You are on page 1of 88

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

XỬ LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỐN THUẾ THEO


PHÁP LUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN KHÁNH HƯNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN CƯƠNG

Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. VŨ VĂN CƯƠNG


NGUYỄN KHÁNH HƯNG
LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của
các thầy cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Vũ Văn Cương đã hướng
dẫn tôi thực hiện nghiên cứu Luận văn của mình. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân
thành tới các thầy cô giáo đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ vô cùng có ích
trong thời gian học vừa qua.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Khoa đào tạo Sau đại học
Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Do kiến thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, mặc dù đã cố gắng trong
quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình, nhưng Luận văn của tôi không tránh
khỏi thiếu sót, hạn chế. Tôi mong nhận được sự đóng góp của các Thầy, Cô và bạn
bè. Tôi xin trân trọng cảm ơn !
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN KHÁNH HƯNG


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ Luật Hình sự


DN Doanh nghiệp
GTGT Giá trị gia tăng
KTTT Kinh tế thị trường
NNT Người nộp thuế
NSNN Ngân sách Nhà nước
QLT Quản lý thuế
TNCN Thu nhập cá nhân
TNDN Thu nhập Doanh nghiệp
TNHS Trách nhiệm hình sự
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN


LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ LÝ ĐỐI VỚI
HÀNH VI TRỐN THUẾ............................................................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế và xử lý đối với hành vi trốn thuế...7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế........................................................7
1.1.2. Những vấn đề lý luận về xử lý đối với hành vi trốn thuế.............................10
1.2. Khái quát về pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế...........................23
1.2.1. Khái niệm pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế...............................23
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế..........................24
1.2.3. Các yếu tố chi phối nội dung điều chỉnh của pháp luật về xử lý đối với hành
vi trốn thuế..............................................................................................................24
Kết luận chương 1.....................................................................................................31
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XỬ LÝ ĐỐI VỚI
HÀNH VI TRỐN THUẾ Ở VIỆT NAM................................................................32
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam.......32
2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam
hiện nay...................................................................................................................32
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế
ở Việt Nam hiện nay................................................................................................39
2.2.Thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt
Nam.........................................................................................................................48
2.2.1. Những kết quả đã đạt được..........................................................................48
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý đối
với hành vi trốn thuế ở Việt Nam hiện nay............................................................53
Kết luận chương 2.....................................................................................................60
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỐN THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY............................................................................................................................61
3.1. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế ở Việt Nam..............................................................................61
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở
Việt Nam................................................................................................................64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi
trốn thuế ở Việt Nam............................................................................................72
Kết luận chương 3.....................................................................................................77
KẾT LUẬN................................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................79
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Lịch sử loài người đã chứng minh thuế có vai trò vô cùng quan trọng đối với
đời sống xã hội và sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Thuế là khoản đóng góp
bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật
định. Thông qua công cụ này, Nhà nước không chỉ tăng thu cho ngân sách, qua đó
đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước mà còn sử dụng nó
để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Như vậy, sự tồn tại và phát triển của thuế là một tất
yếu khách quan, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trong tình hình
kinh tế hiện nay thì thuế là công cụ góp phần giảm bội chi ngân sách, giảm lạm
phát, từng bước góp phần ổn định xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc
phát triển lâu dài.
Trong những năm vừa qua, tình trạng vi phạm pháp luật thuế diễn biến ngày
càng phức tạp, công tác xử lý vi phạm pháp luật thuế trở nên khó khăn và bộc lộ
nhiều điểm bất cập, đã ảnh hưởng đến việc cân đối ngân sách và chi tiêu của Chính
phủ, đồng thời tác động không tốt đến những người nộp thuế có ý thức chấp hành
tuân thủ Luật thuế. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật về thuế của người nộp
thuế còn hạn chế, đặc biệt hiện tượng gian lận, trốn thuế, bất chấp các biện pháp
quản lý thuế quyết liệt của cơ quan thuế. Pháp luật về xử lý đối với hành vi vi phạm
pháp luật thuế nói chung và xử lý đối với hành vi trốn thuế nói riêng còn nhiều bất
cập chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay như: Chế tài xử lý chưa đủ mạnh và chưa
có tính khả thi cao đối với các trường hợp trốn thuế khiến người nộp thuế cố tình
không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, chiếm dụng tiền thuế phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Ngoài những nguyên nhân liên quan đến người nộp thuế
thì tình trạng vi phạm pháp luật thuế hiện nay còn xuất phát từ những tiêu cực nảy
sinh từ phía các cơ quan quản lý thuế, cán bộ thuế hoặc liên quan đến thủ tục hành
chính thuế còn nhiều phức tạp… Chính vì vậy, vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật
về xử lý vi phạm thuế nói chung và xử lý đối với hành vi trốn thuế nói riêng luôn
được đặc biệt chú trọng ở nước ta. Ngày 17/05/2011, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 732/QĐ-TTg về việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống

1
thuế giai đoạn 2011-2020 đã thể hiện nội dung cải cách: “Xây dựng, ban hành chế
độ quy định về quản lý thanh tra, kiểm tra thuế đối với người nộp thuế trên cơ sở
quản lý rủi ro; xây dựng cơ sở dữ liệu người nộp thuế, trên cơ sở đó thực hiện phân
tích, đánh giá rủi ro, phân loại người nộp thuế tại tất cả các khâu đăng ký thuế,
khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật
thuế.”[40]
Trong thời gian qua, công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật thuế đã đạt
được những thành tựu nhất định, bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế, yếu kém.
Đặc biệt, tình trạng trốn thuế, gian lận về thuế còn diễn ra ở nhiều khoản thu, sắc
thuế, ở nhiều địa phương trong cả nước, vừa làm thất thu cho ngân sách Nhà nước,
vừa không đảm bảo công bằng xã hội. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân từ nội dung các quy định của pháp luật. Pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế còn khó thực hiện, chưa cụ thể, rõ ràng chưa phù hợp với các chuẩn
mực chung của quốc tế. Đặc biệt Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là “BLHS”) mới ra
đời có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018 trong đó có quy định về truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân trốn thuế. Đây là vấn đề mới chưa có hướng dẫn cụ thể từ
phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi triển khai áp dụng trong thực tiễn sẽ gặp
nhiều khó khăn. Để công tác xử lý vi phạm pháp luật thuế nói chung và xử lý đối với
hành vi trốn thuế nói riêng thực sự phát huy được hiệu quả, cần nghiên cứu một cách
có hệ thống những quy định về xử lý đối với hành vi trốn thuế và thông qua thực tiễn
xử lý để chỉ ra những ưu điểm cũng như những hạn chế của những quy định đó và từ
đó tìm ra hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam.
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn trên, qua quá trình học tập, nghiên cứu
và công tác của mình, tôi nhận thấy pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế là
một vấn đề đang được xã hội quan tâm, nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Xử lý
đối với hành vi trốn thuế theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học chuyên ngành Luật kinh tế. Việc nghiên cứu đề tài này trong giai đoạn hiện
nay là có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cao.

2
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay chưa có công trình khoa học pháp lý nghiên cứu riêng về xử lý đối
với hành vi trốn thuế. Chủ yếu là những nghiên cứu về pháp luật xử lý vi phạm
pháp luật thuế nói chung hoặc được lồng ghép trong các đề tài nghiên cứu về pháp
luật quản lý thuế.
Gần đây nhất là công trình nghiên cứu: “Pháp luật Quản lý thuế trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ
Luật học của Vũ Văn Cương. Luận án đã phân tích khá rõ một số vấn đề lý luận
cũng như thực tế áp dụng pháp luật quản lý thuế. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu
của công trình rất rộng, nghiên cứu tổng thể các bộ phận cấu thành của pháp luật
quản lý thuế. Có lẽ vì phạm vi nghiên cứu của luận án quá rộng nên mảng pháp luật
xử lý vi phạm pháp luật thuế, đặc biệt là xử lý đối với hành vi trốn thuế chưa được
đề cập sâu.
Luận văn thạc sĩ luật học (2016) của Lê Hồng Thanh: “Thực tiễn xử lý vi
phạm pháp luật thuế - Những vướng mắc phát sinh và hướng hoàn thiện”, Viện Đại
học Mở Hà Nội. Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật
thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế. Đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật thuế trong đó có đề cập để xử lý đối với hành vi gian lận trốn thuế
dưới góc độ là một trong các hành vi vi phạm pháp luật thuế để đưa ra phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật dưới góc độ
chung mà chưa đi sâu vào việc xử lý đối với hành vi trốn thuế. Hơn nữa việc tiếp
cập xử lý hình sự đối với hành vi trốn thuế vẫn theo BLHS cũ chưa cập nhật xử lý
hình sự đối với tội trốn thuế theo BLHS mới chưa đề cập đến xử lý hình sự đối với
pháp nhân trốn thuế.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Mạnh Tùng: “Pháp luật về phòng chống gian lận
thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam”, Viện Đại học Mở Hà Nội năm 2017. Luận văn này
chủ yếu tập trung hành vi gian lận thuế giá trị gia tăng (sau đây viết tắt là” GTGT” và
có đề cập đến xử lý đối với hành vi này với tư cách là một biện pháp phòng chống gian
lận đối với thuế giá trị gia tăng.

3
Ngoài những luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu trực tiếp đến
pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam còn có những khóa luận, các bài viết đăng trên
các tạp chí nghiên cứu những vấn đề liên quan đến pháp luật về xử lý đối với hành
vi vi phạm pháp luật thuế nói chung và trốn thuế nói riêng ở Việt Nam như:
- Khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Phương: “Trốn thuế, gian lận thuế thu
nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và phương hướng hoàn thiện”
năm 2012;
- Văn Tân (2006), “Bất cập trong xử lý vi phạm hành chính ở lĩnh vực thuế”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số 11).
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam, trên cơ sở kết
quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn để luận chứng khoa học cho việc xác định phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý
thuế nói chung và pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam nói riêng.
Để đạt được mục đích trên thì đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả khái quát được nội dung, đặc điểm
pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế, đồng thời phân tích đưa ra nhận định,
đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế ở Việt Nam. Từ đó, luận văn đưa ra những đề xuất kiến nghị hoàn
thiện pháp luật nhằm khắc phục những vấn đề tồn tại và nâng cao hiệu quả quản lý
thuế ở nước ta.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế tại
Việt Nam, các quan điểm khoa học pháp lý, các quan điểm, đường lối của Đảng có
liên quan đến pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế và hoàn thiện pháp luật về
xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật về xử lý đối với hành vi
trốn thuế ở Việt Nam kể từ khi có Luật Quản lý thuế ra đời năm 2006 cho đến nay.

4
Việc nghiên cứu thực tiễn được khảo sát chủ yếu tại các địa phương trong phạm vi cả
nước trong 10 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận biện chứng duy vật
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Để thực hiện luận văn này,
chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp tiếp
cận lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê để giải quyết nội
dung khoa học của đề tài.
Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng nhiều trong chương 1 để làm
rõ những khái niệm, phạm trù mà luận văn sử dụng từ đó rút ra những kết luận khoa
học làm cơ sở cho việc đánh giá thực tiễn xử lý vi phạm pháp luật thuế và xác định
định hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm pháp luật thuế ở
Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận lịch sử, phân tích, so sánh, phương pháp thống kê được sử
dụng trong chương 2 để luận giải cho nhận định, đánh giá về thực trạng pháp luật và
thực tiễn xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng cuối mỗi chương và một số mục chương
2 và 3 của luận văn để rút ra những kết luận và định ra được các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Đây là một công trình nghiên cứu có tính hệ thống về pháp luật xử lý đối với
hành vi trốn thuế ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ
sung và phát triển những vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế ở
Việt Nam nói chung và pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế nói riêng, làm rõ
cơ sở khoa học để nghiên cứu hoàn thiện trong một chỉnh thể thống nhất từng bộ
phận pháp luật quản lý thuế và cả hệ thống pháp luật thuế.
Luận văn là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp
lý phục vụ việc hoạch định chính sách; phục vụ quản lý hoạt động thực tiễn trong

5
các cơ quan tài chính, thuế, hải quan, các cơ quan tố tụng và các đối tượng thực hiện
nghĩa vụ thuế.
Các kết luận, các ý kiến được trình bày trong luận văn có thể giúp ích cho các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong xây dựng chính sách, xây dựng pháp luật
thuế và trong tổ chức thực hiện pháp luật thuế.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn xử lý đối với hành vi trốn thuế
ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam hiện nay.

6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT
XỬ LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỐN THUẾ

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế và xử lý đối với hành vi trốn thuế
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử [15,Tr.669]. Lịch sử
loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự
hình thành và phát triển của Nhà nước. Cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác
nhau về thuế. Khái niệm về thuế được đưa ra bởi các nhà kinh tế học, các học giả:
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đưa ra một
định nghĩa về thuế như sau: “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất
xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà nước thông
qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước.”
Theo Từ điển tiếng việt: “Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân
hoặc các tổ chức kinh doanh tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp…buộc phải
nộp cho nhà nước theo mức quy định.”
Dưới góc độ pháp lý, thuế được định nghĩa như sau: “Thuế là khoản đóng
góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước khi
có đủ những điều kiện nhất định theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”[13,Tr.10].
Như vậy, từ các định nghĩa trên ta có thể hiểu thuế đơn giản như sau: “Thuế
là một khoản đóng góp bắt buộc từ các tổ chức, cá nhân cho Nhà nước dựa trên cơ
sở các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành theo
nguyên tắc bắt buộc, không bồi hoàn trực tiếp cho người nộp nhằm thực hiện chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước.”
Từ khái niệm trên có thể khái quát được các đặc điểm nổi bật của thuế như sau:
Thứ nhất, Thuế là khoản thu gắn liền với Nhà nước: Chỉ có Nhà nước mới có
quyền đặt ra và thu các loại thuế mà không có tổ chức hay cá nhân nào có quyền
này. Giữa thuế và Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Thuế

7
sinh ra từ Nhà nước, nó tồn tại dựa trên cơ sở quyền lực Nhà nước đồng thời thuế là
phương tiện để duy trì sự tồn tại và phát triển Nhà nước, không có thuế nhà nước
không tồn tại và phát triển được. Mặc dù thuế không phải là nguồn thu duy nhất
nhưng nó là nguồn thu chủ yếu của ngân sách hầu hết các quốc gia.
Thứ hai,Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc: Tính bắt buộc là thuộc tính
cơ bản vốn có của thuế nó thể hiện ở chỗ: Nhà nước sử dụng quyền lực chính trị đặt
ra hệ thống pháp luật thuế trong đó ấn định rõ người nộp thuế, số thuế và thời hạn
nộp thuế. Và khi người nộp thuế không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật thuế quy định thì Nhà nước sẽ sử dụng các
biện pháp xử lý các vi phạm trên. Nhờ có đặc tính này mà Nhà nước mới có được
nguồn thu lớn, chắc chắn, ổn định từ đó Nhà nước mới có thực hiện tốt các chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Chính vì tính bắt buộc của thuế nên mọi hành vi vi phạm pháp luật về thuế
đều phải được xử lý kịp thời, công minh và triệt để.
Thứ ba, Thuế là một khoản thu không mang tính đối giá, tính bồi hoàn trực
tiếp cho người nộp thuế: Đặc trưng này của thuế được thể hiện ở chỗ, cả trước và
sau khi thu thuế, Nhà nước không hề ứng trước hoặc bù lại một khoản lợi ích vật
chất trực tiếp nào cho người nộp thuế. Bất kỳ ai thỏa mãn các dấu hiệu do luật định
đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế không kể họ có được hưởng lợi hay không
được hưởng lợi, hưởng ít hay nhiều. Tuy nhiên, người nộp thuế có thể được hưởng
gián tiếp một phần lợi ích thông qua những lợi ích về an ninh quốc phòng, kết cấu
hạ tầng, trợ cấp xã hội…với tư cách là người dân được nhà nước bảo đảm những
quyền lợi đó.
Thứ tư, Thuế là khoản thu được thiết lập trên nguyên tắc luật định: Do thuế
có vai trò quan trọng đối với việc hình thành quỹ Ngân sách Nhà nước và những ảnh
hưởng to lớn của nó đối với đời sống kinh tế xã hội mà quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ
các loại thuế đều thuộc cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Thông thường thuế
được thể hiện dưới hình thức văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao là các đạo luật
thuế hoặc bộ luật thuế để đảm bảo tính nghiêm minh, tính ổn định, tính công bằng của
mỗi loại thuế và cả hệ thống thuế.

8
* Vai trò của thuế
Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung của cải vật
chất trong xã hội, đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước (sau đây gọi
tắt là “NSNN”). Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ
yếu và quan trọng nhất. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào
nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Với tỷ trọng các khoản thu từ thuế
thường chiếm trên 90% tổng thu ngân sách, thuế là công cụ quan trọng nhất để phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân ở nước ta. Như vậy, thuế là một
công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề
cho việc phát triển lâu dài.
Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, khắc phục
những bất cập trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Chức năng điều tiết nền kinh tế
là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước. Được thực hiện thông qua các
quy định của pháp luật về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế
suất, miễn giảm thuế… Nhờ đó, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư,
tiêu dùng và điều hòa thu nhập của các thành viên trong xã hội.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp
đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự điều chỉnh cung - cầu hợp lý sẽ có tác động lớn
đến sự ổn định vào tăng trưởng kinh tế đất nước.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp.
Đối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần khuyến khích,
ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn quy định các ưu đãi, miễn, giảm
thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của
các doanh nghiệp.
Ngoài ra, thuế còn là công cụ góp phần bảo đảm sự bình đẳng và công bằng
xã hội. Sự bình đẳng và công bẳng thể hiện: Nhà nước đánh thuế cao đối với mặt
hàng cần hạn chế tiêu dùng và đánh thuế thấp đối với mặt hàng thiết yếu, khuyến
khích tiêu dùng; quy định về thuế suất luỹ tiến trong thuế thu nhập thể hiện người
có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, người thu nhập thấp thì nộp ít hơn.

9
Như vậy, thuế có vai trò rất quan trọng đến với nền kinh tế và đời sống xã
hội. Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều
kiện kinh tế, xã hội nhất định. Tuy vậy, thuế cũng phải luôn phù hợp với mục tiêu,
đường lối phát triển kinh tế xã hội và là công cụ đắc lực cho việc thực hiện các
đường lối chính sách quốc gia đó.
1.1.2. Những vấn đề lý luận về xử lý đối với hành vi trốn thuế
1.1.2.1. Khái niệm và các dấu hiệu nhận biết hành vi trốn thuế
Dưới góc độ ngôn ngữ học: “Trốn là cố tìm cách lảng tránh một nhiệm vụ,
nghĩa vụ nào đó”[16]. Từ đó, có thể hiểu trốn thuế là việc chủ thể nộp thuế cố ý
lảng tránh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trốn thuế là hành vi vi phạm pháp luật và có
lỗi do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện xâm hại đến các quan hệ pháp luật thu
nộp thuế đối với nhà nước. Theo đó, có thể hiểu một cách cụ thể hơn, trốn thuế là
hành vi của cá nhân, tổ chức (là đối tượng nộp thuế) đã vi phạm các quy định của
pháp luật về thuế dẫn đến làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
hoàn hoặc được miễn, giảm.
Trốn thuế là một trong những hành vi vi phạm pháp luật về thuế[30,31]. Do
đó, trốn thuế có các đặc điểm chung của hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Bên
cạnh đó, hành vi trốn thuế còn mang các đặc điểm riêng biệt nhất định. Các đặc
điểm này là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt hành vi trốn thuế với các hành vi vi
phạm pháp luật thuế khác. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế:
Chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế là các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện
phải nộp một loại thuế nhất định nào đó theo luật định nhưng đã thực hiện hành vi
vi phạm các quy định của pháp luật về thuế hoặc cố tình làm sai lệch các thông tin
kế toán tài chính dẫn đến làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
hoàn hoặc được miễn, giảm.
Việc xác định chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế là cá nhân hay tổ chức vô
cùng quan trọng, đặc biệt trong xử lý trách nhiệm hình sự đối với hành vi trốn thuế.
Bởi vì hành vi của tổ chức (pháp nhân) được thực hiện thông qua hành vi của cá

10
nhân, nên nếu không hiểu rõ bản chất sẽ dễ dẫn đến tình trạng lợi dụng vỏ bọc pháp
nhân, đổ tội cho pháp nhân. Dưới đây là một số căn cứ mang tính tiên quyết trong
việc xem xét và xác định chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế là cá nhân hay pháp
nhân:
- Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân hay cá nhân.
Để xác định chủ thể vi phạm là pháp nhân, điều đầu tiên người thực hiện hành vi
trốn thuế phải nhân danh pháp nhân, có nghĩa là dưới danh nghĩa của pháp nhân.
Trường hợp thực hiện hành vi mang danh nghĩa của cá nhân thì tất nhiên không thể
xác định chủ thể thực hiện hành vi là pháp nhân ngay cả khi cá nhân đó là người đại
diện hợp pháp của pháp nhân. Người thực hiện hành vi nhân danh pháp nhân có thể
là người lãnh đạo, người điều hành pháp nhân, người được pháp nhân ủy quyền.
- Hành vi vi phạm được thực hiện vì lợi ích của ai? Cá nhân hay pháp nhân?
Hành vi vi phạm được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân là việc người đại diện thực
hiện hành vi nhằm mang lại lợi ích chung cho pháp nhân, kể cả trong trường hợp lợi
ích của pháp nhân không phải là duy nhất. Ví dụ như: giảm chi phí nộp thuế cho
pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp nhân khi thực hiện hành vi thao túng giá
chứng khoán. Trường hợp thực hiện hành vi trên danh nghĩa pháp nhân nhưng lại
mang lại lợi ích cho cá nhân thì cũng không thể xử lý đối với pháp nhân.
- Hành vi vi phạm được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận
của pháp nhân. Hành vi vi phạm được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp
thuận của pháp nhân. Đây là căn cứ quan trọng để xác định một pháp nhân có bị xử
lý hay không. Nói cách khác, căn cứ này phản ánh dấu hiệu “lỗi” của pháp nhân
thông qua việc đánh giá ý thức chủ quan của người đứng đầu, Ban lãnh đạo pháp
nhân. Như vậy, pháp nhân chỉ bị xử lý khi người đứng đầu pháp nhân hoặc Ban
lãnh đạo của pháp nhân nhận thức rõ hành vi mà người đại diện thực hiện là trái
pháp luật mà vẫn chỉ đạo, trực tiếp điều hành hoặc chấp thuận cho người đại diện
thực hiện hành vi đó.
Cũng lưu ý là trên thực tế, nếu như các dấu hiệu trên có cả ở pháp nhân và cá
nhân, hay nói cách khác cả cá nhân và pháp nhân đều cùng nhau thực hiện với mục
đích trốn thuế thì việc pháp nhân bị xử lý không loại trừ trách nhiệm của cá nhân.

