You are on page 1of 373

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

GIÁO TRÌNH
ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
(HỆ TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ)

ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA


ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

NHÀ XUẤT BẢN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


Tập thể tác giả

Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Viết Thảo


Thành viên:
TT Tên bài và tác giả Trang
1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa….
PGS.TS. Hoàng Thị Bích Loan
PGS.TS. Vũ Văn Phúc
TS. Trương Nam Trung
TS. Mai Thế Hởn
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức……………………………………………….
PGS.TS. An Như Hải
TS. Lê Bá Tâm
TS. Hồ Thanh Thuỷ
3. Xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam………...
PGS.TS. Vũ Thị Phương Hậu
TS. Lương Huyền Thanh
TS. Nghiêm Thị Thu Nga
4. Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ………...
TS. Nguyễn Văn Thắng
5. Chính sách dân tộc, tôn giáo………………………………...
PGS.TS. Nguyễn Thanh Xuân
6. Chính sách xã hội, an sinh xã hội và quản lý phát triển xã
hội……………………………………………………………
TS. Đỗ Văn Quân
7. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…….
TS. Nguyễn Anh Tuấn
8. Chiến lược an ninh quốc gia………………………………...
TS. Trần Quốc Dương
9. Đường lối, chính sách đối ngoại…………………………….
PGS.TS. Phan Văn Rân
TS. Nguyễn Văn Dương
10. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí…………………………
PGS.TS. Nguyễn Cảnh Quý
TS. Đinh Thị Hương Giang
11. Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam……………………...
PGS.TS. Tường Duy Kiên
12. Công tác thi đua, khen thưởng………………………………
PGS.TS. Hoàng Phúc Lâm
TS. Ngô Thị Hải Anh
Bài 1
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Nắm vững những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Về kỹ năng
Nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng sáng tạo trong triển khai tổ chức
thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3. Về tư tưởng
Củng cố niềm tin khoa học, nền tảng tư tưởng trong mỗi học viên về phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
B. NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ THỂ CHẾ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Kinh tế thị trường
1.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường
Khi bàn về kinh tế thị trường có nhiều quan niệm khác nhau ở những cấp
độ, cách tiếp cận khác nhau. Có những quan niệm đơn giản cho rằng kinh tế thị
trường là nền kinh tế người mua muốn “mua rẻ” và người bán thì muốn “bán
đắt”. Quan niệm này chưa cho thấy nội hàm của nền kinh tế thị trường, mà chỉ
mới tiếp cận đến mục tiêu kinh tế của người mua, người bán. Có quan niệm bao
quát hơn khi cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế mà việc trao đổi hàng hóa
đã phát triển cả về quy mô, chủng loại và phạm vi trao đổi. Với quan niệm này
cho thấy được kinh tế thị trường đã có sự phát triển so với các mô hình kinh tế
trước đó. Tuy nhiên, quan niệm này mới chỉ đơn thuần hiểu về sự phát triển của

1
sản xuất và lưu thông hàng hóa, còn các nội dung khác như mối quan hệ kinh tế,
mục tiêu của nền kinh tế thị trường…chưa được phản ánh đầy đủ.
Như vậy, thống nhất quan niệm: Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa
phát triển ở trình độ cao, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra”
của sản xuất đều thông qua thị trường. Nền kinh tế thị trường vận động và phát
triển chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan và các hành vi ứng xử
của các chủ thể trong nền kinh tế đều hướng tới tìm kiếm lợi ích thông qua sự
điều tiết của cơ chế thị trường và giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại,
chứ không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản.
1.1.2. Đặc trưng chung của kinh tế thị trường
Thứ nhất, thừa nhận tính độc lập tương đối của các chủ thể kinh tế, các
chủ thể tự chủ trong các quyết định về kinh tế, tự chịu trách nhiệm về các hoạt
động của mình phù hợp với cơ chế thị trường và quy định của pháp luật, tự mình
được hưởng thành quả, đồng thời gánh chịu rủi ro về kinh tế.
Thứ hai, nền kinh tế tự vận động theo các quy luật vốn có của kinh tế thị
trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu
thông tiền tệ...Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của
nền kinh tế.
Thứ ba, cơ chế thị trường, giá cả thị trường là cơ sở trong huy động và
phân bổ các nguồn lực cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông
qua pháp luật kinh tế, cơ chế, chính sách kinh tế, nhằm phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
1.1.3. Cơ chế thị trường
1.1.3.1. Quan niệm cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế thị trường do sự tác
động, chi phối của các quy luật kinh tế khách quan nhằm giải quyết các vấn đề

2
cơ bản của nền kinh tế như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế
nào, thông qua sự điều tiết của các yếu tố thị trường như cung cầu, giá cả, cạnh
tranh…vì mục tiêu lợi nhuận.
Trên thị trường, quy luật giá trị được biểu hiện thông qua giá cả hàng hóa.
Sự lên xuống của giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Hay nói cách
khác, giá trị là cơ sở của giá cả. Ngoài cơ sở là giá trị, giá cả còn chịu ảnh hưởng
của các yếu tố khác như: quan hệ cung - cầu; quan hệ cạnh tranh; sức mua của
tiền tệ và các yếu tố chính trị, xã hội khác...
Quan hệ cung - cầu thể hiện quan hệ giữa lượng hàng hóa, dịch vụ cung
ứng với nhu cầu có khả năng thanh toán. Cung - cầu thường ở trạng thái mất cân
đối hoặc cung lớn hơn cầu (dư cung) hoặc cung nhỏ hơn cầu (dư cầu), bởi sự co
giãn cung - cầu lớn; sự cân đối giữa cung và cầu chỉ là sự tạm thời. Khi cung -
cầu không ăn khớp với nhau (về lượng, về chất) thì quy luật giá trị sẽ điều tiết
sản xuất hoặc tiêu dùng thông qua giá cả. Khi cung lớn hơn cầu giá cả hàng hóa
giảm, vì vậy sản xuất có xu hướng thu hẹp (cung giảm), tăng tiêu dùng (tăng
cầu). Ngược lại, khi cung nhỏ hơn cầu giá cả hàng hóa tăng, do đó tăng đầu tư
(sản xuất mở rộng), tức tăng cung và tiêu dùng có xu hướng giảm.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh cũng có tác động trực tiếp đến sản
xuất và tiêu dùng. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh giữa
những người sản xuất để giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi (địa điểm
sản xuất kinh doanh, các yếu tố đầu vào, thị phần, đối tác…). Cạnh tranh giữa
người mua với nhau khi hàng hóa dư cầu; cạnh tranh giữa những người sản xuất
(người bán) với người tiêu dùng (người mua). Mục tiêu cạnh tranh của các đối
thủ cạnh tranh là nhằm tối đa hóa lợi ích và công cụ của cạnh tranh trên thị
trường là giá cả, hàng hóa (số lượng hàng hóa, chất lượng, chủng loại, mẫu mã,
kiểu dáng… của hàng hóa) và ngoài ra bằng cả những hình thức khác như:
khuyến mãi, tặng qùa, các dịch vụ chăm sóc khách hàng…
Quy luật lưu thông tiền tệ là một trong những quy luật điều tiết nền kinh tế

