You are on page 1of 18

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ


MÔN: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỀ BÀI SỐ: 07
“Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.”

Họ và tên: Hoàng Thị Tú Oanh


Lớp: N03 – TL3
Nhóm: 01
MSSV: 432603

Hà Nội, 2021
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2

NỘI DUNG .......................................................................................................... 3

I. KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG TTDS.................... 3

1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS ............................ 3
2. Đặc điểm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS ............................. 3
3. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS ....................... 4
II. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTDS VIỆT NAM VỀ NGUYÊN TẮC BẢO

ĐẢM TRANH TỤNG. .............................................................................................. 5

1. Những quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người
tham gia tố tụng.............................................................................................. 5
2. Quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng trong
TTDS. ............................................................................................................. 9
3. Các quy định về thủ tục liên quan đến nguyên tắc bảo đảm quyền tranh
tụng trong TTDS. ......................................................................................... 11
III. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLTTDS VIỆT NAM VỀ NGUYÊN

TẮC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG TTDS. ......................................................... 14

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 16

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 17

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

MỞ ĐẦU

Trong xu hướng phát triển và hội nhập, vấn đề an toàn pháp lý, các
nguyên tắc bảo đảm tố tụng trong Tố tụng Dân sự (TTDS) đặt ra với tất cả hệ
thống pháp luật các nước. Mỗi quốc gia lựa chọn cho mình một hướng đi riêng
phù hợp với văn hóa đặc thù của dân tộc và những cam kết quốc tế mà quốc gia
đó tham gia. Lần đầu tiên, Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong Tố tụng. Đây là nguyên tắc mang tính đột phá nhằm bảo vệ
quyền con người trong hoạt động tư pháp. Vì vậy, BLTTDS năm 2015 với tư
cách là ngành luật hình thức có nhiệm vụ thể chế hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013 bảo đảm tranh tụng trong Tố tụng là một nguyên tắc của TTDS. Tuy
nhiên, tranh tụng và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS là gì? Nội
dung, ý nghĩa của nguyên tắc này trong điều kiện cải cách tư pháp được thể hiện
ra sao? Việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong thực tiễn Việt Nam
như thế nào? Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý luận, pháp luật
thực định và thực trạng về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS trong
mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hóa, tâm lý dân tộc và
thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới sẽ giúp các nhà làm luật có thể rút ra
những giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật TTDS. Từ đó góp phần
bảo đảm tranh tụng trong TTDS, nâng cao chất lượng xét xử, hạn chế mức thấp
nhất tỷ lệ các quyết định, bản án dân sự bị hủy, sửa, góp phần đáp ứng yêu cầu
của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế. Với các lý do trên đây, em xin
chọn đề số 07: “Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS” để làm đề tài
nghiên cứu cho bài tập học kì.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 2


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

NỘI DUNG

I.Khái quát về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
1.Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
Trong khoa học pháp lý, “nguyên tắc của TTDS được xác định là những tư
tưởng chỉ đạo, biểu thị những đặc trưng của TTDS, được quy định trong pháp luật
làm nền tảng cho các hoạt động TTDS”1. Hay nói cách khác, nguyên tắc của TTDS
là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo, định hướng chi phối tất cả các giai
đoạn hoặc một số giai đoạn nhất định của quá trình TTDS. Những nguyên tắc này
được thể hiện dưới hình thức các quy phạm pháp luật TTDS và được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật TTDS. Ở nước ta, tranh tụng là một trong những nội
dung quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp hiện nay và đã được xác
định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của Bộ chính trị và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020; khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “TAND có
nhiệm vụ bảo vệ công lý…”. Để đạt được mục tiêu bảo vệ công lý của TAND, việc
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một trong những công cụ, biện pháp
bảo đảm xét xử công bằng. Từ đó, tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc hiến
định được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được đảm bảo”2.
Như vậy, Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong TTDS, thể hiện quan điểm có tính định hướng của Nhà nước trong việc
xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm được các điều kiện cần thiết
làm cho các chủ thể tranh tụng thực hiện được quyền tranh tụng trong suốt quá
trình TTDS, bao gồm việc đưa ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp
lý để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của đương sự trước Tòa án. Tòa án căn
cứ vào kết quả tranh tụng để quyết định về việc giải quyết vụ án dân sự.
2.Đặc điểm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
- Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử là nguyên tắc
gắn liền với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Xét xử là đặc điểm quan
trọng nhất của Tòa án. Tòa án chính là cơ quan cuối cùng giải quyết các xung đột,
mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trên mọi mặt của đời sống xã hội, đó là các vụ án
hình sự, các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Phán

1
Nguyễn Công Bình (1998), Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự trong
TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 12.
2
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 3


