Professional Documents
Culture Documents
----------
TIỂU LUẬN
Chủ đề: Hiện tượng sử dụng từ chêm xen tiếng Anh
trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt của giới trẻ
Hà Nội, 2023
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bài tiểu luận này, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám
hiệu, các khoa, phòng và quý thầy, cô của trường Đại học Kinh doanh và Công
nghệ Hà Nội, những người đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá
trình học tập. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Lê Thị Hồng Dung -
người đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn em thực hiện bài tiểu luận này bằng tất
cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc.
Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này, do hiểu biết còn nhiều hạn chế
nên bài làm khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những lời góp
ý của quý thầy cô để bài tiểu luận ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của cô Lê Thị Hồng Dung. Các nội dung nghiên cứu trong đề
tài “ Hiện tượng sử dụng từ chêm xem tiếng Anh trong hoạt động giao tiếp tiếng
Việt của giới trẻ ” của em là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào
trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét,
đánh giá được cá nhân thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ nguồn gốc. Nếu
phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung
bài tiểu luận của mình.
Trong thời đại toàn cầu hóa, việc sử dụng tiếng Anh hay các từ mượn trong
ngôn ngữ nước ngoài đang dần trở nên thông dụng và được nhiều người sử dụng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, ngày nay các
phương tiện truyền thông đại chúng đã và đang phát triển với tốc độ cao, đặc biệt
là các chương trình truyền hình, báo chí, phát thanh... Việc sử dụng từ ngữ tiếng
Anh trong các chương trình này đã ngày càng trở nên phổ biến hơn, đặc biệt là các
chương trình dành cho giới trẻ. Kinh tế phát triển, đời sống văn hoá, xã hội nâng
cao lên rất nhiều, giao lưu văn hoá và đối thoại văn hoá giữa các dân tộc mở rộng
chưa từng thấy. Cũng từ đó ngôn ngữ trong giao tiếp sinh viên đã nâng cao hơn,
ngôn ngữ nói cũng như viết được bổ sung thêm rất nhiều từ mới, nghĩa mới, ý mới.
Có điều rất được chúng ta quan tâm là từ ngữ tiếng Anh “nhập khẩu” vào Việt
Nam một cách ồ ạt, dẫn đến việc ngôn ngữ chúng ta, đặc biệt là của cộng đồng
sinh viên trong môi trường tiếp xúc hằng ngày với người nước ngoài. Điều đó làm
cho những từ ngữ tiếng Anh nhanh chóng chêm xen vào trong việc sử dụng ngôn
từ trong giao tiếp, kể cả trong giao tiếp giữa người Việt Nam với nhau. Hiện tượng
chêm xen tiếng Anh vào trong lời nói tiếng Việt của sinh viên hiện nay là kết quả
của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa – ngôn ngữ trong thời đại toàn cầu hóa. Hiện
tượng này có thể được hình dung như một quá trình liên tục, từ chuyển mã, trộn
mã đến vay mượn. Nhưng đặc trưng nổi bật nhất trong sự lựa chọn ngôn ngữ của
sinh viên vẫn là hiện tượng trộn mã.
Xuất phát từ thực tiễn này, dẫn đến lý do em chọn đề tài này làm đề tài
nghiên cứu.
Đưa ra một con số thống kê chi tiết nhất về hiện tượng thường xuyên sử
dụng việc chêm xen ngôn ngữ vào giao tiếp. Để sinh viên nhận thức được việc sử
dụng lượng từ ngữ nước ngoài chêm xen vào văn hóa dân tộc một cách hợp lí. Và
xem rằng liệu những yếu tố như ngữ vực, phạm vi giao tiếp, đối tượng giao tiếp
trong những tình huống giao tiếp cụ thể, rồi những vấn đềvề thanh điệu, những
tương quan đặc trưng xã hội và ngôn điệu của người nói… có tham gia vào việc
hình thành thái độ và lựa chọn ngôn ngữ hay không? Đánh giá xem việc chêm xem
như thế có tạo cho ngôn ngữ truyền thống của chúng ta trở nên phong phú, đa dạng
và thú vị hơn không.