3
thị trường. Quy luật lưu thông tiền tệ biểu hiện trên thị trường: khi lượng tiền lưu
thông trên thị trường lớn hơn vật đảm bảo ngang giá (hàng hóa) thì làm cho sức
mua của đồng tiền giảm do đó làm giá cả tăng lên hoặc ngược lại. Như vậy, quy
luật lưu thông tiền tệ tác động trực tiếp đến giá cả hàng hóa và giá cả hàng hóa
lại tác động đến cung - cầu trên thị trường, tức là nó tác động đến sản xuất, kinh
doanh. Mặt khác, bản thân cung tiền nó cũng là điều kiện cần thiết để mở rộng
hay thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh.
Trên thực tế giữa các quy luật và các quan hệ kinh tế này có tác động lẫn
nhau và thông qua sự hoạt động đó để xác định: sản xuất cái gì? sản xuất bao
nhiêu? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? nhằm mục tiêu lợi nhuận.
1.1.3.2. Những tác động của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường vừa có những tác động tích cực, vừa có những tác động
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tác động tích cực:
Để đạt mục tiêu lợi nhuận các chủ thể tham gia trên thị trường luôn cạnh
tranh với nhau và sự cạnh tranh đó là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, động lực vươn lên làm giàu, bởi nó đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải năng
động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh; hợp lý hóa quá trình sản xuất; tìm
kiếm, khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào; kích thích việc ứng
dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại để tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng hàng hóa và giảm giá thành sản phẩm. Mặt khác, với
cơ chế thị trường các chủ thể kinh tế được tự chủ sản xuất kinh doanh đã cung
cấp cho thị trường một khối lượng hàng hóa phù hợp, đa dạng về mẫu mã, chủng
loại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cả về lượng và chất; mở rộng thị
trường. Cơ chế thị trường cũng tạo ra sự tự điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng
ngày càng phù hợp với xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường và khai thác
được lợi thế so sánh. Đó cũng là một trong những cơ sở để thực hiện phân công
lao động xã hội.

4
Tác động tiêu cực:
Với động cơ chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà các chủ thể kinh tế có thể
dùng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường như: Gian lận
thương mại, buôn lậu, trốn thuế, sản xuất hàng giả, hàng nhái…làm phương hại
các đối thủ cạnh tranh, đến người tiêu dùng. Đồng thời, động cơ chạy theo lợi
nhuận cũng dễ dẫn đến việc khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây tổn hại môi trường
sinh thái.
Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường dưới tác động của quy
luật giá trị sẽ có sự phân hóa các chủ thể kinh tế trong xã hội thành người giàu,
người nghèo và sự phân hóa giàu - nghèo cũng có thể làm suy thoái đạo đức, lối
sống; trật tự xã hội bị đe dọa.
Từ đó cho thấy phải có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa những thất
bại của cơ chế thị trường, bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định.
1.1.3.3. Sự quản lý và điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường và cơ chế thị
trường có tác động hai mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự điều tiết
của Nhà nước đối với nền kinh tế để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường. Để thực hiện được mục tiêu đó Nhà nước phải thực
hiện các chức năng sau:
Một là, định hướng, tạo môi trường, kiểm soát và điều tiết sự phát triển
của nền kinh tế
Sự định hướng nền kinh tế của Nhà nước được thực hiện qua việc Nhà
nước xây dựng quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Trên cơ sở đó Nhà nước đầu tư, huy động các
nguồn lực trong và ngoài nước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như
giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc và các dịch vụ công khác tạo
môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh phát triển. Mặt khác, Nhà nước
tạo môi trường pháp lý thuận lợi như: hệ thống luật pháp đồng bộ, phù hợp với