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

quyết cuối cùng của Tòa án là các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Trong
quá trình giải quyết các tranh chấp tại Tòa án, các chủ thể tham gia tố tụng đều
được sử dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau trong việc thu thập, kiểm tra
và đánh giá chứng cứ, phân tích và đưa ra các kết luận đối với những việc cụ thể.
Nhiệm vụ của Tòa án là “xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng, căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản
án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình
phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân
thân.
- Thứ hai, các chủ thể trong tranh tụng bình đẳng với nhau. Một trong những
cơ sở lý luận quan trọng để hình thành nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử
chính là nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Do
vậy, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử quy định các chủ thể tham gia
tranh tụng đều được quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, cung cấp tài
liệu, chứng cứ, trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng
cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác.
- Thứ ba, trong nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử, Tòa án đóng vao
trò là trọng tài, trung gian giám sát việc tranh tụng giữa các bên chứ không tham
gia trực tiếp vào quá trình tranh tụng. Tòa án tạo điều kiện cho các bên được quyền
giao nộp, cung cấp các tài liệu chứng cứ và được tiếp cận với chứng cứ của phía
bên kia, ghi nhận ý kiến của các bên trong một số trường hợp. Tòa án có thể đưa ra
định hướng để các bên có thể thỏa thuận với nhau. Trên cơ sở tài liệu, chứng cứ do
các bên cung cấp, kết quả tranh luận giữa các bên, Tòa án đưa ra phán quyết cuối
cùng bảo đảm khách quan, đúng quy định của pháp luật.
3.Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, các chủ thể tranh tụng có quyền tranh tụng trong suốt quá trình Tòa
án giải quyết VADS kể từ khi đương sự có yêu cầu và Tòa án thụ lý cho đến khi xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Theo đó, các bên đương sự có quyền đưa
ra yêu cầu; có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh đẻ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; có
quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp
cần thiết để bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có
nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được có quyền đề nghị Tòa án
xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện
được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ
HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 4
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu
giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ, cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu
tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản; có
quyền được biết, trao đổi và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự
khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập; có quyền tham gia phiên tòa; có quyền
trình bày về các yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu; có quyền hỏi những
người tham gia tố tụng khác; tranh luận về chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận
của mình về các tình tiết vụ án; có quyền bác bỏ những lập luận của các đương sự
khác, đưa ra quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án, được đối chất với
nhau hoặc người làm chứng; có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm;
có quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ hai, các chủ thể tranh tụng được bình đẳng trong việc thực hiện quyền
tranh tụng, theo đó, các bên đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS
và bình đẳng về trách nhiệm pháp lí. Các chủ thể tranh tụng không chỉ có quyền
tranh tụng mà họ còn được bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh tụng. Theo
đó, trước tiên các bên đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS. Bởi
nếu không được bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS thì sự
thật khách quan của VADS không được sáng tỏ, các bên đương sự không bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, các bên đương sự không chỉ
được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS mà còn bình đẳng về trách nhiệm
pháp lý. Theo đó, đương sự có hành vi vi phạm pháp luật TTDS thì đều bị xử lí
theo quy định của pháp luật bất kể đương sự đó là ai, có hoàn cảnh, tôn giáo, địa vị
xã hội, tài sản như thế nào.
Thứ ba, Tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định
của pháp luật tạo điều kiện cho các chủ thể tranh tụng thực hiện quyền tranh tụng
để ra bản án, quyết định đúng pháp luật. Tòa án phải tôn trọng quyền tranh tụng
của các bên đương sự, phải bảo đảm cho đương sự, những người tham gia tố tụng
khác hiểu biết và đủ điều kiện thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp
luật. Mọi đương sự đều phải được Tòa án triệu tập một cách hợp lệ để thực hiện
quyền tranh tụng. Tòa án phải bảo đảm cho đương sự được bình đẳng trong việc
thực hiện quyền tranh tụng. Tòa án chỉ được đưa ra phán quyết dựa vào những
chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ chứng minh đã được hỏi, tranh luận công khai tại
phiên tòa. Trong trường hợp Tòa án có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì Tòa
án có trách nhiệm bồi thường.
II.Thực trạng quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng.
1.Những quy định ghi nhận quyền và nghĩa vụ về tranh tụng của người tham
gia tố tụng.
HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 5
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1.Quy định về quyền bình đẳng trong TTDS.


Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS được quy định tại Điều 8
BLTTDS 2015, theo đó: Trong TTDS, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ
văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm
bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong TTDS.
Quyền bình đẳng giữa các đương sự được quy định tại Điều 8 BLTTDS 2015
cũng là một quyền thể hiện rất rõ nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong TTDS. Đây không còn là quyền bình đẳng trước pháp luật nói
chung mà là quyền bình đẳng, quyền ngang bằng giữa các đương sự trong vụ việc
dân sự. Với nguyên tắc này, nguyên tắc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
chứng minh được quy định tại Điều 6 BLTTDS 2015 nói trên sẽ thật sự phát huy
vai trò quyết định của mình. Các đương sự trong vụ việc dân sự là bình đẳng, phần
thắng chỉ thuộc về người có chứng cứ chứng minh.
1.2.Quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và thời điểm được
bổ sung yêu cầu trong quá trình Tòa án giải quyết tranh chấp.
Quyền được đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn được quy định tại khoản 1 Điều
200 BLTTDS 2015 như sau: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý
kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố
đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập”.
Nghĩa là sau khi nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án hoặc sau khi
nhận được thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu độc lập của Tòa án, bị đơn có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn hoặc đối với người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Việc phân biệt thế nào là yêu cầu phản tố và
ý kiến của bị đơn được Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm
2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cáo hướng dẫn như sau:
- Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu yêu cầu đó độc lập, không
cùng với yêu cầu mà nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Chỉ coi là ý kiến của bị đơn mà không phải là yêu cầu phản tố của bị đơn đối
với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
nếu bị đơn có yêu cầu cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập (như yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc chỉ
chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập.
HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 6
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.3.Quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong việc thu thập,
cung cấp tài liệu, chứng cứ, được biết chứng cứ do đương sự khác xuất trình.
Trong TTDS, quan hệ lợi ích cần được giải quyết trong các vụ, việc dân sự là
quan hệ giữa các đương sự, do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước Toà án thì các đương sự có quyền và nghĩa vụ chứng minh cho Tòa án và
những người tham gia tố tụng khác thấy được sự đúng đắn trong yêu cầu của mình,
đồng thời chứng minh rằng bị đơn phải có nghĩa vụ đối với yêu cầu của mình.
Ngược lại, bị đơn cũng có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh sự
phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia là có căn cứ và hợp pháp.
Ngoài ra, với quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của các đương
sự thì Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự khách quan, chính
xác và đúng pháp luật. Do đó: đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập,
giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp. Đương sự đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu của người khác đối với
mình có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu, phản
đối yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
Tuy nhiên, “có những trường hợp các đương sự không phải chứng minh”, đây
là những trường hợp có sự suy đoán được dữ liệu sẵn ở trong luật để bênh vực
“một vài đương sự” hoặc “đương sự được miễn trừ sự dẫn chứng do trách nhiệm
dẫn chứng chuyển qua đối phương – người này phải đưa ra bằng chứng rằng sự suy
đoán không đúng với sự thật”. Cụ thể: BLTTDS 2015 quy định được sự khi khởi
kiện, họ không có nghĩa vụ phải chứng minh trong các trường hợp quy định tại các
khoản 1 Điều 90 BLTTDS 2015. Đó là, (i) Người tiêu dùng khởi kiện không có
nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình
không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; (ii) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp,
giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do
người sử dụng lao động quản lý, lưu trữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm
cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án…
Để đương sự thực hiện được quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ thì khoản 1
Điều 97 BLTTDS 2015 quy định các biện pháp thu thập chứng cứ mà đương sự
được thực hiện nhằm đảm bảo các chứng cứ có được mang tính hợp pháp. Đó là,
thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, thông điệp dữ liệu điện tử, thu
thập vật chứng, xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng,
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có
liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ,
quản lý, yêu cầu UBND cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng, yêu cầu
Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng
HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 7
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