11
Khi xử lý đối với người hoặc những người đứng đầu pháp nhân thì tùy từng trường
hợp cụ thể để xử lý. Nếu những người này đều biết và thống nhất chỉ đạo, chấp
thuận cho thực hiện thì họ cùng chịu trách nhiệm chung về tội danh với pháp nhân
và người trực tiếp thực hiện tội phạm. Nếu có căn cứ cho rằng, trong số họ có người
không biết hoặc phản đối việc thực hiện hành vi này thì họ không phải chịu trách
nhiệm chung tội danh với pháp nhân.
Thứ hai, Khách thể của hành vi trốn thuế:
Khách thể của hành vi trốn thuế là các quy định của pháp luật về thuế liên
quan đến số thuế phải nộp hoặc số thuế được hoàn, được miễn, giảm. Việc trốn thuế
thường diễn ra dưới nhiều hình thức và ở các loại thuế khác nhau. Trên thực tế,
hành vi trốn thuế có thể xẩy ra ở mọi loại thuế nhưng có một số loại thuế thường có
tỷ lệ bị trốn thuế cao là: Thuế thu nhập doanh nghiệp, Thuế thu nhập cá nhân, Thuế
giá trị gia tăng, Thuế xuất khẩu nhập khẩu…
Thứ ba, mục đích của chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế:
Chủ thể nộp thuế cố ý không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy
định của pháp luật về nghĩa vụ nộp thuế nhằm chiếm đoạt số tiền thuế mà lẽ ra mình
có nghĩa vụ phải nộp cho NSNN. Động cơ của chủ thể có hành vi trốn thuế là vụ lợi
và thủ đoạn thực hiện hành vi trốn thuế thường gian lận trong lập hóa đơn, chứng
từ, kê khai, hạch toán sai…làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
hoàn hoặc được miễn, giảm với mục đích thu lợi bất chính. Cùng với mục đích làm
giảm tối đa số thuế phải nộp, ta có thể phân biệt trốn thuế với tránh thuế. Trong khi
trốn thuế là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì tránh thuế hợp pháp là nhờ các đối tượng nộp thuế
am hiểu pháp luật thuế, lợi dụng những sơ hở của pháp luật và vận dụng tốt các kỹ
thuật thuế và kế toán hợp pháp để làm giảm tối đa nghĩa vụ thuế.
Thứ tư, lỗi của chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế là lỗi cố ý:
Khác với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế khác có thể được thực hiện
bằng cả hai hình thức lỗi (cố ý và vô ý), còn lỗi của chủ thể thực hiện hành vi trốn
thuế chỉ được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xuất phát từ động cơ cá nhân, mục
đích thu lợi bất chính là số tiền thuế mà họ trốn thuế. Thủ đoạn của chủ thể trốn thuế

12
rất phức tạp với nhiều hình thức khác nhau nhưng đều có một điểm chung là sự cố ý
vi phạm pháp luật để đạt được mục đích làm giảm tối đa số thuế phải nộp, tăng số
thuế được hoàn, được miễn, giảm làm thất thu cho NSNN.
Thứ năm, hậu quả của hành vi trốn thuế:
Trốn thuế gây thất thu nghiêm trọng cho NSNN, làm tăng gánh nặng quản lý
thuế, gây ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, thiếu công bằng giữa các
doanh nghiệp và làm tha hoá cán bộ, gây nên những hậu quả không chỉ dưới góc độ
kinh tế mà còn về đạo đức xã hội. Bên cạnh hành vi trốn thuế, các hành vi khác vi
phạm pháp luật thuế như: vi phạm thủ tục thuế, khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn. Những hành vi này đều ảnh hưởng đến
hiệu quả của quá trình thu nộp thuế và có thể bị xử lý vi phạm hành chính về thuế.
Tuy nhiên, đối với hành vi trốn thuế khi thoả mãn dấu hiệu của tội phạm thì còn bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là đặc điểm quan trọng cho thấy mức độ nguy
hiểm và hậu quả của hành vi trốn thuế nói chung.
1.1.2.2. Khái niệm xử lý đối với hành vi trốn thuế
Xử lý đối với hành vi trốn thuế là việc Nhà nước áp dụng các chế tài (trách
nhiệm pháp lý) đối với người có hành vi trốn thuế, nhằm mục đích trừng phạt đối
với người vi phạm và tìm cách khắc phục các hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành
vi phạm pháp của người đó gây ra. Hay nói cách khác: Xử lý đối với hành vi trốn
thuế là các hoạt động của chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định hiện hành
áp dụng các biện pháp pháp xử lý hành chính hoặc hình sự đối với các tổ chức, cá
nhân có hành vi trốn thuế. Ngoài ra, trong các vụ việc liên quan xử lý hành vi trốn
thuế còn có thể áp dụng các biện pháp xử lý khác như xử lý trách nhiệm dân sự,
hoặc trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ công chức có liên quan đến hành vi trốn
thuế hoặc xử lý đối với hành vi trốn thuế.
Như vậy, trong khái niệm “xử lý đối với hành vi trốn thuế”, có thể đề cập
đến ba khía cạnh:
Thứ nhất, chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý đối với hành vi
trốn thuế chỉ có thể là nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời là chủ thể có bổn phận giữ cho kỷ cương, phép nước được tôn trọng.

13
Nói như vậy có nghĩa rằng việc xử lý đối với hành vi trốn thuế, thực chất là hoạt
động mang tính chất quản lý của nhà nước đối với xã hội bằng pháp luật, chứ không
phải là hành vi mang tính chất “tự vệ” thông thường như một tổ chức, cá nhân vẫn
làm và có thể làm trước hành vi xâm hại của người khác đối với quyền lợi của
mình.
Trong cơ chế tự khai, tự nộp, chế tài xử lý đối với hành vi trốn thuế không
phải là mục tiêu chính của quản lý thuế mà chỉ là một phương tiện nhằm khuyến
khích sự tuân thủ. Trên bình diện tổng thể của quản lý thuế, xử lý đối với hành vi
trốn thuế mang nặng tính “răn đe” để hướng đối tượng nộp thuế về sự tuân thủ. Nếu
mọi trường hợp không tuân thủ đúng pháp luật thuế đều được phát hiện xử lý chính
xác, nghiêm khắc, kịp thời thì có tác dụng phòng ngừa, thúc đẩy các đối tượng nộp
thuế hướng đến sự tuân thủ pháp luật thuế. Ngược lại, nếu hệ thống xử lý yếu sẽ là
điều kiện làm lan nhanh sự không tuân thủ sang các đối tượng khác. Mặt khác, xử lý
đối với hành vi trốn thuế nhằm bảo đảm sự một sự công bằng về đối xử giữa các đối
tượng tuân thủ và không tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế được pháp luật thuế quy định.
Thứ hai, về phương diện khách thể, việc xử lý đối với hành vi trốn thuế nhằm
hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích chung hay trật tự công cộng. Sở dĩ mục tiêu chủ
yếu của việc xử lý đối với hành vi trốn thuế chính là lợi ích chung và trật tự công
cộng là bởi vì, pháp luật thuế được tạo ra là để làm khuôn khổ pháp lý an toàn và đầy
đủ cho nền kinh tế, tài chính ở mỗi quốc gia, hơn thế nữa, nó còn là công cụ hữu hiệu
nhất để bảo vệ cho nền kinh tế, tài chính khỏi bị ảnh hưởng bất lợi bởi những hành vi
xâm hại của các chủ thể khác.
Thứ ba, việc xử lý đối với hành vi trốn thuế tạo ra các hậu quả pháp lý bất lợi
cho chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế. Các hậu quả pháp lý bất lợi này có thể ảnh
hưởng ở những mức độ khác nhau đối với các quyền và lợi ích cơ bản của người vi
phạm (bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản), tuỳ theo tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi trốn thuế.
1.1.2.3. Các chế tài xử lý đối với hành vi trốn thuế
Do hành vi trốn thuế trên thực tế xảy ra với nhiều hình thức, thủ đoạn khác
nhau với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, bởi vậy nhà nước cần

14
phải có những chế tài xử lý phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi trốn thuế mà đối tượng vi phạm đã thực hiện.
Các chế tài xử lý đối với hành vi trốn thuế gồm các loại sau:
Thứ nhất: Chế tài hành chính đối với hành vi trốn thuế:
Xử lý hành vi trốn thuế bằng chế tài hành chính áp dụng đối với các cá
nhân, tổ chức (là đối tượng nộp thuế) đã có hành vi trốn thuế nhưng chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính.
Các hình thức xử phạt hành chính đối với hành vi trốn thuế trong trường hợp
này có thể là: Phạt cảnh cáo, phạt tiền và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
+ Cơ sở ra quyết định xử phạt vi phạm chính là hành vi trốn thuế.
+ Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân là đối
tượng nộp thuế hoặc các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
+ Quyết định hành chính là cơ sở làm phát sinh trách nhiệm hành chính trong
lĩnh vực thuế.
+ Chỉ được xử phạt vi phạm hành chính khi hành vi trốn thuế chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, xử phạt hành chính đối với hành vi trốn thuế là hoạt động cưỡng
chế mang tính quyền lực của Nhà nước phát sinh khi có hành vi trốn thuế. Và hành
vi trốn thuế sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính khi thoả mãn các dấu hiệu sau: Có
hành vi trốn thuế được phát hiện và lập biên bản vi phạm bởi cơ quan nhà nước, cá
nhân có thẩm quyền; Có quy định xử phạt vi phạm hành chính tương ứng với hành
vi trốn thuế; Chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai: Chế tài hình sự đối với hành vi trốn thuế (hành vi vi phạm pháp luật
hình sự với tội danh trốn thuế). Theo pháp luật hình sự của Việt Nam, hành vi trốn
thuế chỉ bị coi là tội phạm đối với cá nhân khi số tiền trốn từ 100 triệu đồng trở lên
hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng người trốn thuế đã bị xử phạt hành chính hoặc đã
bị kết án và chưa được xoá án tích về hành vi trốn thuế hoặc về một trong các hành
vi quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251,
253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm.

15
Hành vi trốn thuế chỉ bị coi là tội phạm đối với pháp nhân thương mại khi số
tiền trốn thuế từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000
đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật hình sự, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm,
Các hình thức xử lý (hình phạt) đối với tội trốn thuế được quy định trong
pháp luật hình sự bao gồm: Đối với cá nhân có thể là: phạt tiền, phạt tù, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định có thời hạn hoặc tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Đối với pháp nhân có thể là: phạt tiền, cấm kinh
doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc
vĩnh viễn đối với pháp nhân.
Chủ thể tiến hành xử lý hình sự đối với tội trốn thuế là các cơ quan tố tụng:
cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có thẩm quyền. Trong đó, chỉ có tòa án mà cụ
thể là hội đồng xét xử mới có thẩm quyền quyết định có hay có không có hành vi
phạm tội trốn thuế.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự là các cá nhân, pháp nhân
thương mại. Trường hợp các chủ thể của hành vi trốn thuế là các pháp nhân thương
mại thì không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân khác có liên quan.
Căn cứ pháp lý để xử lý là Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung
năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trình tự, thủ tục xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế phải
tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn
thi hành.
Việc xử lý hình sự đối với hành vi trốn thuế bởi hành vi trốn thuế này có
mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, cần được xử lý nghiêm khắc nhằm trừng phạt đối
với người phạm tội và ngăn chặn người khác phạm tội.
Như vậy, giữa biện pháp xử lý hành chính với xử lý hình sự đối với hành vi
trốn thuế vừa có điểm chung giống nhau vừa có những điểm khác biệt sau:

16
- Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm, hậu quả tác hại gây ra thấp hơn
so với vi phạm hình sự đối với hành vi trốn thuế. Mức độ nguy hiểm, hậu quả tác
hại của hành vi trốn thuế thường được xác định bởi các căn cứ như số lần vi phạm,
số tiền đã trốn thuế, liên quan đến ít hay nhiều đối tượng, diễn ra trong thời gian dài
hay không?
- Chủ thể của vi phạm hành chính về trốn thuế bao gồm cá nhân và tổ chức.
Trong khi đó, chủ thể của tội trốn thuế là cá nhân, pháp nhân thương mại có đủ điều
kiện mà Bộ luật Hình sự quy định.
- Việc xử lý vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế là do cơ quan quản lý
thuế và các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện theo trình tự thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính. Trong khi đó chủ thể tiến hành xử lý hình sự đối với tội trốn thuế
là các cơ quan tố tụng hình sự theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự chặt chẽ.
- Xử lý hành chính và xử lý hình sự đối với hành vi trốn thuế do các luật
khác nhau quy định.
So sánh sự khác biệt giữa xử lý hành chính với xử lý hình sự đối với hành vi
trốn thuế có thể xem ở bảng dưới đây:

Xứ lý hành chính đối với Xử lý hình sự đối với hành vi trốn


Tiêu chí
hành vi trốn thuế thuế (tội trốn thuế)
Tính chất, mức Cao hơn dựa, số tiền đã trốn thuế từ
độ nguy hiểm, Thấp hơn dựa vào số tiền đã 100 triệu trở lên với cá nhân, 200
hậu quả tác trốn thuế, số lần vi phạm. triệu đối với pháp nhân thương mại,
hại gây ra hoặc vào số lần vi phạm
Chủ thể bị áp Gồm cá nhân và tổ chức là
Gồm cá nhân, pháp nhân thương mại
dụng biện pháp đối tượng nộp thuế có hành
phạm tội.
chế tài vi trốn thuế
Cơ quan quản lý thuế và các Các cơ quan tố tụng hình sự: Cơ quan
Cơ quan áp dụng
cơ quan quản lý nhà nước điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
biện pháp chế tài
khác có thẩm quyền; thẩm quyền.
Pháp luật về xử phạt vi
Căn cứ pháp lý Pháp luật hình sự
phạm hành chính trong lĩnh
để xử lý
vực thuế
Trình tự, thủ tục Theo trình tự, thủ tục xử
Theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự
xử lý phạt vi phạm hành chính
Quyết định xử phạt vi phạm
cơ sở làm phát Bản án hình sự đối với người phạm
chính đối với hành vi trốn
sinh trách nhiệm tội trốn thuế
thuế

17
- Cá nhân: phạt tiền, phạt tù, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
Cảnh cáo, phạt tiền và áp trong thời hạn nhất định;
Hình thức xử lý dụng biện pháp khắc phục - Pháp nhân: phạt tiền, cấm kinh
hậu quả; doanh, cấm hoạt động trong một
số lĩnh vực hoặc đình chỉ hoạt
động có
thời hạn hoặc vĩnh viễn đối.

Về việc xử lý đối với hành vi trốn thuế đối với cá nhân và tổ chức (pháp
nhân) ở Việt Nam hiện nay có nhiều điểm khác biệt:
Trong xử phạt hành chính mức phạt tiền đối với pháp nhân cao gấp 2 lần
mức phạt đối cá nhân khi hai chủ thể này đều có hành vi trốn thuế giống nhau.
Trong xử lý hình sự, hình phạt áp dụng được pháp luật quy định khác nhau,
do tính đặc thù chủ thể phạm tội. Thường pháp nhân khi thực hiện hành vi trốn thuế
có bàn bạc thống nhất chỉ đạo của người có thẩm quyền đại diện cho pháp nhân, thủ
đoạn thường tinh vi hơn, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn… Khi xử lý trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân sẽ không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân
người đại diện. Do pháp nhân là thực thể vô hình, không thể áp dụng hình phạt tù
giống như cá nhân phạm tội được… Bởi vậy, trong xử lý hình sự đối với hành vi
trốn thuế của cá nhân và của pháp nhân có sự khác biệt, cụ thể: Mức tiền thuế trốn
khởi điểm bị truy cứu TNHS của pháp nhân cao hơn cá nhân; Hình phạt tiền pháp
nhân cao hơn cá nhân trong cùng khung hình phạt từ 2 lần trở lên. Cá nhân có thể
phạt tù, pháp nhân chỉ có phạt tiền không có hình phạt tù; Hình phạt bổ sung có
khác nhau. Có thể so sánh sự khác biệt này theo bảng dưới đây:
Nội dung Cá nhân trốn thuế Pháp nhân trốn thuế
so sánh
Mức tiền Cá nhân trốn thuế với số tiền từ Trốn thuế với số tiền từ 200 triệu đồng
thuế trốn để 100.triệu đồng đến dưới 300 triệu đến dưới 300 triệu đồng hoặc từ 100
truy cứu đồng hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng
TNHS đã bị xử phạt vi phạm hành chính về nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành
hành vi trốn thuế …thì bị phạt tiền từ chính về hành vi trốn thuế thì bị phạt
100 triệu đồng đến 500 triệu đồng tiền từ 300 triệu đồng đến 1 tỷ đồng;
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: “Có tổ chức; Số tiền trốn thuế từ
300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Phạm tội
02 lần trở lên;Tái phạm nguy hiểm”

18
Có tình Bị phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 1,5 Bị phạt tiền từ 1 tỷ đồng đến 3 tỷ đồng;
tiết tăng tỷ đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến
nặng định 03 năm:
khung Phạm tội trốn thuế với số tiền 1 tỷ đồng trở lên,
Bị phạt tiền từ 1,5 tỷ đồng đến 4,5 tỷ Bị phạt tiền từ 3 tỷ đến 10 tỷ đồng
đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ
năm 06 tháng đến 03 năm;
Người phạm tội còn có thể bị phạt Pháp nhân thương mại còn có thể bị
Hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 200
bổ sung đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm triệu đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt
hành nghề hoặc làm công việc nhất động trong một số lĩnh vực nhất định
định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 03 năm.
Thứ ba: Chế tài dân sự, chế tài kỷ luật áp dụng trong xử lý đối với hành vi
trốn thuế:

Trong xử lý đối với hành vi trốn thuế, ngoài hai loại chế tài xử lý vi phạm
điển hình là xử lý hành chính và xử lý hình sự thì còn có thể có chế tài xử lý trách
nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật trong giải quyết các vụ việc liên quan đến
hành vi trốn thuế.

- Xử lý trách nhiệm dân sự đối với hành vi trốn thuế: Trong quá trình tham
gia vào hoạt động thu, nộp thuế có nhiều chủ thể tham gia có liên quan đến vấn đề
xử lý đối với hành vi trốn thuế, hành vi của họ có thể gây ra những thiệt hại nhất
định cho nhà nước hoặc cho chủ thể nộp thuế và do đó họ phải chịu trách nhiệm dân
sự về hành vi của mình (trách nhiệm bồi thường thiệt hại).

Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng
đối với người vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho bên chủ thể nào đó trong quan hệ
xử lý đối với hành vi trốn thuế nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần
cho người bị hại.
- Chủ thể bị áp dụng TNDS: Áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật gây
thiệt hại cho người khác;
- Mục đích: Buộc người có hành vi vi phạm có nghĩa vụ bồi thường cho
người bị tổn hại do hành vi đó gây ra nhằm khắc phục những tổn thất đã gây ra.
- Các hình thức xử lý: Bồi thường thiệt hại; Các biện pháp khắc phục khác;

19
- Trình tự áp dụng: do các bên tự thỏa thuận, tự áp dụng hoặc được áp dụng
theo trình tự tư pháp.
Tại Điều 13 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: “Người vi phạm hành
chính nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Việc bồi thường thiệt hại được thực
hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xử lý vi phạm hành
chính gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Tại khoản 1, Điều 112 Luật Quản lý thuế quy định về xử lý vi phạm pháp
luật về thuế đối với cơ quan quản lý thuế đã ghi rõ: “Cơ quan quản lý thuế thực hiện
không đúng theo quy định của Luật này, gây thiệt hại cho người nộp thuế thì phải
bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật”.
Hoặc tại khoản 2, Điều 113 Luật quản lý thuế quy định: “Công chức quản lý
thuế thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc xử lý sai quy định của pháp luật về thuế thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự, nếu gây thiệt hại cho người nộp thuế thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật”.
Như vậy, khi cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế, hoặc các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác thực hiện xử lý sai đối hành vi trốn thuế gây
thiệt hại cho người nộp thuế thì phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước, một
loại trách nhiệm dân sự đặc biệt được quy định trong Luật trách nhiệm bồi thường
nhà nước.
Khi hành vi trốn thuế được thực hiện, cũng đồng nghĩa với việc NSNN bị
thất thu, thiệt hại cho nhà nước phát sinh. Người thực hiện hành vi trốn thuế
ngoài việc bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự còn bị nhà
nước truy thu số thuế trốn, số thuế gian lận cho nhà nước. Việc truy thu thuế là
việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong xử lý hành chính, hoặc hình sự
đối với hành vi trốn thuế mà đó không phải là xử lý trách nhiệm dân sự đối với
người trốn thuế. Tuy nhiên có quan điểm khác cho rằng đó là việc xử lý TNDS
trong xử lý hành chính hoặc hình sự đối với hành vi trốn thuế của cơ quan có
thẩm quyền.

20
Có trường hợp xem xét TNDS là quan hệ phái sinh từ quan hệ xử lý đối với
hành vi trốn thuế. Chẳng hạn, Ngân hàng thương mại hoặc tổ chức kinh doanh dịch
vụ làm thủ tục về thuế do bất cẩn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình dẫn
đến việc người nộp thuế bị xử lý về hành vi trốn thuế. Trong trường hợp này những
thiệt hại của người nộp thuế phải gánh chịu do lỗi của bên thứ 3 này thì bên thứ ba
phải chịu TNDS đối với người bị xử lý đối với hành vi trốn thuế.
- Về xử lý trách nhiệm kỷ luật trong xử lý đối với hành vi trốn thuế được
hiểu là hành vi vi phạm quy chế công chức, do cá nhân công chức thuế, hải quan
thực hiện trong khi thi hành công vụ trong hoạt động xử lý đối với hành vi trốn thuế
và do đó phải chịu trách nhiệm kỷ luật theo quyết định xử lý kỷ luật của người có
thẩm quyền trong hoạt động quản lý công chức.

Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với cán bộ, công
chức, viên chức do vi phạm kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động
công vụ hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Chủ thể áp dụng: Thủ trưởng, cơ quan đơn vị; Chủ thể bị áp dụng: Cá nhân
khi thực hiện hành vi vi pham kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật khác mà theo quy
định phải chịu trách nhiệm kỷ luật; Mục đích: Đảm bảo trật tự nội bộ của cơ quan,
tổ chức; Các hình thức xử lý: Khiển trách; Cảnh cáo; Hạ bậc lương; Hạ ngạch; Cắt
chức; Buộc thôi việc. Về trình tự áp dụng: Là trình tự hành chính.

