thầu”.

Hồ sơ mời thầu là một trong những yếu tố căn bản quyết định chất
lượng và hiệu quả của gói thầu. Do đó, công việc lập hồ sơ mời thầu còn
được gọi là “đầu bài thầu” cần được đặc biệt coi trọng. Đối với những gói
thầu mà bên mời thầu chưa có đủ kinh nghiệm, ví dụ như doanh nghiệp chế
42

biến thủy sản thuê xây dựng nhà xưởng của mình thì bên mời thầu có thể
lập tổ chuyên gia hoặc thuê tư vấn để giúp lập hồ sơ mời thầu.

Nội dung hồ sơ mời thầu phải cung cấp đủ các thông tin cần thiết để
nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu phù hợp. Mức độ chi tiết và phức tạp của
các tài liệu cần có trong hồ sơ mời thầu thay đổi tùy theo loại hàng hóa
được mua sắm, dịch vụ cần cung ứng và quy mô của gói thầu. Nhìn chung,
hồ sơ mời thầu càng chi tiết thì càng thuận tiện cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ
dự thầu cũng như cho việc xét thầu sau này.

Để đảm bảo tính minh bạch và cơ hội cạnh tranh tối đa cho các nhà
thầu, hồ sơ mời thầu cần phải càng rõ ràng càng tốt, bao gồm: loại hàng
hóa đặt mua, địa điểm và thời gian giao hàng hoặc lắp đặt; yêu cầu bảo
hành, bảo trì; mô tả chi tiết về kĩ thuật, tiêu chuẩn, tất cả những đặc điểm
chủ yếu của hàng hóa, dịch vụ sẽ mua sắm và phải khuyến cáo rằng bất kì
sự không tuân thủ nào so với những đặc điểm chủ yếu này sẽ làm cho hồ sơ
dự thầu bị coi là không đáp ứng được yêu cầu. Các bản vẽ phải phù hợp với
bản thuyết minh mô tả đặc điểm kĩ thuật. Hồ sơ mời thầu phải nói kĩ những
phương pháp đánh giá và điều kiện xét thầu cũng như những yếu tố hoặc cơ
sở sẽ được dùng để so sánh các hồ sơ dự thầu.

Trường hợp bên mời thầu sửa đổi một số nội dung trong hồ sơ mời
thầu, bên mời thầu phải gửi nội dung đã sửa đổi bằng văn bản tới tất cả các
bên dự thầu trước thời hạn cuối cùng nộp hồ sơ dự thầu ít nhất là 10 ngày
để các bên dự thầu có điều kiện hoàn chỉnh thêm hồ sơ dự thầu của mình
(khoản 3 Điều 228 Luật Thương mại năm 2005). Trong trường hợp có
những sửa đổi lớn đối với hồ sơ mời thầu, cần bảo đảm cho nhà thầu có đủ
43

thởi gian để sửa đổi hồ sơ dự thầu của họ cho phù hợp với những điều
chỉnh đó.

Bên mời thầu có thể thu lệ phí phát hành hồ sơ mời thầu. Mức thu lệ
phí nhìn chung phải hợp lý và phản ánh đúng chi phí bỏ ra cho việc lập
chúng.

* Thông báo mời thầu

Do yêu cầu đảm bảo tính cạnh tranh trong đấu thầu mà tất cả các gói
thầu đều phải thông báo công khai. Tùy vào hình thức đấu thầu rộng rãi hay
hạn chế mà thông báo rộng rãi hay hạn chế. Thông báo mời thầu nhằm đưa
đến cho các nhà thầu đầy đủ thông tin liên quan đến gói thầu để chuẩn bị
điều kiện tham dự.

Thông báo mời thầu là thông báo về việc đấu thầu do bên mời thầu
thực hiện nhằm thu hút các nhà thầu tham gia vào quá trình đấu thầu. Cụ
thể thông báo mời thầu đã được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 219 Luật
Thương mại năm 2005:“1. Thông báo mời thầu gồm các nội dung chủ yếu
sau đây: a) Tên, địa chỉ của bên mời thầu; b) Tóm tắt nội dung đấu thầu; c)
Thời hạn, địa điểm và thủ tục nhận hồ sơ mời thầu; d) Thời hạn, địa điểm,
thủ tục nộp hồ sơ dự thầu;đ) Những chỉ dẫn để tìm hiểu hồ sơ mời thầu”.

Hình thức của thông báo mời thầu phải phù hợp với hình thức đấu
thầu. Theo khoản 2 Điều129 Luật Thương mại 2005: “Bên mời thầu có
trách nhiệm thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng
đối với trường hợp đấu thầu hàng háo rộng rãi hoặc gửi thông báo mời
đăng ký dự thầu đến các nhà thầu đủ điêu kiện trong trường hợp đấu thầu
hạn chế”.
44

Thông báo mời đăng ký dự thầu có thể gửi trực tiếp, gửi qua FAX,
qua đường bưu điện hoặc các phương tiện khác tới các nhà thầu trong danh
sách đã được chọn.

b. Dự thầu

Sau khi có thông báo mời thầu, những nhà thầu quan tâm đến gói
thầu hoặc đã ở trong danh sách sơ tuyển sẽ làm thủ tục dự thầu thông qua
việc nộp hồ sơ dự thầu. Bên mời thầu có trách nhiệm chỉ dẫn cho bên dự
thầu về các điều kiện dự thầu, các thủ tục được áp dụng trong quá trình đấu
thầu và giải đáp các câu hỏi cue bên dự thầu.3
Hồ sơ dự thầu bao gồm các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của
hồ sơ mời thầu. Hồ sơ dự thầu phải thể hiện đầy đủ các khía cạnh về tài
chính, pháp lý của nhà thầu như các đề xuất về kĩ thuật, tiêu chuẩn; đề xuất
về thương mại và tài chính của gói thầu, trong đó có giá dự thầu… Yêu cầu
về tính rõ ràng, chính xác của cá tài tiệu trong hồ sơ dự thầu cũng tương tự
như đối với hồ sơ mời thầu. Hồ sơ dự thầu phải được niêm phong, trên túi
hồ sơ ghi rõ tên gói thầu, tên dự án, tên và địa chỉ nhà thầu kèm theo dòng
chữ “Không được mở ra trước ngày…giờ”.
Hồ sơ dự thầu được nộp trực tiếp cho bên mời thầu hoặc được gửi
qua đường bưu điện theo địa chỉ ghi trong hồ sơ mời thầu trước thời điểm
đóng thầu. Thời điểm đóng thầu là thời điểm được ấn định kết thúc việc
nộp hồ sơ dự thầu. Thời điểm này tùy thuộc vào quy mô và tính phức tạp
của gói thầu nhưng phải đủ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và cho phép
bên mới thầu thu nhận tối đa các hồ sơ dự thầu. Thời điểm đóng thầu cũng
có thể được bên mời thầu xem xét gia hạn thêm nếu việc gia hạn đó đưa lại

3
Điều 220 Luật Thương mại 2005
45

sự cạnh tranh lớn hơn. Bên mời thầu không nhận hồ sơ dự thầu hay bất cứ
tài liệu bổ sung nào, kể cả thư giảm giá, sau thời điểm đóng thầu, trừ các tài
liệu làm rõ hồ sơ dự thầu theo yêu cầu của bên mời thầu. Các hồ sơ dự thầu
nộp sau thời điểm đóng thầu được xem là không hợp lệ và được gửi trả lại
cho nhà thầu theo nguyên trạng. Sau khi đã nộp hồ sơ dự thầu nếu muốn
sửa đổi hoặc rút lại hồ sơ, nhà thầu phải gửi đề nghị bằng văn bản cho bên
mời thầu trước thời điểm đóng thầu. Những hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn,
bên mời thầu có trách nhiệm quản lý nghiêm ngặt.
Khi dự thầu, nhà thầu phải thực hiện việc bảo đảm dự thầu dưới hình
thức đặt cọc, ký quỹ hoặc bảo lãnh dự thầu. Theo Điều 222
Luật Thương mại 2005, bên mời thầu có thể yêu cầu bên dự thầu nộp
tiền đặt cọc, ký quỹ hoặc bảo lãnh dự thầu khi nộp hồ sơ dự thầu. Tỷ lệ tiền
đặt cọc, ký quỹ dự thầu do bên mời thầu quy định nhưng không quá 3%
tổng giá trị ước tính của hàng hóa, dịch vụ đấu thầu. Mức bảo đảm này
được xác định dựa trên đánh giá hợp lý về thiệt hại mà bên mời thầu phải
chịu trong trường hợp nhà thấu rút lại hồ sơ hoặc từ chối ký hợp đồng.4
Bảo đảm dự thầu được hoàn trả cho các nhà thầu không trúng thầu
trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ khi công bố kết quả đấu thầu. Đối
với nhà thầu trúng thầu thì số tiền này sẽ được hoàn trả sau khi đã nộp bảo
lãnh thực hiện hợp đồng. Bên nhận bảo lãnh cho bên dự thầu có nghĩa vụ
đảm bảo dự thầu cho bên được bảo lãnh trong phạm vi giá trị tương đương
với số tiền đặt cọc, ký quỹ.