5
luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản hướng dẫn, các định chế, các
chính sách phát triển kinh tế…để các chủ thể kinh tế có “sân chơi” bình đẳng, an
toàn, giảm thiểu rủi ro, tranh chấp.
Đồng thời các chiến lược, kế hoạch và hệ thống luật pháp, chính sách là
căn cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với nền kinh tế để
điều tiết các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng nhất định. Để nền kinh tế thị trường phát triển ổn định và bền vững
Nhà nước chỉ can thiệp (đầu tư) vào nền kinh tế khi cần thiết; chẳng hạn, đầu tư
ở lĩnh vực công, những ngành khu vực tư nhân không thể làm, không muốn làm
hoặc không được làm (theo quy định của luật pháp).
Hai là, phân bổ các nguồn lực và phân phối lại thu nhập
Do đặc trưng của kinh tế thị trường các chủ thể kinh tế được tự chủ sản
xuất, kinh doanh và mục tiêu hướng tới là tối đa hóa lợi nhuận nên dễ dẫn đến sự
cạnh tranh giành giật lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực quốc gia, do vậy
dễ làm tổn hại và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực đó, đặc biệt nguồn tài
nguyên dễ bị khai thác cạn kiệt. Mặt khác, sự cạnh tranh vô chính phủ cũng dẫn
đến sự phát triển mất cân đối, tính bất ổn trong nền kinh tế (chỉ chạy theo những
ngành, lĩnh vực có lợi nhuận cao). Vì vậy, sự điết tiết của Nhà nước là cần thiết
để đảm bảo cho các nguồn lực sử dụng có hiệu quả và đảm bảo hơn sự cân đối,
ổn định, giảm thiểu khủng hoảng kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường dưới tác động của quy luật giá
trị sẽ có phân hóa giàu - nghèo, những chủ thể kinh tế có những điều kiện sản
xuất, kinh doanh thuận lợi, chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thu lợi nhuận cao.
Ngược lại, những nhà sản xuất, kinh doanh gặp cản trở, điều kiện sản xuất kinh
doanh khó khăn và thất bại trong cạnh tranh sẽ bị thua lỗ, phá sản. Sự phân hóa
giàu - nghèo này nếu không có sự điều tiết hợp lý sẽ dẫn đến sự phân hóa xã hội
thành những nhóm người đối lập nhau và làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng
sâu sắc hơn và đó là nguyên nhân của sự đối đầu, đối kháng, bất ổn của xã hội.

6
Vì vậy, điều tiết của Nhà nước qua phân phối thu nhập nhằm làm giảm bớt sự
bất ổn trong xã hội là điều cần thiết để đảm bảo cho kinh tế - xã hội phát triển ổn
định.
Ba là, chủ trì giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường để đảm bảo
sự phát triển bền vững cho nền kinh tế
Nhà nước sẽ tham gia cung cấp các hàng hóa công cộng, các dịch vụ xã
hội. Mặt khác, do động cơ của các nhà sản xuất, kinh doanh trong kinh tế thị
trường là lợi nhuận, nên họ không hoặc ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội
như thiên tai, bệnh dịch, ô nhiễm môi trường; thậm chí vì chạy theo lợi nhuận họ
còn là “thủ phạm” về sự phá hủy môi trường sinh thái (do cắt giảm chi phí xử lý
môi trường). Vì vậy, giải quyết các vấn đề này không ai khác ngoài Nhà nước.
Nhà nước là lực lượng chủ lực để tổ chức thực hiện giải quyết các vấn đề thiên
tai, bệnh dich, thất nghiệp, môi trường; cung ứng hàng hóa công cộng, các dịch
vụ xã hội …để đảm bảo sự ổn định xã hội. Đó là điều kiện quan trọng cho kinh
tế phát triển bền vững.
1.2. Thể chế kinh tế thị trường
1.2.1. Quan niệm thể chế kinh tế thị trường
Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế, nó tồn tại
song trùng với các bộ phận khác nhau như thể chế chính trị, thể chế xã hội, thể
chế văn hóa …
Thể chế kinh tế là hệ thống luật pháp, những quy tắc, quy định, bộ máy
quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các
hành vi sản xuất, kinh doanh, các quan hệ kinh tế...và hệ thống chế tài tương
ứng.
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm hệ thống luật pháp,
các bộ quy tắc, quy định và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập
nhằm điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao dịch, trao đổi trên thị
trường và hệ thống chế tài nhằm đảm bảo việc thực thi có hiệu quả.

7
1.1.2. Các yếu tố cơ bản cấu thành thể chế kinh tế thị trường
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, các bộ quy tắc, chế định…;bao gồm thể chế
chính thức (bắt buộc mọi chủ thể phải thực hiện) thường quy định bằng pháp
luật, các văn bản quy phạm pháp luật và thể chế không chính thức (không bắt
buộc)…
Thứ hai, chính bản thân các bên tham gia thị trường với tư cách là các chủ
thể thị trường gồm Nhà nước, doanh nghiệp; tổ chức kinh tế; tổ chức chính trị -
xã hội; tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp; các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế và hoạt động của tổ chức này.
Thứ ba, cách thức tổ chức thực hiện các “luật chơi” nhằm đạt được mục
tiêu, hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn. Các cơ chế vận
hành kinh tế thị trường gồm: cơ chế cạnh tranh, cơ chế phân cấp, cơ chế phối
hợp, cơ chế tham gia, cơ chế điều tiết, kiểm tra, đánh giá, giám sát…).
Thứ tư, thể chế phát triển các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Nhà
nước thông qua hệ thống pháp luật và các công cụ chính sách vĩ mô để điều tiết
thị trường, tạo ra các "luật chơi chung", làm cho các chủ thể kinh tế đều đua
nhau sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Chính nhờ các công cụ này mà các Nhà
nước đã can thiệp khá thành công vào kinh tế thị trường hiện đại, giảm thiểu tác
hại của các cuộc khủng hoảng kinh tế, bảo đảm được sự phát triển tương đối ổn
định và bền vững.
2. QUAN NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Quan niệm và sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1.1. Quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Theo tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ IX xác định “phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của

8
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” 1.
Đại hội Đảng lần thứ XI làm rõ nội hàm, mục tiêu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đây là hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội”2.
Đại hội Đảng lần thứ XII xác định quan niệm kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa rõ về nội hàm, mục tiêu và cách thức thực hiện: “Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”3.
Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”4.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001,
tr.86.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr.
204-205.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2016,
tr.102.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập

9
Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường thể
hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế và điều tiết nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, giải quyết vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường. Thứ
hai, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là điều kiện
chính trị tiên quyết đảm bảo quá trình phát triển kinh tế thực hiện theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường phải phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Thứ tư, xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Thứ năm, phát triển nền kinh tế thị trường phải thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân.
2.2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Do sự phát triển của phân công lao động xã hội. Đối với nước ta, thực
hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa về thực
chất là quá trình phát triển “rút ngắn” tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nước
ta hiện nay bao gồm nhiều ngành kinh tế khác nhau, do tác động của công nghiệp
hoá, hiện đại hóa nền kinh tế đang xuất hiện thêm nhiều ngành nghề mới với
trình độ chuyên môn hoá cao hơn. Thêm vào đó, chuyên môn hoá và hợp tác hóa
sản xuất trong một số lĩnh vực đã vượt khỏi biên giới quốc gia và mang tính
quốc tế. Điều này nghĩa là, mặc dù còn ở trình độ thấp hơn các nước phát triển,
nhưng phân công lao động trong nền kinh tế nước ta hiện nay đã và đang tạo
điều kiện khách quan cho phát triển kinh tế thị trường.