Do xử lý trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật không phải quan hệ phổ
biến trong xử lý đối với hành vi trốn thuế, bởi vậy vấn đề này ít đề cập, phân tích,
đánh giá bình luận trong luận văn này.
1.1.2.4. Sự cần thiết của việc xử lý đối với hành vi trốn thuế
Phát hiện và xử lý đối với hành vi trốn thuế là vô cùng cần thiết, xuất phát từ
những lý do chính sau đây:
Thứ nhất, xử lý đối với hành vi trốn thuế nhằm mục đích trừng phạt đối với
người có hành vi trốn thuế và tìm cách khắc phục các hậu quả thiệt hại cho xã hội
do hành vi phạm pháp của cá nhân, pháp nhân đó gây ra, đảm bảo tránh thất thoát
nguồn thu cho NSNN. Khoản thu từ thuế chiếm trên 90% tổng thu NSNN, phải đảm

21
nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã
hội. Với những lý do đó, bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải có và mong muốn có
được hệ thống pháp luật đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo
nguồn thu ổn định cho NSNN. Do đó, cần xử lý nghiêm khắc việc chủ thể nộp thuế
cố tình vi phạm các quy định của pháp luật về thuế, làm sai lệch các thông tin tài
chính kế toán nhằm trốn thuế sẽ gây hậu quả không nhỏ đối với NSNN, dẫn tới sự
mất cân bằng, làm thất thu NSNN – là yếu tố cơ bản, nền tảng để nhà nước tồn tại
và thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, xử lý đối với hành vi trốn thuế nhằm ổn định xã hội, tạo môi trường
minh bạch để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế. Thuế không chỉ đơn thuần là
một nguồn thu chủ yếu của NSNN mà còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng
kinh tế, về sự công bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội. Nộp thuế là nghĩa vụ
bắt buộc của các chủ thể khi có các dấu hiệu và điều kiện mà nhà nước quy định.
Do đó, việc chủ thể nộp thuế cố tình vi phạm các quy định của pháp luật về thuế
nhằm trốn thuế sẽ gây hậu quả đến sự phát triển của xã hội. Điều này đặt ra vấn đề
phải xác định các hành vi trốn thuế để có giải pháp phù hợp nhằm phòng, chống
gian lận và trốn thuế.
Thứ ba, xử lý đối với hành vi trốn thuế là một phương tiện nhằm khuyến
khích sự tuân thủ. Trên bình diện tổng thể của quản lý thuế, xử lý đối với hành vi
trốn thuế mang nặng tính “răn đe” để hướng đối tượng nộp thuế về sự tuân thủ. Nếu
mọi trường hợp không tuân thủ đúng pháp luật thuế đều được phát hiện xử lý chính
xác, nghiêm khắc, kịp thời thì có tác dụng phòng ngừa, thúc đẩy các đối tượng nộp
thuế hướng đến sự tuân thủ pháp luật thuế. Ngược lại, nếu hệ thống xử phạt yếu sẽ
là điều kiện làm lan nhanh sự không tuân thủ sang các đối tượng khác. Mặt khác, xử
lý hành vi trốn thuế nhằm bảo đảm một sự công bằng về đối xử giữa các đối tượng
tuân thủ và không tuân thủ.
Thứ tư, xác định các hành vi trốn thuế và xử lý các hành vi trốn thuế còn là
cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về nội dung cũng như quy
trình, thủ tục xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế, phục vụ cho công tác quản lý thuế.
Hiệu quả của công tác quản lý thuế trên thực tiễn là cơ sở để các nhà làm luật bổ

22
sung, sửa đổi các quy định của pháp luật về thuế nhằm phòng chống các hành vi
trốn thuế đạt hiệu quả cao. Trong trường hợp ngày càng phát sinh nhiều loại hình
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, nhiều phương thức giao dịch như hiện nay,
các thủ đoạn gian lận, trốn thuế không ngừng gia tăng, ngày càng đa dạng, tinh vi
nên việc cập nhật, nhận biết các thủ đoạn gian lận và xử lý các hành vi trốn thuế để
phục vụ cho công tác quản lý thuế trở nên rất cần thiết.
Như vậy, từ việc xác định các hành vi trốn thuế, các cơ quan có thẩm quyền
có thể xác định được mức độ vi phạm của chủ thể để áp dụng chế tài hành chính hay
hình sự cho phù hợp với mỗi hành vi, đảm bảo ổn định nguồn thu NSNN từ thuế và
môi trường kinh doanh công bằng, lành mạnh cho các chủ thể nộp thuế.
1.2. Khái quát về pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế
1.2.1. Khái niệm pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế
Pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế là bộ phận của pháp luật
quản lý thuế và pháp luật luật khác có liên quan. Nó có mục tiêu chủ yếu bảo
đảm cho pháp luật thuế được thực thi nghiêm trên thực tế, bảo đảm thu đúng,
đủ, kịp thời tiền thuế về cho NSNN, ngăn ngừa, hạn chế đẩy lùi các hành vi gian
lận, trốn thuế.
Thông thường, các quy phạm pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế
được quy định chi tiết các văn bản pháp luật về quản lý thuế. Ngoài ra còn một số
quy định ở một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như: Bộ luật Hình
sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật thanh tra, Luật kế toán; Nghị định quy định
về hóa đơn, chứng từ… và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành.
Như vậy, pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm bảo đảm
cho chính sách, pháp luật thuế được thực thi nghiêm túc trên thực tế và có các biện
pháp răn đe, xử lý với mục đích ngăn ngừa và đẩy lùi các hành vi trốn thuế, trong
đó xác định rõ về những đối tượng có hành vi vi phạm và bị xử lý vi phạm pháp luật
đối với hành vi trốn thuế; Hành vi nào là hành vi trốn thuế; Nguyên tắc, thủ tục xử
lý vi phạm pháp luật về hành vi trốn thuế; Các hình thức xử lý, Thời hiệu, thời hạn
xử lý, thẩm quyền xử lý; miễn xử lý….

23
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế
Cấu trúc của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế là sự sắp xếp các bộ
phận cấu thành của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế theo những tiêu chí
nhất định. Pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế được trình bày trong luận văn
này được sắp xếp theo những cấu trúc dựa trên căn cứ là nội dung quy định của quy
phạm pháp luật. Bởi vậy, pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế được chia
thành các bộ phận sau:
+ Bộ phận pháp luật quy định về các chủ thể liên quan đến hành vi trốn thuế.
Các chủ thể liên quan đến hành vi trốn thuế bao gồm: cơ quan có thẩm quyền xử lý
đối với hành vi trốn thuế và đối tượng nộp thuế.
+ Bộ phận pháp luật quy định về hành vi trốn thuế. Các hành vi trốn thuế được
quy định trong Luật Quản lý thuế. Hành vi trốn thuế được quy định chung cho tất cả
các loại thuế. Có thể phân loại các hành vi trốn thuế thành các nhóm hành vi sau : (i)
đăng ký thuế, khai thuế không đúng quy định; (ii) sử dụng hoá đơn, chứng từ không
đúng quy định; (iii) Không ghi chép trong sổ kế toán; (iv) Gian lận, trốn thuế đối với
hàng hoá xuất nhập khẩu; (iv) Các hành vi trốn thuế khác…
+ Bộ phận pháp luật quy định các biện pháp chế tài áp dụng đối với chủ thể có
hành vi trốn thuế. Trong đó có biện pháp chế tài hành chính (xử phạt vi phạm hành
chính); chế tài hình sự (Truy cứu TNHS); Chế tài dân sự (TNDS); Chế tài kỷ luật.
+ Bộ phận pháp luật quy định về trình tự, thủ tục xử lý đối với hành vi trốn
thuế, bao gồm các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục xử lý đối với các hành
vi trốn thuế của các tổ chức, cá nhân.
1.2.3. Các yếu tố chi phối nội dung điều chỉnh của pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế
Pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế chịu ảnh hưởng của những yếu
tố cơ bản sau:
Thứ nhất, cơ chế quản lý thuế được lựa chọn áp dụng.
Cơ chế quản lý thuế là sản phẩm của ý thức chủ quan của con người, do chủ
thể quản lý có thẩm quyền định ra, nên nó mang tính chủ quan phụ thuộc vào ý chí
và lợi ích của chủ thể quản lý. Pháp luật là yếu tố cơ bản cấu thành trong cơ chế

24
quản lý thuế. Mỗi cơ chế quản lý thuế khác nhau đòi hỏi pháp luật điều chỉnh khác
nhau cho phù hợp cơ chế đó. Trước đây, Ở Việt Nam đã thực hiện cơ chế quản lý
thuế “chuyên quản” trực tiếp theo từng đối tượng, theo từng sắc thuế thì pháp luật
xử lý đối với hành vi trốn thuế được ban hành phù hợp để thích ứng với cơ chế quản
lý thuế này. Khi Việt Nam chuyển sang áp dụng quản lý thuế theo cơ chế “tự khai,
tự nộp thuế” (cơ chế tự khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó các đối
tượng nộp thuế tự giác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kì kê khai của
mình và căn cứ vào những quy định của pháp luật tự xác định nghĩa vụ thuế của
mình, tự kê khai, tự nộp thuế vào NSNN, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp
luật về tính trung thực, chính xác của việc tính thuế, kê khai và nộp thuế) thì đòi hỏi
pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế phải thay đổi. Đặc biệt hiện nay, lợi dụng
sự thông thoáng của cơ chế tự khai, tự nộp thuế có nhiều cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp lợi dụng để thực hiện hành vi gian lận, trốn lậu thuế vì vậy việc xử lý
nghiêm minh, kịp thời với các chế tài xử lý nghiêm khắc hơn sẽ được áp dụng thì
mới đủ mức độ để răn đe và ngăn ngừa tình trạng gian lận, trốn thuế tràn lan hoặc
tái phạm nhiều lần với thủ đoạn, mánh khóe ngày càng tinh vi với số tiền gian lận,
trốn lậu càng lớn. Bởi người nộp thuế luôn có động cơ tối ưu hóa lợi ích của họ, họ
sẽ không tuân thủ thuế trừ khi chi phí của việc không tuân thủ quá lớn so với lợi ích
mà họ nhận được từ sự không tuân thủ. Như vậy, với cách nhìn nhận này sự tuân
thủ thuế về cơ bản bị ảnh hưởng bởi mức xử phạt vi phạm do bị phát hiện. Do vậy,
trong quản lý thuế phải coi trọng và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để xử lý
vi phạm, đặc biệt đối với hành vi trốn thuế. Tần suất thanh tra thuế và xử lý thỏa
đáng vi phạm là hai công cụ chính có thể thay thế cho nhau hoặc kết hợp với nhau
trong quản lý thuế. Với những chế tài xử lý mạnh, nhanh chóng, kịp thời, nghiêm
minh chắc chắn có tác động tích cực đến việc ngăn chặn hành vi trốn lậu thuế. Bên
cạnh đó pháp luật chính sách thuế phải rõ ràng, ít lỗ hổng, phù hợp sức đóng góp
của người dân, thủ tục hành chính đơn giản, dễ làm, dễ thực hiện, giúp cho người
nộp thuế giảm được chi phí cho việc tuân thủ thuế nó có tác dụng làm giảm tình
trạng trốn lậu thuế.
Thứ hai, mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật

25
Pháp luật về xử lý các hành vi trốn thuế có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
các bộ phận pháp luật khác trong hệ thống pháp luật. Trước hết là các bộ phận của
pháp luật quản lý thuế và pháp luật về nội dung các sắc thuế. Muốn xử lý có hiệu
quả các hành vi trốn thuế thì công tác phát hiện sớm, đầy đủ các hành vi phạm trốn
thuế phải làm tốt. Công tác này phụ thuộc mức độ hoàn thiện của pháp luật về thủ
tục hành chính thuế, pháp luật về quản lý thông tin về người nộp thuế, pháp luật về
thanh tra, kiểm tra thuế, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế... Hành vi
trốn thuế nảy sinh nhiều hay ít do nhiều nguyên nhân với các thủ đoạn tinh vi vô
cùng phức tạp, do đó nếu chỉ chú trọng đến quy định mức xử phạt cao để trừng phạt
và răn đe người vi phạm thì đôi khi tạo ra hành vi tiêu cực mới như mua chuộc, hối
lộ cơ quan, công chức thuế, tạo ra hành vi vi phạm pháp luật mới…
Pháp luật về xử lý các hành vi trốn thuế có mối quan hệ và chịu sự chi phối
của các các bộ phận pháp luật khác như: pháp luật về quản lý đăng ký doanh
nghiệp, quản lý xuất nhập khẩu, thanh toán không dùng tiền mặt, chế độ, chuẩn mực
kế toán; quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ…pháp luật dân sự, pháp luật về tố tụng,
pháp luật về thanh tra, pháp luật hải quan, pháp luật hình sự, pháp lụât hành chính
v.v... Vì vậy, khi ban hành, sửa đổi các quy định của pháp luật xử lý đối với hành vi
trốn thuế cần đảm bảo tính phù hợp và thống nhất với các bộ phận pháp luật trên.
Thứ ba, điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia
Pháp luật là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã hội, một sự
phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi của xã hội. Do đó, việc nghiên cứu đánh giá
không chính xác, không đầy đủ những yếu tố khách quan khi ban hành pháp luật
cũng dẫn đến pháp luật không phù hợp với những đòi hỏi của cuộc sống và pháp
luật không thể phát huy được tác dụng. Để pháp luật phản ánh đúng, đầy đủ thực
tiễn khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong đời sống xã hội thì phải thường
xuyên hoàn thiện pháp luật trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội,
thực trạng pháp luật hiện hành. Từ thực trạng đó phát hiện ra những điểm không
phù hợp trong các quy định của pháp luật để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực
tiễn khách quan. Đồng thời, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng kinh tế - xã hội mà

26
phát hiện ra những nhu cầu điều chỉnh mới của pháp luật để kịp thời xây dựng và ban
hành pháp luật. Nếu không có những khảo sát, đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội thì
không thể có cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp
luật, pháp luật không thể phát huy vai trò của nó trong đời sống, thậm chí pháp luật
chỉ nằm trên giấy.
Để pháp luật đi vào cuộc sống, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử
lý đối với hành vi trốn thuế cần xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước
trong từng giai đoạn để đặt ra các quy định pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn
thuế cho phù hợp. Thực tiễn hiện nay ở nước ta cho thấy, chủ thể kinh doanh chiếm
tỷ lệ lớn trong nền kinh tế là các DN vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh tư nhân, cá thể,
mà hầu hết các đối tượng này chưa quan tâm nhiều đến việc mở, ghi chép sổ sách
kế toán, thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ trong mua bán hàng hoá, dịch
vụ nên việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế trong cơ chế tự khai,
tự nộp sẽ gặp nhiều khó khăn. Xuất phát từ thực trạng nêu trên, pháp luật về xử lý
hành vi trốn thuế cần tính đến để có quy định phù hợp với từng đối tượng là các cá
nhân, tổ chức và trong những sắc thuế cụ thể. Giải pháp mà các đạo luật thuế phải
tính đến để hạn chế các hành vi gian lận thuế, đặc biệt là hành vi trốn thuế đó là nội
dung pháp luật về chính sách thuế phải cụ thể rõ ràng, không có nhiều lỗ hổng để
lợi dụng, quy định về thủ tục hành chính thuế phải đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện,
giảm tần suất kê khai, nộp thuế, tiết giảm tối đa chi phí tuân thủ và tạo thuận lợi tối
đa cho người nộp thuế tự thực hiện đầy đủ, đúng nghĩa vụ thuế. Đồng thời, cần có
quy định nhằm khuyến khích, mở rộng các hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ về
thuế, về kế toán giúp cho tổ chức, cá nhân nộp thuế hiểu rõ quy định của các luật
thuế, từ đó tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Bên cạnh đó cần
có chế tài thật nghiêm khắc để xử lý các hành vi lợi dụng cơ chế tự khai, tự nộp
thuế và những yếu kém trong quản lý của cơ quan quản lý thuế để vi phạm trục lợi
tiền thuế của nhà nước.
Thứ tư, văn hoá tuân thủ thuế của người nộp thuế (hay còn gọi tinh thần và
đạo đức thuế của người nộp thuế).

27
Văn hoá tuân thủ thuế thể hiện ở nhận thức về trách nhiệm của NNT về
nghĩa vụ thuế, ở ý thức chấp hành pháp luật thuế. Văn hoá tuân thủ thuế là một yếu
tố quan trọng trong việc xác định nội dung điều chỉnh của pháp luật. Khi người nộp
thuế có kiến thức, hiểu biết đầy đủ về pháp luật thuế có tinh thần đạo đức thuế tốt
thì khi đó mới đảm bảo rằng họ tự giác thực hiện được đúng, đầy đủ nghĩa vụ thuế
của mình, họ thấy trách nhiệm của mình phải tham gia vào công tác quản lý thuế và
mới giám sát quá trình thực hiện pháp luật thuế. Trái lại, sự hiểu biết và ý thức chấp
hành pháp luật thuế của người nộp thuế còn thấp thì tình trạng trốn thuế, lậu thuế
còn diễn ra, những tiêu cực trong quản lý thuế vẫn còn có “đất” để tồn tại. Do vậy,
việc quy định trong pháp luật thuế nói chung và pháp luật về xử lý đối với hành vi
trốn thuế phải tính đến yếu tố này, bởi vì, ở nước ta hiện nay, ý thức trách nhiệm về
nghĩa vụ thuế, sự hiểu biết về các luật thuế và quy trình thủ tục thực hiện các nghĩa
vụ thuế của NNT nói riêng và người dân nói chung còn hạn chế. Hơn nữa cần chú ý
đến vấn đề sử dụng chi tiêu ngân sách nhà nước sao cho có hiệu quả, tránh thất
thoát, lãng phí, tham nhũng… vấn đề này tác động lớn đến ý thức của người dân
trong thực hiện nghĩa vụ thuế và nó là một trong nguyên nhân dẫn đến tình trạng
gian lận, trốn lậu thuế tăng hay giảm trong xã hội.
Thứ năm, trình độ quản lí của cơ quan quản lí thuế, cán bộ ngành thuế.
Trình độ năng lực quản lí của cơ quan QLT, cán bộ ngành thuế là một yếu
tố quan trọng chi phối pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế. Trình độ năng
lực quản lí của cơ quan QLT được thể hiện thông qua việc phân công, phân cấp
quản lý, bố trí cán bộ, năng lực còn thể hiện thông qua bảo đảm điều kiện cơ sở
vật chất phục vụ cho công tác QLT và thước đo là kết quả đạt được trong hoạt
động thực tiễn. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức QLT thể hiện ở
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng ứng dụng công nghệ tin học trong
công việc, tính chuyên nghiệp hoá, chuyên môn hoá quản lí, thái độ và phong
cách làm việc. Trong pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế, trước hết cơ
quan quản lý thuế phải nhận thức rõ đầy đủ hành vi vi phạm pháp luật thuế nào
là hành vi trốn thuế, mức độ vi phạm để xác định biện pháp xử lý, thẩm quyền
xử lý, quy trình, thủ tục, cách thức xử lý, thời hạn thời hiệu xử lý…đối với hành

28
vi trốn thuế cụ thể. Để làm tốt điều đó đòi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
cán bộ công chức thực thi công vụ phải dựa trên trình độ, năng lực thực tế và
điều kiện cơ sở vật chất hiện có. Đặc biệt là nâng cao trình độ chuyên môn,
người có trình độ chuyên môn để có thể phân biệt hành vi trốn thuế đối với các
hành vi vi phạm pháp luật về thuế khác thì việc xử lý mới đảm bảo hiệu quả,
tránh gây ra tình trạng khiếu nại, khởi kiện trong các vụ việc xử lý vi phạm pháp
luật thuế nói chung và xử lý đối với hành vi trốn thuế nói riêng.
Thứ sáu, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
Pháp luật thuế nói chung và pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế nói
riêng ở mỗi quốc gia bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của chính quốc gia đó. Tuy nhiên, do tác động của xu thế phát triển là cần mở
cửa hợp tác và hội nhập kinh tế toàn cầu, các quốc gia muốn phát triển không thể
đóng cửa, biệt lập với thế giới bên ngoài. Để mở rộng hợp tác kinh tế với quốc gia
và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, các nước đều phải nỗ lực điều chỉnh
chính sách, pháp luật của quốc gia mình cho phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn
mực của luật pháp quốc tế. Khi tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, các
quốc gia đều đưa ra cam kết của mình với các tổ chức kinh tế quốc tế mà mình là
thành viên. Để thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế, các quốc gia đều phải sửa đổi
hoàn thiện pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cam kết đó. Hơn nữa,
pháp luật thuế nói chung và pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế nói riêng là
một trong những yếu tố quan trọng để tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn của quốc
gia để thu hút các nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Với yêu cầu này, pháp luật về xử
lý đối với hành vi trốn thuế ở nước ta cần hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời nâng cao hiệu quả phòng chống các hành vi gian lận thuế,
trốn thuế của Việt Nam ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực.
Trong điều kiện nước ta đang xây dựng và hoàn thiện các thể chế của nền
KTTT thì việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật pháp luật xử lý đối với hành vi trốn
thuế cần thiết phải tham khảo, tiếp thu có chọn lọc pháp luật về xử lý đối với hành
vi trốn thuế của các nước tiên tiến trên thế giới nhằm bảo đảm pháp luật về xử lý

29
đối với hành vi trốn thuế của Việt Nam nhanh chóng tiếp cận được chuẩn mực của
quốc tế, đồng thời bảo đảm phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Những yếu tố nói trên là những yếu tố chính ảnh hưởng, tác động chi phối
đến pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở nước ta, giữa chúng có mối
liên hệ tác động qua lại với nhau rất lớn. Để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam thì không thể không chú trọng đến
các yếu tố này.

30
Kết luận chương 1

Với chương 1, Luận văn đã làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật xử lý đối
với hành vi trốn thuế bao gồm khái niệm hành vi trốn thuế, các dấu hiệu để nhận
biết hành vi trốn thuế, nguyên nhân và hậu quả của hành vi trốn thuế, sự cần thiết
của việc xử lý và các biện pháp xử lý đối với hành vi trốn thuế.
Trên cơ sở hiểu rõ bản chất của hành vi trốn thuế, tác giả cũng đồng thời tìm
hiểu khái niệm và cấu trúc của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế, các yếu
tố ảnh hưởng đối với nội dung điều chỉnh của pháp luật về xử lý đối với hành vi
trốn thuế để tạo góc nhìn đa chiều đối với vấn đề nghiên cứu cũng như để làm cơ sở
cho việc đánh giá thực trạng và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý
đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam.