cứ, yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản, yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công viêc khác theo quy định của pháp luật. Ngoài
ra, các đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án nhằm buộc
đương sự phải giao nộp tất cả các chứng cứ mà họ có cho Tòa án, tránh tình trạng
họ giữ lại các chứng cứ để tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm họ mới giao nộp
nhằm gây khó khăn cho Tòa án và các đương sự khác.
- BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định thời hạn giao nộp chứng cứ nhằm hạn
chế sự thiếu trung thực của một bên đương sự khi cung cấp chứng cứ, “đề cao trách
nhiệm chứng minh của đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, bảo đảm việc giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng thời bảo đảm Tòa án căn
cứ vào sự thật khách quan để giải quyết vụ án”. Tuy nhiên, nếu vì lý do chính đáng
quy định tại khoản 4 Điều 96, Điều 287 và Điều 330 BLTTDS 2015 thì chứng cứ
được cung cấp khi đã hết thời hạn cung cấp chứng cứ hoặc đáp ứng các điều kiện
do pháp luật quy định vẫn có thể được chấp nhận nhằm đảm bảo vụ việc có đầy đủ
chứng cứ để giải quyết vụ việc cũng như bảo vệ quyền lợi của các đương sự. Ngoài
ra, cùng với việc giao nộp chứng cứ, tài liệu cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu,
chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác;
đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS hoặc tài liệu,
chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự
khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác (khoản 5 Điều 96). Quy
định này nhằm đảm bảo các đương sự được biết đầy đủ chứng cứ của nhau để
chuẩn bị cho việc tranh tụng công khai, bình đẳng và công bằng.
- Hậu quả của việc đương sự không cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án:
Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được
chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo
những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc (khoản 4 Điều 91). Nếu
đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án
yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà
đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 BLTTDS để
giải quyết vụ việc dân sự (khoản 1 Điều 96).
- Khoản 2 Điều 6 BLTTDS 2015 quy định rõ về trách nhiệm của Tòa án trong
việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo đương sự có đủ chứng cứ
để họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như khắc phục tình trạng
các cá nhân, cơ quan, tổ chức gây khó khăn cho đương sự trong việc thu thập
chứng cứ. Ngoài ra, để đảm bảo đủ cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án đã
được bổ sung các biện pháp thu thập chứng cứ mà không cần phải có yêu cầu
đương sự. Đó là, biện pháp trưng cầu giám định khi xét thấy cần thiết (khoản 2
Điều 102); yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ, cung cấp tài
liệu, chứng cứ cho Tòa án khi xét thấy cần thiết (khoản 3 Điều 106). Như vậy, khi
HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 8
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

không có yêu cầu của đương sự, Tòa án được tiến hành một hoặc một số biện pháp
thu thập chứng cứ sau: Lấy lời khai của đương sự (khoản 1 Điều 98), lấy lời khai
người làm chứng (khoản 1 Điều 99); Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa
đương sự với người làm chứng (khoản 1 Điều 100); Xem xét, thẩm định tại chỗ
(khoản 1 Điều 101); Trưng cầu giám định (khoản 2 Điều 102); Định giá tài sản
(điểm b, c khoản 3 Điều 104); Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ (Điều
105); Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ (khoản 3 Điều
106).
1.4.Quy định về quyền bảo vệ và tranh luận.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định “Quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp
của đương sự được bảo đảm”3. Nếu đương sự không có điều kiện để mời luật sư,
cũng không thuộc các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp
pháp lý và cũng không nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình thì họ có thể tự
bảo vệ quyền lợi của mình. Thực hiện tốt quyền bảo vệ của đương sự là cơ sở để
bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, góp phần giải
quyết vụ án chính xác, khách quan. Đặc biệt, hoạt động TTDS nói chung, trong đó
có quyền bảo vệ của đương sự.
2.Quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng trong
TTDS.
2.1.Sự độc lập, vô tư, khách quan của Tòa án trong TTDS.
Trong hoạt động xét xử, yêu cầu về sự độc lập của Tòa án được xem là điều
kiện tiên quyết nhằm hưởng đến phán quyết công bằng, đảm bảo cho tính khách
quan, vô tư để tìm đến công lý. Nguyên tắc về sự xét xử độc lập của Tòa án được
ghi nhận trong đại luật pháp lý tối cao là Hiến pháp Việt Nam hiện hành (khoản 2
Điều 103) và Điều 12 BLTTDS 2015.
Nguyên tắc này bao hàm 3 nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, trong xét xử, Tòa án phải độc lập với các cơ quan khác. Tòa án là
một nhánh cơ quan độc lập (tách biệt lập pháp, hành pháp) để nhân danh Nhà nước
bảo vệ pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi. Chính vì vậy, kim chỉ nam duy
nhất để Tòa án căn cứ khi xét xử là quy định của pháp luật, luôn luôn theo tôn chỉ
“Thượng tôn pháp luật”. Ngoài tôn chỉ trên, Tòa án không thể bị áp lực, chi phối từ
phía các cơ quan khác ngay cả cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng.
- Thứ hai, Tòa án phải độc lập với cơ quan Tòa án cấp trên. Mặc dù về mặt tổ
chức thì Tòa án địa phương, Tòa án cấp dưới phải chịu sự quản lý của TAND tối
cao. Tuy nhiên, xét về mặt xét xử thì Tòa án cấp dưới phải hoàn toàn độc lập với
Tòa án cấp trên để tránh việc chỉ đạo án, chưa xử đã biết nội dung bản án.