I, tr 128.

1
- Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sự lựa chọn cách đi tới mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả và thuận lợi hơn. Lô gíc và lịch
sử phát triển xã hội loài người chứng minh: kinh tế hàng hoá đã từng xuất hiện
rất sớm, từ trước khi có chủ nghĩa tư bản. Trong giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư
bản, kinh tế thị trường phát triển đạt trình độ rất cao. Thực chất, nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa là nền sản xuất vì giá trị thặng dư, vì lợi nhuận. Do vậy, kinh tế thị
trường và chủ nghĩa tư bản là hai thực thể, hai động lực kinh tế hoàn toàn khác
nhau, không đồng nhất với nhau và càng không thể coi kinh tế thị trường là sản
phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Với sự phát triển của kinh tế thị trường qua các thời kỳ lịch sử cho thấy,
nó luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và nâng cao
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm giá thành đáp ứng
nhu cầu đời sống xã hội. Xét trên góc độ đó thì sự phát triển kinh tế thị trường
không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong thời kỳ
quá độ cần phải vận dụng kinh tế thị trường như một cơ chế để phục vụ nền kinh
tế nhiều thành phần quá độ lên chủ nghĩa xã hội; có thể để nó xâm nhập vào
những quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm thiết lập nên những quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự
lựa chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu
của thời đại.
Không có kinh tế thị trường trừu tượng chung chung cho mọi giai đoạn
phát triển, mà luôn gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, kinh tế thị trường gắn bó hữu cơ và chịu sự
chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Ngay trong chế độ
kinh tế - xã hội giống nhau, sự phát triển của kinh tế thị trường ở mỗi dân tộc
khác nhau cũng sẽ mang màu sắc, đặc tính không giống nhau. Ví như, cũng là
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nhưng kinh tế thị trường tiêu dùng của Mỹ

1
khác với kinh tế thị trường xã hội của cộng hòa liên bang Đức, khác với kinh tế
thị trường cộng đồng của Nhật Bản…Trong tiến trình phát triển khách quan của
lịch sử, tất yếu sẽ có một nền kinh tế thị trường tồn tại và bị chi phối bởi hệ
thống quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việt Nam lựa
chọn mô hình đặc thù cho mình (có mục tiêu và động lực mới) - đó là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Những tác dụng của phát triển kinh tế thị trường
+ Phát triển kinh tế thị trường thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát
triển.
+ Phát triển kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phân công lao
động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất.
+ Phát triển kinh tế thị trường sẽ kích thích tính năng động sáng tạo của
các chủ thể kinh tế trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã,
tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ đa dạng phong phú.
+ Phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, tạo điều kiện đưa nền sản xuất nước ta lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa.
+ Phát triển kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thực tiễn qua thời kỳ đổi mới nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế
thị trường đã đạt được những thành tựu lớn. Điều đó chứng tỏ nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường là phù hợp với điều kiện Việt Nam trong bối cảnh
thế giới mới. Kết quả 35 năm đổi mới cho thấy sự tồn tại và phát triển kinh tế thị
trường là khách quan và cần thiết cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Từ phân tích trên cho thấy, sự lựa chọn phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là quyết định vừa phù hợp với xu thế phát triển khách
quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước. Kinh
tế thị trường được sử dụng như một công cụ, phương tiện, con đường để thực
hiện chiến lược phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách tụt hậu và chủ động hội

1
nhập kinh tế các nước trong khu vực và thế giới.
2.3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
2.3.1. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao
năng suất lao động xã hội, từng bước xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Đảng ta xác định: “ Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” 5.
2.3.2. Về sở hữu và thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Với chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước các chủ thể kinh tế
được quyền lựa chọn các hình thức sở hữu để phù hợp với yêu cầu và phát huy
tối ưu tiềm năng trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo luật pháp. Xu hướng
trong sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thức
công hữu ngày càng trở thành hạt nhân cơ bản trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Với sự tồn tại đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tất yếu nền kinh tế đó có nhiều thành
phần kinh tế. Đảng ta xác định, “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó:
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh

5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập
I, tr 112.

1
tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” 6. Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế được tự chủ sản xuất kinh doanh và chịu sự điều tiết của các
quy luật thị trường, luật pháp của Nhà nước. Giữa các chủ thể vừa có sự hợp tác,
vừa có cạnh tranh và được bình đẳng trước pháp luật.
Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế,
xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của
Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
2.3.3. Về cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể
chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân
đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng,
thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã
hôi, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng
kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị
trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập
6

I, tr 128 - 129.

1
lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết
hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ
chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp các hoạt động, giải quyết những
vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành
viên trong quan hệ với chủ thể, đối tác khác,...” 7. Cần nhận thức đúng và xử lý
hiệu quả quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
2.3.4. Về phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao
gồm phân phối các nguồn lực quốc gia cho sự phát triển kinh tế - xã hội và phân
phối thu nhập. Các nguồn lực cho sự phát triển, đặc biệt là các nguồn lực quốc
gia mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu như: tài nguyên, khoáng sản, đất đai,
ngân sách nhà nước…được tiến hành phân phối theo lộ trình thực hiện chiến
lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong từng giai đoạn và đảm
bảo lợi ích quốc gia trong dài hạn. Việc chi tiêu ngân sách tăng chi đầu tư phát
triển, xóa đói, giảm nghèo, giáo dục, nghiên cứu khoa học và y tế…thu hút
nguồn lực của xã hội đầu tư vào một số hoạt động kinh tế, xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình
thức phân phối: “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho
phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”8.
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được xác định: đảm bảo từng bước cải thiện và nâng cao đời

7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập
I, tr 130- 131.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia. H 2011,
tr.74.

