You are on page 1of 15

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................2
NỘI DUNG......................................................................................................................................3
I. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.....3
1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự..............................................3
2. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.........................3
3. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự............................4
II. Nội dung các quy định của BLTTDS 2015 về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự.........................................................................................................................5
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc
dân sự...............................................................................................................................................5
2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn..............................................6
3. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.......6
4. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu...........................7
5. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự....................8
6. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chon người đại diên, người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình.....................................................................................................................9
7. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của tòa
án......................................................................................................................................................9
8. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự.......................................................................................................................11
III. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự.................................................................................................................................11
1. Thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS 2015 về nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự........................................................................................................................................11
2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự........12
KẾT LUẬN...................................................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................15

1
MỞ ĐẦU
Hiện nay, trong xu hướng hội nhập toàn cầu thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể khi tham gia các quan hệ trong xã hội ngày càng được
quan tâm, Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã
hội đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS) quy định khá đầy đủ các vấn đề về
tố tụng dân sự như các nguyên tắc của tố tụng dân sự, chứng cứ và chứng minh,
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự... là
một công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp thời, công bằng, đúng
2 pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và xã
hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương
sự, các quy định của BLTTDS 2015 về vấn đề này và thực tiễn thực hiện chúng tại
các Tòa án của Việt Nam là cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần đưa ra
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự, tháo gỡ
những bất cập, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của
đương sự, bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của
Nhà nước và xã hội. Với những lý do trên, em xin chọn đề "Nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện
quyền tự định đoạt của đương sự" để đi sâu vào nghiên cứu.

2
NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự
1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là quyền của đương sự
được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương sự được tự mình lựa
chọn quyết định các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự
- Thứ nhất: Việc Nhà nước ta thể chế hóa quyền tự định đoạt của đương sự là
một nguyên tắc quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự là khẳng định pháp luật
thực sự đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của
mình quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của họ và việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Điều 5 BLTTDS quy
định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự… Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các
đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với
nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
- Thứ hai: Bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì
nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong
việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS quy định: “…Toà
án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó…”. Quy
định trên đã góp phần giúp Tòa án xác định được trách nhiệm của mình trong việc
thực hiện chức năng xét xử.

3
- Thứ ba: Việc quy định nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự khẳng định quan điểm nhất quán của Nhà nước ta đó là đương sự được
quyền tự do thể hiện ý chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn các hành vi tố
tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự
- Cơ sở lý luận: Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có cội nguồn từ
các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và
bình đẳng giữa các chủ thể. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được quy
định khá sớm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam như Bản hướng dẫn về trình
tự xét xử sơ thẩm về dân sự ban hành kèm theo Thông tư của TANDTC số
96/NCPL ngày 8/2/1977 ban hành Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về
dân sự, Điều 2 PLTTGQVADS và Điều 2 PLTTGQVAKT. Sau đó, đã được quy
định tại Điều 5 BLTTDS 2004. Hiện nay, những nội dung cơ bản của nguyên tắc
này đã được quy định khá đầy đỉ trong Điều 5 BLTTDS 2015.
- Cơ sở thực tiễn: Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng trong việc
bảo đảm cho các đương sự thực hiện các quyền do pháp luật nội dung quy định.
Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động nên đương sự có quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình bằng việc khởi kiện hoặc không khởi kiên tại Tòa án
hoặc rút đơn khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa. Nếu người khởi kiện
rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc các đương sự đã tự thỏa thuận được việc giải
quyết tranh chấp thì quy trình tố tụng dân sự phải chấm dứt và Tòa án sẽ không
giải quyết những vấn đề mà đương sự trước đây đã yêu cầu nữa. Nếu vẫn tiến hành
xét xử khi họ rút đơn khởi kiện hoặc thỏa thuận được với nhau việc giải quyết
4
tranh chấp thì có nghĩa là Tòa án đã ra bản án trái với nguyện vọng của đương sự,
không phản ánh đúng ý chí tự nguyện của đương sự. Vì vậy, việc pháp luật tố tụng
dân sự ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự là xuất phát từ thực tiễn giải
quyết các vụ việc dân sự của Tòa án.
II. Nội dung các quy định của BLTTDS 2015 về nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu
cầu giải quyết việc dân sự
- Thứ nhất, về quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân
sự: Tại Điều 186 BLTTDS quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung
là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình”. Bên cạnh đó, Điều 187 quy định quyền khởi kiện vụ án dân
sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi
ích của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước đã chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của
cá nhân, cơ quan tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
hoặc của chủ thể khác.
- Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự:
Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải
quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự cũng
chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Người yêu cầu trong vụ việc dân sự
có lợi ích hợp pháp độc lập nên được đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết như
nguyên đơn trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy
nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay
không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các
quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu
giải quyết việc dân sự là một trong những quyền cơ bản của đương sự trong tố tụng
5
dân sự. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của đương sự đã góp phần thể hiện việc
thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự trên thực
tế.
2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn
Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi
kiện và nội dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn. Trong tố tụng dân sự, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện
ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật nguyên
đơn đã khởi kiện. BLTTDS 2015 đã dành một số điều quy định cụ thể về quyền
phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự, cụ thể tại khoản 4 Điều 72 quy định: “Bị
đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến
yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối
với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại
Điều 71 của Bộ luật này”. Ngoài ra, BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền
bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và
chứng minh của bị đơn về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là
về sự vi phạm thủ tục trong việc thụ lý và giải quyết vụ án. Với việc quy định
quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là thể hiện
sự ghi nhận của pháp luật đối với quyền tự định đoạt của đương sự. Bên cạnh đó,
việc quy định cụ thể các trường hợp được xác định là yêu cầu phản tố theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự đã đảm bảo cho bị đơn thực hiện quyền tự định
đoạt của mình trong việc đưa ra các yêu cầu để bảo vệ quyền lợi của mình, bác bỏ
các yêu cầu của nguyên đơn
3. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan
Trong tố tụng dân sự, khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được
quy định tại Khoản 4 Điều 68  BLTTDS, họ là người tuy không khởi kiện, không
6
bị kiện nhưng việc giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa
án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng và họ cũng có quyền thể hiện sự tự định
đoạt của mình quy định tại Điều 201 BLTTDS:
"1. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng
với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các
điều kiện sau đây:
a) Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
b) Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
c) Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc
giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập
trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải"
Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là người tham
gia trực tiếp vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả
lời về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích đó. Việc tham gia của họ cũng
giống trong vụ án dân sự, có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự
khác hay theo yêu cầu của Tòa án.
4. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút
yêu cầu
Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
"1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.