31
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XỬ LÝ
ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỐN THUẾ Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam
2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở
Việt Nam hiện nay.
Hệ thống pháp luật về thuế nói chung và hệ thống pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế nói riêng trong nhiều năm qua đã đạt được những thành tựu nhất
định, có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam
hiện nay tương đối cụ thể và rõ ràng, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành hoặc sửa đổi, bổ sung được soạn thảo, trình cấp có thẩm quyền ban hành
hoặc ban hành theo thẩm quyền kịp thời, đầy đủ.
Pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam hiện nay được quy
định cụ thể như sau: Xử lý đối với các vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế thì
chủ yếu được quy định trong Luật Quản lý thuế, Luật xử lý vi phạm hành chính và
các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành; xử lý hình sự đối với hành vi trốn thuế
thì được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm
2017.
Về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi trốn thuế:
Cùng với Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật Quản lý thuế đã tạo khung
pháp lý đầy đủ, tạo điều kiện cho công tác xử phạt vi phạm hành chính về thuế được
thực hiện thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Công tác xử phạt vi phạm hành chính
về thuế nói chung và xử phạt đối với các hành vi trốn thuế nói riêng ngày càng đi
vào nề nếp, đúng quy trình, quy định.
Luật Quản lý thuế tại Chương XII quy định các hành vi vi phạm pháp luật về
thuế và việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm đó. Theo đó, Luật Quản lý thuế

32
quy định rõ trốn thuế là một trong bốn nhóm hành vi vi phạm pháp luật về thuế của
người nộp thuế (Điều 103) và quy định về xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian
lận thuế (Điều 108). Với cách quy định rõ hành vi nào được coi là hành vi vi phạm
pháp luật thuế, bằng cách liệt kê chi tiết các hành vi vi phạm thuộc các nhóm hành
vi vi phạm pháp luật thuế của Luật Quản lý thuế đã tạo ra sự rõ ràng, minh bạch
không chỉ với các chủ thể nộp thuế, giúp họ có nhận thức đúng đắn và tránh không
thực hiện những hành vi đó, đồng thời tạo ra thuận lợi cho cơ quan quản lý thuế
trong việc xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế nói chung và hành vi trốn
thuế nói riêng một cách kịp thời để áp dụng các biện pháp xử lý đúng đắn, đồng thời
tạo ra sự đồng bộ nâng cao tính minh bạch, tăng cường vai trò kiểm tra, thanh tra,
giám sát của cơ quan nhà nước mà trực tiếp là cơ quan quản lý thuế, giám sát của xã
hội trong công tác quản lý thuế, tạo mọi thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ quy
định pháp luật về thuế, mặt khác tăng cường công tác cưỡng chế thuế, xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Kể từ khi Luật Quản lý thuế được thông qua và có hiệu lực thi hành, Bộ Tài
chính kịp thời trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật để quy định chi tiết, hướng dẫn Luật Quản lý thuế. Đồng thời, trong 10 năm
thực hiện, Bộ Tài chính đã kịp thời trình Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung
một số quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành để đảm bảo phù hợp với sự thay đổi, phát triển của nền kinh tế - xã hội và
đòi hỏi từ thực tiễn. Các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành các quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm thuế bao gồm: Nghị định 129/2013/NĐ-CP ngày
16/10/2013 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Nghị định số 51/2010/NĐ- CP ngày
14 tháng 5 năm 2010 quy định về hoá đơn bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; Nghị
định 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 sửa đổi Nghị định 51/2010/NĐ-CP về hóa
đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Nghị định số 49/2016/NĐ-CP ngày 27/5/2016
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa
đơn và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2016. Trong đó, điểm đáng chú ý của Nghị
định 129/2013/NĐ-CP là phân biệt mức phạt tiền giữa tổ chức và cá nhân có hành

33
vi vi phạm thủ tục thuế và hành vi trốn thuế. Áp dụng thống nhất một mức phạt tiền
20% đối với cá nhân, tổ chức có hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp
hoặc tăng số tiền thuế được hoàn. Nếu như trước đây, mức phạt tối đa của khung
phạt tiền gấp 10 lần mức phạt tối thiểu thì tại Nghị định số 129/2013/NĐ-CP
khoảng cách chênh lệch giữa mức tối đa và mức tối thiểu của khung phạt tiền chỉ
còn 2,5 lần, tránh áp dụng tùy tiện. Nghị định số 129/2013/NĐ-CP được ban hành là
một bước nhằm thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi phạm hành
chính; đảm bảo tính công khai, minh bạch, thống nhất, công bằng trong áp dụng
pháp luật. Nghị định cũng góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác
quản lý hành chính thuế nhằm chống thất thu, giảm nợ thuế, thu đúng, đủ, kịp thời
tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước.
 Về xử lý vi phạm hình sự đối với các hành vi trốn thuế:
Tội trốn thuế là một trong những tội phạm được quy định trong các BLHS
1985, 1999 và được tiếp tục quy định là tội phạm trong BLHS năm 2015 nhưng có
sửa đổi, bổ sung năm 2017 nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
này trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. So với
BLHS 1999, BLHS mới đã cụ thể hóa các hành vi phạm tội trốn thuế; mở rộng khả
năng áp dụng hình phạt tiền trên cơ sở nâng mức phạt tiền; thể hiện sự cởi mở hơn
khi quy định cá nhân người phạm tội trốn thuế có thể lựa chọn giữa bị phạt tiền, số
tiền với cá nhân trốn thuế hơn 1 tỷ thì có thể bị phạt tối đa 4,5 tỷ hoặc bị phạt tù từ 2
đến 7 năm. Quy định mức phạt tiền cụ thể thay vì tính theo số lần so với số tiền trốn
thuế như trước kia. Đồng thời, BLHS 2015 quy định trách nhiệm hình sự (sau đây
viết tắt là “TNHS”) của pháp nhân thương mại khi phạm tội này.
Việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại khi phạm tội trốn thuế là
quy định đánh dấu bước phát triển mang tính đột phá trong chính sách và tư duy lập
pháp hình sự của Nhà nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự, BLHS
quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức - pháp nhân thương mại. Điều này đã làm
thay đổi tư duy có tính truyền thống về tội phạm và hình phạt, đáp ứng yêu cầu đấu
tranh chống các hành vi phạm tội nói chung và hành vi trốn thuế nói riêng do pháp

34
nhân thương mại thực hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây, tạo cơ sở pháp lý
trong hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ hai, về xác định chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế ở Việt Nam và các
biện pháp xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam phù hợp với điều kiện kinh tế
xã hội của đất nước và có sự tương thích với các quốc gia trên thế giới.
Về xác định chủ thể thực hiện hành vi trốn thuế ở Việt Nam, trước đây trong
biện pháp xử lý hình sự đối với hành vi trốn thuế, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với cá nhân, trường hợp các chủ thể của hành vi trốn thuế là các tổ chức thì cá
nhân người đại diện theo pháp luật của tổ chức, những cá nhân khác có liên quan sẽ
bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2018, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 (BLHS 2015) chính thức có hiệu lực thì sẽ là lần đầu tiên các
quy định về “Pháp nhân thương mại phạm tội” được áp dụng. Việc bổ sung quy
định trách nhiệm hình sự đối với chủ thể là pháp nhân phạm tội trốn thuế là một
bước tiến lớn và giải quyết được các vấn đề nhức nhối trong thực tiễn. Thực tế thời
gian qua cho thấy, hành vi trốn thuế của các tổ chức kinh tế (pháp nhân) ở Việt
Nam diễn ra khá phổ biến và nhiều trường hợp gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng.
Trong khi đó, việc xử lý các hành vi vi phạm nêu trên của các pháp nhân thương
mại bằng chế tài về hành chính tỏ ra không hiệu quả, tính răn đe phòng ngừa của
các chế tài xử lý này không cao, hậu quả pháp lý của việc xử lý này đối với doanh
nghiệp vi phạm chưa có sức nặng đủ để phòng ngừa tái phạm nên chưa đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm của các công ty, doanh
nghiệp. Vì vậy, cần phải có biện pháp xử lý mạnh mẽ hơn, nghiêm khắc hơn để bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật và truy xét đến cùng trách nhiệm của công ty,
doanh nghiệp đối với hành vi nguy hiểm mang tính chất tội phạm mà một trong
những biện pháp đó chính là xử lý hình sự đối với các công ty, doanh nghiệp vi
phạm nên việc BLHS quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân là cần thiết.
Hơn nữa, TNHS của pháp nhân không phải là vấn đề mới mà vấn đề này đã được
ghi nhận trong pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới như: Anh, Mỹ,
Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây
Ban Nha và gần đây, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu như Slovakia,

35
Hungari, Lavia, Estonia, Croatia, v.v.... Tại châu Á, một số quốc gia cũng đã ghi
nhận TNHS của pháp nhân như Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Trung Quốc…[20]
Bên cạnh việc quy định truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại về
hành vi trốn thuế, BLHS 2015 có nhiều điểm mới tích cực để nhằm hạn chế tình
trạng cá nhân có thể lẩn tránh trong trách nhiệm của pháp nhân. Pháp nhân thương
mại tham gia vào quan hệ pháp luật là chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể
khác cho nên pháp nhân thương mại phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Hai dạng năng lực của pháp nhân thương mại phát sinh đồng thời và thường là kể từ
thời điểm đăng ký hoạt động được cấp phép hoạt động, với các chức năng, nhiệm
vụ được đăng ký. Mọi hoạt động của pháp nhân thương mại được tiến hành thông
qua hành vi của những cá nhân - người đại diện hợp pháp của pháp nhân. Hành vi
của những cá nhân này không tạo ra quyền và nghĩa vụ cho họ, mà Pháp nhân
thương mại tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho chính mình. Chỉ khi nào những hành
vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại thì mới làm phát sinh
điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân đó. Người có thẩm quyền
thực hiện hoạt động nhân danh pháp nhân thương mại có thể là người đại diện theo
pháp luật, người quản lý, điều hành và những người được ủy quyền, phân công
nhiệm vụ tại pháp nhân thương mại đó. Ngoài ra, khoản 2 Điều 75 BLHS 2015 quy
định việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách
nhiệm hình sự của cá nhân. Nghĩa là việc áp dụng hình phạt cho pháp nhân thương
mại phạm tội không đồng nghĩa với việc bỏ qua trách nhiệm hình sự của cá nhân.
Pháp nhân thương mại phải chịu hình phạt khi thỏa mãn các điều kiện tại khoản 1
Điều 75 BLHS 2015. Với cá nhân, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi hành vi
của họ thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS 2015.
Trường hợp người lãnh đạo, người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền của
pháp nhân thương mại lại phạm tội do vượt quá thẩm quyền được trao, hoặc lợi
dụng danh nghĩa pháp lý hoặc vật chất của pháp nhân đó để thực hiện tội phạm vì
quyền hoặc lợi ích của mình, thì về nguyên tắc chỉ có cá nhân liên quan phải chịu
trách nhiệm về tội phạm đó, còn pháp nhân sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về hành vi vượt quá của họ. Quy định này hướng đến phòng ngừa những trường

36
hợp cá nhân cố tình thực hiện hành vi phạm tội nhưng được che đậy dưới danh
nghĩa pháp nhân thương mại.
Các hình phạt đối với pháp nhân khi phạm tội trốn thuế có thể là: phạt tiền,
tước giấy phép có thời hạn hoặc vĩnh viễn được đánh giá là hợp lý với điều kiện
kinh tế xã hội ở nước ta và có sự tương thích với quy định của quốc tế. Ở Việt Nam,
loại pháp nhân phải chịu TNHS là các pháp nhân thương mại, là tổ chức kinh tế độc
lập, hoạt động vì mục đích lợi nhuận và không sử dụng ngân sách nhà nước, cho
nên hình phạt mang tính kinh tế được coi là phù hợp và hiệu quả nhất và cũng phù
hợp với phạm vi tội phạm được xác định là có thể truy cứu đối với pháp nhân. Đối
với hình phạt tước giấy phép có thời hạn hoặc tước giấy phép vĩnh viễn chỉ áp dụng
trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và không còn cách nào khác. Bên
cạnh các hình phạt chính, pháp nhân phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt
bổ sung và các biện pháp tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt chính.
Vấn đề này, pháp luật hình sự của các nước quy định khác nhau, có nước chỉ quy
định hình phạt tiền là hình phạt duy nhất áp dụng như các nước theo truyền thống
common law và Trung Quốc, trong khi các nước khác lại quy định một hệ thống
hình phạt có thể áp dụng đối với các thực thể này như Pháp, Bỉ, Hà Lan…
Bên cạnh những quy định có tính răn đe, để đảm bảo quyền lợi cho pháp
nhân thương mại, BLHS 2015 đã quy định nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân
thương mại có hành vi vi phạm là “Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích
cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong
quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ
động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra” (Điểm d, Khoản 2, Điều 3 BLHS
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tuy nhiên, quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là chế định hoàn
toàn mới, chưa có tiền lệ nên chắc chắn trong quy định của pháp luật, cũng như việc
thực thi trên thực tế sẽ không thể tranh khỏi những thiếu sót, hạn chế và vướng mắc
nhất định. Ví dụ như trong trường hợp pháp nhân bị đình chỉ hoạt động có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thì quyền lợi của người lao động, của chủ nợ, các
đối tác đang có hợp đồng hợp tác, kinh doanh với pháp nhân này sẽ được giải quyết

37
như thế nào? Những vấn đề này BLHS 2015 chưa hề dự trù đến. Điều này sẽ tạo ra
khó khăn không nhỏ khi thực hiện pháp luật trên thực tế. Do đó, chúng ta cần phải
tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa để có những văn bản hướng dẫn thi hành
BLHS mới, có những bước tiến hành thận trọng, phù hợp, tránh những hậu quả tiêu
cực có thể phát sinh.
Thứ ba, có sự tương thích và thống nhất trong các quy định về xử lý đối với
hành vi trốn thuế trong pháp luật hành chính và pháp luật hình sự.
Đối với tội trốn thuế, BLHS 1999 không mô tả cụ thể thế nào là trốn thuế mà
chỉ nêu lại tên tội danh, thì BLHS năm 2015 đã mô tả cụ thể các hành vi khách quan
của tội trốn thuế, gồm 09 dạng hành vi. Cụ thể:
- Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai
thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn
nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;
- Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định
số tiền thuế phải nộp;
- Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn
bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán;
- Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên
liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp
hoặc làm tăng số tiền được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế
được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
- Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền
thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
- Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung
hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan;
- Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu;
- Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa;
- Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn
thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích
sử dụng với cơ quan thuế.

38
Các hành vi được mô tả trong BLHS 2015 về hành vi trốn thuế là các hành vi
được quy định tại Điều 108 Luật Quản lý thuế. Các hành vi này đều được thực hiện
với lỗi cố ý và đều nhằm mục đích là không nộp hoặc nộp không đúng, không đầy
đủ số tiền thuế phải nộp theo quy định của pháp luật về thuế. Như vậy, có thể thấy
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi trốn thuế có mối quan hệ mật
thiết và tương thích đối với pháp luật về xử lý hình sự đối với hành trốn thuế nhằm
tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng áp dụng.
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc của pháp luật về xử lý đối với hành vi
trốn thuế ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nói trên, pháp luật xử lý đối với hành vi
trốn thuế ở Việt Nam cũng có những hạn chế bất cập nhất định như sau:
Thứ nhất, quy định về các hành vi trốn thuế tại Điều 108 trong Luật Quản lý
thuế chưa thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật liên quan đã được sửa đổi.
Luật Quản lý thuế và BLHS 2015 không quy định hành vi “đang trong thời
gian xin tạm ngừng, nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn kinh doanh” của người nộp
thuế là hành vi trốn thuế. Tuy nhiên, xét về bản chất thì hành vi này của người nộp
thuế là hành vi trốn thuế. Nội dung này đã được quy định tại Nghị định số
129/2013/NĐ-CP. Do đó, cần thiết bổ sung quy định hành vi nêu trên là hành vi
trốn thuế vào Luật Quản lý thuế và BLHS 2015 để đảm bảo tính pháp lý trong triển
khai thực hiện. Ngoài ra một số trường hợp người nộp thuế sử dụng không đúng
mục đích hàng hoá thuộc đối tượng không chịu thuế, xét miễn thuế nhưng chưa
được quy định là hành vi trốn thuế.
Bên cạnh đó, khi quy định về xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu
số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế, Luật Quản lý thuế cũng chưa có sự quy
định rõ ràng trong việc phân định giữa hành vi khai thiếu thuế và trốn thuế, dẫn đến
sự phân định hai hành vi này trên thực tế gặp khó khăn và dễ nhầm lẫn bởi vì đôi
khi các thủ đoạn của hai hành vi này là giống nhau. Vụ việc của Công ty Cổ phần
Thương mại Nguyễn Kim (sau đây gọi tắt là “Nguyễn Kim”) là một ví dụ cho
những tranh cãi hành vi kê khai thuế sai của Nguyễn Kim là hành vi trốn thuế hay là
khai sai thuế.

39
* Tóm tắt vụ việc: Ngày 9/7/2018, Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh vừa
có quyết định số 3506/QĐ-CT xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Công ty
Cổ phần Thương mại Nguyễn Kim (siêu thị điện máy Nguyễn Kim (MST:
0302286281, địa chỉ 63-65-67 Trần Hưng Đạo, quận 1, TP.HCM). Quyết định này
được Cục thuế TP.HCM ban hành trên cơ sở thanh tra siêu thị điện máy Nguyễn
Kim theo quyết định thanh tra được ký vào ngày 6/4/2018, sau đó gia hạn đến ngày
28/5/21018. Sau khi thanh tra, điện máy Nguyễn Kim đã bị Cục thuế Thành phố
truy thu thuế thu nhập cá nhân với số tiền hơn 104 tỉ đồng, phạt hơn 19 tỉ đồng và
số tiền chậm nộp hơn 24 tỉ đồng. Tổng số tiền mà công ty Nguyễn Kim phải nộp
cho ngân sách nhà nước là gần 150 tỉ đồng [28].
Hành vi vi phạm của Công ty Nguyễn Kim trong vụ việc: Việc truy thu thuế
thu nhập cá nhân liên quan đến việc kê khai lương nhân viên của siêu thị điện máy
Nguyễn Kim. Cụ thể như sau: Hơn 10 năm qua, năm nào nhân viên cũng ủy quyền
cho công ty quyết toán thuế đầy đủ. Tuy nhiên, điện máy Nguyễn Kim đã "lách"
thuế thu nhập cá nhân bằng cách chuyển từ tiền lương chức danh, tiền thưởng thành
tiền tăng ca, làm thêm giờ. Nguyễn Kim lấy mức lương thấp hơn để làm cơ sở tính
thuế thu nhập. Phần còn lại phân bổ vào các khoản mục khác như tiền tăng ca, tiền
tăng giờ làm. Không chỉ có lương mà các khoản tiền thưởng hàng quý, hàng năm
cũng được thực hiện theo cách tương tự để giảm phần thuế phải nộp. Lương tăng ca
thì chỉ nộp thuế bằng giờ làm việc bình thường, phần chênh lệch sẽ được miễn thuế.
Chẳng hạn, với chức danh trưởng bộ phận thì thực nhận là 50 triệu đồng/tháng,
nhưng Nguyễn Kim chỉ khai thuế với lương cơ bản là 12 triệu đồng/tháng, số tiền
chênh lệch 38 triệu đồng được chuyển thành lương tăng ca (chỉ nộp bằng giờ làm
việc bình thường, phần chênh lệch được miễn thuế). Tương tự, các khoản tiền
thưởng hàng quý, hàng năm của hàng nghìn nhân viên cũng được Nguyễn Kim
chuyển thành lương ngoài giờ để trốn thuế phần chênh lệch [28].
* Các quan điểm trong vụ việc:
Giải thích từ phía Nguyễn Kim: Nguyễn Kim khẳng định đây không phải là
hành vi che giấu thuế, trốn thuế mà chỉ là việc hiểu chưa đúng về luật thuế thu nhập
cá nhân và dẫn đến một số thiếu sót trong quá trình kê khai hộ thuế thu nhập cá

40
nhân cho nhân viên. Theo văn bản gửi Bộ Thông tin và Truyền thông, Cục báo chí
và cơ quan ngôn luận, lý giải về Quyết định xử phạt của Cục thuế TP. Hồ Chí Minh
đối với hành vi vi phạm về thuế, Công ty CP Thương mại Nguyễn Kim cho biết: do
đặc thù kinh doanh của ngành bán lẻ, hiện Nguyễn Kim đang hoạt động và nuôi bộ
máy trên 7.000 lao động, các nhân viên của Công ty thường xuyên phải làm việc
ngoài giờ rất nhiều, cụ thể phải tăng ca đến 10 giờ tối và làm cả ngày thứ Bảy, Chủ
nhật, kể cả các ngày nghỉ lễ. Vì vậy, Công ty đã phải áp dụng chi trả tiền ngoài giờ
cho nhân viên phù hợp với thời gian lao động thực tế của nhân viên, và theo quy
định thì các khoản chi trả ngoài giờ này không thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập
cá nhân. Trong quá trình kê khai hộ thuế thu nhập cá nhân cho nhân viên, Công ty
đã chưa hiểu đúng và đầy đủ về luật thuế thu nhập cá nhân, dẫn tới có một số thiếu
sót trong quá trình kê khai, theo đó Cục Thuế TP.HCM đã không chấp nhận kết quả
“kê khai phần thu nhập cá nhân không chịu thuế” của nhân viên và đã có quyết định
truy thu và xử phạt tổng cộng 148,3 tỷ đồng theo Quyết định 3506/QĐ-CT.
Quan điểm của Cục thuế: Cục phó Cục thuế TP.HCM Nguyễn Nam Bình
khẳng định: “Nguyễn Kim hiểu không đúng về Luật Thuế thu nhập cá nhân
(TNCN)” chứ không phải cố tình trốn thuế". Theo ông Bình thì thông thường, nếu
có một nguồn thu nhập người lao động có thể ủy quyền cho công ty đứng ra kê khai
khấu trừ thuế tại nguồn và nộp cho cơ quan thuế. Khi khấu trừ tại nguồn, chỉ một số
khoản được miễn thuế và không phải kê khai. Còn Nguyễn Kim đã kê khai sai
những khoản mục này, dẫn đến các khoản không chịu thuế thực tế là phải chịu thuế.
Một số quan điểm khác: Nhiều báo chí đã đăng tin về thông tin vụ việc này
và cho rằng Nguyễn Kim đang thực hiện hành vi trốn thuế. Có quan điểm cho rằng
đây là hành vi trốn thuế của Công ty Nguyễn Kim khi cố tình thực hiện kê khai sai
nhằm để các nhân viên của Nguyễn Kim trốn thuế và việc thực hiện này là được sự
chỉ đạo của các lãnh đạo cấp trên. Một số cán bộ cục thuế cho rằng việc kê khai
lương nhân viên của Nguyễn Kim đã có biểu hiện “lách” thuế. Nhiều năm qua, nhân
viên của Nguyễn Kim đã ủy quyền cho công ty quyết toán thuế. Thế nhưng, Nguyễn
Kim đã “lách” thuế thu nhập cá nhân bằng cách chuyển từ tiền lương chức danh,

41
tiền thưởng thành tiền tăng ca, làm thêm giờ. Chẳng hạn, chức danh Tổng giám đốc,
Phó Tổng giám đốc thực lãnh 300 triệu đồng/tháng nhưng Nguyễn Kim chỉ khai
thuế với lương cơ bản là 30 triệu đồng/tháng, số tiền chênh lệch 270 triệu đồng
được chuyển thành lương tăng ca. Tương tự, các khoản tiền thưởng hằng quý, hằng
năm cũng được chuyển thành lương ngoài giờ để "lách" thuế phần chênh lệch [28].
* Quan điểm cá nhân của tác giả: Từ vụ việc trên, ta có thể thấy rằng xuất
phát từ việc cơ sở pháp lý không rõ ràng trong việc phân định sự khác biệt giữa
hành vi kê khai sai với trốn thuế dẫn đến nhiều tranh cãi trong thực tế. Trong vụ
việc này, để xác định hành vi của Nguyễn Kim có phải là hành vi trốn thuế hay
không thì chúng ta cần phải căn cứ vào những dấu hiệu nhận biết về hành vi trốn
thuế đã được trình bày ở Chương 1. Tác giả đồng ý với quan điểm của Cục thuế
trong việc xử lý vi phạm đối với Nguyễn Kim trong vụ việc này. Về mặt chủ quan
thì cá nhân hay pháp nhân trốn thuế phải có lỗi cố ý và với mục đích thực hiện hành
vi gian dối là để chiếm đoạt tiền thuế của NSNN cho phía Công ty. Trong trường
hợp này, Nguyễn Kim kê khai sai thuế nhưng vẫn thể hiện toàn bộ thu nhập chi trả
cho nhân viên trên sổ sách kế toán chứ không có hành vi che giấu, giả mạo hay để
ngoài sổ sách cho nên không đủ chứng cứ để kết luận doanh nghiệp này trốn thuế.
Nếu Nguyễn Kim cố tình trốn thuế thì các con số thu nhập, họ phải để nằm ngoài,
hoặc có hai sổ sách và với mục đích để chiếm số tiền thuế đó. Tuy nhiên, theo quan
điểm của tác giả, vấn đề này nên được hướng dẫn trong các văn bản pháp luật, xây
dựng cơ sở pháp lý vững chắc, tạo sự minh bạch và hạn chế những tranh cãi, các
quan điểm trái chiều dẫn đến những tiêu cực không đáng có.
Thứ hai, về nguyên tắc, thủ tục xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam.
Nguyên tắc, thủ tục xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế nói
chung và đối với hành vi trốn thuế nói riêng còn tồn tại nhiều hạn chế. Luật xử lý vi
phạm hành chính số 15/2012/QH13 đã quy định: Người có thẩm quyền xử phạt có
trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Trong khi đó Luật Quản lý thuế chỉ
quy định việc xử lý vi phạm pháp luật thuế do người có thẩm quyền ban hành, chưa
có quy định trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân. Để tăng
cường tính minh bạch, đúng pháp luật khi xử phạt vi phạm pháp luật về lĩnh vực