3
Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 9


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

- Thứ ba, thành viên của Hội đồng xét xử phải độc lập với nhau. Phải đảm bảo
giữa các Thẩm phán, Hội thẩm có sự độc lập thì mới tồn tại tính khách quan của
bản án cá nhân riêng biệt, có suy nghĩ và chính kiến của riêng mình dù đó là ý kiến
thiểu số hay đa số thì đều được ghi nhân. Việc áp dụng nguyên tắc trên sẽ tránh
được sự độc đoán, áp đặt đảm bảo cho phán quyết chung mang tính hợp pháp, có
căn cứ và có lẽ đây chính là ý nghĩa căn bản cho vấn đề có sự tham gia của Hội
thẩm trong HĐXX.
Vô tư là một khái niệm chỉ trạng thái chủ quan của con người khi thực hiện
một hoạt động xã hội nào đó có thể là hành động mang tính “vật chất” hoặc hoạt
động tư duy của con người. Vô tư gắn với một hệ quả mang tính tất yếu là không
đòi phải trả ơn, không đòi hỏi bất kỳ lợi ích nào mà hành động chỉ nhằm mang lại
sự công bằng, thể hiện sự nghĩa hiệp vốn có trong nhân cách người quân tử hoặc
khách quan trong việc đánh giá sự việc như vốn dĩ nó không thiên lệch, không tô
hồng hay bôi đen. Vô tư bao giờ cũng dẫn đến hệ quả là có thái độ khách quan đối
với sự vật và hiện tượng được xem xét. Sự vô tư của thẩm phán và những người
tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án lại mang đến sự công bằng, dân
chủ cho những người liên quan và cho cả xã hội.
2.2.Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp thực hiện quyền tố tụng.
Trước hết, trách nhiệm, nhiệm vụ chung của Tòa án, người tiến hành TTDS
được thể hiện qua Điều 3 BLTTDS 2015: nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong
TTDS, theo đó việc tuân thủ pháp luật không chỉ đặt ra cho đương sự và những
người tham gia TTDS. Tòa án, người tiến hành TTDS cũng là một chủ thể trong
TTDS nên nguyên tắc tuân thủ pháp luật cũng đặt ra cho nhóm chủ thể này và đây
cũng là nguyên tắc nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân của đương sự.
Có tuân thủ pháp luật thì việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án mới khách
quan, công bằng và đúng đắn.
Không chỉ quy định trách nhiệm chung của Tòa án, người tiến hành TTDS,
BLTTDS 2015 còn quy định khá rõ trách nhiệm cụ thể của Tòa án, người tiến hành
tố tụng trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của họ.
Khoản 1 Điều 4 BLTTDS 2015 công nhận quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự, khoản 2 quy định trách nhiệm của Tòa án: “… không
được từ chối giải quyết vụ việc dân sự…”. Đương sự có quyền khởi kiện, nộp đơn
yêu cầu nhưng đương sự không có quyền thụ lý đơn để giải quyết. Việc đương sự
nộp đơn khởi kiện hay yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự cũng chẳng có ý nghĩa
thực tế nếu Tòa án gây khó khăn, không thụ lý giải quyết. Với trách nhiệm buộc
phải nhận đơn, không được từ chối đơn của đương sự, Tòa án phải thực hiện nhiệm
vụ giải quyết các vụ việc dân sự của mình.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 10


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Điều 5 BLTTDS 2015 quy định trách nhiệm của Tòa án “chỉ thụ lý giải quyết
vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu” và trách nhiệm “chỉ giải quyết
trong phạm vu đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Quy định này đã ràng buộc trách
nhiệm của Tòa án không thể lạm quyền, hạn chế quyền quyền tự định đoạt của
đương sự.
Điều 13 BLTTDS 2015 quy định cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, nếu các chủ thể này có hành vi trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật như nếu hành vi trái pháp luật,
gây ra thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Quy định này buộc Tòa
án, người tiến hành tố tụng luôn phải có ý thức cố gắng để giải quyết tốt các vụ
việc dân sự, tránh tình trạng phải thực hiện trách nhiệm bồi thường.
3.Các quy định về thủ tục liên quan đến nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng
trong TTDS.
3.1.Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án liên quan đến nguyên tắc bảo đảm quyền
tranh tụng trong TTDS.
Khởi kiện là hành vi tố tụng đầu tiên của nguyên đơn làm phát sinh các quan
hệ pháp luật tố tụng. Để Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện, đơn khởi kiện phải
bảo đảm các nội dung luật định. Một trong những nội dung mà đơn khởi kiện phải
có là: tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức. Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn về
trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Theo đó, khoản 2 Điều 5
Nghị quyết quy định, để Tòa án thụ lý vụ án thì người khởi kiện phải chứng minh
mình ghi đúng địa chỉ của bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (được cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là
địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan)4.
Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho
người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí, người
khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng
án phí. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu
tiền tạm ứng án phí. Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp
tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Pháp luật cũng quy định Tòa án không được thụ lý vụ án khi người khởi kiện
không đủ điều kiện khởi kiện. Một trong những điều kiện để Tòa án thụ lý VADS
4
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy định tại khoản 1
và khoản 3 Điều 192 Bộ luật TTDS về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, khoản 2 Điều 5.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 11