c. Mở thầu

Đào Thị Thu Hằng (2016), Sách tham khảo Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Đại học
4

Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr.154


46

Theo Điều 224 Luật Thương mại 2005 có quy định: “Mở thầu là
việc tổ chức mở hồ sơ dự thầu tại thời điểm đã được ấn định hoặc trong
trường hợp không có thời điểm được ấn định trước thì thời điểm mở thầu là
ngay sau khi đóng thầu”.
Mở thầu là thủ tục mở các hồ sơ dự thầu tại thời điểm đã được ấn
định trước trong hồ sơ mời thầu để xem xét và đánh giá. Nếu như không ấn
định thời điếm mở đầu thì thời điểm mở thầu được khuyến khích là càng
sáng càng tốt ngay sau khi đóng thầu. Trên thực tế, thời gian từ khi đóng
thầu cho đến khi mở thầu thường là hai tuần đối với gói thầu đơn giản và
một tháng đối với gói thầu phức tạp. Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005,
không quy định gì về khoảng thời gian này. Thiết nghĩ, trong lần sửa đổi
sắp tới của Luật thương mại, chúng ta nên bổ sung thêm vấn đề này nhằm
hạn chế những rủi ro cho bên dự thầu.
Về nguyên tắc, sau khi mở thầu các bên dự thầu không được sửa
chữa đối với hồ sơ dự thầu. Tuy nhiên, trong quá trình mở thầu, xét thầu
nếu thấy có những nội dung trong hồ sơ dự thầu chưa rõ ràng, bên mời thầu
có thể yêu cầu nhà thầu giải trình về những nội dung cụ thể này.
Thủ tục mở thầu phải đảm bảo tính công khai, khách quan, vì vậy
bên mời thầu có thể mời đại diện của các nhà thầu đến dự và cũng có thể
mời đại diện của các cơ quan hữu quan có mặt để chứng kiến đối với những
gói thầu có giá trị lớn. Những người có mặt sau đó phải cùng ký xác nhận
vào biên bản mở thầu về tình trạng còn nguyên và niêm phong cũng như số
tài liệu trong hồ sơ dự thầu của từng nhà thầu. Việc mở thầu được tiến hành
theo địa điểm, thời gian ghi trong hồ sơ mời thầu. Việc vắng mặt một vài
nhà thầu đã được mời không ảnh hưởng đến thời gian mở thầu đã được ấn
47

định. Về nguyên tắc, tất cả các hồ sơ dự thầu hợp lệ đều được mở. Những
hồ sơ dự thầu nộp muộn, không được chấp nhận thì trả lại cho các nhà thầu
trong tình trạng chưa mở.
Sau khi mở thầu, các bên dự thầu không được sửa đổi hồ sơ dự thầu.
Trong quá trình đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu, bên mời thầu có thể
yêu cầu bên dự thầu làm rõ các vấn đề liên quan đến hồ sơ dự thầu, nhưng
việc làm rõ hồ sơ dự thầu không được làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ
sơ dự thầu và giá dự thầu.
Theo Khoản 2 Điều 226 Luật Thương mại 2005 có quy định biên
bản mở thầu phải có các nội dung sau đây:

- Tên hàng hoá, dịch vụ đấu thầu;

- Ngày, giờ, địa điểm mở thầu;

- Tên, địa chỉ của bên mời thầu, các bên dự thầu;

- Giá bỏ thầu của các bên dự thầu;

- Các nội dung sửa đổi, bổ sung và các nội dung có liên quan, nếu có.

Việc quy định về những nội dung bắt buộc phải có trong biên bảnn
mở thầu như trên thật ra chưa phù hợp. Dường như các nhà lập pháp “bỏ
sót” trường hợp đấu thầu theo phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ. Theo đó,
thì bên dự thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài
chính trong từng túi hồ sơ riêng biệt được nộp trong cùng một thời điểm và
việc mở thầu được tiến hành hai lần. Hồ sơ về đề xuất kỹ thuật sẽ được mở
trước5. Như vậy thì biên bản mở túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở

5
Điều 216 Luật Thương mại 2005
48

trước và không bao giờ tìm được giá trong túi hồ sơ này. Nên quy định này
cần được sửa đổi cho phù hợp.

d. Xét thầu

Sau khi mở thầu, công việc tiếp theo là đánh giá, xếp loại hồ sơ dự
thầu để chọn nhà thầu trúng thầu. Khâu này có thể do bên mời thầu tự làm
nhưng thường thì phải có sự giúp đỡ của tổ chức chuyên gia và phải hoàn
tất trong thời hạn tồn tại hiệu lực của hồ sơ dự thầu. Các hồ sơ dự thầu sẽ
được xem xét, đánh giá theo hai mức độ là đánh giá sơ bộ và đánh giá chi
tiết.
Ở mức độ đánh giá sơ bộ, bên mời thầu kiểm tra tính hợp lệ và xem
xét sự đáp ứng cơ bản các yêu cầu của hồ sơ dự thầu so với hồ sơ mời thầu.
Ví dụ như: Nhà thầu đã nộp hồ sơ bảo đảm dự thầu dự thầu chưa? Hồ sơ
nộp có đúng thời hạn hay không? Hồ sơ đã đầy đủ chưa? Có chữ ký của
người có thẩm quyền của bên dự thầu chưa?.... Những hồ sơ nào không
đáp ứng các yêu cầu về tính hợp lệ thì sẽ bị loại ra ngay. Những nhà thầu
nộp hai hay nhiều hồ sơ cho cùng một gói thầu thì các hồ sơ đó đều bị loại.
Trên thực tế, để nỗ lực thắng thầu, một nhà thầu đã có thể thành lập nhiều
công ty khác nhau và mỗi công ty đều làm hồ sơ để đấu thầu vào một gói
dự án với nhiều mức giá và tiêu chí kỹ thuật khác nhau. Những công ty
dạng này còn được gọi là “chân gỗ” hay “chân giả” trong đấu thầu. Bản
chất của việc “thông thầu” này là không hợp pháp, nhưng cũng rất khó
phát hiện và kiểm soát nếu như bên mời thầu không đủ kinh nghiệm.
Trong quá trình đánh giá sơ bộ, bên mời thầu có thể yêu cầu bên dự
thầu làm rõ hồ sơ dự thầu nhằm tăng thêm tính chính xác và khách quan
cũng như công bằng trong quá trình đánh giá. Những giải thích nhằm làm
49

rõ hồ sơ dự thầu phải bằng văn bản có chữ ký của người có thẩm quyền của
bên dự thầu và không làm thay đổi hoặc thêm bớt nội dung của hồ sơ dự
thầu cũng như giá dự thầu.6
Ở mức đánh giá chi tiết, các chuyên gia và những thành viên của tổ
chức xét thầu hoặc hội đồng xét thầu xem xét chi tiết từng nội dung của hồ
sơ dự thầu. thông thường việc này được tiến hành theo hai vòng:
Vòng 1 – Đánh giá về mặt kỹ thuật của hồ sơ dự thầu
Các tiêu chí được áp dụng để đánh giá và so sánh hồ sơ về mặt kỹ
thuật bao gồm: số lượng, chất lượng hàng hóa, tiêu chuẩn dịch vụ, tiêu
chuẩn công nghệ, tiêu chuẩn nhà sản xuất, nguồn gốc thiết bị, thời gian
bảo trì, bảo hành, năng lực chuyên môn, lắp đặt, giám sát của nhà thầu,
tiến độ thực hiện, tiêu chuẩn về môi trường, chuyển giao công nghệ, đào
tạo lại cho nhân sự bên mời thầu… Toàn bộ những tiêu chuẩn và cách thức
đánh giá đã được xác định trong hồ sơ mời thầu. Có hai cách đánh giá về
mặt kỹ thuật. Một là đánh giá đạt hay không đạt những tiêu chuẩn đã được
đưa ra trong hồ sơ mời thầu. Hai là đánh giá theo thang điểm. Nhà thầu nào
có thang điểm cao thì sẽ lọt tiếp vào vòng 2.
Vòng 2 – Đánh giá về thương mại (tài chính) của nhà thầu
Trong đấu thầu hàng hóa dịch vụ, khi đán giá về khía cạnh thương
mại của hồ sơ dự thầu thì yếu tố giá là quan trọng nhất và không thể thiếu
trong hồ sơ dự thầu. Giá sẽ được chuyển đổi sang một đồng tiền chung để
so sánh. Giá hàng hóa, dịch vụ cũng được đưa về một mặt bằng chung, đơn
vị chung để so sánh. Ví dụ: giá bao gồm chi phí đào tạo chuyển giao hay
chưa bao gồm chi phí này. Trong trường hợp bên xét thầu nhận thấy có sự