42
thuế đồng thời để phù hợp với nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong Luật
Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH12, cần bổ sung quy định này.
Thứ ba, chức năng, thẩm quyền của cơ quan thuế không còn phù hợp, chưa
được bổ sung kịp thời với diễn biến phức tạp của vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực
thuế trong thời gian qua, làm giảm hiệu quả của hoạt động đấu tranh, xử lý vi
phạm, trong đó có xử lý trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế.
Điều 109 Luật quản lý thuế quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp
luật về thuế, quy định này không phù hợp với Điều 45 Luật xử lý vi phạm hành
chính số 15/2012/QH13 ngày 20/6/2012 về thẩm quyền xử phạt của thủ trưởng cơ
quan thuế các cấp bị khống chế số tiền tuyệt đối. Quy định khống chế thẩm quyền
xử phạt theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính không phù hợp với việc xử
phạt hành vi khai sai dẫn đến thiếu thuế, hành vi trốn thuế thì mức phạt tiền được
tính trên cơ sở tỷ lệ % (20% số tiền thuế thiếu đối với hành vi khai thiếu thuế); theo
số lần thuế trốn (từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn đối với hành vi trốn thuế) nên các
vụ xử phạt vượt thẩm quyền sẽ phải chuyển về Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế,
Tổng cục Hải quan ra quyết định xử phạt dẫn đến quá tải, khó thể triển khai thực
hiện được trong thực tiễn. Cần xử lý vấn đề này để đảm bảo tính khả thi của quy
định khi áp dụng vào thực tiễn.
Về chức năng điều tra thuế, ở nước ta, cơ quan thuế do chưa được giao
quyền điều tra các hành vi tội phạm về thuế, nên toàn bộ các vụ vi phạm có dấu
hiệu hình sự đều chuyển sang cơ quan công an để điều tra, khởi tố vụ án. Bộ luật
Hình sự năm 2015 (áp dụng từ ngày 1/1/2018) có chế tài xử lý nghiêm tội phạm về
thuế. Theo đó, cá nhân vi phạm mức độ nhẹ cũng phải chấp hành án tù 3 tháng,
nặng thì 7 năm, thậm chí còn bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; pháp nhân
phạm tội có thể bị phạt tới 10 tỷ đồng và có thể bị đình chỉ hoạt động có thời hạn
hoặc vĩnh viễn. Chế tài xử phạt tội trốn thuế có thể nói là khá nghiêm, nhưng tác
dụng răn đe chưa lớn nếu để kéo dài tình trạng doanh nghiệp cứ gian lận, cơ quan
thuế cứ truy thu, xử phạt; doanh nghiệp chấp hành kết luận thanh tra, kiểm tra và lại
tiếp tục gian lận. Thực tế đã xuất hiện trường hợp doanh nghiệp liên tục mở rộng
sản xuất, kinh doanh, mở rộng địa bàn hoạt động, nhưng nhiều năm liền vẫn khai

43
báo lỗ, không đóng một xu vào ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp nào gặp “vận
đen”, bị cơ quan thuế phát hiện gian lận thuế, trốn thuế qua thanh tra, kiểm tra… lúc
đó mới chấp hành xử phạt, rồi lại tìm cách gian lận. Đơn giản vì họ hiểu rằng, dù có
tái phạm nhiều lần, thì lãnh đạo doanh nghiệp đó cũng chưa chắc bị truy tố trách
nhiệm hình sự do cơ quan thuế không có quyền điều tra, khởi tố họ tội gian lận, trốn
thuế. Trong khi đó, tỷ lệ các vụ xử lý hình sự còn thấp do hành vi vi phạm pháp luật
về thuế phức tạp, đa dạng, diễn ra trên phạm vi rộng, có liên quan đến chứng từ, sổ
sách, kế toán… Quá trình điều tra, trưng cầu giám định thường bị chậm trễ, dẫn đến
việc truy thu tiền trốn thuế, tiền thuế bị chiếm đoạt không kịp thời, tác dụng răn đe,
ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế bị hạn chế. Chính vì vậy, đã đến lúc cần xem
xét, nghiên cứu trao thêm quyền cho cơ quan thuế nhằm góp phần ngăn chặn kịp
thời, tăng tính răn đe và xử lý nghiêm các hành vi gian lận, trốn thuế. Bên cạnh đó,
việc bổ sung thẩm quyền điều tra cho cơ quan thuế, sẽ góp phần giảm tải một khối
lượng công việc rất lớn cho cơ quan điều tra chuyên trách; giúp cho cơ quan điều tra
chuyên trách thực hiện điều tra tội phạm trong lĩnh vực thuế hiệu quả hơn. Đồng
thời, sẽ tận dụng và phát huy được nguồn lực sẵn có của cơ quan thuế với đội ngũ
cán bộ có năng lực, chuyên môn chuyên sâu về nghiệp vụ thuế, tránh kéo dài thời
gian xác minh hành vi vi phạm pháp luật về thuế, tránh để lọt tội phạm trong lĩnh
vực thuế, đem lại công bằng cho các đối tượng nộp thuế.
Thứ tư, chế tài xử lý đối với hành vi trốn thuế vẫn chưa đủ mạnh và chưa có
tính khả thi cao đối với các trường hợp trốn thuế khiến người nộp thuế cố tình
không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, chiếm dụng tiền thuế phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình.
Về mặt nguyên tắc ở Việt Nam nói riêng cũng như ở các nước trên thế giới
đều có cơ chế phạt khi cá nhân, pháp nhân cố tình trốn hay tránh thuế.
Theo Thông tư 92/2015 của Bộ Tài chính, cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia
đình khi kinh doanh có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên mà không kê khai
thuế để nộp thuế giá trị gia tăng và thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật bị
coi là hành vi trốn thuế. Các cá nhân có thu nhập thường xuyên từ 9 triệu
đồng/tháng trở lên (đã giảm trừ gia cảnh đối với đối tượng nộp thuế) mà công ty

44
hay người sử dụng lao động có khấu trừ tiền thuế thu nhập nhưng không nộp cho cơ
quan thuế cũng bị coi là hành vi trốn thuế. Theo đó, người nộp thuế thực hiện một
trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế nêu trên thì phải nộp đủ số tiền thuế theo
quy định và bị xử phạt hành chính từ 1 đến 3 lần tính trên số tiền thuế trốn (phụ
thuộc vào số lần vi phạm, các tình tiết, tăng nặng, giảm nhẹ theo quy định của Luật
Xử lý vi phạm hành chính). Ngoài ra, còn có thể bị buộc áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả là nộp đủ số tiền thuế trốn, gian lận vào ngân sách nhà nước. Tùy vào
tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, cá nhân, pháp nhân thương mại còn có thể bị
xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
đối với tội danh trốn thuế. Cá nhân sẽ bị phạt tiền mức cao nhất là 4,5 tỷ đồng, hoặc
chịu mức phạt tù lên đến 7 năm khi thực hiện các hành vi trốn thuế. Nếu pháp nhân
thương mại phạm tội sẽ bị phạt lên đến 10 tỷ đồng, hoặc bị đình chỉ hoạt động vĩnh
viễn. Ngoài ra, Bộ luật Hình sự còn quy định, đối với tội danh trốn thuế, người
phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm,
hoặc tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản. Pháp nhân thương mại còn có thể bị
phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một
số lĩnh vực nhất định, hoặc cấm huy động vốn từ 1 năm đến 3 năm [33].
Có thể thấy rằng cơ chế về kiểm tra, giám sát và xử lý về trốn thuế vẫn chưa
đủ mạnh, thiếu khả năng răn đe nếu so sánh với quy định của nước trên thế giới. Cơ
chế phạt ở một số nước rất nặng, thậm chí lên tới 200 - 300% phần giá trị trốn thuế.
Đơn cử như ở Mỹ phạt từ 100 – 150%, Trung Quốc mức phạt là 300% [28].
Một vụ việc điển hình về mức phạt thuế rất nặng có thể kể đến trường hợp
trốn thuế của Phạm Băng Băng. Ngày 3/10/2018, Tổng Cục thuế Quốc Gia, Cục
thuế vụ Gian Tô đã tiến hành truy thu Phạm Băng Băng và công ty do cô đại diện
pháp luật số tiền là 255 triệu tệ (892 tỉ), ngoài ra số tiền phạt do nộp muộn là 33
triệu tệ (115 tỷ đồng). Vì Phạm Băng Băng dùng thủ thuật chia nhỏ hợp đồng, lấp
liếm số tiền thực tế để trốn thuế nên số tiền phạt bị nhân lên gấp 3 lần, tức 240 triệu
tệ (840 tỷ đồng)[24]. Ngoài ra, Phạm Băng Băng đã lợi dụng Studio cá nhân để gian
lận tiền thuế nên cô sẽ bị phạt gấp 3 lần (239 triệu tệ - 836 tỷ đồng). Không chỉ vậy,

45
điều tra còn chỉ rõ phía công ty do Phạm Băng Băng làm đại diện pháp lý cũng đã
"nhúng tay" vào việc "tính nhầm" số tiền thu nhập nên sẽ bị phạt gấp 3 (9 triệu 460
ngàn tệ - 33 tỷ đồng). Hai doanh nghiệp khác của Phạm Băng Băng đã không thực
hiện khấu trừ thuế thu nhập cá nhân và cung cấp chứng từ bất lợi và phi pháp sẽ bị
phạt 1 nửa tiền, lần lượt là 51 triệu tệ (178 tỷ) và 65 triệu tệ (227 tỷ) [24]. Như vậy,
tổng số tiền mà Phạm Băng Băng bị phạt lên đến 3100 tỷ đồng, số tiền này bao gồm
khoản truy thu thuế, phạt chậm nộp và gian lận trốn thuế. Đây là con số cao không
tưởng với một án phạt dành cho nghệ sĩ. Có thể thấy rằng, mức phạt 3100 tỷ đồng
dành cho Phạm Băng Băng là một mức phạt rất nặng, vô cùng nghiêm khắc và làm
cho các giới giải trí trong nước cũng như quốc tế phải bất ngờ. Đây quả thật là con
số khiến người bị phạt đau thấu tim gan không dám tái phạm, đồng thời khiến
những người liên quan không có suy nghĩ tương tự và chứng tỏ được sự nghiêm
minh của pháp luật.
Thứ năm, Điều 200 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) có quy định về tội trốn thuế. Mặc dù, điều luật đã quy định về định lượng giá
trị tiền trốn thuế và định khung hình phạt để làm cơ sở cho các cơ quan và người
tiến hành tố tụng áp dụng khung hình phạt đối với người phạm tội trốn thuế được
chính xác, đúng pháp luật. Tuy nhiên, điều luật không quy định truy thu số tiền trốn
thuế của người phạm tội là chưa phù hợp. Bởi trước tiên, Nhà nước phải thu lại số
tiền đã mất do người phạm tội trốn thuế phải có nghĩa vụ nộp NSNN. Sau đó mới
xử lý phạt tiền hoặc phạt tù có thời hạn đối với cá nhân; phạt tiền đối với pháp nhân
… đối với “hành vi trốn thuế” Trong khi đó, Luật Quản lý thuế năm 2006 được sửa
đổi, bổ sung năm 2012 tại Điều 110 quy định thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật
về thuế:
2. Đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự, hành vi khai thiếu số thuế phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn,
thời hiệu xử phạt là năm năm, kể từ ngày thực hiện hành vi vi phạm.
3. Quá thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thì người nộp thuế không
bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế

46
gian lận, tiền chậm nộp vào ngân sách nhà nước trong thời hạn mười năm trở về
trước; kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm”.
Từ quy định trên cho thấy, Luật Quản lý thuế đã quy định giới hạn thời hiệu
xử phạt vi phạm hành chính, quá thời hiệu đó thì không xử phạt vi phạm về thuế,
nhưng số tiền trốn thuế, gian lận thuế phải được truy thu nộp vào NSNN. Đối với
Điều 200 của BLHS mới thì quy định có sự khác biệt về nguyên tắc xử lý tội trốn
thuế, không thấy có quy định truy thu tiền trốn thuế, mà quy định về xử phạt tiền …
ở đây có sự mâu thuẫn, chưa đồng nhất quan điểm trong việc xử lý, cho dù hình sự
hay hành chính cũng cần phải thống nhất việc xử lý về tài chính. Có như vậy, mới
gọi là khắc phục hậu quả truy thu thuế và răn đe, giáo dục, phòng ngừa người phạm
tội trốn thuế.
Như vậy, Điều 200 của BLHS mới chưa hướng dẫn cụ thể, rõ ràng việc xử lý
số tiền của người phạm tội trốn thuế, có truy thu hay không truy thu tiền trốn thuế?
Nếu không xử lý truy thu tiền trốn thuế, mà áp dụng hình phạt tiền như quy định
hiện hành thì vô hình trung bỏ lọt khoản tiền của Nhà nước mà người phạm tội đã
lấy thông qua hoạt động kinh doanh thương mại như đã nêu trên để trốn thuế. Nếu
Tòa án tuyên truy thu và buộc người phạm tội phải nộp lại số tiền trốn thuế thì thiếu
căn cứ pháp luật. Nếu cơ quan thuế thực hiện việc truy thu tiền trốn thuế trước khi
chuyển vụ việc cho các cơ quan chức năng để xử lý hình sự thì không thể có trường
hợp một hành vi vi phạm vừa xử lý hành chính, vừa xử lý hình sự. Ngược lại, nếu
không tuyên truy thu tiền trốn thuế thì hiển nhiên Nhà nước mất khoản thu NSNN
của chính mình [11].
Đồng ý với quan điểm của ông Thái Nguyên Toàn cho rằng đây là lổ hổng
của pháp luật, đã tạo điều kiện cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực thi
pháp luật thiếu chính xác. Trong thực tiễn có nhiều trường hợp, Tòa án ra bản án
tuyên sung công quỹ Nhà nước toàn bộ số tiền trốn thuế và phạt tiền đối với người
phạm tội. Có trường hợp, Tòa án tuyên phạt người phạm tội ở mức tối đa của khung
hình phạt thì cũng không thể thay cho việc truy thu thuế. Điều đó cho thấy điều luật
và văn bản dưới luật chưa hướng dẫn cụ thể rõ ràng, nên các cơ quan tiến hành tố

47
tụng áp dụng pháp luật mỗi nơi một kiểu, làm cho đường lối giải quyết tội trốn thuế
không được áp dụng thống nhất trong thực tiễn[11].
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam
2.2.1. Những kết quả đã đạt được
Công tác quản lý thuế, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế
nói chung và xử lý đối với các hành vi trốn thuế nói riêng trong thời gian qua về cơ
bản đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đảm bảo quản lý chặt chẽ nguồn thu; nhận
thức của người dân, doanh nghiệp đối với việc thực hiện nghĩa vụ thuế với NSNN
được nâng cao; bộ máy hành chính thuế không ngừng được kiện toàn, đội ngũ cán
bộ, công chức quản lý thuế từng bước chuyên nghiệp, chuyên sâu.
Công tác xử phạt vi phạm hành chính về thuế ngày càng đi vào nề nếp, đúng
quy trình, quy định. Thông qua công tác xử lý vi phạm hành chính, từ năm 2014
đến năm 2016, cơ quan quản lý thuế đã thực hiện tổng số 417.642 quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, với tổng số tiền phạt thu được là 5.066.206 triệu đồng
[4,Tr.12]. Trong đó: Năm 2014: số lượng quyết định xử phạt 109.253 quyết định, số
tiền phạt thu được là 1.564.855 triệu đồng; Năm 2015: số lượng quyết định xử phạt
126.741 quyết định, số tiền phạt thu được là 843.497 triệu đồng; Năm 2016: số
lượng quyết định xử phạt 181.648 quyết định, số tiền phạt thu được là 2.657.854
triệu đồng [4, Tr.12]
Việc tổ chức thực hiện Quyết định xử phạt, giải quyết khiếu nại Quyết định
xử phạt, Quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn được thực hiện theo đúng nguyên
tắc, trình tự, thủ tục Luật Khiếu nại và các văn bản liên quan, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị xử phạt, người khiếu nại.
Trong năm 2017, Công an Thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch chuyên
đề “Phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực thuế” trên địa bàn.
Theo kế hoạch này, cơ quan công an đã phối hợp với cơ quan thuế rà soát, phát hiện
các sai phạm của các doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế trong điều tra, xác minh doanh
nghiệp sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, vi phạm về thuế. Trong 7 tháng đầu năm 2017,
cơ quan thuế các cấp trên địa bàn thành phố đã cung cấp 289 đầu mối hồ

48
sơ vụ việc liên quan đến 502 doanh nghiệp cho lực lượng công an thành phố, phối
hợp xác minh 53 vụ việc liên quan đến 474 hóa đơn giá trị gia tăng có dấu hiệu mua
bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp. Lực lượng Cảnh sát Kinh tế CATP Hà Nội đã
thụ lý, giải quyết 15 vụ, 17 đối tượng liên quan đến hành vi buôn bán hóa đơn
GTGT và trốn thuế; khởi tố 3 vụ, 4 bị can; xử lý hành chính 12 vụ với 13 đối
thượng, thu cho ngân sách Nhà nước 177 tỷ đồng [23].
Công tác kiểm tra, thanh tra thuế ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong
hoạt động quản lý thuế. Việc thực hiện kiểm tra, thanh tra được thực hiện theo đúng
quy định, quy trình thanh tra, kiểm tra và đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch thanh
tra, kiểm tra hàng năm. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý
thuế đã đảm bảo việc thu đúng, thu đủ số thuế phải nộp vào NSNN đồng thời đề
xuất những kiến nghị về cơ chế, chính sách quản lý thuế để phù hợp với tình hình
thực tế hoạt động của người nộp thuế. Có thể nói trong những năm qua, công tác
quản lý thuế ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực theo hướng rõ ràng, công
khai, dân chủ, minh bạch hơn. Cùng với sự chỉ đạo của Tổng Cục thuế và Tổng Cục
Cảnh sát từ Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện các cơ quan chức
năng đã thực hiện các biện pháp mạnh, tăng cường hoạt động phối hợp điều tra, xác
minh xử lý. Cơ quan hải quan, cơ quan thuế và cảnh sát đã phối hợp chặt chẽ với
nhau, cung cấp thông tin và tăng cường lực lượng hỗ trợ cho nhau cùng phối hợp
điều tra xử lý, đã phát triển, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng các doanh nghiệp lập hồ
sơ triển khai khống hàng xuất khẩu, khai khống thuế giá trị gia tăng đầu vào để
chiếm đoạt tiền hoàn thuế, gian lận và trốn thuế, nhiều địa phương đã phá được
những vụ án lớn, có tổ chức để thu hồi số tiền thuế gian lận, trốn thuế lớn cho
NSNN.
Báo cáo của Tổng cục Thuế cho thấy, tính đến ngày 30/6/2018, toàn ngành
Thuế đã thực hiện 34.757 cuộc thanh tra, kiểm tra, đạt 38,96% kế hoạch năm 2018,
bằng 123,31% so với cùng kỳ năm 2017. Tổng số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm
tra là hơn 6.581 tỷ đồng, bằng 99,08% so với cùng kỳ năm 2017; giảm khấu trừ là
hơn 586,8 tỷ đồng; giảm lỗ hơn 10.241,7 tỷ đồng. Tổng số tiền thuế nộp ngân sách

49
là hơn 3.013,6 tỷ đồng, đạt 45,87% số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra và bằng
88,86% so với cùng kỳ năm 2017.
Công tác thanh tra kiểm tra thuế, chống thất thu ngân sách nhà nước, chống
chuyển giá đã được Tổng cục Thuế tập trung triển khai thực hiện. Cụ thể, các đơn vị
chức năng trong hệ thống thuế tích cực triển khai các ứng dụng kiểm tra hồ sơ kê khai
thuế, áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế để nhận diện và tập trung thanh tra,
kiểm tra đối với các cơ sở kinh doanh có dấu hiệu rủi ro cao; thanh tra các doanh
nghiệp có khả năng có số thu điều tiết ngân sách trung ương lớn; tăng cường thanh
tra, kiểm tra sau hoàn thuế, chú trọng thanh tra các doanh nghiệp có giao dịch liên
kết, có dấu hiệu chuyển giá.
Đồng thời, tăng cường phối kết hợp với các cơ quan chức năng (công an,
viện kiểm sát, ngân hàng...), các cơ quan địa phương để đấu tranh chống các hành vi
trốn thuế, gian lận thuế, tội phạm về thuế nhằm thực hiện có hiệu quả công tác
chống thất thu ngân sách nhà nước [22].
Thời gian qua, nhiều cục thuế trong cả nước đã thực hiện tốt công tác thanh
tra, kiểm tra như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Thanh Hóa,
Thái Bình, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Khánh Hòa, An Giang, Vĩnh Phúc, Bà Rịa -
Vũng Tàu, Gia Lai, Hà Tĩnh, Kiên Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Phú Yên...
Về kiểm tra, số doanh nghiệp được kiểm tra trong năm 2017 là 83.383 doanh
nghiệp, đạt 99,72% kế hoạch năm 2017. Tổng số truy thu, truy hoàn, phạt là
6.450,04 tỷ đồng; giảm khấu trừ là 884,27 tỷ đồng; giảm lỗ 14.497,83 tỷ đồng; số
đã nộp ngân sách là 3.979,62 tỷ đồng. Toàn ngành cũng đã tiến hành kiểm tra hồ sơ
khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế đối với 940.523 hồ sơ; xử lý điều chỉnh thu vào
ngân sách 458,07 tỷ đồng; giảm khấu trừ là 103,5 tỷ đồng; giảm lỗ 252,12 tỷ đồng.
Qua kiểm tra rà soát các hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế đã phát hiện những sai sót,
ẩn lậu của người nộp thuế để điều chỉnh tăng số thuế kê khai hoặc ấn định thuế[21].
Nhìn lại công tác ngăn chặn các hành vi gian lận thuế trong thời gian qua, có
thể thấy, các hành vi gian lận thuế ngày càng phức tạp. Các hành vi như: Thành lập
DN để bán hóa đơn, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, kê khai, khấu trừ thuế GTGT,

50
hạch toán chi phí… còn diễn ra khá nghiêm trọng với mức độ ngày càng tinh vi dưới
nhiều hình thức khác nhau, gây thất thoát tiền NSNN, tạo sự bất bình đẳng và bức
xúc trong cộng đồng DN.
Không ít DN lợi dụng sự thông thoáng, kẽ hở của pháp luật để thực hiện các
hành vi mua bán hóa đơn bất hợp pháp với nhiều chiêu thức mới để qua mặt cơ
quan thuế. Nhiều DN “ma” thường sử dụng thủ đoạn thuê các đối tượng kém hiểu
biết, thậm chỉ cả người đang mắc bệnh hiểm nghèo làm đại diện pháp luật, thực
hiện mua bán hóa đơn lòng vòng để bán cho các DN khác làm chứng từ hợp thức
hóa đầu vào nhằm khấu trừ thuế, hoặc xin hoàn thuế.
DN “ma” còn dùng chiêu bài tạm ngừng nghỉ kinh doanh, thay đổi địa điểm
kinh doanh, đổi tên DN, chuyển địa bàn hoạt động sang địa phương khác, thậm chí
bỏ địa chỉ kinh doanh không đóng mã số thuế… Bên cạnh đó, không ít DN có vốn
đầu tư nước ngoài có hành vi gian lận thuế thông qua việc chuyển giá, liên tục khai
lỗ để không phải đóng thuế và đã bị cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện truy thu, truy
hoàn cho NSNN với số tiền lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Trước những diễn biến phức tạp của hành vi gian lận thuế, ngành Thuế đã
thực hiện đổi mới phương thức, cách thức thanh kiểm tra theo rủi ro, tập trung chuyên
sâu hơn vào các ngành nghề lĩnh vực có rủi ro về thuế cao, thanh tra theo chuyên đề
liên quan đến nhóm ngành nghề: giá chuyển nhượng và các DN có quan hệ liên kết,
bất động sản, đầu tư tài chính, cổ phần, cổ phiếu, các DN kinh doanh vận tải taxi,
dược phẩm sử dụng hóa đơn trực tiếp lớn, kinh doanh games online, thương mại điện
tử, kinh doanh nhà ở xã hội, DN có giao dịch đáng ngờ qua ngân hàng...
Thanh tra Tổng cục Thuế đã đôn đốc, chỉ đạo các cục thuế tập trung nhân lực
cho thanh tra, kiểm tra, đặc biệt đã tham mưu, trình Tổng cục Thuế chỉ đạo 3 địa
phương là: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng thành lập các đoàn thanh
tra tại 15 DN đầu mối kinh doanh xăng dầu.
Trong cả nước, nhiều địa phương đã đưa các giải pháp hiệu quả nhằm ngăn
chặn hành vi gian lận, trốn thuế, Cục Thuế TP. Hà Nội là một trong những điểm
sáng trong công tác chống gian lận, trốn thuế.