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

là: chủ thể khởi kiện có quyền khởi kiện, chủ thể ở đây được quy định cụ thể tại
Điều 186, 187 BLTTDS 2015, trong đó, một trong các chủ thể có quyền khởi kiện
là cá nhân, cá nhân có quyền tự mình khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thủ tục thông báo thụ lý vụ án giúp cho đương sự biết mình đã bị khởi kiện và
trở thành bị đơn trong một VADS tại Tòa án với những yêu cầu cụ thể của phía
nguyên đơn, kèm theo nguyên đơn đã có những tài liệu, chứng cứ nào đó. Thông
báo thụ lý vụ án là một thủ tục liên quan đến nguyên tắc tranh tụng, giúp cho bị
đơn biết được mình đã bị ai kiện, người khởi kiện yêu cầu những nội dung gì và
chứng cứ kèm theo là gì, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (NCQLNVLQ)
biết được mình liên quan đến nội dung nào của vụ án. Điều này sẽ giúp cho đương
sự chuẩn bị những chứng cứ, quan điểm, lý lẽ của mình để đối đáp lại yêu cầu của
phía đối lập, bảo vệ quyền lợi của mình.
Sau khi nhận thông báo thụ lý vụ án, bị đơn, NCQLNVLQ phải nộp cho Tòa
án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo. Việc bị đơn, NCQLNVLQ phải trả lời về ý kiến khởi kiện của
nguyên đơn là một trong những quy định nhằm nâng cao vai trò chủ động của
đương sự trong việc tranh tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Bên cạnh
đó, luật còn quy định ngoài việc gửi văn bản ghi ý kiến, bị đơn còn có quyền đưa ra
yêu cầu phản tố, NCQLNVLQ được đưa ra yêu cầu độc lập. Đây là quy định thể
hiện rõ quyền, nghĩa vụ về tranh tụng của đương sự trước yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
3.2.Giai đoạn chuẩn bị xét xử liên quan đến nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng
trong TTDS.
- Về thủ tục giao nộp chứng cứ: trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân
sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường
hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ
việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu
đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án
yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà
đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 BLTTDS
2015 để giải quyết vụ việc dân sự.
Việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của đương
sự để bảo đảm các chứng cứ của vụ án đều được thu thập và xem xét trong quá
trình giải quyết vụ án. Khi đương sự giao nộp chứng cứ, Tòa án phải lập biên bản
về việc giao nhận chứng cứ giữa đương sự và Tòa án, đây là cơ sở để đương sự tự
bảo vệ mình, tranh tụng bằng chứng cứ đã giao nộp.
- Bản tự khai hoặc lấy lời khai của đương sự: việc đương sự tự viết bản tự
khai hoặc Tòa án lấy lời khai là cách thức thu thập chứng cứ được Tòa án sử dụng
HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 12
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

phổ biến nhất trong quá trình giải quyết VADS giúp Tòa án nắm bắt một cách
nhanh nhất nội dụng vụ án. Lời khai của đương sự là một trong những chứng cứ để
kết luận bản chất của vụ án.
Đương sự là người có quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với vụ án, họ là người
liên quan trực tiếp đến các tình tiết, biết rõ nội dung vụ kiện, tình trạng pháp lý đã
và đang tồn tại như thế nào trên thực tế. Có thể nói mọi vấn đề, yêu cầu của đương
sự đều xuất phát từ lời khai, lời trình bày của các đương sự trong vụ kiện. Vì vậy,
việc đương sự tự viết bản tự khai hoặc lấy lời khai là cách thức thu thập chứng cứ
được Tòa án sử dụng phổ biến nhất trong quá trình giải quyết VADS. Cùng với bản
tự khai và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Tòa án sẽ đánh giá từng
lời khai, trình bày của đương sự nào là đúng, là chính xác và có cơ sở. Do vậy, bản
tự khai, biên bản ghi lời khai của đương sự là tài liệu ghi nhận quan điểm của một
bên đương sự, là cơ sở cho việc thực hiện tranh tụng của đương sự.
- Đối chất: theo yêu cầu của đương sự hoặc xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời
khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các
đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người
làm chứng với nhau. Việc đối chất phải được ghi thành biên bản, có chữ ký của
những người tham gia đối chất.
- Phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ: việc tiến hành tổ chức phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ (Phiên họp kiểm tra) theo quy
định mới của BLTTDS 2015. Mục đích của phiên họp kiểm tra là nhằm bảo đảm
mọi chứng cứ đều được công khai (trừ trường họp không được phép công khai)
trong quá trình tố tụng. Theo quy định của BLTTDS 2015 thì Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án có nhiệm vụ và quyền hạn tiến hành phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (khoản 7 Điều 48 BLTTDS)
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khi các bên không hòa giải được thì vụ án sẽ được
đưa ra xét xử, đây có thể coi là bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ
án. Vì vậy trước khi tiến hành mở phiên họp kiển tra và phiên hòa giải, Thẩm phán
cần phải hoàn tất các nhiệm vụ của mình để làm sáng tỏ nội dung vụ án trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử. Phiên hòa giải giữa các đương sự có thể sẽ không được diễn
ra nhưng phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ luôn phải
được Thẩm phán tổ chức. Nội dung của Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ gồm: 3 nội dung chính là kiểm tra việc giao nộp chứng cứ,
quyền được biết và tiếp cận tài liệu chứng cứ của các đương sự, việc công khai các
tài liệu chứng cứ của Tòa án.
- Thủ tục hòa giải: hòa giải là sự thỏa thuận của đương sự và cơ sở của việc
hòa giải là bắt buộc phải gồm 3 yếu tố cơ bản: (i) Giữa các bên liên quan phải có
tranh chấp xảy ra; (ii) Trong quá trình giải quyết phải có sự tham gia của một bên
gọi là bên thứ ba không có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (bên trung lập) để giải
HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 13
BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