Đào Thị Thu Hằng (2016), Sách tham khảo Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Đại học
6

Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr.156


50

bất thường về giá thì có thể yêu cầu bên dự thầu giải thích làm rõ, vì có thể
bị lỗi trong quá trình đánh máy làm hồ sơ dự thầu.
Các hồ sơ dự thầu sau khi đạt tiêu chuẩn về kỹ thuật sẽ được lựa
chọn tiếp để đánh giá về giá, sau đó được xếp hạng theo thứ tự giá thấp
nhất và tiêu chuẩn tốt được đặt lên trên. Sau khi cân nhắc trên các phương
diện đã được đưa ra khi mời thầu, tổ xét thầu lập báo cáo đánh giá kết quả
xét thầu để trình lãnh đạo có thẩm quyền của bên mời thầu duyệt, sau đó sẽ
thông báo nhà thầu nào trúng thầu. Tuy nhiên, không phải lúc nào giá thấp
nhất cũng trúng thầu mà phải đảm bảo được cả tiêu chuẩn về kỹ thuật nữa.
Mặt khác, giá thấp nhất đó cũng phải nằm trong mức giá dự kiến của gói
thầu mà bên mời thầu dự kiến để mua sắm. Liệu có trường hợp mà giá của
tất cả các hồ sơ dự thầu thấp hơn giá dự toán của gói thầu do bên mời thầu
dự trù không? Nếu có thì xử lý ra sao? Trên thực tế, rất hiếm gặp trường
hợp giá dự thầu thấp hơn giá dự toán đến mức mà bên mời thầu không thể
mua sắm hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ. Bởi lẽ, trước khi bên mời thầu
đưa ra mức dự toán cho gói thầu họ đã phải kháo sát giá trên thị trường. Và
vì hàng hóa hay dịch vụ luôn kèm theo các yếu tố mới mà có thể họ không
lường hết được để đưa vào “đầu bài thầu” nên họ luôn lấy giá cao tương
đối cộng thêm phần chi phí phát sinh khoảng từ 5-7% giá trị gói thầu nữa.
Ngược lại, nếu do trình độ của bên mời thầu còn hạn chế hoặc chưa có kinh
nghiệm sẽ có thể dẫn đến khả năng là giá dự thầu sẽ cao hơn giá dự toán
của gói thầu. Trong trường hợp đó, về mặt lý thì bên mời thầu phải chấp
nhận mà không thể đưa ra lý do từ chối ký hợp đồng thực hiện gói thầu chỉ
vì “giá cao” hay “giá quá cao”. Vì thực tế, trong hồ sơ mời thầu hầu như
không có trường hợp nào đưa yêu cầu cụ thể về mức giá bao nhiêu. Mặc dù
51

Luật Thương mại 2005 không có quy định cụ thể về trường hợp nếu bên
mời thầu trong thời gian nhận hồ sơ dự thầu mà chưa đến thời điểm đóng
thầu, phát hiện ra “đầu bài thầu” của mình sai hoặc không phú hợp với
mục đích mong muốn của mình rút lại đề nghị đấu thầu thì sẽ bị phạt như
thế nào, xử lý ra sao.
Tuy nhiên, trong thực tế, các doanh nghiệp lớn và có uy tín, thường
xử lý theo cách là tự chịu phạt và trả lại cho những bên dự thầu số tiền gấp
đôi số tiền mua hồ sơ dự thầu hoặc trong trường hợp có đóng bảo đảm dự
thầu thì trả lại gấp đôi số tiền đó. Phản ứng của hầu hết các nhà thầu là
chấp nhận hoặc chỉ lấy lại khoản tiền đã đóng mà không lấy lại số tiền phạt
như đã nói trên.

Sự lựa chọn cách hành xử như trên của các bên dự thầu, xuất phát từ
việc đề cao vai trò của bên mời thầu, họ lập luận rằng khách hàng – tức bên
mời thầu lag “thượng đế” và những lỗi vụ vặt, sơ sót ấy từ “thượng đế”
hoàn toàn có thể cảm thông được. Các bên dự thầu luôn mong rằng mình là
người thắng thầu trong những đợt mua sắm tiếp theo của “thượng đế” nên
hầu như họ có xu hướng giữ mối quan hệ tốt, bỏ qua sai sót cho bên mời
thầu hơn là khởi kiện ra tòa, buộc bên mời thầu trả số tiền phạt hay bồi
thường trong tình huống hủy gói thầu.7

e. Xếp hạng và lựa chọn nhà thầu

Căn cứ vào kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu, bên mời thầu phải xếp
hạng và lựa chọn các bên dự thầu theo phương pháp đã được ấn định. Nhà
thầu nào có hồ sơ hợp lệ, đáp ứng cơ bản các yêu cầu của hồ sơ mời thầu,

Đào Thị Thu Hằng (2016), Sách tham khảo Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Đại học
7

Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr.158


52

có giá đánh giá thấp nhất sẽ trúng thầu. Giá đánh giá không được vượt quá
giá gói thầu đã dự kiến hoặc đã được phê duyệt. Trong trường hợp có nhiều
bên tham gia dự thầu có số điểm, tiêu chuẩn trúng thầu ngang như nhau thì
bên mời thầu có quyền lựa chọn nhà thầu8. Với quy định này, Luật Thương
mại 2005 đã loại bỏ các quy định về quyền ưu tiên nhà thầu trong nước của
các văn bản trước đó, do xuất phát từ đặc điểm của đấu thầu trong thương
mại là một hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lời nên việc lựa chọn
bên nào trúng thầu có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ vì vậy phải do
họ quyết định.
f. Thông báo kết quả trúng thầu và ký kết hợp đồng

Ngay sau khi có kết quả đấu thầu, bên mời thầu tiến hành công bố
kết quả đấu thầu qua việc thông báo bằng văn bản cho các nhà thầu tham
dự, bao gồm nhà thầu trúng thầu và nhà thầu không trúng thầu. Đối với
những gói thầu bắt buộc phải tổ chức đấu thầu, kết quả đấu thầu phải trình
lên người có thẩm quyền phê duyệt trước khi công bố. Trong trường hợp
không có nhà thầu nào trúng thầu hoặc hủy cuộc đấu thầu, bên mời thầu
cũng phải tiến hành thông báo cho các nhà thầu biết.

Đối với nhà thầu trúng thầu, bên mời thầu phải gửi cho họ thông báo
trúng thầu bằng văn bản kèm theo dự thảo hợp đồng và những điều cần lưu
ý cần trao đổi khi thương thảo hợp đồng. Đồng thời bên mời thầu cũng phải
thông báo cho nhà thầu lịch biểu về thời gian thương thảo hoàn thiện hợp
đồng, nộp tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ký hợp đồng.

Khi nhận được thông báo trúng thầu, nhà thầu trúng thầu phải gửi
cho bên mời thầu thư chấp nhận thương thảo và hoàn thiện hợp đồng. Theo

8
Khoản 2 Điều 229 Luật Thương mại 2005
53

lịch biểu đã được thống nhất, hai bên sẽ tiến hành quá trình thương thảo,
giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong nội dung hợp đồng, đặc biệt là
giá cả của hợp đồng sau khi đã có giá trúng thầu, để đi đến hoàn thiện và
ký kết hợp đồng cung cấp hàng hóa, dịch vụ chính thức. Quá trình này
được tiến hành theo những nguyên tắc và trình tự giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại.