Và việc lạm dụng quá nhiều có mất đi bản chất của ngôn ngữ dân tộc và làm
xấu ngôn ngữ dân tộc hay không. Để đề ra giải pháp và đánh giá hiện tượng chêm
xen tiếng Anh vào tiếng Việt.
4. Phương pháp điền dã
Sử dụng những phương pháp nghiên cứu như tạo một cuộc khảo sát online
để mọi người có thể đưa ra ý kiến, phân tích với hiện tượng chêm xen và phỏng
vấn qua những cuộc trò chuyện ghi âm trên tin nhắn, phỏng vấn trực tiếp. Hay
chúng ta có thể tìm thấy các tư liệu qua những video trên facebook, youtube,.. hay
những bình luận trên các trang mạng xã hội, thậm chí là tin nhắn trò chuyện giữa
hai người được chêm xen tiếng anh vào giao tiếp.
5. Ý nghĩa đề tài
Tích cực góp phần làm phong phú thêm cho kho từ vựng của ngôn ngữ dân
tộc đặc biệt là những thuật ngữ mới trong các lĩnh vực khoa học kĩ thuật làm đa
dạng hơn những hình thức giao tiếp giúp chúng ta có điều kiện tiếp cận nhanh
những nền văn hóa mới và văn minh phát triển hơn.
6. Bố cục đề tài
Chương 2: Nghiên cứu hiện tượng chêm xen tiếng Anh trong giao tiếp tiếng
Việt theo phương diên từ, cụm từ và câu.
Chương 3: Phân tích bảng khảo sát của hiện tượng chêm xen tiếng Anh
trong giao tiếp tiếng Việt.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống các đơn vị và quy tắc kết hợp để tạo thành lời nói
trong hoạt động giao tiếp như: âm vị, hình vị, từ, cụm từ cố định, câu.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người ở dạng tiềm tàng, được
phản ánh trong ý thức của cộng đồng và trừu tượng khỏi tư tưởng, tình cảm cụ thể
của con người.
Ngôn ngữ có tính chất xã hội, cộng đồng. Lời nói có tính chất cá nhân. Ngôn
ngữ và lời nói thống nhất nhưng không đồng nhất. Nghiên cứu ngôn ngữ xuất phát
từ lời nói, ngôn ngữ được hiện thực hóa trong lời nói.
Khái niệm: Ngôn ngữ là một hệ thống những đơn vị vật chất phục vụ cho
việc giao tiếp của con người và được phản ánh trong ý thức tập thể, độc lập với ý
tưởng, tình cảm và nguyện vọng cụ thể của con người, trừu tượng hóa khỏi những
tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng đó.
Lời nói: là sản phẩm riêng của mỗi cá nhân tạo ra trong hoạt động giao tiếp,
có nội dung cụ thể.
Ngôn ngữ: là phương tiện giao tiếp ở dạng tiềm tàng trừu tượng khỏi bất kì
vận dụng nào trong hoạt động ngôn ngữ. Ngôn ngữ mang tính khái quát, chung cho
toàn xã hội, là cơ sở tạo ra lời nói và tiếp nhận lời nói.
Ngôn ngữ là tài sản chung của một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc.
Ngôn ngữ là sản phẩm chung của XH nhưng tiềm tàng trong bộ óc mỗi người ở
mức độ khác nhau (đó là tính khái quát của ngôn ngữ). Mỗi người sử dụng ngôn
ngữ trong hoạt động giao tiếp khác nhau tạo ra lời nói (tính cụ thể, riêng biệt).