51
Trong năm 2016, Cục Thuế TP. Hà Nội đã thành lập Tổ chống hành vi vi
phạm hóa đơn nhằm nghiên cứu các hành vi vi phạm và giải pháp phòng ngừa; cảnh
báo các DN có dấu hiệu vi phạm về thuế, về hóa đơn trên trang web của cơ quan
thuế; xử lý nghiêm đối với tất cả các hành vi vi phạm liên quan đến sử dụng hóa
đơn bất hợp pháp...
Bên cạnh đó, Cục Thuế TP. Hà Nội đã phối hợp cơ quan công an bàn chuyên
đề đấu tranh chống tội phạm về thuế, đặc biệt là đấu tranh hành vi mua bán hóa đơn
bất hợp pháp. Mới đây, Cục Thuế TP. Hà Nội đã phối hợp với Phòng An ninh tài
chính, tiền tệ, đầu tư (Công an TP. Hà Nội) xác minh nhóm đối tượng thành lập
công ty “ma” hoạt động mua bán trái phép hóa đơn GTGT với quy mô, tổ chức lớn,
thủ đoạn tinh vi.
Các đối tượng mua lại các công ty hoạt động kém hiệu quả, sau đó chuyển
nhượng thay đổi người đại diện, trụ sở công ty... không hoạt động kinh doanh mà
chỉ bán hóa đơn GTGT để thu lợi bất chính. Đến thời điểm bị triệt phá, nhóm đối
tượng này đã buôn bán hàng nghìn hóa đơn với giá trị trên 1.000 tỷ đồng, gian lận
hàng trăm tỷ đồng tiền thuế…
Từ cuối năm 2012, Cục Thuế TP. Hà Nội đã phối hợp với Cục Công nghệ
thông tin (Tổng cục Thuế) xây dựng ứng dụng “đối chiếu hóa đơn”, thực hiện việc
phân tích, sàng lọc, kiểm tra chéo dữ liệu DN, qua đó hỗ trợ cung cấp ứng dụng tra
cứu hóa đơn của đơn vị bỏ khỏi địa chỉ kinh doanh cho cán bộ thuế, nhằm ngăn chặn
hành vi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp hiệu quả nhất.
Qua kiểm tra, rà soát hồ sơ ngay tại trụ sở cơ quan thuế, Cục Thuế đã phát
hiện và thông tin cảnh báo đến khoảng 23.000 nghìn lượt DN với hàng trăm nghìn
số hóa hơn được xác định là có dấu hiệu bất hợp pháp. Ngoài ra, Cục Thuế xây
dựng tiêu chí xác định DN có dấu hiệu thành lập DN để mua bán hóa đơn nhằm
giúp nhận diện các DN vi phạm một cách dễ dàng hơn.
Công tác chống chuyển giá bước đầu đạt được nhiều kết quả khả quan, ngăn
chặn được các hành vi gian lận qua giá, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Trong những năm vừa qua, cơ quan quản lý thuế các cấp đã chủ động thực hiện
nhiều biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát chặt chẽ tình trạng chuyển giá, báo lỗ,

52
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp
nước ngoài.
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về xử
lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam hiện nay
Công tác quản lý thuế nói chung và xử lý các hành vi trốn thuế nói riêng
được thực hiện trong bối cảnh kinh tế thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và
khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức
biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất
phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế
hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế.
Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở
thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng
trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh đó, việc
thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế trên thực tế còn gặp rất nhiều
khó khăn vướng mắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, xuất hiện nhiều thủ đoạn trốn thuế ngày càng tinh vi và phức tạp,
nhiều doanh nghiệp lợi dụng lỗ hổng của pháp luật để trốn thuế.
Thực tiễn đấu tranh với các vi phạm pháp luật về thuế trong thời gian qua cho
thấy mặc dù các cơ quan quản lý thuế, cơ quan tố tụng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực
trong công tác đấu tranh chống tội phạm kinh tế nói chung và tội phạm trong lĩnh
vực thuế nói riêng, nhưng tình hình vi phạm pháp luật thuế và tội phạm trong lĩnh
vực thuế đang diễn biến phức tạp với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh
vi và có chiều hướng gia tăng.
* Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: Tình trạng gian lận trốn thuế còn diễn
ra phổ biến ngay ở các DN trong nước thông qua hình thức thành lập các công ty
con, công ty thành viên hoặc mua bán hóa đơn khống từ các DN khác. Theo Công
an TP. Hà Nội, năm 2015 đã phát hiện đối tượng thành lập 16 công ty với các ngành
nghề khác nhau, thuê in hóa đơn để bán cho hơn 2.000 cơ quan, đơn vị, DN với giá
trị lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Đặc biệt, một điểm đáng chú ý là một số DN có nợ

53
thuế hoặc bị truy thu số thuế lớn thì họ bỏ địa điểm kinh doanh cũ, sau đó thành lập
công ty khác.
Tình trạng trốn thuế diễn ra khá phổ biến không chỉ tại các DN mà còn ở mọi
thành phần kinh tế. Có thể kể đến một số thủ đoạn phổ biến trong trốn thuế thu nhập
doanh nghiệp như bỏ ngoài sổ sách kể toán, tạo giao dịch bán hàng giả mạo, ghi giá
bán thấp hơn giá thực tế, hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định, kê khai lỗ
nhiều năm liên tiếp, mua bán hoá đơn khống. Đa phần các hành vi gian lận này chỉ
có thể bị phát hiện qua kiểm tra báo cáo quyết toán thuế hoặc qua thanh tra tại cơ sở
kinh doanh. Muốn phát hiện được hành vi này, cán bộ thanh tra, kiểm tra phải vững
vàng về nghiệp vụ kế toán và phải nhanh nhạy trong đánh giá báo tài chính của DN.
* Đối với thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Trong điều kiện các hoạt động thương
mại quốc tế ngày càng gia tăng, kéo theo sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch
xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời, các hành vi gian lận về thuế đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu cũng gia tăng đáng kể về hình thức gian lận, số vụ gian lận và quy
mô số thuế gian lận. Theo thống kê của cơ quan Hải quan, gian lận thuế trong hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng gia tăng và có diễn biến phức tạp với các
phương thức, thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi, thay đổi theo hướng lợi dụng
những bất cập trong quy trình thủ tục hải quan và sự thay đổi chính sách mặt hàng...
Trong đó, phổ biến nhất là các hành vi buôn lậu, gian lận, trốn thuế về mặt hàng, số
lượng, mã hàng, xuất xứ, trị giá tính thuế hay lợi dụng các chính sách ưu đãi, ân hạn
thuế hoặc nợ thuế để trốn thuế.
* Đối với thuế thu nhập cá nhân: Từ vụ việc của Nguyễn Kim đã được trình
bày ở trên, có thể thấy rầng quá trình kê khai thuế của các doanh nghiệp ở nước ta
còn tồn tại nhiều bất cập. Để xác định liệu Nguyễn Kim có thật sự không hiểu đúng
về Luật thuế thu nhập cá nhân hay thật sự lợi dụng các quy định của pháp luật để
giúp cho tất cả các nhân viên của Nguyễn Kim trốn thuế, làm thất thoát tiền của
NSNN thật sự không hề đơn giản.
Thuế thu nhập cá nhân đánh trên các cá nhân nộp thuế chứ không phải đánh
thuế trên công ty. Các cá nhân có thu nhập cao phải đóng thuế cho nhà nước theo
các mức khác nhau. Như vậy, ở đây, các doanh nghiệp gần như không có liên quan

54
đến thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, thông thường, tại Việt Nam và các nước trên
thế giới đều yêu cầu đơn vị trả thu nhập cho lao động đứng ra đóng thuế thay cho
các cá nhân có thu nhập cao tại đơn vị mình. Doanh nghiệp đứng ra tính thuế và nộp
thuế thay cho cá nhân. Nếu cá nhân đó có nguồn thu nhập từ nhiều doanh nghiệp
khác nhau thì cuối cùng họ phải thực hiện quyết toán với cơ quan thuế và như vậy
cá nhân là người chịu trách nhiệm cuối cùng về số thuế phải đóng. Chính vì lẽ đó,
trong thời gian vừa qua, ở nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt ở các doanh
nghiệp có bộ khung được nhận thu nhập cao như ở các ngân hàng thương mại, ở các
tổng công ty, có nhiều cán bộ có khoản thu nhập cao lên tới vài trăm triệu một
tháng, thường họ giấu những khoản thu nhập này. Trên thực tế, các doanh nghiệp
thường tìm cách phân chia khoản thu nhập đó ra bình quân cho những cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp hoặc là tính vào những khoản lương, thưởng khác mà
không phải chịu thuế. Đây là hành vi cố tình trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với nhà
nước. Điều này là đáng lên án, bởi vì doanh nghiệp đã trả cho người lao động có
mức thu nhập này phải đóng thuế để đảm bảo sự bình đẳng của tất cả công dân
trước pháp luật. Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa
đầy đủ, chưa theo kịp tình hình thực tế, những công cụ thực thi và kiểm soát của cơ
quan Nhà nước còn hạn chế đã tạo ra môi trường kinh doanh thiếu tính công bằng,
sự đối xử khác nhau về mặt pháp lý, dẫn tới hành vi trốn và gian lận thuế ở mức cao
của các DN thuộc quy mô, thành phần có ưu thế hơn.
Thứ hai, trình độ quản lý thuế, năng lực cán bộ của một bộ phận cán bộ chưa
theo kịp chưa theo kịp với yêu cầu quản lý, cũng như chưa bắt kịp các thủ đoạn, hình
thức, chiêu trò trốn thuế ngày càng tinh vi phức tạp dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội
phạm. Có hiện tượng thoái hóa của một số cán bộ thuế.
Một số bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức thuế, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở
chưa nắm bắt kịp thời kiến thức chuyên sâu về quản lý thuế, nhất là các giao dịch
có liên quan đến yếu tố nước ngoài; khả năng phân tích, dự báo, xử lý dữ liệu về
thuế, kiến thức về kế toán, phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp, kiến thức
tin học phục vụ cho công tác quản lý thuế còn hạn chế nhưng chậm được đào tạo,
bồi dưỡng trong khi đó các hành vi trốn thuế hiện nay lại vô cùng tinh vi và phức

55
tạp, ở mỗi một sắc thuế thì lại có các thủ đoạn khác nhau và việc phát hiện được
các hành vi này gây rất nhiều khó khăn cho các cán bộ thanh tra, kiểm tra các đối
tượng nộp thuế.
Cùng với đó, xuất hiện tình trạng thoái hoá của một số cán bộ thuế ngày càng
nghiêm trọng. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một
số cá nhân ăn cắp tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi
dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng thuế,
nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng
chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời
gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt DN và dân
chúng bị hoen ố.
Thứ ba, văn hoá tuân thủ thuế của người nộp thuế (hay còn gọi tinh thần và
đạo đức thuế của người nộp thuế) ở Việt Nam còn tương đối thấp.
Ý thức chấp hành pháp luật của nhiều DN còn kém. Trong Luật Quản lý thuế
có quy định DN phải cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu ngay khi đăng ký và có hoạt
động phát sinh. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động kinh doanh thì các DN chỉ
cung cấp thông tin khi cơ quan thuế yêu cầu. Vì vậy, có nhiều thông tin cần thiết
nhưng cơ quan thuế không nắm được hoặc không yêu cầu cung cấp đầy đủ. Ví dụ:
Thông tin về tài khoản của DN tại ngân hàng, DN chỉ cung cấp một số tài khoản mà
số dư hạn chế không đủ để cơ quan thuế cưỡng chế. Có thể nói, với cơ chế quản lý
thuế hiện nay, ngoại trừ những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc, không ít lãnh đạo
doanh nghiệp vẫn có tâm lý trục lợi chính sách thuế. Hệ quả là cơ quan thuế cứ
thanh tra, kiểm tra; nếu phát hiện doanh nghiệp nào gian lận thuế thì truy thu, truy
hoàn, xử phạt hành chính.
Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói
quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành. Tình trạng DN bán hàng không xuất
hóa đơn diễn ra rất phổ biến. Việc quy định xuất hóa đơn kèm hàng bán chưa thực
sự là đòi hỏi bắt buộc đối với DN và nhất là với khách hàng, người tiêu dùng mua
sắm sử dụng hàng hóa có thói quen là không lấy hóa đơn bán hàng đã tạo kẽ hở cho
DN kê khai giảm doanh thu bán hàng, từ đó giảm lợi nhuận và tránh được thuế thu
nhập DN.

56
Thứ tư, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thuế;
giữa cơ quan thuế với cơ quan hải quan; giữa cơ quan thuế, cơ quan hải quan với
cơ quan công an, biên phòng, quản lý thị trường… nên không phát hiện được và
ngăn chặn kịp thời các hành vi trốn thuế
Việc thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành đã gây khó khăn cho các cơ quan
chức năng trong việc thu thuế, hoàn thuế, kiểm tra, kiểm soát, từ đó làm cho việc
thực thi pháp luật giữa các cơ quan nhà nước không đồng bộ, không thống nhất. Sự
lỏng lẻo trong quản lý luôn đi kèm với việc tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá
nhân, DN lợi dụng thực hiện các hành vi gian lận nhằm chiếm đoạt tiền thuế của
nhà nước. Cơ quan thuế chưa thực sự chủ động trong công tác quản lý thuế, các cơ
quan tố tụng cũng chưa chủ động trong quá trình xử lý các vụ việc trốn thuế.
Tỷ lệ vụ việc có dấu hiệu vi phạm hình sự nhưng có quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can không nhiều [4, Tr.22]. Cụ thể:
Năm 2007: tổng số vụ vi phạm về trốn thuế là 3.688, trong đó xử lý VPHC là
3.671, chuyển cơ quan công an 17 vụ, đã khởi tố và đưa ra xét xử 7 vụ (chiếm tỷ lệ
41% số vụ chuyển cơ quan công an và 0,19% tổng số vụ vi phạm về trốn thuế).
Năm 2008: tổng số vụ vi phạm về trốn thuế là 3.132, trong đó xử lý VPHC là
3.011, chuyển cơ quan công an 121 vụ, đã khởi tố và đưa ra xét xử 42 vụ (chiếm tỷ
lệ 35% số vụ chuyển cơ quan công an và 1,34% tổng số vụ vi phạm về trốn thuế).
Năm 2009: tổng số vụ vi phạm về trốn thuế là 3.547, trong đó xử lý VPHC là
3.316, chuyển cơ quan công an 231 vụ, đã khởi tố và đưa ra xét xử 30 vụ (chiếm tỷ lệ
13% số vụ chuyển cơ quan công an và 0,85% tổng số vụ vi phạm về tội trốn thuế).
Năm 2010: tổng số vụ vi phạm về trốn thuế là 4.940, trong đó xử lý VPHC là
4.657, chuyển cơ quan công an 283 vụ, đã khởi tố và đưa ra xét xử 59 vụ (chiếm tỷ
lệ 21% số vụ chuyển cơ quan công an và 1,19% tổng số vụ vi phạm về trốn thuế).
Năm 2011: tổng số vụ vi phạm về trốn thuế là 4.322, trong đó xử lý
VPHC là 4.072, chuyển cơ quan công an 250 vụ, đã khởi tố và đưa ra xét xử 77
vụ (chiếm tỷ lệ 27% số vụ chuyển cơ quan công an và 1,55% tổng số vụ vi
phạm về trốn thuế).
Năm 2012: tổng số vụ vi phạm về trốn thuế là 3.988, trong đó xử lý
VPHC là 3.734, chuyển cơ quan công an 264 vụ, đã khởi tố và đưa ra xét xử 70

57
vụ (chiếm tỷ lệ 27% số vụ chuyển cơ quan công an và 1,75% tổng số vụ vi
phạm về trốn thuế).
Năm 2013: tổng số vụ vi phạm về trốn thuế là 4.130, trong đó xử lý VPHC là
3.753, chuyển cơ quan công an 377 vụ, đã khởi tố và đưa ra xét xử 24 vụ (chiếm tỷ
lệ 6% số vụ chuyển cơ quan công an và 0,58% tổng số vụ vi phạm về trốn thuế).
(Số liệu thống kê của Tổng cục thuế) [4, Tr.22]
Thực tế hàng năm, cơ quan thuế phát hiện khoảng 4.000 vụ gian lận thuế,
trốn thuế, nhưng chỉ có khoảng 40 vụ trốn thuế, chiếm đoạt ngân sách nhà nước bị
khởi tố. Tính riêng năm 2017, qua thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế đã tăng thu cho
ngân sách nhà nước hơn 15.437 tỷ đồng, nhưng chỉ có rất ít vụ án bị khởi tố. Đáng
nói hơn là khi thanh tra, kiểm tra 734 doanh nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết
(chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), cơ quan thuế đã truy thu, truy
hoàn và phạt 2.271 tỷ đồng, nhưng không đối tượng nào bị truy tố trước pháp luật
[25]. Bên cạnh đó, quá trình xử lý, quá trình tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân trên
thực tế còn tồn tại nhiều sơ hở, tiêu cực, thiếu sót… nên có nhiều trường hợp cá
nhân lợi dụng, lẩn tránh trong trách nhiệm của pháp nhân. Mặc dù BLHS 2015 đã
có quy định là trách nhiệm của pháp nhân không loại trừ trách nhiệm của cá nhân,
nhưng đó là về mặt lý thuyết. Trên thực tế, các hành vi trốn thuế có thể được thực
hiện do cá nhân, lãnh đạo của công ty đó. Tuy nhiên, nếu bị phát hiện, họ sẵn sàng
họp cả pháp nhân đó lại, và coi đó là sự thống nhất của tất cả hội đồng thành viên.
Trong trường hợp trách nhiệm cá nhân thì có thể bị xử tù, còn pháp nhân chỉ có phạt
tiền và giải thể. Nguyên nhân chính được xác định là do tính chất chuyên sâu, chuyên
ngành và chuyên nghiệp của nhóm tội phạm này. Do vậy, cơ quan điều tra tuy được
bố trí tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có nhiều kinh nghiệm điều tra và
rất cố gắng nhưng việc thu thập thông tin, xác minh chứng cứ, chứng minh tội phạm
thuế gặp rất nhiều khó khăn, vất vả.
Trong khi đó, cơ quan thuế quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin như dữ
liệu về người nộp thuế, về tình hình khai, nộp thuế, về những trường hợp có rủi ro
cao về thuế, về hóa đơn. Đồng thời, tổ chức bộ máy được bố trí rộng khắp đến cấp
hành chính quận, huyện; có những đầu mối làm nhiệm vụ thu thập thông tin có dấu

58
hiệu “nghi ngờ” hoặc “bất thường” và có thể chia sẻ trong nội bộ như Thanh tra
Tổng cục thuế (ở cấp trung ương), các Phòng thanh tra thuộc Cục thuế tỉnh thành
phố trực thuộc trung ương (ở địa phương). Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về tố tụng
hình sự chưa cho phép cơ quan thuế thực hiện điều tra hình sự, khởi tố ban đầu đối
với một số tội phạm về hóa đơn, về trốn thuế. Do vậy, hệ thống cơ quan thuế từ
trung ương đến địa phương chưa hỗ trợ, góp sức đáng kể giúp lực lượng điều tra
hình sự chuyên trách đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm pháp luật về thuế, chưa
đảm bảo tính liên tục của quá trình theo dõi tính tuân thủ pháp luật đến xử lý vi
phạm hành chính theo Luật xử lý vi pham hành chính hoặc xử lý trách nhiệm hình
sự theo Bộ Luật hình sự và Bộ Luật tố tụng hình sự, làm giảm hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế, chưa đảm bảo công bằng cho
các chủ thể tham gia kinh doanh.
Thứ năm, việc xử lý các hành vi trốn thuế trên thực tế còn thiếu các phương
tiện kỹ thuật hỗ trợ.
Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn, một DN ở Cà Mau có
thể mua bán với các DN ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất
khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập
khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa
phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức
thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây
ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác
kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn
diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử,...
Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Hầu hết các
thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền việt, vàng và ngoại tệ. Điều
này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống, không thực
hiện đầy đủ chế độ hoá đơn chứng từ và đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện
để ngăn chặn kịp thời. Còn với các cá nhân, việc được trao tay những khoản thu
nhập trực tiếp bằng tiền mặt cũng giúp họ trốn được một số tiền thuế lớn do các cơ
quan chức năng không thể kiểm soát và quản lý được giá trị thực lớn hơn rất nhiều
so với giá trị được ghi nhận của những khoản thu nhập này.

59
Kết luận chương 2

Trong Chương 2, luận văn đã tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp
luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về xử
lý đối với hành vi trốn thuế tại Việt Nam hiện nay. Có thể thấy rằng pháp luật hiện
hành đã tạo nên khung pháp lý điều chỉnh và định hình cũng như là xử lý đối với
hành vi trốn thuế tại Việt Nam hiện nay, tuy nhiên còn bộc lộ nhiều điểm bất cập,
hạn chế trong các quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế. Từ nội
dung phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật, tác giả đã chỉ rõ những khó khăn
vướng mắc trong thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế và tìm ra
nguyên nhân của bất cập, hạn chế đó nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đưa ra
các giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý đối với hành vi trốn thuế.