Trước khi kí hợp đồng, nhà thầu trúng thầu phải nộp tiền bảo lãnh
thực hiện hợp dồng cho bên mời thầu, để đảm bảo rằng hàng hóa, dịch vụ
sẽ được cung cấp đúng theo hợp đồng, máy móc, thiết bị sẽ vận hành theo
đúng đặc điểm kĩ thuật trong thời gian bảo hành… Các bên có thể thỏa
thuận bên trúng thầu phải đặt cọc, kí quỹ hoặc được bảo lãnh để đảm bảo
rằng hàng hóa, dịch vụ sẽ được cung cấp đúng theo hợp đồng, máy móc
thiết bị sẽ vận hành theo đúng đặc điểm kĩ thuật trong thời gian bảo hành…
Số tiền đặt cọc, kí quỹ do bên mời thầu quy định nhưng không quá 10% giá
trị hợp đồng9. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng sẽ còn hiệu lực
cho đến khi các bên thực hiện xong nghĩa vụ hợp đồng và nhà thầu sẽ
không được nhận lại số tiền đảm bảo thực hiện hợp đồng nếu không hoàn
thành các nghĩa vụ hợp đồng hoặc từ chối không thực hiện các nghĩa vụ
này. Khi nộp tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng, nhà thầu trúng thầu sẽ được
hoàn trả tiền bảo lãnh dự thầu (nếu các bên không có thỏa thuận khác).10

Theo Khoản 2 Điều 230 Luật Thương mại năm 2005 thì việc kí kết
hợp đồng được dựa trên: a) Kết quả đấu thầu; b) Các yêu cầu nêu trong hồ
sơ mời thầu; c) Nội dung nêu trong hồ sơ dự thầu.
9
Khoản 2 Điều 231 Luật Thương mại năm 2005
Đào Thị Thu Hằng (2016), Sách tham khảo Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Đại
10

học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr.159


54

Nếu quá thời hạn ấn định kể từ thời điểm nhận được thông báo trúng
thầu mà nhà thầu trúng thầu không có thông báo chấp nhận hoặc từ chối
giao kết hợp đồng, bên mời thầu có quyền giữ lại tiền bảo lãnh dự thầu và
xem xét mời nhà thầu được xếp hạng kế tiếp để thương thảo hợp đồng.

g. Đấu thầu lại

Theo Điều 232 Luật Thương mại 2005 thì việc đấu thầu lại được tổ
chức khi có một trong các trường hợp sau đây:
- Có sự vi phạm các quy định về đấu thầu;
- Các bên dự thầu đều không đạt yêu cầu đấu thầu. Đây là trường
hợp mà tất cả các hồ sơ dự thầu đều không đáp ứng được yêu cầu của hồ sơ
mời thầu và đạt mức điểm thấp hơn mức điểm chuẩn do bên mời thầu đưa
ra. Vì vậy, bên mời thầu có thể hủy cuộc đấu thầu và tổ chức đấu thầu lại.
Trên đây là những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại ở Việt Nam. Những quy định này
mang tính đơn giản và khái quát cao theo hướng mở rộng quyền tự chủ cho
các chủ thể khi tham gia vào quan hệ thương mại và nhìn chung là sự phù
hợp với những quy định của pháp luật quốc tế về đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ. Nhờ đó, hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ có điều kiện phát triển
mạnh mẽ hơn trong thực tiễn đời sống kinh tế của đất nước.
55

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Hoạt động đấu thầu hàng hóa dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong
bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay. Để đảm bảo cho một nền kinh tế bước
ra khỏi cơn ác mộng khủng hoảng và đảm bảo được tính cạnh tranh công
bằng đối với tất cả các bên chủ thể, các quốc gia đều phải nỗ lực ban hành
các đạo luật cơ bản nhằm điều chỉnh các hoạt động kinh tế, trong đó hoạt
động đấu thầu hàng hóa dịch vụ cũng phải được quan tâm đặc biệt. Nhận
thức được tầm quan trọng của việc này, pháp luật Việt Nam qua các năm
cũng đã có được sự phát triển và thay đổi đối với hoạt động đấu thầu hàng
hóa dịch vụ trong nước. Những sự thay đổi đó chính là sự điều chỉnh hợp lý
để phù hợp với tình hình và xu thế hiện tại. Đấu thầu hàng hóa dịch vụ vào
thời điểm hiện nay đã là hoạt động khá phổ biến trong nước cũng như trong
khu vực, tuy nhiên nó vẫn là một hoạt động đặc thù và cần có những
nghiên cứu sâu sắc hơn để có những thay đổi phù hợp với biến động nền
kinh tế. Những quy định về hoạt động đấu thầu hàng hóa dịch vụ tại Việt
Nam đã được thể hiện phần nào rõ ràng, cụ thể trong Luật Thương mại
2005 và các văn bản hướng dẫn liên quan, tuy nhiên khi áp dụng vào thực
tiễn vẫn còn xuất hiện nhiều bất cập, các quy định về thi hành và xử lý vi
phạm còn xuất hiện nhiều lỗ hổng dẫn đến việc các bên khi thực hiện còn
gặp nhiều khó khăn. Do đó, pháp luật Việt Nam về đấu thầu hàng hóa
dịch vụ vẫn cần có những nghiên cứu để thay đổi, phải luôn đặt mình vào
vị trí của tất cả các bên chủ thể tham gia hoạt động này để từ đó ban hành
những quy định phù hợp và khả thi khi áp dụng trong thực tiễn.
56

Chương 3

THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU HÀNG


HÓA, DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở
Việt Nam và một số yêu cầu đặt ra

Sự ra đời của Luật Thương mại 2005 đã khiến hoạt động đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ diễn ra sôi động hơn rất nhiều. Nhu cầu tổ chức đấu thầu
tăng nhanh trong mọi lĩnh vực. Các công ty tư vấn đấu thầu, các chuyên gia
thẩm định đấu thầu ngày càng nhiều giúp cho hoạt động đấu thầu dần trở
nên phổ biến hơn.

Số lượng các gói thầu được thực hiện tại Việt liên tục tăng nhanh qua
các năm. Điều này chứng tỏ hoạt động đấu thầu đã thực sự đi vào đời sống
xã hội và bức đầu đã đạt hiệu quả.

Về hình thức đấu thầu, thực tiễn hoạt động đấu thầu cho thấy hình
thức được đa số các bên mời thầu áp dụng là đấu thầu hạn chế và chỉ định
thầu.

Hiện nay, quy trình thực hiện đấu thầu hàng hóa dịch vụ trong
thương mại đã và đang dần được hoàn thiện theo hướng đơn giản và hài
hòa với thủ tục của các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác trên thế giới,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc để hoạt động đấu thầu diễn ra hiệu quả hơn.
Đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì hoạt
động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ sẽ mang tính cạnh tranh quốc tế cao, hoạt
động đấu thầu sẽ diễn ra sôi nổi hơn rất nhiều. Tuy nhiên, hoạt động đấu
thầu hàng hóa trong thương mại cũng còn tồn tại một số điểm hạn chế như
57

thương nhân bỏ thầu với giá thấp dẫn đến việc không thực hiện được hợp
đồng, hay các nhà thầu thông đồng để nâng giá thầu hoặc thông đồng với
bên mời thầu để trúng thầu… làm giảm đi tính cạnh tranh và thiếu công
bằng, tác động xấu đến nền kinh tế.

3.1.1. Những kết quả đạt được từ thực tiễn thi hành pháp luật về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam

3.1.1.1. Hệ thống văn bản pháp quy về đấu thầu về cơ bản được hoàn
thiện, thống nhất

Hệ thống văn bản pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cơ bản đã
được hoàn thiện, thống nhất. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành các văn
bản hướng dẫn về đấu thầu đảm bảo thực hiện quy định của pháp luật về
đấu thầu được thông suốt, thống nhất và thuận tiện trong quá trình thực
hiện dự án, khắc phục được những khó khăn trong quản lý nhà nước về đầu
tư xây dựng cơ bản. Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thống nhất
và chuẩn hóa về thủ tục, thời gian trong hoạt động đấu thầu, quy định chi
tiết về lập, thẩm định phê duyệt kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, đánh
giá hồ sơ dự thầu, nâng cao quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư, từ đó tạo
điều kiện tiết kiệm thời gian trong đấu thầu, đảm bảo tiến độ chung của
toàn bộ dự án đầu tư.

3.1.1.2. Hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ngày càng trở lên phổ biến,
tính cạnh tranh và số lượng gói thầu không ngừng tăng lên

Với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động đấu thầu tại Việt Nam
những năm gần đây đã có sự phát triển vượt bậc. Tuy đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ là một hoạt động thương mại và được điều chỉnh bởi Luật Thương
58

mại 2005, trên thực tế hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ vẫn được quản
lý bởi Cục quản lý đấu thầu - Bộ kế hoạch và đầu tư theo quyết định số
438/QĐ-BKH của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 07 tháng 04
năm 2009 về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý đấu
thầu. Thế nên giống với các hoạt động đấu thầu khác, đấu thầu hàng hóa
dịch vụ cũng được xem xét và đánh giá trong một chỉnh thể thống nhất với
các hoạt động đấu thầu nói chung. Số lương các gói thầu tăng lên từng
năm, điều này chứng tỏ hoạt động đấu thầu đã thực sự đi vào đời sống xã
hội. Tính trung bình mỗi năm, nhà nước có thể tiết kiệm từ 10 đến 15%
tổng vốn đầu tư do chênh lệch giữa giá trúng thầu và giá gói thầu trong kế
hoạch đấu thầu đã được duyệt.

Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy tỷ lệ tiết kiệm thông qua đấu
thầu đang có xu hướng giảm dần theo thời gian. Nguyên nhân của điều này
là do giá của các gói thầu trong kế hoạch đã được tính toán sao cho bám sát
hơn với thực tiễn và trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó,
số lượng gói thầu áp dụng hình thức chọn nhà thầu qua chỉ định thầu vẫn
còn khá lớn, chiếm gần 70%. Hiện tượng này có thể làm giảm tính cạnh
tranh - một trong những yêu cầu vô cùng quan trọng đối với hoạt động đấu
thầu và tác động tới các lợi ích mà đấu thầu mang lại cho các chủ thể và
nền kinh tế. Điều này có thể dần trở thành nguy cơ lớn đòi hỏi các nhà quản
lý và các nhà hoạch định chính sách cần quan tâm, xem xét.

3.1.1.3. Xây dựng thành công hệ thống đấu thầu qua mạng

Đấu thầu qua mạng hay còn gọi là đấu thầu điện tử, là quá trình sử
dụng hệ thống mạng công nghệ thông tin (internet) và các thiết bị điện toán
để thực hiện lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
59

Đây là một cách thức đấu thầu khá mới mẻ ở Việt Nam và đã bước đầu thu
được những kết quả đáng khích lệ. Một hệ thống đấu thầu điện tử có thể tự
động hoá các quy trình đấu thầu bắt buộc trên máy tính như kế hoạch đấu
thầu, thông báo mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu, lập biên bản mở thầu, kết quả
đấu thầu, kiến nghị trong đấu thầu. Các bên tham gia sẽ được cấp chứng
thư số truy cập vào hệ thống và sử dụng chữ ký số để tiến hành đấu thầu
qua mạng, do đó cả bên mời thầu và nhà thầu không thể can thiệp hay làm
chệch hướng được các quy trình đấu thầu trực tuyến. Bên mời thầu và nhà
thầu cũng không phải tiếp xúc trực tiếp, nhà thầu cũng không mất công đi
lại, không phải mua hồ sơ mời thầu; tiết kiệm được nhiều chi phí về tổ chức
đấu thầu, thời gian tham gia đấu thầu... Cơ quan quản lý cũng có danh sách
nhà thầu đăng ký tham gia một cách công khai và đánh giá khách quan
nhất. Các thương nhân cũng có thế "đọc" những thông tin liên quan, thấy rõ
năng lực của doanh nghiệp một cách vô tư mà không bị can thiệp hay phân
tán bởi những động tác ngoài lề. Nhà thầu giờ đây chỉ ở văn phòng để đăng
ký nên không có cơ hội gặp gỡ, cấu kết với nhau, từ đó giảm thiểu được sự
móc ngoặc, thông thầu giữa các doanh nghiệp. Việc làm này cũng đang
nhận được sự ủng hộ rất lớn của dư luận xã hội và các nhà thầu đối với các
dự án đấu thầu nói chung cũng như đấu thầu hàng hóa, dịch vụ nói riêng.

Hiện tại, bên cạnh website đấu thầu của Bộ kế hoạch và đầu tư đã
xuất hiện nhiều website thực hiện hoạt động đấu thầu trực tuyến và các
hoạt động này đang diễn ra khá sôi động. Bất cứ doanh nghiệp nào dù đang
ở nơi đâu cũng có thể nhanh chóng đăng thông tin mời thầu, mời tư vấn,
chuyển nhượng cổ phần lên mạng một cách nhanh nhất. Với sự phát triển
và những ưu thế kể trên, đấu thầu hàng hóa dịch vụ trong thương mại trong
60

tương lai sẽ có thể được áp dụng chủ yếu theo hình thức này để có thể đạt
được hiệu quả về thời gian cũng như trong kinh tế.

3.1.1.4. Các thông tin đấu thầu hầu như đã được công khai hóa

Việc tăng trang, tăng tần suất và số lượng phát hành bản tin thông tin
đấu thầu, báo giấy đấu thầu cũng như các trang báo mạng và thông tin trực
tuyến về đấu thầu là một tín hiệu đáng mừng, giúp tăng cường tối đa việc
công khai hóa các thông tin về đấu thầu. Báo đấu thầu được phát hành đều
đặn 5 số/tuần vào các ngày từ thứ 2 đến thứ 6 rộng rãi tới các tỉnh, thành
phố trong cả nước đã thực hiện đăng tải các thông tin, kế hoạch, thông báo
mời thầu, danh sách nhà thầu tham gia đấu thầu, kết quả lựa chọn nhà
thầu… đáp ứng được tính kịp thời, rộng rãi đến các đối tượng có quan tâm
đến công tác đầu thầu. Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và đầu tư vẫn đang tiếp
tục xây dựng, quản lý trang thông tin điện tử về đấu thầu, website báo đấu
thầu, hệ thống đấu thầu qua mạng quốc gia và ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác đấu thầu.

3.1.2. Một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thi
hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, việc thi hành pháp luật
về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại cũng còn tồn tại một số
điểm hạn chế như sau:

Thứ nhất, vẫn còn tình trạng doanh nghiệp cố tình bỏ giá thầu thấp,
không phản ánh đúng tình hình thực tế của gói thầu.

Hiện tại vẫn còn tồn tại tình trạng một số doanh nghiệp bỏ giá thầu
rất thấp để được trúng thầu, nhưng sau đó không thể thực hiện được rồi tìm
61

cách kéo dài dự án, thay đổi giá, thiết bị vật tư... yêu cầu chủ đầu tư phải
chấp nhận. Nghiêm trọng hơn nhiều trường hợp đã dẫn tới việc thua lỗ sau
khi thực hiện hợp đồng, gây thiệt hại cho chủ đầu tư và cho chính doanh
nghiệp đó. Ngoài ra, cũng có trường hợp doanh nghiệp không tính toán kĩ
lưỡng hoặc không nắm bắt được tình hình thị trường nên khi bắt tay vào
thực hiện hợp đồng, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng vọt, không thực
hiện được theo đúng giá đã thỏa thuận.

Thứ hai, tình trạng trạng thông đồng giữa các nhà thầu hay móc
ngoặc giữa các nhà thầu với nhau ngày một càng tăng.

Ở những năm về trước, khi Luật Thương mại 2005 mới bắt đầu đưa
vào thực hiện, tình trạng thông đồng giữa các nhà thầu hay móc ngoặc giữa
các nhà thầu với nhau trong hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ còn chưa
phổ biến, nhưng hiện nay hiện tượng này đã tăng lên đáng kể. Bản chất của
thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu theo khoản 8 Điều 8 Luật Cạnh tranh
năm 2004 được hiểu là “việc các bên dự thầu giàn xếp, thỏa thuận cùng
hành động để một hoặc các bên trong số họ thắng thầu trong việc cung cấp
hàng hoá, cung ứng dịch vụ”. Thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu có thể
xảy ra giữa các bên dự thầu với nhau. Nói cách khác, chủ thể tham gia thỏa
thuận thông đồng trong đấu thầu là các doanh nghiệp dự thầu, là thỏa
thuận, thông đồng hoặc lời hứa hẹn của bên mời thầu với một hoặc một số
doanh nghiệp dự thầu về việc người mời thầu sẽ dành cho họ những ưu đãi
hoặc điều kiện tốt hơn trong quá trình đấu thầu so với doanh nghiệp dự
thầu khác. Đây là hành vi vi phạm pháp luật về đấu thầu và nó đã làm vô
hiệu cơ chế cạnh tranh mà người mời thầu nỗ lực tạo ra với mong muốn sử
dụng để tìm kiếm người cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ tốt nhất. Hậu
62

quả của nó là hoạt động đấu thầu trong thương mại giảm đi tính cạnh tranh,
thiếu công bằng, gây tác động xấu tới nền kinh tế. Các hành vi bị cấm trong
đấu thầu, các chế tài xử phạt hành vi thông thầu đã được quy định trong
Luật Cạnh tranh 2004, Luật Đấu thầu 2013. Tuy nhiên, Luật Thương mại
lại chưa có những quy định về vấn đề này. Thực trạng này cần thiết luật
thương mại có những chế tài cụ thể mạnh mẽ, xử lý dứt khoát và nghiêm
khắc để đảm bảo việc đấu thầu hàng hóa, dịch vụ được minh bạch và công
bằng, cũng có nghĩa là đảm bảo cho một môi trường kinh doanh ngày một
lành mạnh hơn ở Việt Nam.