Thái độ ngôn ngữ được định nghĩa như là tình cảm của người bản ngữ đối
với tiếng mẹ đẻ của họ và đối với các ngôn ngữ khác. Cho đến nay, ngôn ngữ học
xã hội thường nhắc đến ba loại thái độ cơ bản, đó là thái độ trung thành ngôn ngữ,
thái độ kì thị ngôn ngữ và thái độ tự ti ngôn ngữ.
Tiếp xúc ngôn ngữ là sự tiếp giao nhau giữa các ngôn ngữ do những hoàn
cảnh cận kề nhau về mặt địa lí, tương liên về mặt lịch sử xã hội dẫn đến nhu cầu
của các cộng đồng người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với
nhau.
Xét về bản chất, tiếp xúc ngôn ngữ được bắt đầu từ việc học thêm một ngôn
ngữ khác, như vậy khi học ngôn ngữ khác thì nội bộ trong một cá nhân đã bắt đầu
hình thành quá trình tiếp xúc giữa hai hoặc hơn hai ngôn ngữ. Tuy nhiên, việc học
một ngôn ngữ khác này mới chỉ là điều kiện cần để tiếp xúc ngôn ngữ diễn ra, do
đó, để tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra còn cần phải được mở rộng ra toàn xã hội - đó
chính là “sự khuếch tán ngôn ngữ”.
Mức độ tiếp xúc càng rộng rãi, mạnh mẽ bao nhiêu thì kết quả tiếp xúc càng
sâu sắc bấy nhiêu trên lĩnh vực ngôn ngữ: đó là việc hình thành các vốn từ vay
mượn, từ ngoại lai, các hiện tượng hình thái học mới, các kết cấu cú pháp mới, các
mô hình liên kết văn bản mới.
Vay mượn từ ngữ là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ, là một trong
những phương thức quan trọng để bổ sung vốn từ ngữ của một ngôn ngữ, là hiện
tượng của ngôn ngữ học xã hội và hiện tượng ngôn ngữ - văn hóa.
Nói đến vay mượn từ ngữ thì không thể không nhắc đến tiếp xúc ngôn ngữ.
Đây là hiện tương ngôn ngữ phổ biến trong đời sống xã hội giao tiếp của con người
và tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra khi có hiện tượng song ngữ/đa ngữ dưới tác động của
các nhân tố ngôn ngữ - xã hội. Vay mượn là khuynh hướng tất yếu trong buổi ban
đầu của bối cảnh tiếp xúc ngôn ngữ. Tiến trình vay mượn thường mang tính “một
chiều” và khó xảy ra trường hợp hoàn trả giữa ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ
cho. Trong tiếng Anh có một số thuật ngữ được dùng như sau: “Loan “từ mượn”,
“từ ngoại lai”, “loan word” từ ngoại lai", “loan translation”"phỏng dịch”, “loan
blend” “từ hỗn hợp ngoại lai”, “borrowed/borrowing word” “từ mượn”; “từ vay
mượn”, “hybrid word” “từ hỗn chúng”, “alien word” và “foreign word” “từ nước
ngoài”.
b/ Vay mượn từ vựng với các hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ
Tiếp xúc ngôn ngữ có thể xảy ra bằng các con đường khác nhau, trực tiếp và
gián tiếp, được chia thành 3 kiểu tiếp xúc. Đó là tiếp xúc do “ảnh hưởng của khẩu
ngữ”, bởi có sự tiếp xúc giữa các cộng đồng nói các ngôn ngữ khác nhau; tiếp xúc
do “ảnh hưởng của sách vở”; tiếp xúc do “ảnh hưởng của cả khẩu ngữ và sách vở”.
Dịch thuật cũng được cho là một trong những kiểu tiếp xúc do ảnh hưởng sách vở,
và bắt buộc các ngôn ngữ đó phải có chữ viết. Hiện tượng lai ghép ngôn ngữ: Sự
nghiệp đổi mới và hội nhập sâu rộng quốc tế đã tạo cho Việt Nam nhiều thời cơ và
bên cạnh đó tạo ra nhiều thử thách. Đối với tiếng Việt thì đó là nguy cơ bị hòa tan,
trộn lẫn với những ngôn ngữ quốc tế và ngôn ngữ phá cách.