60
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỐN THUẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế ở Việt Nam
Dự báo bối cảnh kinh tế xã hội từ nay đến 2030 cho thấy nhiều cơ hội nhưng
cũng đặt ra không ít thách thức đối với công tác quản lý thuế của Việt Nam nói
chung và xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam nói riêng trong việc đảm bảo
hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo thuận lợi cho người nộp thuế với mục
tiêu quản lý, kiểm soát, phát triển nguồn thu từ thuế, đấu tranh, xử lý hiệu quả với
hoạt động chuyển giá, gian lận, trốn thuế.
Việc hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam phải
bắt đầu từ việc rà soát, xem xét, xác định các nguyên nhân chủ yếu gây ra hiện
tượng trốn thuế, khắc phục ngay những vấn đề làm nảy sinh những nguyên nhân đó
đồng thời phải nhận biết, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi trốn thuế. Theo đó,
các giải pháp cơ bản mang tính nguyên tắc cần thực hiện để hoàn thiện pháp luật về
xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam là:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách thuế nói chung và các văn bản pháp luật
về quản lý thuế, pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế nói riêng. Việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật thuế phải đảm bảo đúng chủ trương, chính sách của
Đảng, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các đạo luật thuế khác trong hệ
thống pháp luật thuế, phải có tính ổn định và đảm bảo phù hợp với các Điều ước
Quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia. Đồng thời, đảm bảo có được hệ thống
thuế thống nhất, phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu về nguồn thu ngân sách; Quản lý
kinh tế của Nhà nước phù hợp với khả năng đóng góp của các chủ thể trong nền
kinh tế vừa thúc đẩy sản xuất, kinh doanh tăng trưởng tăng thu nhập của dân cư.
Về hình thức, Luật thuế phải được thiết kế theo đúng nguyên tắc hệ thống, đơn
giản, dễ hiểu, tránh chồng chéo giữa các văn bản pháp luật thuế. Việc xây dựng

61
hệ thống thuế phải đạt được các yêu cầu về công bằng, rõ ràng, minh bạch, tạo
thuận lợi cho người nộp thuế và kế thừa những quy định đã thực hiện ổn định,
đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn (bao gồm cả việc luật hóa những nội dung
đang được quy định chi tiết tại các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành);
khắc phục những tồn tại, hạn chế đã phát sinh trong quá trình triển khai thực
hiện. Nội dung này sẽ tác động trực tiếp làm giảm các áp lực về gánh nặng thuế
để dẫn đến hành vi gian lận, trốn thuế, đồng thời ngăn chặn các cơ hội hay khả
năng có thể gian lận, trốn thuế của người nộp thuế, giảm chi phí quản lý, chi phí
tuân thủ, từ đó góp phần nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật, hạn chế hành vi
gian lận trong tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam
phải có sự tương thích với luật pháp quốc tế và phù hợp với xu thế hội nhập, liên kết
kinh tế trong khu vực, toàn cầu hoá kinh tế… Cách thức quản lý phải phù hợp với
chuẩn mực quản lý thuế quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam và các nhà đầu tư trong nước ra nước ngoài. Theo đó, hội nhập quốc tế
về thuế ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, nhằm khuyến khích đầu tư, tự
do hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự khác biệt của Việt Nam và
các nước tiên tiến cả về chính sách thuế và nhất là công tác quản lý thuế hiện nay còn
khoảng cách khá xa bắt buộc ngành thuế phải tiến hành cải cách mạnh mẽ để tránh tụt
hậu với các nước trong khu vực và nâng cao vị thế của thuế Việt Nam trên trường
quốc tế. Thực hiện nghiên cứu, tham khảo thông lệ quản lý thuế quốc tế, tiếp thu có
chọn lọc những kinh nghiệm của một số nước phát triển phù hợp với điều kiện kinh
tế, chính trị và thực tiễn của Việt Nam.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam phải
được xây dựng xuất phát trên cơ sở mang tính răn đe, sau đó là bù đắp chi phí, vì công
tác thanh kiểm tra, điều tra hành vi vi phạm thuế cần huy động nhiều người với sự hỗ
trợ nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân và tốn chi phí. Cần cân nhắc mức xử phạt phải đủ
mạnh để người nộp thuế luôn phải nghĩ đến việc có bị vi phạm hay không, từ đó ý thức
được lợi ích tuân thủ pháp luật thuế.

62
Thứ tư, liên tục cập nhật tình hình thực tiễn thực hiện thi hành pháp luật về
xử lý đối với hành vi trốn thuế, cập nhật các thủ đoạn gian lận, trốn thuế, tìm ra
những “vướng mắc” nút thắt trong quá trình thi hành pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế để tháo gỡ những khó khăn, giải quyết những bất cập. Việc nhận
diện các hành vi, thủ đoạn gian lận thuế nói chung và các hành vi trốn thuế nói riêng
của người nộp thuế là cơ sở để cơ quan quản lý thuế ngăn ngừa, phát hiện và xử lý
kịp thời các trường hợp gian lận thuế, trong đó có trốn thuế. Trong trường hợp ngày
càng phát sinh nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, nhiều
phương thức giao dịch như hiện nay, các thủ đoạn gian lận thuế đặc biệt là các hành
vi trốn thuế vô cùng tinh vi và phức tạp cũng không ngừng gia tăng nên việc cập
nhật, nhận biết các thủ đoạn để phục vụ cho công tác quản lý thuế là rất cần thiết.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế, chú trọng công tác kiểm
tra, thanh tra thuế và hiệu lực của các biện pháp cưỡng chế, xử lý vi phạm về thuế:
Hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý thuế nói chung, công tác thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm về thuế nói riêng là yếu tố trực tiếp nhất tác động đến ý thức và
khả năng thực hiện hành vi trốn thuế của người nộp thuế trong tuân thủ pháp luật
thuế. Trong đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra vừa có tác dụng giám sát, đánh giá quá
trình tuân thủ vừa có tác dụng ngăn ngừa, răn đe và xử lý các hành vi trốn thuế.
Hoạt động xử lý vi phạm, cưỡng chế thuế nghiêm minh, công bằng cũng sẽ làm hạn
chế các hành vi trốn thuế.
Với định hướng nêu trên hoàn toàn phù hợp với mục tiêu tổng quát của chiến
lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 là: “Xây dựng hệ thống chính
sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc
đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có
hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại,
hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn
giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế
minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông
lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin
hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao”[40].

63
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở
Việt Nam.
Thứ nhất, luật hóa quy định xử lý đối với hành vi đang trong thời gian xin tạm
ngừng, nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn kinh doanh là hành vi trốn thuế.
Sửa đổi Điều 108 Luật Quản lý thuế và BLHS 2015 theo hướng bổ sung quy
định hành vi “đang trong thời gian xin tạm ngừng, nghỉ kinh doanh nhưng thực tế
vẫn kinh doanh” của người nộp thuế là hành vi trốn thuế vào Luật Quản lý thuế và
BLHS 2015 để đảm bảo tính pháp lý trong triển khai thực hiện. Theo chúng tôi cần
bổ sung thêm khoản 10 vào Điều 108 Luật quản lý thuế và BLHS 2015 như sau:
“10. Người nộp thuế đang trong thời gian xin tạm ngừng, nghỉ kinh doanh
nhưng thực tế vẫn kinh doanh, nhưng không thông báo, kê khai thuế”.
Việc Luật hóa quy định xử lý đối với hành vi đang trong thời gian xin tạm
ngừng, nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn kinh doanh của người nộp thuế giúp
củng cố cơ sở pháp lý của chế tài xử lý và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế
của người nộp thuế. Đồng thời không bỏ sót hành vi trốn thuế của người nộp thuế,
đặc biệt là người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp khoán.
Bên cạnh đó, có thể cân nhắc bổ sung một điều khoản tại Điều 108 theo
hướng “Các trường hợp có gian lận, trốn thuế khác theo quy định của Chính phủ”.
Các trường hợp gian lận trốn thuế trong thực tế hiện nay diễn ra vô cùng đa dạng, tinh
vi và phức tạp, pháp luật không thể quy định hết được, do đó, việc bổ sung quy định
này nhằm đảm bảo có cơ sở pháp lý áp dụng khi có hành vi gian lận trốn thuế xảy ra.
Thứ hai, quy định rõ ràng về việc phân định giữa hành vi khai thiếu thuế và
trốn thuế.
Khi quy định về xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp hoặc tăng số tiền thuế, Luật Quản lý thuế nên có sự quy định rõ ràng về
việc phân định giữa hành vi khai thiếu thuế và trốn thuế. Điều 107 Luật quản lý
thuế quy định về xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải
nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn. Tuy nhiên, việc phân định giữa hành vi khai

64
thiếu thuế và trốn thuế chưa rõ ràng, cho nên cần thiết quy định rõ về hành vi khai
sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp, tăng số tiền thuế được hoàn. Mục tiêu phân
định rõ hành vi khai thiếu thuế và hành vi trốn thuế. Theo chúng tôi nên bổ sung
quy định phân biệt rõ hành vi khai thiếu thuế và trốn thuế theo hướng như sau:
“Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được
hoàn là việc khai sai căn cứ tính thuế hoặc số thuế được khấu trừ hoặc xác định sai
trường hợp ưu đãi thuế, miễn, giảm thuế nhưng người nộp thuế đã phản ánh đầy
đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế làm phát sinh nghĩa vụ thuế trên sổ kế toán,
hóa đơn, chứng từ (sử dụng hóa đơn, chứng từ hợp pháp).”
Giải pháp này có tác động tích cực là phân định rõ hành vi khai thiếu thuế và
hành vi gian lận, trốn thuế; minh bạch trong việc áp dụng chế tài xử phạt.
Thứ ba, bổ sung quy định trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm của tổ
chức, cá nhân trong thủ tục xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam để phù hợp
với Luật xử lý vi phạm hành chính.
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 104 Luật Quản lý thuế thì việc xử lý vi
phạm pháp luật thuế do người có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên, ngoài việc xử lý
đúng thẩm quyền thì việc chứng minh hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân là cần
thiết. Việc người có thẩm quyền chứng minh hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân
vi phạm để thể hiện rõ việc xử lý vi phạm minh bạch, đúng pháp luật. Mặt khác, tại
điểm đ, Khoản 1, Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính đã quy định Người có thẩm
quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính.
Do đó, để thống nhất, đồng bộ về nguyên tắc xử lý thì cần thiết bổ sung
nguyên tắc về người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh hành vi vi
phạm vào Luật quản lý thuế. Việc bổ sung nguyên tắc này bảo đảm tăng cường tính
minh bạch, đúng pháp luật khi xử phạt vi phạm pháp luật về lĩnh vực thuế.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung chức năng, thẩm quyền của cơ quan thuế để phù
hợp, với diễn biến phức tạp của vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực thuế trong thời
gian qua.
Điều 109 Luật quản lý thuế quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp

65
luật về thuế. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 45 Luật xử lý vi phạm hành chính số
15/2012/QH13 ngày 20/6/2012 thì thẩm quyền xử phạt của thủ trưởng cơ quan thuế
các cấp bị khống chế số tiền tuyệt đối. Quy định khống chế thẩm quyền xử phạt
theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính chỉ phù hợp với việc xử phạt hành
vi vi phạm thủ tục tục thuế, còn hành vi khai sai dẫn đến thiếu thuế, hành vi trốn
thuế thì mức phạt tiền được tính trên cơ sở tỷ lệ % (20% số tiền thuế thiếu đối với
hành vi khai thiếu thuế); theo số lần thuế trốn (từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn đối
với hành vi trốn thuế) nên các vụ xử phạt vượt thẩm quyền sẽ phải chuyển về Tổng
cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan ra quyết định xử phạt dẫn đến quá
tải, khó thể triển khai thực hiện được trong thực tiễn.
Do Luật xử lý vi phạm hành chính ban hành sau Luật quản lý thuế, cho nên
để đảm bảo tính pháp lý của quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
thuế, thì cần thiết sửa Điều 109 Luật Quản lý thuế, trong đó quy định rõ thẩm quyền
xử phạt đối với khai thiếu thuế, hành vi trốn thuế của thủ trưởng cơ quan thuế các
cấp, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan, Cục trưởng Cục điều tra chống buôn
lậu thực hiện theo quy định của Luật quản lý thuế (không khống chế thẩm quyền
theo số tiền tuyệt đối).
Mục tiêu giải quyết vấn đề để đảm bảo tính khả thi của quy định khi áp dụng
vào thực tiễn cần quy định rõ về hành vi khai sai dẫn đến thiếu thuế và hành vi trốn
thuế thì thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp có thẩm quyền xử phạt theo mức
phạt tiền quy định tại Luật quản lý thuế. Cụ thể như sau:
“Điều 109. Thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về trong quản lý thuế
1. Đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế; hóa đơn; phí, lệ phí; hành vi vi
phạm của các tổ chức cá nhân liên quan thì thẩm quyền xử phạt được thực hiện
theo quy định của Luật này và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
2. Đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp hoặc tăng số tiền
thuế được hoàn; hành vi trốn thuế; hành vi vi phạm về nộp phí, lệ phí thì thủ trưởng
cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục
kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan có thẩm quyền xử phạt theo mức
phạt tiền quy định tại Luật quản lý thuế.”

66
Việc sửa đổi trên có tác động tích cực là đảm bảo tính khả thi trong quá trình
triển khai thực hiện; Phù hợp với chủ trương cải cách thủ tục hành chính; thẩm
quyền xử lý các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế trực
tiếp quản lý phải được phân cấp gắn với quyền hạn của cơ quan đó; giảm được thủ
tục hành chính phát sinh qua nhiều cấp, tiết kiệm chi phí vận chuyển tài liệu; đảm
bảo thời hạn ra quyết định xử phạt theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành
chính gây ách tắc trong thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thuế ở địa phương; phân
định việc quy định về thẩm quyền xử phạt đối với một số hành vi vi phạm hành
chính thuế nhưng có tính chất đặc thù.
Bên cạnh đó, để thống nhất về mặt chức năng cho các cơ quan chức năng
trong quản lý nhà nước về thuế, đề nghị bổ sung một chương trong Luật Quản lý
thuế, gồm các nội dung:
- Nhiệm vụ của cơ quan thuế trong việc ngăn chặn vi phạm pháp luật thuế,
trốn thuế như: Tổ chức lực lượng, xây dựng cơ sở dữ liệu, áp dụng biện pháp nghiệp
vụ trong việc ngăn chặn vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế, thu thập thông tin trong
nước và ngoài nước liên quan để chủ động ngăn chặn vi phạm pháp luật thuế, trốn
thuế; phối hợp với các cơ quan hữu quan bảo vệ bí mật về người cung cấp thông tin
vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế của người nộp thuế; Thực hiện kiểm soát, kiểm tra,
thanh tra người nộp thuế; chủ trì, phối hợp với cơ quan nhà nước hữu quan thực hiện
các hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế.
- Thẩm quyền của cơ quan thuế trong việc áp dụng các biện pháp phòng,
chống và ngăn chặn vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế, bao gồm: Yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để phục vụ việc kiểm tra,
thanh tra, điều tra, xác minh hành vi vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế; Yêu cầu
người nộp thuế cung cấp hồ sơ, chứng từ để kiểm tra khi có căn cứ cho rằng người
nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế.
- Thẩm quyền của cơ quan thuế, công chức thuế trong việc thực hiện các
biện pháp phòng, chống và ngăn chặn vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế, gồm: Xử lý
vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; Trường hợp có căn

67
cứ cho rằng có hành vi vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế, trưởng đoàn kiểm tra,
trưởng đoàn thanh tra, chi cục trưởng, Cục trưởng có thẩm quyền niêm phong hàng
hóa, kho, hồ sơ, tài liệu, tạm giữ người, áp giải người vi phạm. Trình tự, thủ tục tạm
giữ người, áp giải người vi phạm theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính;
Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật về thuế đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự thì cơ quan thuế, công chức thuế có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi
tố bị can, thực hiện các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình
sự và pháp luật tổ chức điều tra hình sự; Cơ quan thuế công chức thuế khi tiến hành
các hoạt động được quy định tại Điều này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
quyết định của mình.
- Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong phòng,
chống và ngăn chặn vi phạm pháp luật thuế, trốn thuế. Về quyền bao gồm: Cung
cấp các thông tin, hồ sơ tài liệu và chứng cứ liên quan đến vụ việc vi phạm cho cơ
quan thuế; đề nghị cơ quan thuế trưng cầu giám định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình; Được bảo vệ bí mật, bảo vệ tính mạng và được hưởng các đãi ngộ
theo quy định của pháp luật khi cung cấp thông tin, tố giác, tố cáo về các hành vi vi
phạm pháp luật về thuế, trốn thuế. Về nghĩa vụ gồm: Chấp hành yêu cầu của cơ
quan thuế, công chức thuế và xuất trình giấy tờ, chứng từ, tài liệu theo yêu cầu, chỉ
dẫn, mở nơi nghi vấn cất giữ hồ sơ, tài liệu, hàng hóa để công chức thuế tiến hành
khám xét; Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến các giao dịch chuyển giao hàng
hóa, dịch vụ, thanh toán theo yêu cầu của cơ quan thuế để phục vụ hoạt động điều
tra, xác minh và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế, trốn thuế.
Thuế là lĩnh vực rất quan trọng đối với nền kinh tế và hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp. Các vi phạm về thuế cũng rất phức tạp, trong khi các cơ
quan ngoài cuộc rất khó nhận diện, phát hiện để xử lý kịp thời, chính xác các hành vi
gian lận, mà phải phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan thuế. Việc bổ sung quy định này
trong Luật Quản lý thuế sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chiến lược cải cách
hệ thống thuế, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế. Các quy định này
sẽ mang tính răn đe, ngăn chặn các hành vi trốn thuế, gian lận thuế của một bộ phận
tổ chức, cá nhân móc nối với nhau có tính tổ chức với thủ đoạn rất tinh vi.

68
Thứ năm, trao thêm quyền cho cơ quan thuế nhằm góp phần ngăn chặn kịp
thời, tăng tính răn đe và xử lý nghiêm các hành vi gian lận, trốn thuế.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều nước đã giao chức năng điều tra thuế
cho cơ quan quản lý thuế như điều tra tố tụng hình sự. Khi có dấu hiệu tội phạm
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan quản lý thuế căn cứ vào kết quả
điều tra để áp dụng các biện pháp truy thu tối đa số thuế đã trốn, đã gian lận,
đồng thời chuyển hồ sơ cho cơ quan chức năng để điều tra theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự. Một số nước tổ chức lực lượng cảnh sát thuế, toà án
thuế (như Mỹ, Nga...). Ở Mỹ, cục thuế ở các bang thành lập phòng/văn phòng
điều tra về thuế nhằm điều tra các hành vi vi phạm về thuế doanh thu, thuế nhà
thầu, thuế thu nhập, thuế tài sản, thuế thuốc lá, thuế nhiên liệu... Ở bang Ohio1,
nhân sự của Phòng Điều tra tội phạm về thuế bao gồm cảnh sát và các nhân viên
hỗ trợ và năm 2011, 2012, Phòng Điều tra đã giúp nguồn thu thuế của bang tăng
thêm lần lượt là 6,7 và 7,9 triệu đô la Mỹ nhờ hoạt động điều tra. Ở Malaysia2,
Phòng Điều tra tội phạm được thành lập thuộc Cục Thuế nội địa Malaysia, thực
hiện điều tra các trường hợp có nghi ngờ dựa trên bằng chứng chính xác và rõ
ràng về việc người nộp thuế đang cố tránh thuế hoặc đã thực hiện hành vi trốn
thuế. Malaysia cũng ban hành Khuôn khổ Điều tra về thuế làm căn cứ cho việc
điều tra thuế, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Ở Philippines3, Cơ quan điều tra
về thuế được thành lập ở Trung ương (thuộc Cục Thuế nội địa) và các địa
phương (thuộc các cơ quan thuế nội địa vùng). Canada4 thành lập Chương trình
Điều tra tội phạm thuộc Cơ quan thu thuế Canada để điều tra các vụ trốn thuế
lớn có một trong các đặc điểm sau: i) Có tính trọng yếu, và/hoặc các vụ trốn thuế
có yếu tố quốc tế; ii) Tố chức một cách tinh vi, có tổ chức nhằm lừa gạt chính
phủ; iii) Các trường hợp tội phạm tài chính có liên quan đến các có quan hành
pháp khác, bao gồm cả các vụ trốn thuế liên quan đến rửa tiền và tài trợ cho
khủng bố…[19]

1
http://www.tax.ohio.gov/Professional/CriminalInvestigationsDivision/AboutUs.aspx
2
http://lampiran1.hasil.gov.my/pdf/pdfam/RangkaKerjaPenyiasatanCukai_2.pdf
3
http://www.imf.org/external/np/seminars/eng/2012/asiatax/pdf/henares.pdf
4
https://www.canada.ca/en/revenue-agency/programs/about-canada-revenue-agency-
cra/compliance/criminal-investigations-program.html

69
Theo quy định của Luật Quản lý thuế, ở Việt Nam cơ quan quản lý thuế bao
gồm cả cơ quan thuế và cơ quan hải quan. Tuy nhiên, ngoài các cơ quan bảo vệ
pháp luật như an ninh, quốc phòng, thì cơ quan Hải quan cũng được giao chức năng
thực hiện công tác điều tra phục vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực phụ trách.
Trong khi đó, cơ quan thuế chưa được giao chức năng này.
Về bản chất, điều tra thuế là việc cơ quan thuế thực hiện quyền tố tụng về
thuế trong trường hợp người nộp thuế cố tình trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước
(trốn thuế, gian lận thuế) với mục đích trục lợi. Phạm vi điều tra là các hồ sơ nghi
vấn trốn thuế có tính chất liên hoàn, thông đồng (bao gồm cả tham nhũng). Thẩm
quyền điều tra là được khám xét không báo trước cho người nộp thuế và được hỏi
xét, lấy lời khai của người nộp thuế và đối tượng liên quan. Về phía người nộp thuế
được sử dụng luật sư hoặc người đại diện trong quá trình điều tra.
Theo chuyên gia cơ quan thuế Nhật Bản, các mối quan hệ chứng cứ trong tội
phạm thuế rất khác với tội phạm thông thường, do đó cần có kinh nghiệm và kiến
thức đặc biệt để thu thập chứng cứ và đánh giá giá trị của các chứng cứ. Mục đích
điều tra thuế là khởi tố các đối tượng cố tình trốn thuế. Cán bộ điều tra thuế có
quyền chất vấn, kiểm tra, thu giữ, đối với điều tra tự nguyện. Trường hợp điều tra
bắt buộc có quyền khám xét, tịch biên các sổ sách giấy tờ có liên quan để bảo vệ
những chứng cứ ban đầu và phối hợp với cơ quan công an, viện kiểm sát khởi tố
hình sự, nhờ đó đã có tác dụng răn đe các hình vi vi phạm.
Theo Điều 108 Luật quản lý thuế, có quy định về hành vi trốn thuế, gian lận
thuế (gồm 9 hành vi) bị phạt từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn (khác biệt với mức xử
phạt hành chính). Điều 200 Bộ luật hình sự quy định về tội trốn thuế (cũng bao gồm
9 hành vi tương tự như 9 hành vi quy định tại Luật quản lý thuế), nhưng tuỳ thuộc
mức độ vi phạm khác nhau thì sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế hoặc
Bộ luật hình sự. Việc điều tra làm rõ hành vi trốn thuế, gian lận thuế với các hành vi
khác của người nộp thuế; hoặc làm rõ hành vi trốn thuế nào bị xử lý theo quy định
của Luật quản lý thuế, hành vi trốn thuế nào bị xử lý theo quy định của Bộ luật
Hình sự, một cách nhanh chóng, chính xác nhất là cơ quan thuế, cán bộ thuế (vì là
cơ quan, cán bộ có nghiệp vụ thuế, vừa quản lý đối tượng, vừa nắm rõ chính sách,