1
sống của nhân dân. Căn cứ để tiến hành phân phối là kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế; đồng thời, kết hợp với các hình thức phân phối khác để huy động
được nguồn lực xã hội như: phân phối theo vốn, theo tài năng, tài sản đóng góp
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh các hình thức phân phối
thu nhập đó cần thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội để thực
hiện xóa đói, giảm nghèo nhất là các đối tượng chính sách, vùng sâu, vùng xa.
Đảng ta đã khẳng định: “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn
với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ
tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân
phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả”9.
3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
3.1.1. Kinh tế thị trường còn ở trình độ thấp biểu hiện ở trình độ phát
triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực
để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội. Trình độ khoa học công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so
với nhóm đầu khu vực. Hiệu quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và ứng dụng
kết quả nghiên cứu chưa cao. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện nghiên
cứu, trường đại học còn hạn chế. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công
nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế.
Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và
doanh nghiệp thực hiện đổi mới, ứng dụng công nghệ, đặc biệt là các công nghệ
tiên tiến, thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đầu tư cho khoa học,

9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, tập
I, tr 149.

1
công nghệ chưa cao.
Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy có tăng về số lượng, nhưng thiếu
các nhà khoa học đầu ngành, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh thiếu, sử dụng và quản lý kém hiệu
quả, hạn chế đến mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt thấp so với kế hoạch đề ra; khu vực
doanh nghiệp khó khăn về vốn, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Đầu tư dàn trải, vốn
thất thoát, rò rỉ, hiệu quả đầu tư thấp đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bị kéo dài
tình trạng khan hiếm vốn.
Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển. Nguồn nhân lực chất lượng cao tăng chậm chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu của người sử dụng lao động, thiếu nhân lực chất lượng cao ở nhiều
lĩnh lực, ngành nghề.
Hệ thống kết cấu hạ tầng còn hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển,
chất lượng chưa cao, chưa bảo đảm tính đồng bộ, ảnh hưởng đến hiệu quả khai
thác, vận hành. Kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, tính kết nối giữa các
loại hình vận tải chưa cao. Đầu tư mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực đường bộ,
chưa quan tâm đúng mức đến đường sắt, đường thủy.
Quan hệ về sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối đã có những đổi mới căn
bản theo xu hướng của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sự đổi mới còn chậm
chưa đáp ứng được tốc độ phát triển nền kinh tế thị trường, chưa theo kịp yêu
cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể“ Hệ thống phân phối còn bất cập, chưa
kết nối hiệu quả, thông suốt từ khâu sản xuất đến tiêu thụ”10.
Trình độ tổ chức quản lý còn hạn chế (cả ở tầm vĩ mô và cả ở tầm vi mô);
biểu hiện ở các mặt sau: “Phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các

10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021,
tập II, tr 63.

1
cấp chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; năng lực của một số địa phương chưa đáp
ứng yêu cầu”11. “Thực thi pháp luật chưa hiệu quả, chấp hành pháp luật có nơi
chưa nghiêm, việc giám sát chưa chặt chẽ, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao.
Thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám
đột phá, dám chịu trách nhiệm cả ở khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Tham
nhũng, lãng phí ở một số nơi còn nghiêm trọng. Hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra còn chồng chéo”12. Và kết quả là trong nền kinh tế tình trạng thất thoát,
lãng phí, tham nhũng kéo dài nhiều năm chưa khắc phục được, thậm chí có một
số lĩnh vực còn có xu hướng gia tăng làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp,
nền kinh tế còn tiềm ẩn sự bất ổn; Các vấn đề về sở hữu, phân phối chưa giải
quyết theo đúng quan hệ thị trường nên chưa tạo động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
3.1.2. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường phát triển chưa đầy
đủ, chưa đồng bộ
Từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường nên những
tư tưởng, tư duy của nền kinh tế cũ tồn tại trong sự vận hành của nền kinh tế, cản
trở đến sự phát triển kinh tế thị trường. Mặc dầu, sự chuyển đổi sang cơ chế thị
trường 35 năm qua nhưng những tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước vẫn
“đeo bám” các doanh nghiệp như chờ sự hỗ trợ, bù lỗ, cho vay ưu đãi của Nhà
nước… Những tư tưởng đó đã tạo nên sức ì trong nền kinh tế, các doanh nghiệp
chưa thực sự xâm nhập vào nền kinh tế thị trường một cách bình đẳng, môi
trường cạnh tranh thiếu minh bạch…Và các yếu tố của nền kinh tế thị trường sẽ
thiếu và chưa hoàn thiện.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đồng bộ, đầy
đủ để đảm bảo thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả, chưa thực sự đáp ứng

11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021,
tập II, tr 74.
12
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021,
tập II, tr 76.