Thứ ba, vấn đề quản lý sau đấu thầu còn chưa được quan tâm.

Sản phẩm của quá trình đấu thầu cuối cùng là hợp đồng được ký kết
giữa chủ đầu tư và nhà thầu trúng thầu. Hiệu quả đạt được từ công tác đấu
thầu phụ thuộc rất nhiều vào việc triển khai các ràng buộc đã nêu trong hợp
đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc quản lý, thực hiện hợp
đồng còn chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong bối cảnh giá cả
leo thang phức tạp như hiện nay. Trong một số trường hợp, nhà thầu có tâm
lý thực hiện hợp đồng cầm chừng để được điều chỉnh giá hợp đồng khi có
các thay đổi về chính sách của nhà nước về tiền lương, giá nhiên liệu…
Trường hợp khác, nhà thầu khi thực hiện hợp đồng đã không đảm bảo được
năng lực tài chính dẫn đến chậm trễ trong việc triển khai dự án, gây ra
nhiều dự án treo, quy hoạch treo.

Cuối cùng, thực trạng cơ sở hạ tầng hệ thống thông tin đấu thầu ở
Việt Nam chưa hoàn thiện.
63

Chính vì vậy trong quá trình vận hành hoạt động đấu thầu qua mạng
có thể gây những lỗi kỹ thuật không mong muốn, ảnh hưởng đến quyền lợi
và tính hợp pháp trong việc đăng ký đấu thầu của nhà thầu.

3.1.3. Một số yêu cầu đặt ra đối với vấn đề thi hành pháp luật về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ

Xuất phát từ thực trạng nêu trên của hoạt động đấu thầu hàng hoá,
dịch vụ, ta có thể rút ra một số yêu cầu đang được đặt ra đối với vấn đề thi
hành pháp luật về đấu thầu hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất, đối với các quy định của pháp luật, yêu cầu đặt ra là phải
sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu thầu hàng hoá, dịch vụ, đồng thời
tạo một môi trường pháp lý an toàn cho việc thực thi hoạt động đấu thầu
hàng hoá, dịch vụ trong thương mại. Thực tế cho thấy hoạt động đấu thầu
hàng hoá, dịch vụ theo Luật Thương mại 2005 mặc dù đã được thực hiện
hơn một năm nhưng vẫn chưa có bất kì một nghị định hoặc một văn bản
dưới luật nào quy định chi tiết, làm rõ các vấn đề được quy định trong Luật.
Chính điều này đã gây ra khó khăn không nhỏ cho quá trình thực thi pháp
luật đấu thầu hàng hoá, dịch vụ, bởi có nhiều chủ thể khi đứng trước những
quy định của Luật lại tỏ ra lúng túng không biết áp dụng và thực hiện như
thế nào. Do đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu
phải sớm ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn chi tiết các quy định của
Luật Thương mại 2005 về hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ, tạo thuận
lợi cho các chủ thể trong việc thực hiện. Mặt khác, những quy định của
pháp luật về đấu thầu hàng hoá, dịch vụ cũng phải dự tính trước được các
vấn đề đấu thầu hàng hoá, dịch vụ trong thực tiễn, kịp thời điều chỉnh
những bất cập và phải hoà hợp với các quy định của pháp luật quốc tế.
64

Thứ hai, đối với đội ngũ cán bộ và các cơ quan quản lý Nhà nước
về đấu thầu, trong vai trò là đại diện của Nhà nước để giám sát, quản lý
hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ nhằm đưa hoạt động này diễn ra
trong khuôn khổ, trật tự do luật định thì yêu cầu đặt ra là: Phải có sự am
hiểu và trang bị nhận thức đầy đủ về pháp luật về đấu thầu hàng hoá, dịch
vụ; Phải theo sát hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ, nhanh chóng phát
hiện ra vi phạm và xử lý nghiêm minh; Không được can thiệp quá sâu và
không cần thiết vào quá trình đấu thầu của các chủ thể, tôn trọng tính tự
chủ của các chủ thể đã được pháp luật quy định.

Thứ ba, các chủ thể khi tham gia vào hoạt động đấu thầu hàng hoá,
dịch vụ phải nắm vững và thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản của hoạt
động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ, có như vậy hoạt động này mới đáp ứng
được mục đích của các bên tham gia và đạt được hiệu quả cao, tránh được
những tiêu cực có thể xảy ra do không đảm bảo được tính cạnh tranh, tính
công bằng, tính minh bạch và hiệu quả.

Thứ tư, yêu cầu bên mời thầu và các bên dự thầu với tư cách là
những chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ
phải có sự hiểu biết về pháp luật về đấu thầu hàng hoá, dịch vụ; hiểu được
địa vị pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào các quan
hệ đấu thầu hàng hoá, dịch vụ; từ đó nâng cao ý thức và trách nhiệm tuân
thủ các quy định pháp luật trong quá trình đấu thầu. Bên mời thầu và các
bên dự thầu cũng cần có các biện pháp để chủ động ngăn ngừa những tiêu
cực xảy ra trong quá trình tổ chức và tham gia đấu thầu, bảo đảm tốt nhất
lợi ích của mình.
65

Thứ năm, trước xu hướng hội nhập khu vực và thế giới ngày càng
mạnh mẽ, một yêu cầu nữa đặt ra đối với vấn đề thực thi pháp luật về đấu
thầu hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam đó là phải điều chỉnh các quy định của
pháp luật trong nước sao cho vừa đảm bảo được lợi ích vừa tạo sự thuận
tiện dễ dàng cho các chủ thể (bao gồm cả bên Việt Nam và bên nước
ngoài), và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trước những thực trạng và yêu cầu vừa đề cập trên đây, Nhà nước
và các chủ thể có liên quan cần sớm có những giải pháp để thúc đẩy hoạt
động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ trong thương mại ở Việt Nam phát triển
nhanh chóng, các quy định của pháp luật thực sự đi vào đời sống.

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam

3.2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ ở Việt Nam

Luật Thương mại năm 2005 nói chung và các quy định về đấu thầu
hàng hóa dịch vụ nói riêng khi ra đời đã được đánh giá là có những quy
định rất tiến bộ. Tuy nhiên, quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế
giới khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
Diễn đàn APEC… Trong những năm qua đã khiến hoạt động đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ của nước ta có sự vận động, biến đổi rất mạnh mẽ, đòi
hỏi phải có những sửa đổi phù hợp để hoàn thiện Luật Thương mại trong
nước trên cơ sở phù hợp với pháp luật thương mại quốc tế.

Thứ nhất, về phạm vi áp dụng của Luật thương mại 2005 về hoạt
động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.
66

Khoản 2 Điều 214 Luật Thương mại 2005 quy định: “Các quy định
về đấu thầu trong luật này không áp dụng đối với đấu thầu mua sắm công
theo quy định của pháp luật”. Nhưng đấu thầu mua sắm công là gì thì cả
Luật Thương mại 2005 và Luật Đấu thầu 2013 không giải thích rõ. Vì vậy,
có thể sửa đổi điều khoản này theo hướng: “Các quy định về đâu thầu
trong luật này không áp dụng đối với các gói thầu thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật Đấu thầu 2013, các văn bản quy phạm pháp Luật khác
cũng như các điều ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập” để tạo
thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.

Thứ hai, về đấu thầu dịch vụ.

Trong khi khái niệm hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các quy định về
cung ứng dịch vụ đã được Luật thương mại 2005 quy định khá cụ thể thì
khái niệm về dịch vụ lại chưa hề được bất cứ văn bản luật nào đề cập đến.
Điều này đã vô tình gây ra sự mơ hồ, khó hiểu trong cách giải thích khái
niệm dịch vụ bởi Luật Thuơng mại năm 1997 chỉ quy định các dịch vụ liên
quan tới mua bán hàng hóa. Thế nên có thể bổ sung thêm điều luật định
nghĩa dịch vụ cũng như các dịch vụ là đối tượng của hoạt động đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ. Chúng ta cũng có thể tham khảo cách tiếp cận về dịch
vụ theo của hiệp định GATS của tổ chức thương mại thế giới WTO theo đó
dịch vụ được hiểu là bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong bất kỳ lĩnh vực nào
ngoại trừ dịch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm quyền của chính phủ
(Dịch vụ được cung cấp theo chức năng của các cơ quan chính phủ là loại
dịch vụ không dựa trên cơ sở thương mại hoặc không có sự cạnh tranh với
nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác). Vì vậy dịch vụ là lợi ích mà khách hàng
nhận được phù hợp với quy cách và giá cả do các bên thỏa thuận, gồm 12
67

ngành và 155 phân ngành dựa trên Bảng phân loại các dịch vụ cơ bản của
Liên hợp quốc.