Chương 1 của đề tài em đã tổng hợp, phân tích và đánh giá rõ về các công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài và phân tích các khái
niệm cơ bản cốt lõi của ngôn ngữ để có thể hiêu biết hơn về khái niệm cốt lõi của
ngôn ngữ. Tiếp theo, để hiểu rõ hơn chúng ta cùng đi phân tích nghiên cứu về cấu
trúc, từ ngữ lựa chọn và ngữ nghĩa.
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG CHÊM XEN TIẾNG ANH
TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT THEO PHƯƠNG DIỆN TỪ, CỤM TỪ
VÀ CÂU.
Sử dụng dạng câu hỗn tạp giữa tiếng Việt và tiếng Anh: Dạng câu hỗn tạp là
hiện tượng ngôn ngữ đặc thù, được nảy sinh do ảnh hưởng lẫn nhau của ngôn ngữ,
là một dạng biến thể lai căng khi tiếng Việt chịu ảnh hưởng của tiếng Anh.
2.1.4 Tiếng bồi
Có bao giờ bạn từng gặp trường hợp: một người nói tiếng Anh nghe có vẻ
rất lưu loát và thành thạo, nhưng nếu nghe kĩ thì thứ tiếng Anh mà họ đang nói là
một “sự lắp ghép” giữa từng từ vựng tiếng Anh riêng lẻ với cấu trúc ngữ pháp
tiếng Việt. Và nó tạo nên một thứ ngôn ngữ mà thường được gọi là “tiếng bồi”.
Tiếng bồi trong tiếng Anh (Pidgin English) là khái niệm dùng để chỉ cách
nói tiếng Anh sai cách về cả mặt từ ngữ, cấu trúc câu lẫn phát âm nhưng người
nghe vẫn có thể hiểu được ý của người nói. Thường là do thói quen áp dụng cách
nói tiếng Việt vào tiếng Anh và thói quen dịch “word by word”.
Có một ví dụ vui điển hình là từ “miễn bàn” được dịch “word by word”
thành “no table” thay vì “no comment”. Hoặc lấy ví dụ với câu nói “tôi muốn bạn
đi ra ngoài” để biểu thị sự giận dữ theo nghĩa tiếng Việt. Trong tiếng Anh câu nói
trên được dịch theo đúng ngữ pháp là “I ask you to leave”. Nhưng nếu dùng tiếng
Anh bồi thì câu này sẽ được dịch là: “I love toilet you go out”.
Thực ra “tiếng bồi” không phải chỉ xuất hiện ở Việt Nam, mà ở bất kì quốc
gia nào, khi mà ngữ pháp, cách dùng từ và cách diễn đạt của ngôn ngữ đó khác với
tiếng Anh thì đều dễ dàng xảy ra tình trạng người học tiếng Anh bị lẫn lộn giữa
cách sử dụng tiếng Anh và cách sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.
Sự thay thế, loại bỏ từ ngữ để thay thế bằng các từ ngữ tiếng Anh có nghĩa
tương đương ngày càng được giới trẻ ưa dùng bởi tính cập nhật, sự ngắn gọn và
tiện ích mà chúng mang lại.
Các từ ngữ lóng mượn từ tiếng Anh chủ yếu ở các từ loại như: danh từ/ cụm
danh từ, động từ/ cụm động từ, tính từ/cụm tính từ. Chẳng hạn: link, email, camera,
order, ship, hot, cute, comment, I love you, action,…
Ví dụ:
Các bạn sinh viên sẽ action thế nào khi rơi vào hoàn cảnh này?
Cho tớ xin cái link.
I love you. Chiu chiu.