1
yêu cầu thúc đẩy nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập. Thị trường chưa là cơ
sở, căn cứ huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển trong một số lĩnh vực.
Một số thị trường chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhất là thị
trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ.
3.1.3. Hiệu lực, hiệu qủa quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội trên một
số lĩnh vực còn hạn chế, yếu kém
Công tác quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém. Tình
trạng phân tán, dàn trải, chưa tính toán kỹ hiệu quả trong đầu tư từ vốn ngân sách
và tín dụng ưu đãi của nhà nước; lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư từ nguồn
vốn ngân sách và trong tài chính doanh nghiệp.
Cơ chế phân cấp quản lý kinh tế, quản lý ngân sách nhà nước và đầu tư
được đẩy mạnh nhưng trong thực hiện còn thiếu đồng bộ, thiếu các cơ chế giám
sát hiệu quả. Công tác quản lý tài chính, tài sản công, đất đai ở một số cơ quan,
đơn vị còn kém hiệu quả.
Quản lý xã hội còn một số hạn chế, chưa bảo đảm tính đồng bộ, chính
quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức quản lý xã hội. Năng lực quản lý
của một số địa phương chưa đáp ứng yêu cầu.
Dịch vụ hành chính công trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, năng lực,
phẩm chất, ý thức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa
đáp ứng yêu cầu.
3.1.4. Kinh tế thị trường phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế vừa
tạo cơ hội, vừa có những thách thức
Cơ hội: Hội nhập kinh tế quốc tế cho phép tranh thủ được các nguồn lực
bên ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh như vốn, khoa học và công nghệ,
kinh nghiệm tổ chức quản lý nền sản xuất lớn để phát triển kinh tế thị trường,
nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, mở rộng và phát triển thương mại quốc
tế để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu tạo tiền đề đáp ứng nhu cầu đầu vào và
giải quyết đầu ra cho nền kinh tế thị trường. Những năm qua khi Việt Nam hội

1
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế đã tạo cơ hội cho xuất nhập khẩu không
ngừng tăng lên.
Mở cửa nền kinh tế là cơ hội để tranh thủ vốn, kỹ thuật công nghệ để phát
triển giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc; giáo dục, y tế đó là những
hạ tầng kinh tế - xã hội cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thách thức: Năng lực cạnh tranh thấp, đây là thách thức lớn nhất hiện nay
của nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hệ thống luật
pháp chưa hoàn thiện và chưa đồng bộ. Vì vậy, khi vận hành nền kinh tế thị
trường sẽ thiếu những cơ sở pháp lý để quản lý, ngăn ngừa, xử lý những vi
phạm. Đặc biệt, có những luật chưa tương thích với những thông lệ và luật pháp
quốc tế, do đó, các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên thị
trường quốc tế khó tránh khỏi những vi phạm luật pháp và thông lệ quốc tế.
Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay cũng là thách thức lớn bởi trên thực tế
lực lượng lao động không có tay nghề dôi thừa lớn tạo áp lực việc làm lớn,
nhưng lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường hiện đại (sản xuất kinh
doanh những ngành nghề chất lượng cao) lại rất thiếu.
Khai thác tài nguyên thiếu bền vững, hiệu quả quản lý sử dụng chưa cao,
chưa theo nguyên tắc thị trường, nhất là đất đai. Chất lượng không khí ở các đô
thị lớn có dấu hiệu suy giảm; rác thải ở khu vực nông thôn, ô nhiễm môi trường
ở các làng nghề, các nhà máy sản xuất công nghiệp gia tăng. Có thể thấy, sự khai
thác tài nguyên bừa bãi, quản lý của các cơ quan nhà nước kém hiệu quả, làm
cho tài nguyên của quốc gia cạn kiệt, nhất là các tài nguyên không tái tạo được;
tình trạng môi trường ô nhiễm ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống.
Trong thời kỳ đổi mới đầu tư để phát triển hệ thống giao thông, điện,
nước, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế rất lớn, nhiều công trình đã đưa vào sử
dụng phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ,
hiện đại chưa đạt yêu cầu. “ Tính kết nối trong phát triển hạ tầng, đặc biệt là giao

2
thông thiếu đồng bộ, đầu tư mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực đường bộ, chưa
quan tâm đúng mức đến đường sắt, đường thủy, thiếu các cảng biển, cảng sông
hiện đại để phát triển kinh tế và du lịch. Vận tải hàng hóa trong nước chủ yếu là
đường bộ, chi phí logistics còn ở mức cao.” 13.
3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3.2.1. Tiếp tục nhận thức và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thống nhất và nâng cao nhận thức đúng, đầy đủ bản chất, mục tiêu và đặc
trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên
quyết, quan trọng cho việc xây dựng và phát triển mô hình kinh tế này.
- Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh
tế, các loại hình doanh nghiệp, kinh tế hợp tác, hợp tác xã.
+ Hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các
loại thị trường.
+ Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.
+ Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính
trị - xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021,
tập II, tr 68- 69.

2
+ Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số.
3.2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến
bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự chuẩn bị những tiền đề vật
chất cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển. Là con
đường tối ưu rút ngắn khoảng cách tụt hậu, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, nhất là trong điều kiện phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (4.0).
- Điều chỉnh, bổ sung chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh
tế, các ngành, lĩnh vực, các vùng phù hợp với thực tiễn đất nước và trình độ phát
triển khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới.
- Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Phải thay đổi căn bản
những ngành chủ yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn
có, sẽ có xu hướng giảm nhanh.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát
triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo
hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.
- Phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng những
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng
cao.
- Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt
chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên,
môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến
đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại.

2
- Nâng cao chất lượng quy hoạch vùng; đổi mới, hoàn thiện thể chế quản
lý vùng có hiệu quả, phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của từng vừng, tăng
cường liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng.
3.2.3. Phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường là nhân tố để giải quyết các
mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường; đáp ứng yêu cầu đầu vào và đầu ra của
nền kinh tế. Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường; do đó,
các yếu tố thị trường chưa hoàn thiện và các thị trường phát triển chưa đồng bộ
để nền kinh tế thị trường phát triển. Vì vậy, phải hình thành và phát triển đầy đủ,
đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Cụ thể:
- Tạo môi trường (môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội) để các
yếu tố của thị trường phát triển lành mạnh, hiệu quả. Đổi mới và hoàn thiện thể
chế về giá, cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, giải quyết tranh chấp. Thực hiện
nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công
cơ bản.
- Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị
trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. “Vận hành đồng bộ thị trường
quyền sử dụng đất, thị trường lao động, thị trường bất động sản, khoa học và
công nghệ, tài chính…theo chuẩn lực của nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại,
hội nhập quốc tế”14.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
- Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn

14
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021,
tập II, tr 98.