Thứ ba, về chủ thể tham gia đấu thầu hàng hóa, dịch vụ.

Luật Thương mại cần quy định rõ ràng về tư cách pháp lý của bên
mời thầu, việc bên mới thầu có bắt buộc phải là thương nhân hay không
nhằm tránh tình trạng lúng túng, khó hiểu và suy luận của các chủ thế khi
tham gia vào hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, Luật
Thương mại cũng nên đưa ra các điều khoản trong đó quy định rõ về tư
cách pháp lý, địa vị cũng như điều kiện tham gia của các chủ thể như chủ
sở hữu nguồn vốn tổ chức đấu thầu, bên cho vay, các nhà tư vấn, chuyên
gia xét thầu, các cá nhân, tổ chức phê duyệt, thẩm định kết quả đấu thầu…
bởi những chủ thể này hoạt động rất tích cực và có vai trò quan trọng trong
đấu thầu. Khi các vấn đề này được quy định trong luật sẽ tránh được tình
trạng tranh chấp liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá
trình thực hiện đấu thầu.

Thứ tư, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động
đấu thầu.

Hầu như các hoạt động thương mại trong Luật Thương mại đều có
những quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Tuy nhiên trong các
quy định về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ lại không hề có các điều luật quy
định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia. Chính vì vậy Luật
Thương mại cũng cần quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật đấu thầu làm cơ sở xem xét những việc các
chủ thể được phép làm cũng như những hành vi bị cấm. Nếu quyền và
68

nghĩa vụ của các chủ thể được quy định trong các điều luật thì cũng tạo tiền
đề xây dựng các điều luật về xử lý vi phạm trong đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ, tạo môi trường kinh doanh công bằng và lành mạnh.

Thứ năm, về phương thức, hình thức, trình tự và thủ tục đấu thầu
hàng hóa, dịch vụ.

Các quy định về phương thức đấu thầu và trình tự đấu thầu hàng hóa
dịch vụ trong Luật Thương mại 2005 khá là sơ lược tuy đã tạo sự thông
thoáng cho các chủ thể khi áp dụng luật nhưng nó cũng có những mặt trái
nhất định. Sự sơ sài về nội dung, trình tự thủ tục đấu thầu của Luật Thương
mại 2005 đã dẫn tới nhiều trường hợp trên thực tế, để đảm bảo quyền và lợi
ích của mình các bên chủ thể đã lựa chọn Luật Đấu thầu 2013 để áp dụng
cho hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ. Điều này về lâu dài sẽ làm cho
Luật Thương mại chỉ có giá trị về mặt lý thuyết mà không có giá trị về thực
tiễn áp dụng. Vì vậy, việc xem xét và quy định chi tiết hơn trong Luật
Thương mại nhằm tạo sự cân bằng tương đối giữa Luật Thương mại và
Luật Đấu thầu là việc cần quan tâm để tạo điều kiện cho Luật Thương mại
được áp dụng có hiệu quả trong thực tế.

3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam

Việc xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh về đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ có vai trò hết sức quan trọng. Một mặt nó tạo tâm lý
cho các chủ đầu tư, các nhà thầu khi tham gia vào quan hệ đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ kích thích hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ phát triển.
69

Mặt khác, nó hạn chế được những tiêu cực có thể xảy ra xâm phạm đến
quyền và lợi ích của các bên, ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội.

Pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ra đời đã được hoàn thiện
hơn trước, tuy nhiên lĩnh vực pháp luật này hiện nay vẫn còn tồn tại một số
thiếu sót, hạn chế. Dưới đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam.

Thứ nhất, để nền kinh tế thị trường có thể vận hành có hiệu quả, hoạt
động thương mại diễn ra một cách có trật tự, nhà nước cần thiết kế và xây
dựng một hệ thống các văn bản pháp luật hoàn chỉnh và một cơ chế đảm
bảo việc thi hành, đặc biệt là hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh
hoạt động kinh doanh thương mại như Luật Thương mại, Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu... Việc này đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền cần rà soát, xem xét và tổng kết về lý luận cũng như thực tiễn của
công tác xây dựng pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ trong thương mại nói riêng để hoàn thiện khung pháp lý một cách
đồng bộ, hoàn chỉnh với các quy định chặt chẽ, tránh các tiêu cực xảy ra,
tạo điều kiện để hoạt động đấu thầu phát triển lành mạnh.

Trước xu thế hội nhập thế giới càng mạnh mẽ, vấn đề đặt ra đối với
thực thi pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ở Việt Nam còn là phải
điều chỉnh các quy định của pháp luật trong nước sao cho phù hợp với các
thông lệ quốc tế, đảm bảo lợi ích và tạo thuận tiện cho các chủ thể trong và
ngoài nước.

Thứ hai, Nhà nước cần phải điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng,
đặt ra các chính sách cho vay và ưu đãi cho vay đối với các doanh nghiệp
70

vừa và nhỏ trong quá trình hoạt động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
này có khả năng tham gia mạnh hơn vào các hoạt động trên thị trường. Khi
thủ tục, điều kiện vay, lãi suất cho vay vốn ổn định và hợp lý cũng sẽ giúp
doanh nghiệp có khả năng tiếp cận công nghệ mới, nâng cao trình độ, kinh
nghiệm, qua đó tham gia nhiều hơn vào hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh của mình.

Thứ ba, Nhà nước cần xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
hiện đại, đảm bảo độ an toàn, chính xác, nhanh chóng, đáp ứng được những
yêu cầu, đỏi hỏi của hoạt động đấu thầu qua mạng, các trang thông tin điện
tử, hoạt động thương mại điện tử, truyền tải dữ liệu điện tử, đáp ứng được
những đòi hỏi của hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong tình hình
mới. Đó là hiện đại về công nghệ, thiết bị đảm bảo độ chính xác cao, tốc
độ truyền dẫn nhanh; phổ cập về kinh tế, chi phí thích hợp; đảm bảo độ an
toàn, bảo mật thông tin; hệ thống điện lực ổn định, nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp sử dụng rộng rãi những cách thức tiên tiến này.

Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông là điều kiện
thiết yếu để áp dụng hoạt động thương mại điện tử. Chính vì vậy yêu cầu
đặt ra là các chủ thể có thẩm quyền cần xây dựng một hạ tầng viễn thông
hiện đại, kết nối trực tiếp với quốc tế, cung cấp giá cước rẻ, hạ tầng công
nghệ internet hoàn chỉnh, thông tin đa dạng, nhiều chiều, phong phú và
nhanh chóng.

Thứ tư, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần tiếp tục quan tâm
hỗ trợ trong hoạt động xây dựng và hoạch định chính sách, đào tạo nguồn
nhân lực có định hướng, trình độ chuyên môn cao để theo sát hoạt động
đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm trên cơ
71

sở tôn trọng quyền tự chủ của các bên tham gia hoạt động đấu thầu theo
quy định của pháp luật. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần tăng cường công
tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức đấu thầu
cho các doanh nghiệp, các chủ thể chính của đấu thầu, giúp hoạt động đấu
thầu nói chung và hoạt động đấu thầu hàng hóa dịch vụ nói riêng từng bước
đi vào ổn định, quy củ, đảm bảo chất lượng, và đạt được các mục tiêu kinh
tế.