70
chế độ quy định và có kỹ năng về quản lý tài chính, thuế, kế toán...). Theo đó, cần
nghiên cứu, bổ sung quy định về điều tra hành vi trốn thuế, tránh thuế, gian lận
thuế, tội trốn thuế trong Luật Quản lý thuế, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong tình
hình mới. Việc điều tra quy định bổ sung trong Luật Quản lý thuế, về bản chất là
công tác điều tra ban đầu, không chồng chéo với công tác điều tra chuyên sâu của
các cơ quan chức năng khác. Đồng thời, quy định này tốt cho toàn hệ thống quản lý
của Nhà nước; tăng cường sự phối, kết hợp với các ban, ngành có liên quan; tiết
kiệm nguồn nhân lực cho hệ thống điều tra hiện hành và đảm bảo tránh phiền hà
cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Thứ sáu, nâng cao mức phạt trốn thuế để đối tượng nộp thuế phải sợ việc bị
phát hiện và xử lý đối với hành vi trốn thuế.
Điều 108 Luật Quản lý thuế quy định người nộp thuế có hành vi trốn thuế, gian
lận thuế thì phải nộp đủ số tiền thuế theo quy định và bị phạt từ 1đến 3 lần số tiền thuế
trốn. Để nâng cao hiệu quả và tính chặt chẽ trong áp dụng chế tài xử phạt, cần thu hẹp
khung các mức phạt theo hướng: Người nộp thuế có hành vi trốn thuế, gian lận thuế thì
phải nộp đủ số tiền thuế theo quy định và bị phạt từ 2 đến 3 lần số tiền thuế trốn (thay
vì từ 1 đến 3 lần như hiện hành).
Thứ bảy, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chống gian lận
thuế, trốn thuế... của Bộ Tài chính với Bộ Công an, Bộ Công Thương khởi tố nhiều
vụ việc trốn thuế để có tính răn đe với những đối tượng vi phạm, kịp thời ngăn chặn
hành vi chiếm đoạt thuế, chuyển giá, trốn thuế.
Kiến nghị chỉnh sửa quy định tại Điều 109 theo hướng khi phát hiện hành vi
trốn thuế có dấu hiệu tội phạm thì cần có biện pháp xử lý, chuyển hồ sơ, thông báo
cho cơ quan có thẩm quyền ngay, tránh trường hợp để thời hạn dài mới xử lý dẫn đến
đối tượng hoặc người có hành vi vi phạm lợi dụng để tẩu tán tài sản, bỏ trốn... đặc biệt
các trường hợp hành vi vi phạm nghiêm trọng quy mô lớn, có tổ chức. Theo đó, có thể
bổ sung khoản 3 Điều 109 như sau:
“Trường hợp kiểm tra thuế, thanh tra thuế mà phát hiện hành vi trốn thuế có
dấu hiệu tội phạm theo quy định của pháp luật thì trong thời hạn mười ngày làm
việc, kể từ ngày phát hiện, cơ quan quản lý thuế chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm

71
quyền để điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Cơ quan quản lý
thuế có trách nhiệm phối hợp với cơ quan điều tra trong việc thực hiện điều tra tội
phạm về thuế theo quy định của pháp luật”.
Bên cạnh đó, xây dựng và hoàn thiện thêm các quy định về nguyên tắc tổ
chức hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế và nguyên tắc xử lý mối
quan hệ giữa các cơ quan quản lý thuế, quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế và các cơ
quan khác theo xu thế quản lý thuế hiện đại. Như các quy định về cách thức xử lý
mối quan hệ giữa các Cục hải quan với các cục thuế ở góc độ quản lý thuế trong
việc quản lý các đối tượng nộp thuế, đặc biệt về vấn đề cung cấp thông tin và xử lý
thông tin, có những hướng dẫn cụ thể về thủ tục chuyển giao hồ sơ, tài liệu, về mức
độ quan trọng và khẩn cấp của vụ việc phải tập trung điều tra, xác minh… giữa
Tổng Cục thuế và Tổng Cục Cảnh sát; xác định rõ cơ chế phối kết hợp giữa cơ quan
quản lý thuế và cơ quan công an, các cục thuế địa phương để xác định rõ đối tượng
nào nợ thuế đang chuẩn bị xuất cảnh để thông báo cho cơ quan quản lý xuất nhập
cảnh và ngược lại…. Làm như vậy cũng góp phần tăng tính khả thi của các quy
định trong Luật Quản lý thuế, tránh tình trạng luật có quy định nhưng những cơ
quan, tổ chức và cá nhân có liên qua gặp khó khăn, lúng túng trong quá trình thực
hiện.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi
trốn thuế ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, những hành vi trốn thuế, gian lận
thuế ngày càng diễn ra phức tạp, phạm vi rộng khắp, quy mô lớn với những thủ
đoạn tinh vi. Do đó, bên cạnh các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với
hành vi trốn thuế, tác giả xin kiến nghị một số giải pháp nhằm hạn chế các hành vi
trốn thuế và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế
ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay như sau:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về
thuế nói chung và pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam nói riêng
để nâng cao văn hóa tuân thủ của người nộp thuế. Thực hiện nâng cao ý thức tuân
thủ của người nộp thuế kết hợp với hỗ trợ người nộp thuế trong tuân thủ pháp luật

72
thuế được coi là nội dung tiền đề rất quan trọng trong công tác quản lý thuế nói
chung và phòng chống các hành vi trốn thuế nói riêng, đi sâu vào giải quyết các
nguyên nhân dẫn đến các hành vi trốn thuế xuất phát từ nhân tố ý thức của người
nộp thuế. Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế đóng một vai trò quan
trọng trong việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế, hạn
chế các hành vi trốn thuế thông qua việc giúp cho họ hiểu rõ các quyền hạn, nghĩa
vụ và trách nhiệm về thuế của mình theo quy định của pháp luật và hiểu rõ các quy
định trong các văn bản pháp luật thuế cũng như cách xác định nghĩa vụ thuế để có
thể thực hiện việc tuân thủ pháp luật thuế thuận lợi nhất. Đặc biệt, trong bối cảnh
khi BLHS 2015 đã bắt đầu có hiệu lực với quy định mới về việc pháp nhân thương
mại bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đặt các doanh nghiệp vào một môi trường pháp
lý rất nhiều thử thách mà trước đây chưa từng có. Chủ doanh nghiệp phải tự mình
hoặc cùng với đội ngũ tư vấn pháp lý nhận diện đầy đủ những quy phạm pháp luật
hình sự (mới) để phòng, tránh những rủi ro không mong muốn cho doanh nghiệp và
cho chính mình. Thậm chí cả những trường hợp chấp nhận rủi ro thì vẫn trong tầm
kiểm soát có thể dự liệu trước được. Nâng cao năng lực quản trị DN giúp các DN
hoạt động kinh doanh tốt có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế, chấp hành
tốt, những quy định của luật thuế cũng như không vi phạm việc gian lận và trốn
thuế, gây mất uy tín và thiệt hại cho DN. Từ đó, tạo điều kiện DN ngày càng phát
triển bền vững.
Thứ hai xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy, lực lượng quản lý thuế từng
bước hoàn thiện, công chức các cơ quan quản lý thuế (Tổng cục thuế, Tổng cục Hải
quan) được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực và phẩm chất để
hoàn thành nhiệm vụ, chính trị được giao. Năng lực hoạt động và phẩm chất, đạo
đức của công chức quản lý thuế là yếu tố có tác động không nhỏ đến ý thức chấp
hành pháp luật thuế của người nộp thuế và khả năng thực hiện các hành vi trốn thuế
của họ. Việc thường xuyên tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng
như phẩm chất đạo đức cho cán bộ, công chức tham gia công tác quản lý thuế sẽ
đảm bảo công tác quản lý thuế có hiệu quả, đồng thời phát huy kinh nghiệm cũng
như kiến thức của từng cán bộ.

73
Ngoài ra, cơ quan thuế các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra nội bộ và
có những biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các đơn vị, cá nhân dung túng bao
che, tiếp tay cho hành vi gian lận thuế nói chung và trốn thuế nói riêng. Nội dung
này tác động trực tiếp đến nhân tố cơ hội và áp lực nêu trên. Trong môi trường làm
việc mà công chức thuế mẫu mực, liêm chính, thủ tục công khai, rõ ràng thì ý thức
tuân thủ của người nộp thuế sẽ được đảm bảo, các hành vi gian lận sẽ khó có cơ hội
thực hiện và ngược lại. Đồng thời, các công chức quản lý thuế có năng lực thì việc
xác định các hành vi trốn thuế sẽ đảm bảo được thực hiện có hiệu quả hơn,
Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng tạo điều kiện thuận lợi
tối đa cho người nộp thuế trong việc thực hiện tuân thủ pháp luật thuế, cải tiến công
tác nghiệp vụ trong quản lý thuế, đặc biệt tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng công
nghệ thông tin hơn nữa giúp cơ quan thuế giám sát tối đa hoạt động sản xuất kinh
doanh của DN từ khi thành lập, hoạt động đến khi giải thể. Kinh nghiệm cho thấy,
việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa ngành Thuế đóng góp
tích cực và hiệu quả đến việc ngăn chặn hành vi trốn thuế.
Đồng thời, việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện của công chức thuế,
của người nộp thuế cần phải tiến hành thường xuyên và chặt chẽ để đảm bảo hiệu
quả công tác và hạn chế các tiêu cực, gian lận.
Thứ tư, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm chi tiêu NSNN bởi tiền trong NSNN
sử dụng trong chi tiêu của nhà nước chủ yếu có nguồn từ tiền thuế do người dân
đóng góp. Sử dụng đồng tiền thuế mà lãng phí, kém hiệu quả để tham nhũng thất
thoát thì ý thức tự giác tuân thủ pháp luật thuế, ý thức đấu tranh phòng, chống các
hành vi trốn thuế của người dân sẽ giảm.
Thứ năm, tăng cường nắm bắt thông tin về người nộp thuế: Cơ sở dữ liệu về
người nộp thuế là các thông tin rất quan trọng đối với công tác quản lý thuế. Hệ
thống thông tin về người nộp thuế giúp cho các cơ quan quản lý thuế nắm bắt được
tình hình thành lập, hoạt động và chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, từ
đó có các giải pháp cụ thể đối với từng trường hợp khác nhau, nâng cao hiệu quả
quản lý thuế, hạn chế các hành vi trốn thuế của người nộp thuế. Hệ thống thông tin

74
về người nộp thuế cũng là cơ sở để cơ quan thuế và cơ quan hải quan áp dụng có
hiệu quả kỹ thuật quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế, qua đó nâng
cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoá đơn, chứng từ mua vào
bán ra của các doanh nghiệp nhằm phát hiện kịp thời những sai phạm, hạn chế tối
đa thiệt hại do trốn thuế gây ra. Hiện nay, ngành thuế cũng áp dụng nhiều biện pháp
trong in, phát hành, bán và quyết toán hoá đơn, tang cường kiểm tra đối chiếu chéo
hoá đơn giá trị gia tăng, đưa vào triển khai việc áp dụng công nghệ mã vạch hai
chiều cho các hoá đơn giá trị gia tăng và xây dựng phần mềm hỗ trợ kê khai thuế
cho tất cả các doanh nghiệp. Điều này thể hiện sự cố gắng của ngành thuế để kiểm
soát các hoá đơn, chứng từ và đang đem lại hiệu quả cho công tác quản lý thuế đồng
thời làm giảm đáng kể tình trạng trốn thuế, gian lận thuế.
Thứ bảy, từ vụ việc của Công ty Nguyễn Kim, có thể thấy thay vì để rất nhiều
năm thì hàng năm, doanh nghiệp nên phối hợp với thanh tra thuế để nếu doanh
nghiệp có vấn đề gì thiếu sót, sai về thuế thì cơ quan thuế có thể chỉ ra và hướng dẫn
doanh nghiệp khắc phục. Trong trường hợp vi phạm và bị xử phạt thì sẽ chịu phạt với
số tiền nhỏ hơn, chứ không thể bị phạt với số tiền lớn một lúc. Đồng thời, Cơ quan
thuế cũng cần hợp tác, hướng dẫn doanh nghiệp. Ví dụ như, khi cơ quan thuế phát
hiện ra những dấu hiệu có tính sai phạm của doanh nghiệp thì cơ quan thuế nên có
cảnh báo với doanh nghiệp và lập đoàn thanh tra ngay tại thời điểm đó, hay định kỳ 6
tháng đến 1 năm thay vì để rất nhiều năm như thế. Như vậy sẽ giúp cho doanh nghiệp
nhìn nhận ra vấn đề của mình và có điều chỉnh kịp thời để tránh trường hợp bị phạt và
truy thu thuế nhiều như trường hợp của Nguyễn Kim.
Thứ tám, thay đổi thói quen không lấy hóa đơn của người tiêu dùng bằng
cách tạo ra các động cơ lấy hóa đơn của người tiêu dùng. Trước đây, để đội mũ bảo
hiểm trở thành thói quen không thể thiếu của người dân, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 32 về giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế và tiến tới giảm dần tai nạn
giao thông và ùn tắc giao thông, trong đó quy định người đi xe mô tô, xe máy khi
tham gia giao thông bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm chính thức có hiệu lực năm
2008. Kể từ đó đến nay, các địa phương trên toàn quốc nói chung đã triển khai thực

75
hiện một cách nghiêm túc. Việc đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng mô
tô, xe gắn máy hiện đã trở thành thói quen, sự tự giác của hầu hết người dân, góp
phần quan trọng trong việc giảm tỷ lệ chấn thương do tai nạn giao thông từ 21,2%
năm 2008 xuống còn 1% năm 2017. Do đó, để lấy hóa đơn có thể trở thành thói
quen của người dân, Chính phủ nên ban hành những quy định khuyến khích hoặc có
thể bắt buộc người dân phải lấy hóa đơn. Ví dụ như ở Trung quốc, các cơ quan có
thẩm quyền sẽ thực hiện kiểm tra đột xuất về hóa đơn đối với người tiêu dùng khi
họ mua hàng xong. Nếu không có hóa đơn thì sẽ dễ bị hiểu nhầm là trộm cắp tài sản
và họ phải có nghĩa vụ chứng minh rất rắc rối. Hoặc như ở Đài Loan thì để khuyến
khích người dân lấy hóa đơn, thì mỗi hóa đơn sẽ một mã số và cuối tháng sẽ được
quay thưởng như xổ số. Việt Nam có thể tham khảo một số quy định của các nước
này để thay đổi thói quen lấy hóa đơn của người tiêu dùng.
Thứ chín, quản lý chặt chi tiêu từ ngân sách cũng như chi tiêu tính vào chi
phí của DN, tránh tình trạng lãng phí, thất thoát ngân sách hoặc giảm thu thuế giá trị
gia tăng cũng như thuế thu nhập DN. Đẩy mạnh thực hiện việc chi tiêu, thanh toán
qua tài khoản ngân hàng hoặc kho bạc, tiến tới không sử dụng tiền mặt thanh toán
cho việc mua bán hàng hóa. Ban hành quy chế thanh toán giữa các DN qua ngân
hàng để ngân hàng và cơ quan thuế phối hợp với nhau trong việc kiểm soát nguồn
gốc các hoạt động thanh toán qua các hệ thống của ngân hàng.

76
Kết luận chương 3

Tại Chương 3, luận văn trọng tâm đi vào trình bày những định hướng cơ bản
trong hoàn thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam. Nhận thức
được những thay đổi của nền kinh tế xã hội cũng như yêu cầu đặt ra từ thực tiễn
thực hiện pháp luật, tác giả đưa ra những đề xuất của cá nhân nhằm nâng cao hiệu
quả xử lý đối với các hành vi trốn thuế nhằm phòng ngừa và răn đe các hành vi vi
phạm pháp luật về thuế. Có thể nhận thấy rằng, việc hoàn thiện hành lang pháp lý
luôn là vấn đề quan trọng đặt ra cho mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế,
đặc biệt là cơ sở pháp lý cho hoạt động chống gian lận thuế, trốn thuế.
Theo đó, các giải pháp này được chia thành hai nhóm, nhóm giải pháp hoàn
thiện pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế và nhóm giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam. Với các giải
pháp này, tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về xử lý đối với hành vi trốn thuế ở Việt Nam.

77
KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, khi
đó một yêu cầu đặt ra rất quan trọng là cần xây dựng một môi trường kinh doanh
trong sạch, lành mạnh. Để đạt được mục tiêu ấy, chúng ta phải thực hiện nhiều chiến
lược. Trong đó, giảm dần và hạn chế đến mức tối đa hiện tượng trốn thuế thuế là một
trong những việc cần làm trước tiên. Vì chỉ có làm được như vậy chúng ta mới tạo
được niềm tin của nhân dân và các nhà đầu tư nước ngoài vào chính sách, pháp luật
cũng như triển vọng phát triển của đất nước.
Trong quá trình phát hiện và xử lý các hành vi trốn thuế tại Việt nam, nhiều
biện pháp đã được các cơ quan chức năng tiến hành và pháp luật cũng có những quy
định khá cụ thể nhằm tạo cơ sở pháp lý cho những cơ quan này trong kiểm tra, kiểm
soát và xử lý. Dù vậy, thực tế rất đa dạng và ngày càng có nhiều cách thức, thủ đoạn
được các đối tượng vi phạm sử dụng để trốn thuế. Những hành vi trốn thuế mới
phát sinh gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cùng những thay đổi
của các mối quan hệ kinh tế đang được quốc tế hoá đi liền sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và công nghệ thông tin hiện đại. Vì thế, muốn đáp ứng yêu cầu quản lý
trong tình hình mới, hạn chế tối đa tình trạng trốn thuế chúng ta cần thực hiện một
cách đồng bộ rất nhiều biện pháp như tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa hệ
thống các quy định pháp luật về quản lý thuế nói chung và những hành vi trốn thuế
nói riêng. Bên cạnh đó, cũng cần chú trọng vào công tác nâng cao trình độ nghiệp
vụ và cơ sở vật chất, kỹ thuật, đặc biệt là đạo đức nghề nghiệp và tác phong cho các
cán bộ, công chức ngành thuế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là phải tuyên truyền,
phổ biến nhằm nâng cao hơn nữa ý thức, tính trung thực, tự giác của nguời nộp thuế
trong kê khai doanh số, kê khai giá tính thuế. Đó cũng chính là biện pháp hiệu quả
nhất để chống lại các hành vi trốn thuế, gian lận thuế dù ở bất cứ điều kiện, hoàn
cảnh nào.

78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án, các báo cáo.
1. Đặng Thị Bình An – CTHĐTV công ty tư vấn thuế C &A “Báo cáo rà soát
Luật quản lý thuế”, Tổng cục hải quan 2011;
2. Báo công an TP HCM ngày 24/11/2015 “Một cửa khẩu có 44 cán bộ hải
quan “nhúng chàm”;
3. Bộ Tài chính (2011), Tờ trình Chính phủ về dự án sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Quản lý thuế;
4. Bộ Tài chính “Báo cáo Tổng kết 10 năm việc thi hành Luật Quản lý thuế”
(Báo cáo số: 64/BC-BTC ngày 5/10/2018);
5. Vũ Văn Cương (2012), “Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
6. Hương Ly, “Phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực thuế: Nhiều khó khăn,
thách thức”, Báo Hà Nội mới điện tử, Thứ bảy ngày 30/05/2015;
7. Sơn Nhung, “Tội phạm về thuế diễn biến phức tạp & nghiêm trọng” Báo
người lao động ngày 06/06/2013;
8. Phạm Thị Phương (2012), “Trốn thuế, gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp
ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và phương hướng hoàn thiện” Khoá luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
9. Trà Phương, “Kêu cứu Thủ tướng vì bị truy thu hàng chục tỷ”; Báo Pháp luật
TPHCM điện tử;
10. Văn Tân (2006), “Bất cập trong xử lý vi phạm hành chính ở lĩnh vực thuế”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số 11).
11. Thái Nguyên Toàn (2013), Bàn về “tội trốn thuế” trong Bộ luật hình sự Việt
Nam, tạp chí Kiểm sát số 23;
12. Tổng cục Thuế (2012), Báo cáo công tác thanh tra, kiểm tra thuế, chống chuyển
giá, thu hồi nợ đọng thuế năm 2011 và giải pháp thực hiện năm 2012;
13. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Hà
Nội, 2018;
14. Anh Tùng (2013), “Hà Nội đấu tranh với tội phạm thuế”, Báo tintuc.vn
ngày 08/08/2013;
15. Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế
thị trường, Hà Nội;
16. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng;

79
II. Website
17. Báo ANTĐ (2015) “Phá 8 công ty “ma” giao dịch hóa đơn lên đến 140 tỷ
đồng”, nguồn: http://anninhthudo.vn/an-ninh-doi-song/pha-8-cong-ty-ma-giao-dich-
hoadon-len-den-140-ty-dong/611023.antd, ngày 19/5/2015;
18. Báo tintuc.vn “Phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thuế” (2015), Nguồn:
http://baotintuc.vn/phap-luat/phong-chong-toi-pham-trong-linhvuc-thue-bai-2-
20150613093300772.
19. Chính Phủ, Bộ Tài chính (2018), Bộ hồ sơ dự án Luật quản lý thuế sửa đổi,
Nguồn:http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_
Detail.aspx?ItemID=1537&TabIndex=2&TaiLieuID=3266;
20. Bộ Tư pháp, “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân”
Ngày 02/10/ 2017, Nguồn: http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?
ItemID=2219
21. Nhật Minh, “Đã thực hiện hơn 90.000 cuộc thanh tra, kiểm tra thuế”,
nguồn: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thue-voi-cuoc-song/2017-12-10/da-
thuc-hien-hon-90000-cuoc-thanh-tra-kiem-tra-thue-51358.aspx, ngày 10/12/2017
22. Phúc Nguyên, “Toàn ngành Thuế thực hiện 34.757 cuộc thanh tra, kiểm
tra”, Nguồn: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thue-voi-cuoc-song/2018-07-
04/toan-nganh-thue-thuc-hien-34757-cuoc-thanh-tra-kiem-tra-59439.aspx, Thời báo
tài chính online ngày 04/07/2018.
23. Báo ANTD.VN ngày 04/08/2017, “Tội phạm gian lận thuế ngày càng phức
tạp” Nguồn: https://anninhthudo.vn/kinh-doanh/toi-pham-gian-lan-thue-ngay-cang-
phuc-tap/736869.antd,
24. Hiểu Nguyệt, “Phạm Băng Băng lĩnh án phạt 130 triệu USD vì trốn thuế” Nguồn:
https://news.zing.vn/pham-bang-bang-linh-an-phat-130-trieu-usd-vi-tron-thue-
post881544.html, Ngày 03/10/2018.
25. Hàn Tín “Bộ Tài chính tiếp tục đề xuất được điều tra, khởi tố liên quan đến
hành vi trốn thuế” https://baomoi.com/bo-tai-chinh-tiep-tuc-de-xuat-duoc-dieu-tra-
khoi-to-lien-quan-den-hanh-vi-tron-thue/c/25603291.epi ; ngày 10/04/2018

26. Nguyễn Đức,“70 cán bộ hải quan, thuế dính chàm ra sao?” 26/05/2016,
Nguồn:http://cafef.vn/70-can-bo-hai-quan-thue-dinh-cham-ra-sao- 160526085218486.chn;
27. Thu Hằng, “92% doanh nghiệp được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm pháp
luật thuế”, Báo Hải quan điện tử, ngày 05/11/2013, Nguồn: http://cafef.vn/doanh-
nghiep/92-doanh-nghiep-duoc-kiem-tra-co-dau-hieu-vi-pham-phap-luat-thue-
201311051006399178.chn;
28. Đại Việt – Công Quang “Cục Thuế TPHCM: Nguyễn Kim kê khai sai chứ
không trốn thuế” Báo dân trí điện tử, https://dantri.com.vn/kinh-doanh/cuc-thue-
tphcm-nguyen-kim-ke-khai-sai-chu-khong-tron-thue-20180710154108057.htm

80
III. Văn bản quy phạm pháp luật
29. Quốc hội, Các Luật thuế ban hành từ 2008 đến nay;
30. Quốc hội (2006) Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2006;
31. Quốc hội (2012) Luật số 21/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế;
32. Quốc hội (2016) Luật số 106/2016/QH13 ngày 06 tháng 4 năm 2016 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu
thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế;
33. Quốc hội Bộ luật Hình sự (2015), sửa đổi năm 2017;
34. Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2015;
35. Bộ luật Hình sự năm 1999; Bộ Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009;
36. Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20/06/2012;
37. Nghị định 129/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 quy định về xử
phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
38. Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan;
39. Nghị định số 45/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều
Nghị định số 127/2013/NĐ-CP;
40. Quyết định số 732/QĐ – TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính Phủ về
việc phê duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011- 2020;
41. Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15 tháng 11 năm 2013 của Bộ Tài
chính quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế.

81

You might also like