2
mạnh, là nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững cân đối lớn, bảo đảm an ninh
kinh tế, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia.
- Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào
một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước
tác động tiêu cực từ những biến động của nền kinh tế thế giới, khu vực; chủ động
hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường
trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế.
- Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh
hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật phù hợp với các điều ước quốc tế và các cam kết quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết. Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế, nâng cao năng
lực hội nhập và mức độ hưởng lợi từ hội nhập.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế,
thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế,
trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết
tranh chấp quốc tế.
3.2.5. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà
nước và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
- Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế -
xã hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế -
xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường
lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo của Đảng trong hoạch định đường lối,
chính sách phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại và thực tiễn Việt Nam.
Tăng cường sự thống nhất trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng chống lợi dụng dân chủ để mưu cầu
lợi ích riêng, cục bộ.

2
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo
thông suốt, kịp thời, đúng đắn của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp.
Cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng, nhất là
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát
triển: tập trung tạo dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách và môi trường,
điều kiện thuận lợi, an toàn để kinh tế thị trường vận hành đầy đủ, thông suốt,
hiệu quả và hội nhập quốc tế là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa.
“Xây dựng nhà nước kiến tạo, chính phủ liêm chính, hành động, phục vụ;
nền hành chính hiện đại chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch. Tăng
cường năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế” 15.
- Nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của
nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. “Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức
chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện
xã hội và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước” 16.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị
trường?
2. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP

15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021,
tập II, tr 147.
16
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021,
tập II, tr 99.

2
1. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam?
2. Quan niệm, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam?
3. Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam cần có những giải pháp gì?
E. TÀI LIỆU HỌC TẬP
* Tài liệu bắt buộc
1. Ban chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 11-NQ/TW Hội nghị lần thứ
5 khóa XII “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, tập I, II, H.2021.
* Tài liệu đọc thêm
1. Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ
5 khóa XII “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011.
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2016.

2
Bài 2
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Trang bị những kiến thức chủ yếu trong quan điểm, đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức trong bối cảnh mới của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
2. Về kỹ năng
Nâng cao năng lực vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, chính sách
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn công tác, góp
phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Về tư tưởng
Tin tưởng vững chắc vào đường lối, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Đảng và Nhà nước; trên cơ sở đó, định
hướng tư tưởng và thái độ hưởng ứng và thực hiện tốt nhiệm vụ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong đơn vị.
B. NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa trên thế giới được bắt đầu ở nước Anh vào cuối thế kỷ
thứ XVIII đi liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cho tới nay,

2
công nghiệp hóa đã được diễn ra ở nhiều quốc gia tại các thời điểm và bối cảnh
khác nhau. Các nước đang phát triển bắt đầu công nghiệp hóa vào những năm 50
thế kỷ XX trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Tuy có
nhiều nước đã trở thành nền kinh tế công nghiệp và đang đi tới một xã hội hiện
đại, nhưng vẫn còn không ít nước, trong đó có Việt Nam, đang trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đến nay, đã có nhiều khái niệm khác nhau về công nghiệp hóa do dựa vào
các tiêu chuẩn khác nhau như thu nhập quốc dân, cơ cấu kinh tế, cơ cấu công
nghiệp, cơ cấu lao động, mức độ phát triển công nghiệp chế tác, loại công cụ sản
xuất, các hàm sản xuất cơ bản, phương thức sản xuất, v.v… Tuy nhiên, có thể
nhận biết công nghiệp hóa trong tất cả các thời kỳ phát triển của nó theo hai
nghĩa như sau:
Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế
nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo,
từ chỗ tỷ trọng của nông nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho
công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn (cả về lao động, giá trị gia tăng…).
Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ xã hội nông
nghiệp lên xã hội công nghiệp, từ nền văn minh nông nghiệp lên nền văn minh
công nghiệp. Nó không chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà còn bao
gồm cả các biến đổi về chính trị, văn hóa, xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên
trạng thái công nghiệp, tức là lên trình độ một nền văn minh cao hơn.
Từ đó, có thể hiểu công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế
nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông
nghiệp lên xã hội công nghiệp, từ nền văn minh nông nghiệp lên văn minh công
nghiệp. Về kinh tế, đây là quá trình cấu trúc lại nền sản xuất xã hội từ việc lấy
nông nghiệp làm nền tảng sang lấy công nghiệp làm nền tảng để phát triển.
1.1.2. Hiện đại hóa

2
Hiện đại hóa là quá trình “làm cho mang tính chất của thời đại ngày
nay”17. Đó là quá trình biến đổi từ tính chất truyền thống cũ lên trình độ tiên tiến
của thời đại hiện nay. Về kinh tế và xã hội, hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch
căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế
và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay.
Hiện đại hóa chỉ có tính so sánh về thời gian trước sau, còn thời gian khởi
đầu và thời gian kết thúc lại xác định tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Tại nước Anh trước kia, thời kỳ công nghiệp hóa đồng thời cũng là giai đoạn
hiện đại hóa, vì là nước đi đầu. Còn đối với các nước đang phát triển ngày nay
thì đây là hai quá trình khác nhau, nhưng có quan hệ với nhau. Ở mỗi giai đoạn
lịch sử với trình độ phát triển khác nhau, hiện đại hóa có những đặc trưng khác
nhau. Ngày nay, đối với các nước phát triển, hiện đại hóa là quá trình chuyển nền
kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức và kinh tế số, chuyển dịch xã hội từ
nền văn minh công nghiệp lên nền văn minh trí tuệ. Còn đối với các nước đang
phát triển, hiện đại hóa là quá trình tận dụng cơ hội để phát triển tăng tốc nhằm
đuổi kịp các nước phát triển, trước hết là giai đoạn công nghiệp hóa, đồng thời
lựa chọn các giải pháp thiết thực sớm trở thành một xã hội hiện đại. Thực chất,
đây là quá trình phát triển rút ngắn, là con đường và cách thức phát triển của
nước đi sau.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại
về công nghiệp hóa và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là một
nước đi sau trong quá trình phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam tại Hội nghị
Trung ương lần thứ bảy khóa VII (năm 1994), nêu quan niệm: “Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
17
Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Nxb Đà Nẵng, 1997, tr 422.