7
2. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và
việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét
xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút"
Như vâ ̣y, người khởi kiê ̣n, người bị kiê ̣n, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án đều có quyền quyết định và tự định đoạt trong viê ̣c thay đổi, bổ
sung, rút yêu cầu. Tuy nhiên, tuỳ thuô ̣c vào từng giai đoạn tố tụng mà viê ̣c quyết
định và tự định đoạt này có thể được toà án chấp nhâ ̣n hay không. Trước khi toà án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì viê ̣c quyết định và tự định đoạt trong
viê ̣c thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu là quyền tuyê ̣t đối của đương sự. Tại phiên toà
sơ thẩm, viê ̣c quyết định và tự định đoạt trong viê ̣c thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
của đương sự bị hạn chế.
Việc nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện thể hiện mong muốn của nguyên đơn
về việc không yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu khởi kiện nữa. Vì vậy, trong bất
cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng (trước hoặc trong phiên tòa) mà nguyên đơn
rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của mình và việc rút yêu cầu của họ
là tự nguyện thì Tòa án chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc
đình chỉ giải quyết vụ án nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
5. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc
dân sự
Quyền tự định đoạt trong viê ̣c thoả thuâ ̣n giải quyết vụ viê ̣c của đương sự được
thực hiê ̣n ở bất cứ giai đoạn nào, trừ trường hợp BLTTDS quy định không được
tiến hành hòa giải. Trong tố tụng dân sự, hoà giải là thủ tục có ý nghĩa nhân văn
nhằm giúp cho đương sự thoả thuâ ̣n với nhau để giải quyết các vấn đề có liên quan
đến vụ viê ̣c. Cơ sở của hoà giải là xuất phát từ ý chí chủ quan, tự nguyê ̣n quyết
định và tự định đoạt của đương sự. Do vâ ̣y, chỉ có đương sự là chủ thể của quan hê ̣
pháp luâ ̣t nô ̣i dung mới có quyền thương lượng, thoả thuâ ̣n hoà giải để giải quyết
các vấn đề có liên quan đến vụ viê ̣c, trừ trường hợp đương sự uỷ quyền cho người
8
khác. Trong quá trình hoà giải, toà án giữ vai trò trung gian, giải thích pháp luâ ̣t,
chứ không được hướng dẫn thương lượng, nô ̣i dung thoả thuâ ̣n, bởi vì quyền
thương lượng, nô ̣i dung thoả thuâ ̣n là nô ̣i dung của quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự. Tuy nhiên, toà án chỉ công nhâ ̣n thoả thuâ ̣n của đương sự khi
thoả thuâ ̣n đó phù hợp với pháp luâ ̣t và đạo đức xã hô ̣i.
6. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chon người đại diên,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
Để bảo về quyền, lợi ích hơp pháp của mình, các đương sự tự mình thực hiện
quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ hoặc đương sự có thể ủy quyền cho người khác
thay mình tham gia tố tụng. Người này được gọi là người đại diện theo ủy quyền
của đương sự. Tuy vậy, do tính chất, yêu cầu của việc giải quyết vụ việc dân sự sau
khi ủy quyền cho người đại diện đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ
sung cho hoạt động của người đại diện. Việc cử người đại diện theo sự ủy quyền
này, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự.
Theo quy định tại Điều 75 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình đương sự có quyền nhờ luật sư hoặc người khác mà Tòa án chấp nhận tham
gia tố tụng. Đây cũng là biểu hiện của nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự và được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự phải đảm bảo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 75 BLTTDS.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu
cầu của đương sự nên việc thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho đương sự do hai bên quyết định. Như vậy, một lần nữa quyền tự định đoạt của
đương sự lại được thể hiện. Tất cả đều hướng tới lợi ích của đương sự. 
7. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo, khiếu nại bản án,
quyết định của tòa án
Quyền kháng cáo, khiếu nại, bản án, quyết định của Tòa án cũng là một nội
dung cơ bản của quyền tự định đoạt của đương sự. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
9
pháp của đương sự, pháp luật quy định cho các đương sự, người đại diện của
đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc
thẩm. Có thể thấy rằng quyền kháng cáo là một phương tiện pháp lý để đương sự
thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Tuy nhiên, quyền này bị giới hạn bởi
những quy định của pháp luâ ̣t về đối tượng và thời hạn của quyền kháng cáo.