thích, tư vấn và công nhận sự hòa giải thành của các bên trong tranh chấp; (iii)
Trong quá trình hòa giải bắt buộc phải có sự tham gia của một bên gọi là bên thứ
ba không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (bên trung lập) để giải thích, tư vấn và
công nhận sự hòa giải thành của các bên trong tranh chấp. Tuy nhiên trong một số
trường hợp, Thẩm phán không tiến hành mở phiên hòa giải.
3.3.Thủ tục xét xử sở thẩm liên quan đến nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng
trong TTDS.
Lần đầu tiên, BLTTDS của nước ta quy định về tranh tụng tại phiên tòa, bao
gồm: tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm. Tranh
tụng tại phiên tòa là thủ tục tố tụng đặc biệt trong quá trình giải quyết VADS. Gọi
là thủ tục tố tụng đặc biệt vì Tòa án công khai cho mọi người biết về: Lời trình bày
của đương sự, của người bảo vệ quyền lợi ích của đương sự, các câu hỏi của
HĐXX, lời đối đáp của các bên nguyên đơn, bị đơn, NCQLNVLQ; phát biểu của
Kiểm sát viên và công khai cho mọi người biết các tài liệu, chứng cứ, vật chứng
của vụ án do các bên đương sự cung cấp và Tòa án thu thập trong thời gian chuẩn
bị xét xử vụ án. Các tài liệu, chứng cứ, vật chứng của cụ án tuy các đương sự đã
biết tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
từ tước khi Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm, nhưng vẫn phải công khai để đương sự
kiểm tra, xác nhận tài liệu, chứng cứ, vật chứng do đương sự cung cấp, giao nộp.
Mục 3 trong Chương XIV BLTTDS 2015 quy định về tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm với 17 điều luật (từ Điều 247 đến Điều 263). Mục 2 Chương XVII BLTTDS
2015 quy định về Tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm với 6 điều luật (từ Điều 301
đến Điều 306).
III.Kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLTTDS Việt Nam về nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
- Quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ. Để nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng được thực thi trên thực tế thì trong quy định về giao nộp chứng cứ, BLTTDS
năm 2015 cần bổ sung quy định cụ thể về hậu quả đối với trường hợp đương sự
không sao gửi, thông báo hoặc sao gửi thông báo tài liệu, chứng cứ nhưng không
đầy đủ cho đương sự có liên quan về các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS buộc Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án bác bỏ giá trị những chứng cứ chưa được gửi hoặc chưa được thông
báo hợp lệ trước đó giữa các bên đương sự. Có thể bổ sung quy định theo hướng
“Tòa án có quyền không sử dụng tài liệu chứng cứ đó”5.
Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 cần bổ sung thêm quy định theo hướng bổ sung
trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc bảo đảm đương sự có quyền được biết về
chứng cứ của nhau trong quá trình giải quyết vụ án, cụ thể là Tòa án có trách nhiệm
5
Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội (2015), Đổi mới tổ chức phiên tòa để thực hiện nguyên tắc hiến định
“tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”, Hà Nội, tr.14.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 14