Thứ năm, các chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
cũng cần nỗ lực trang bị cho mình những kiến thức pháp luật về hoạt động
đấu thầu, nắm vững các nguyên tắc cơ bản, nâng cao ý thức trách nhiệm,
phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xây dựng một môi
trường đấu thầu trong sạch, an toàn và hiệu quả.
72

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Luật đấu thầu ra đời nhằm khắc phục những khiếm khuyết của quy
chế đấu thầu trước đây, góp phần hạn chế sai phạm, cũng như bất cập còn
tồn tại còn hoạt động đấu thầu trên thực tế. Các quy định mới của Luật đấu
thầu, đặc biệt trong hoạt động đấu thầu hàng hóa dịch vụ đã phần nào hạn
chế được các “khe hở” trong các văn bản pháp luật về đấu thầu trước đây,
góp phần hạn chế khả năng chủ đầu tư và nhà thầu có thể “lách luật” để
trục lợi cá nhân, gây thất thoát, lãng phí cho ngân sách Nhà nước. Luật đấu
thầu nâng cao quyền và trách nhiệm của các bên trong đấu thầu, đặc biệt là
tăng quyền chủ động cho Chủ đầu tư. Thực tiễn áp dụng pháp luật đấu thầu
trong nền kinh tế thị trường hiện nay tuy đã rất phổ biến tuy nhiên vẫn
không thể tránh khỏi những bất cập và vi phạm. Điều này xuất phát từ việc
pháp luật mặc dù đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với bối cảnh hiện tạ và
bảo đảm tối đã lợi ích các bên, tuy nhiên các nhà làm luật cần bám sát tình
hình thực tiễn để khi quy định được áp dụng có thể phát huy tối đa hiệu
quả, tránh những “kẽ hở” để các bên “lách luật” gây khó khăn trong việc
quản lý và xử lý. Việc tìm ra các giải pháp hoàn thiện chế định trong luật
đấu thầu hàng hóa dịch vụ không hẳn là nhiệm vụ của một phía các cơ quan
ban hành pháp luật mà còn phụ thuộc không nhỏ từ các bên thi hành. Điều
đó sẽ không chỉ đảm bảo các quy định và sự phát triển cho quốc gia mà còn
đem lại lợi ích không nhỏ cho các bên chủ thể tham gia, các doanh nghiệp.
73

KẾT LUẬN

Hoạt động đấu thầu không chỉ đem lại những lợi ích lớn cho các chủ
thể thực hiện đấu thầu mà còn có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền
kinh tế xã hội. Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ là tiền đề quan trọng cho phát triển của pháp luật về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ. Xây dựng được một hệ thống pháp luật về đấu thần hàng hóa,
dịch vụ hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ sẽ tạo hành lang pháp lý thuận
lợi, an toàn và minh bạch trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động đấu
thầu. Không chỉ thế, pháp luật về đấu thầu hàng hoá, dịch vụ có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc tạo một môi trường công bằng, lành mạnh, đảm bảo
sự cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ.

Các quy định về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong Luật Thương mại
2005 về cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu đặt ra đối với pháp luật
điều chình hoạt động này. Các điều luật tuy sơ lược nhưng đã khuyến khích
quyền tự chủ và tạo sự thông thoáng cho các chủ thể khi áp dụng. Thực tiễn
thực hiện hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cũng đạt được nhiều thành
tựu khi các gói thầu luôn tăng dần theo các năm, tỉ lệ tiết kiệm đạt được
cao, hệ thống thông tin đấu thầu đầy đủ, minh bạch, áp dụng công nghệ tiên
tiến vào hoạt động đấu thầu… tạo được tâm lý yên tâm, tin tưởng vào pháp
luật của các chủ thể tham gia hoạt động này. Tuy nhiên, bên cạnh đó, thực
tiễn thực thi pháp luật về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ vẫn còn một số vướng
mắc như cơ sở hạ tầng thông tin còn kém, vẫn xảy ra các hiện tượng thông
thầu, ăn cắp giải pháp kĩ thuật, phần mềm ở các gói thầu cần kĩ thuật cao…
đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền quan tâm, xem xét, tìm cách khắc phục.
74

Trong một cơ chế kinh tế thị trường luôn luôn biến động thì những tiêu
cực của hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ trong lĩnh vực thương mại sẽ rất
dễ nảy sinh nếu không được pháp luật điều chỉnh kịp thời. Và để thực hiện
được điều này thì vai trò trước hết là thuộc về Nhà nước bởi Nhà nước chính
là chủ thể nắm trong tay các công cụ pháp lý và kinh tế cần thiết điều tiết mọi
hoạt động trong xã hội. Để hoạt động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ ngày càng
phát huy được hiệu quả của mình, việc sửa đổi các quy định của Luật
Thương mại 2005, thêm vào các điều luật quy định những vấn đề mới phát
sinh trong thực tế là vô cùng cần thiết. Bên cạnh việc xây dựng khung pháp
lý, nhà nước và các chủ thể có liên quan cũng cần nỗ lực, cố gắng để hoạt
động đấu thầu hàng hóa, dịch vụ từng bước đi vào ổn định, quy củ, đạt
được các mục tiêu kinh tế, xây dựng được một môi trường đấu thầu trong
sạch, an toàn và lành mạnh.
75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản pháp luật

1. Luật Thương mại năm 1997

2. Luật Cạnh tranh năm 2004

3. Luật Thương mại năm 2005

4. Luật Đấu thầu năm 2005

5. Luật Đầu tư năm 2013

6. Hướng dẫn về mua sắm của ngân hàng phát triển ADB

7. Nghị định của Chính phủ số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số
88/1999/NĐ-CP

8. Nghị định của Chính phủ số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định
của Chính phủ số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999; Nghị định của Chính
phủ số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000

9. Quy định của WB về tuyển dụng, tư vấn, mua sắm hàng hóa và xây lắp

10. Thông tư của Bộ kế hoạch và đầu tư số 04/2000/TT-BKH ngày


26/5/2000 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị
định của Chính phủ số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999; Nghị định của
Chính phủ số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000

11. Thông tư của Bộ kế hoạch và đầu tư số 01/2004/TT-BKH ngày


2/2/2004 hướng dẫn Nghị định của Chính phủ số 66/2003/NĐ-CP ngày
12/6/2003
76

12. Báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu năm 2008 của Bộ kế
hoạch và đầu tư số 3933/BKH-QLĐT

13. Báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu năm 2009 của Bộ kế
hoạch và đầu tư số 3138/BKH-QLĐT

14. Báo cáo tình hình thực hiện công tác đấu thầu năm 2010 của Bộ kế
hoạch và đầu tư số 2813/BKH-QLĐT

Sách, bài viết tạp chí

15. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật,
Nhà xuất bản Tư pháp năm 2006;

16. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại (Tập 1), Nhà
xuất bản Công an nhân dân năm 2007;

17. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại (Tập 2), Nhà
xuất bản Công an nhân dân năm 2007;

18. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb
Công an nhân dân năm 2000;

19. Đặng Văn Được & Ths. Ngô Quỳnh Hoa, Luật Thương mại và các văn
bản hướng dẫn thi hành - 240 câu hỏi đáp Nhà xuất bản Lao động xã hội
2006;

20. Phạm Thúy Hà, Một số vấn đề pháp lý về đấu thầu quốc tế theo quy
định của một số tổ chức quốc tế và pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội;

21. Trần Thị Thanh Hợp (2007), Tìm hiểu pháp luật về đấu thầu hàng hóa,
dịch vụ ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội;
77

22. Trần Thắng Lợi, Đấu thầu trong các hoạt động xây dựng bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước và ODA theo Pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;

23. Đặng Phương Nhung, Tìm hiểu pháp luật hiện hành về đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà
Nội;

24. Lê Hoàng Oanh (2007), Bình luận các vấn đề mới của Luật thương mại
trong điều kiện hội nhập, Nxb Tư pháp.

25. Phạm Thị Thu Trang, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật
đấu thầu ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội;

26. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải nghĩa thuật ngữ Luật học,
Nxb Công an nhân dân 2000;

27. Vũ Huy Tửu, Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Trường Đại học ngoại
thương

28. Dương Anh Sơn & TS Nguyễn Thành Đức (2007), Nhân việc bàn về
chất lượng của Luật thương mại 2005 nên thay đổi cách làm luật, Tạp chí
Khoa học pháp lý số 3/2007;

29. Bộ Tư pháp (2013), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa và NXB
Tư pháp.

30. Đào Thị Thu Hằng (2016), Sách tham khảo Pháp luật về Thương mại
hàng hóa và dịch vụ, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

website
78

31. http://vneconomy.vn/20110930081227725P0C9920/luat-dau-thau-
khong-bao-ve-nha-thau-trong-nuoc.htm, ngày truy cập 17/6/20017

32. http://amc.edu.vn/vi/tin-tuc-su-kien/tin-xay-dung-va-do-thi/hoat-
dong-dau-tu-xay-dung/3317-bao-cao-tinh-hinh-thuc-hien-cong-tac-dau-
thau-nam-2014, ngày truy cập 18/6/2017

33. http://thegioicanho.com/a/nha-thau-trung-quoc-o-at-vao-viet-nam-
doi-sach-cho-nha-thau-%E2%80%9Cnoi%E2%80%9D-/4279/147,

ngày truy cập 01/07/2017

34. http://www.luatviet.org/Home/pho-bien-phap-luat/2008/6201/Luat-
Dau-thau.aspx, ngày truy cập 01/07/2017

35. http://www.vibonline.com.vn/Hoidap/3968/The-nao-la-dieu-kien-
hop-dong-FIDIC-Viec-ap-dung-no-trong-qua-khu-va-tuong-lai-o-
Viet.aspx, ngày truy cập 07/07/2017

You might also like