Đương sự chỉ có quyền kháng cáo đối với những bản án sơ thẩm, các quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật.
Ngoài việc quy định đương sự được thực hiện quyền kháng cáo thì đương sự
cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo. Trường hợp người kháng cáo rút
toàn bộ kháng cáo trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa (trong vụ án
không còn có kháng cáo, kháng nghị) thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình
chỉ. Trường hợp đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút
yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối
với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của đương sự đã rút.
Ngoài quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án, pháp luật còn quy định
cho đương sự, người đại diê ̣n của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
khiếu nại bản án, quyết định, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết
định, hành vi tố tụng đó là trái pháp luâ ̣t, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Căn cứ vào nguyên tắc các cơ quan nhà nước, người đứng đầu các cơ
quan nhà nước phải chịu trách nhiê ̣m về hành vi công vụ do công chức của đơn vị
mình thực hiê ̣n. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhâ ̣n, xem xét,
giải quyết kịp thời các khiếu nại và thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết
cho người khiếu nại.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khiếu nại, kháng cáo đối với bản
án, quyết định của Tòa án các cấp là một trong những quyền tố tụng quan trọng của
đương sự. Với việc quy định cho đương sự được thực hiện quyền này trong tố tụng
10
dân sự đã giúp đương sự có điều kiện thuận lợi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình trước Tòa án cũng như khắc phục, sửa chữa được những sai lầm, vi phạm
pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án.
8. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Theo khoản 1 Điều 5 BLTTDS quy định: “…Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ
việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong
phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Quy định này, có ý nghĩa là Tòa án chỉ
được quyền thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu của đương sự.
Quy định như trên đã chứng tỏ pháp luật tố tụng luôn luôn tôn trọng quyền tự định
đoạt của đương sự, việc thụ lý giải quyết vụ việc dân sự hoàn toàn dựa trên sự định
đoạt của đương sự. Trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự còn được biểu hiện ở phương diện,
Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu đó. Có như vậy, thì
mới đảm bảo được quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ việc dân sự cũng như
đảm bảo được việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự trên thực tế.
III. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
1. Thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS 2015 về nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự
Trong thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự, các Tòa án đã bảo đảm cho các
đương sự thực hiện khá tốt quyền tự định đoạt của mình từ quyền khởi kiện vụ án,
yêu cầu giải quyết việc dân sự, quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; quyền hòa
giải, thương lượng; quyền kháng cáo, khiếu nại các bản án, quyết định của Tòa
án… Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì việc thực hiện các quy định
11
của BLTTDS 2015 về quyền tự định đoạt của đương sự trong thời gian qua vẫn
còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Những hạn chế này thể hiện cả trong các hoạt
động tố tụng dân sự của đương sự và Tòa án:
- Thứ nhất, về phía đương sự: do không hiểu biết đầy đủ các quy định của pháp
luật nên nhiều trường hợp đã không thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự của mình. Trên thực tế, đã không ít trường hợp đương sự khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi đã hết thời hiệu khởi kiện nên đã bị trả lại
đơn khởi kiện.
- Thứ hai, về phía Tòa án: do đội ngũ thẩm phán vẫn còn một số thiếu và yếu
cả về năng lực, chuyên môn nghiệp vụ nên có những sai sót, vi phạm pháp luật
trong việc giải quyết vụ án. Thực tế cho thấy có những sai sót trong việc trả lại đơn
khởi kiện, không xem xét hết các yêu cầu của đương sự hoặc quyết định của bản án
vượt phạm vi yêu cầu đương sự, xét xử vắng mặt đương sự, áp dụng không đúng
pháp luật nội dung trong việc giải quyết vụ án...vẫn còn tồn tại. Chính điều này đã
hạn chế không ít đến việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự.
Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 còn có những quy định chưa phù hợp, rõ ràng,
gây ra những hiểu nhầm trong quá trình thực thi pháp luật.
2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự
- Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự về quyền tự định đoạt của đương sự:
+ Không nên quy định trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại tòa phúc
thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn. Bởi nó sẽ vi phạm nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự; do trong các tranh chấp dân sự, đương sự được quyền tự mình
quyết định yêu cầu hay không yêu cầu Tòa án giải quyết, thì họ cũng có quyền
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của mình ở mọi
12
giai đoạn tố tụng. Do vậy, để hợp lý và không vi phạm nguyên tắc này thì cần sửa
đổi Điều 299 theo hướng cho đương sự thực hiện tốt nhất quyền tự định đoạt của
mình trong TTDS. Nếu bị đơn thấy việc nguyên đơn có khởi kiện rồi rút đơn khởi
kiện mà gây thiệt hại cho họ về danh dự, nhân phẩm hoặc với tài sản thì họ có
quyền yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại.
+ Nên quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không có yêu cầu độc lập, bởi khi tham gia tố tụng với những quyền và nghĩa vụ
khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau. Trong khi đó thực tiễn cho thấy
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập không thể có địa
vị tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn hoặc bị đơn, họ
không có yêu cầu độc lập về đối tượng tranh chấp của vụ kiện nên họ không có
quyền độc lập thỏa thuận với bên đương sự kia, không có quyền thừa nhận một
phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự kia, không có quyền thay
đổi, bổ sung yêu cầu vụ kiện trong khi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập có địa vị tố tụng giống như nguyên đơn.
- Thứ hai, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật tố tụng dân sự nhằm
nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân: Đương sự là người có quyền tự định
đoạt về việc tham gia tố tụng, về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có thực sự phát
huy được hiệu quả hay không phụ thuộc vào phần lớn vào sự hiểu biết pháp luật và
ý thức pháp luật của đương sự. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
cần phải được tiến hành rộng rãi, sâu rộng trong quần chúng nhân dân như tổ chức
các lớp học về pháp luật tố tụng dân sự ở các địa phương, các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật, có các khẩu hiệu, tài liệu sách báo tuyên truyền phổ biến các kiến thúc
về pháp luật tố tụng dân sự cho nhân dân… Ngoài ra, cần tích cực đào tạo và phát
triển đội ngũ tuyền truyền viên pháp luật làm nòng cốt cho công cuộc tuyên truyền
13
pháp luật tới nhân dân, làm cho dân hiểu và thực hiện luật bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của mình, thực hiện tốt quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
- Thứ ba, nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán: Để đảm bảo quyền lợi
của người dân và hạn chế thấp nhất những sai sót xảy ra ngay từ giai đoạn thụ lý
vụ án đòi hỏi cán bộ thụ lý vụ án phải là Thẩm phán phải có năng lực chuyên môn
và có kinh nghiệm để có thể hướng dẫn cụ thể cho người dân các thủ tục, giấy tờ
cần thiết theo đúng quy định của pháp luật để làm căn cứ thụ lý giải quyết vụ án,
khắc phục tình trạng thụ lý đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
hoặc trả lại đơn không đúng pháp luật.

KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, nhiều thành tựu kinh tế - xã hội đã
được khẳng định và đất nước đang ở thời kỳ phát triển. Cùng với nó thì hệ thống
pháp luật cũng ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo sự nghiêm minh, chuẩn xác
và tối thượng của quyền lực nhà nước trên cơ sở tôn trọng và đảm bảo nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa và các quyền cơ bản của con người. Quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự là một quyền quan trọng của đương sự. Để bảo
đảm việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam thì phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, phải
không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tố tụng
trong nhân dân và đổi mới công tác tổ chức, cán bộ của Tòa án để nâng cao chất
lượng xét xử của Tòa án.

14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, NXB. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2017.
2. Bộ Luật tố tụng dân sự 2015
3. Nguyễn Nữ Giang Anh, “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, 2010.

15

You might also like