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

thông báo về tài liệu, chứng cứ đương sự giao nộp cho các đương sự khác có liên
quan.Từ đó, mới có thể bảo đảm được việc công khai chứng cứ cũng như bảo đảm
đầy đủ quyền được tiếp cận chứng cứ của đương sự trong TTDS.
- Về thời hạn giao nộp chứng cứ. BLTTDS 2015 cần bổ sung thêm quy định
về các chế tài trong trường hợp đương sự không thực hiện việc giao nộp chứng cứ
đúng hạn. Cụ thể, đối với đương sự không tuân thủ nguyên tắc tranh tụng trong quá
trình giải quyết VADS: chứng cứ, yêu cầu, ý kiến phản bác của họ bị bác bỏ.
Đối với Tòa án, trong trường hợp Tòa án vi phạm nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong quá trình giải quyết VADS, phán quyết của Tòa án về việc giải quyết vụ
án không tuân thủ nguyên tắc tranh tụng thì đây sẽ trở thành căn cứ để tuyên hủy6.
- Quyền nghiên cứu hồ sơ của đương sự. BLTTDS 2015 cần xem xét quy
định trong phần quyền và nghĩa vụ của đương sự. Theo đó, khoản 8 Điều 70
BLTTDS 2015 nên quy định như sau:
“8. Được nghiên cứu hồ sơ vụ án, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương
sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại
khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”7.
- Để kết nối các quy định về trình bày, hỏi đáp trong BLTTDS với các quy
định về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải,
các quy định về trình bày, hỏi, tranh luận trong BLTTDS 2015 cần được thiết kế
theo hướng “những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và vấn đề chưa thống
nhất”. Từ đó quy định về những vấn đề trình bày, hỏi, tranh luận sẽ có sự kết nối
với phiên họp kiểm tra, giao nộp chứng cứ, công khai chứng cứ và hòa giải. Việc
điều hành hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm của Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa đảm bảo tính hợp lý, logic, khoa học, tiết kiệm được thời gian của những người
tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng.
- Để đảm bảo chất lượng bản án, đảm bảo việc ra bản án căn cứ vào kết quả
tranh tụng trong quá trình chuẩn bị xét xử và kết quả tranh tụng tại phiên tòa cần có
thời gian hợp lý để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoàn thiện bản án dân sự sau khi
HĐXX nghị án.

6
Th.S Nguyễn Thị Hạnh – Th.S Lê Thị Nhàn, Tlđd chú thích 53, tr.21.
7
Nguyễn Văn Chung, Tlđd chú thích 52, tr.70.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 15


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

KẾT LUẬN

Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS là nguyên tắc quan trọng, giữ vai
trò trọng tâm trong TTDS. Muốn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp trước Tòa án
thì các bên đương sự phải đảm bảo thực hiện được quyền cũng như nghĩa vụ tranh
tụng của mình trong TTDS. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong TTDS tại các TAND cho thấy nguyên tắc này đã đạt được những hiệu quả
nhất định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của đương sự, góp phần tìm
ra sự thật của vụ án. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn thực
hiện nguyên tắc này vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục. Vì vậy,
cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, củng cố, hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo
đức và kiến thức pháp luật cho những người tiến hành và tham gia tố tụng. Bên
cạnh đó, tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật trong nhân dân đạt hiệu quả
để hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng tiến hành thuận
lợi hơn. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS được thực hiện hiệu quả sẽ
góp phần giúp cho việc xét xử được khách quan, công bằng, nâng cao chất lượng
xét xử của Tòa án với các vụ việc xảy ra trong xã hội, tạo được niềm tin của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.

Trên đây là bài tiểu luận của em, xuất phát từ những ý kiến, quan điểm, suy
nghĩ cá nhân nên chắc chắn trong quá trình làm bài sẽ không thể tránh được những
sai sót, vì vậy, em mong nhận được những lời đóng góp, những ý kiến của thầy cô
bộ môn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn ạ!

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 16


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2017.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
3. Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam năm 2015.
4. Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam năm 2004.
5. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và
khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi
kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.
6. Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
7. Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam: luận văn
thạc sĩ Luật học/Nguyễn Thanh Tâm; TS. Trần Văn Trung hướng dẫn, Hà Nội,
2020.
8. Nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực
hiện tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn: luận văn thạc sĩ Luật học/ Phùng
Đức Chính; PGS. TS. Phan Hữu Thư hướng dẫn, Hà Nội, 2020.
9. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam: luận văn thạc sĩ
luật học/ Phạm Thị Ánh Ngọc; TS. Nguyễn Thị Thu Hà hướng dẫn, Hà Nội, 2016.
10. Nguyễn Thị Thu Hà, Yêu cầu và giải pháp nhằm nâng quả của tranh tụng
trong tố tụng dân sự theo định hướng cải cách tư pháp.

11. Nguyễn Thị Hạnh – Lê Thị Nhàn (2015), Trao đổi về nguyên tắc tranh tụng
trong dự thảo bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi), Tạp chí Tòa án nhân dân (22), Hà
Nội.

HOÀNG THỊ TÚ OANH Page 17

You might also like