Ví dụ:
Trong tiếng lóng của sinh viên, style có các nét nghĩa ví dụ như:
Phạm vi nghiên cứu dựa trên các hình thức thể hiện của ngôn ngữ giới trẻ
trong tiếng Việt đó là việc chêm xen tiếng Anh, tiếng lóng giới trẻ và kết cấu mới
lạ về ngôn ngữ của giới trẻ.
Đối tượng giao tiếp là những người tham gia giao tiếp, đảm bảo cho cuộc
giao tiếp có thể diễn ra, bao gồm người phát và người nhận, với sự luân phiên lần
lượt lời cho nhau.
Trong ngữ liệu ngôn ngữ giới trẻ ở báo mạng điện tử, nhân vật giao
tiếp,quan hệ giao tiếp được xác định qua hệ thống nhân xưng từ. Kiểu giao tiếp
phổ biến là người nói ẩn danh (người viết) nói với giới trẻ, thể hiện qua các nhân
xưng từ như: mình, chúng mình, chúng ta, các bạn, tớ, chúng tớ, bạn, các bạn, ấy,
đằng ấy.
Qua bài khảo sát cho chúng ta thấy rằng, với 66,7% ý kiến từ sinh viên sử dụng từ
ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp tiếng Việt với bạn bè cùng trang lứa và đối
với ông bà cha mẹ chỉ có 3,3% , đối với anh chị và các em nhỏ lần lượt là là 20%
và 10%. Điều này phản ánh phần nào đó thái độ của sinh viên trong sử dụng ngôn
ngữ: thân mật, suồng sã với bạn bè, tôn trọng với người đối thoại lớn tuổi như ông,
bà, cha, mẹ… và có ý thức trong việc biết chọn lựa đối tượng giao tiếp.
Hoàn cảnh giao tiếp hẹp: chính là phạm vi giao tiếp cụ thể của biến thể
ngôn ngữ giới trẻ.
Ngôn ngữ giới trẻ được sử dụng chủ yếu ở mạng xã hội, nó là phương tiện
giao tiếp được ưa thích của cộng đồng mạng vì tính tự do, ít ràng buộc.
Kết quả của bảng khảo sát trên đã cho thấy, sinh viên có ý thức sử dụng
chêm xen tiếng Anh ở đâu cho phù hợp. Trong đó, hầu hết sinh viên đều sử dụng
ở những nơi bản thân cho rằng đó là một nơi thích hợp để dùng chêm xen tiếng
Anh(có thể là quán án,vỉa hè,v...v) Một số ít sinh viên sử dụng ở gia đình và nhà
trường.
Qua bảng trên, chúng ta thấy, chiếm số lượng sinh viên đông nhất vẫn là
thỉnh thoảng sử dụng (73,3%);số sinh viên thường xuyên sử dụng chiếm tỉ lệ thấp
hơn (16,7%); và cuối cùng là những sinh viên khẳng định chưa khi nào sử dụng
chiếm tỉ lệ thấp (10%). Những ý kiến trên cho thấy được việc chêm xen tiếng Anh
trong giao tiếp khá là phổ biến với sinh viên, phần lớn mọi người đều sử dụng
chêm xen ngôn ngữ.
3.4 Nguyên nhân
Đây là bảng khảo sát về những nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng chêm xen
tiếng Anh. Trong đó, nguyên nhân do rèn luyện tiếng Anh và do thói quen chiếm tỉ
lệ cao hơn với 43,3% và 30% so với các nguyên nhân khác vì môn học Tiếng
Anh đã trở thành một môn học phổ biến và không thể thiếu trong hệ thống giáo
dục của nước ta. Chiếm phần nhỏ hơn là các nguyên nhân do giảm nhẹ ý thô tục,
nguyên nhân do từ tiếng Anh ngắn gọn hơn tiếng Việt và do dùng chêm xen tiếng
Anh để thể hiện cá tính.