2
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” 18.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nội dung rất quan trọng trong
đường lối đổi mới để phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.3. Kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là tên gọi được sử dụng phổ biến trên thế giới kể từ đầu
những năm 1990, do nhận thức các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc nhiều hơn
vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Kinh tế tri thức là nền kinh tế
dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin 19. Trong
nền kinh tế tri thức, các hoạt động sáng tạo, truyền bá và sử dụng tri thức được
coi là động lực chủ yếu để tạo ra việc làm, của cải và tăng trưởng trong tất cả các
ngành kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội.
Nếu việc sản xuất trong nền kinh tế nông nghiệp dựa chủ yếu vào sức cơ
bắp của con người và tài nguyên thiên nhiên, còn trong nền kinh tế công nghiệp
tuy đã có sự trợ giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con người và tài
nguyên thiên nhiên vẫn là chủ yếu, thì trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng
vai trò quyết định hàng đầu. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức là bộ phận nguồn
lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, sáng tạo là động lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Cơ sở của nền kinh tế tri thức là
tri thức.
1.1.4. Kinh tế số
Vào thập niên đầu của thế kỷ XXI, các nước trên thế giới bắt đầu chuyển
sang cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với hướng phát triển chính là các
ngành công nghiệp sáng tạo. Mở đầu là các ngành công nghiệp phát triển dựa
trên công nghệ kỹ thuật số mới như trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big
data), sự tiến hóa lần thứ ba của Internet, Internet vạn vật (IoT), Blockchain, kinh
tế chia sẻ (hay còn gọi là kinh tế hợp tác - sharing economy), máy in 3D, 4D và
18
Đảng Cộng sản Việt Nam :Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VII, H,1994, tr.
65. 19OCDE/GD(96)102, The Knowledge-Based Economy, Organisation For Economic Co-operation and
Development, Paris 1996, p. 6.

3
dịch vụ đám mây. Những công nghệ mới đó đã tạo cơ sở ra đời và phát triển nền
kinh tế số.
Nền kinh tế số là một nền kinh tế trong đó mạng lưới các hoạt động kinh tế
và xã hội được xây dựng và diễn ra trên nền tảng các hoạt động công nghệ
thông tin và truyền thông sử dụng các công nghệ kỹ thuật số. Nền kinh tế số còn
được gọi là “kinh tế internet”, “kinh tế web” hay “kinh tế mới”20.
Đó là một nền kinh tế được vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ kỹ thuật
số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet, mạng di động
và mạng cảm biến. Trong nền kinh tế số, một loạt các lĩnh vực và ngành kinh tế,
từ công nghiệp, nông nghiệp cho đến dịch vụ; từ sản xuất đến phân phối và lưu
thông hàng hóa cho đến các hạ tầng hỗ trợ như giao thông vận tải, logistics, tài
chính, ngân hàng,... đều phải coi trọng việc ứng dụng công nghệ thông tin và
kiến thức số hóa. Nó được phát triển dựa trên trình độ cao hơn hẳn so với các
nền kinh tế trước đây.
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu công nghiệp hóa vào cuối năm 1960, kể từ Đại hội III
của Đảng. Đến năm 1986, quá trình công nghiệp hóa ở nước ta đã trải qua 2 giai
đoạn: Công nghiệp hóa ở miền Bắc (1960-1975) và công nghiệp hóa trên phạm
vi cả nước (1975 – 1986). Do nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo tư
duy cũ, với mô hình nền kinh tế khép kín và do nóng vội, giản đơn, chủ quan
duy ý chí, nên nền kinh tế vẫn trong tình trạng nước nghèo và kém phát triển.
Kể từ khi đổi mới (năm 1986), việc nhận thức và giải quyết vấn đề phát
triển lực lượng sản xuất của Đảng ta đã ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Hội
nghị Trung ương lần thứ Bảy khóa VII (tháng 1/1994) của Đảng nêu chủ trương
công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đến Đại hội IX (năm 2001), đường lối
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức được

3
20
OECD, The Digital Economy 2012, Page 5.

3
hình thành. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức không chỉ là bước đi tất yếu mà còn là cần thiết đối với Việt Nam
trong thời đại ngày nay.
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức và kinh tế số là
con đường tất yếu, có tính quy luật đối với mọi quốc gia trên con đường trở
thành một xã hội hiện đại.
Thật vậy, để tiến hành sản xuất, con người đã phải tìm hiểu và khám phá
thế giới xung quanh. Nhờ những tìm hiểu và khám phá ấy, con người đã chế tạo
ra được những công cụ lao động và những phương tiện cần thiết khác làm cho
việc sản xuất ngày càng có năng suất và hiệu quả cao hơn. Sản xuất xã hội càng
phát triển càng chứng tỏ trình độ hiểu biết sâu sắc của con người đối với thế giới,
con người càng có những tư liệu lao động hoàn thiện hơn. Quá trình phát triển
này tất yếu chuyển nền sản xuất từ sử dụng công cụ thủ công lên sản xuất bằng
máy, tức là xã hội bước sang giai đoạn công nghiệp hóa.
Thêm vào đó, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp và các nền
kinh tế phải đối mặt với cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển, các chủ thể kinh tế
phải đổi mới công nghệ, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm, phải sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực. Đòi hỏi đó, tất yếu
thúc đẩy quá trình chuyển việc sản xuất chủ yếu dựa vào công cụ lao động thủ
công lên sản xuất bằng máy và lên trình độ ngày càng cao hơn. Đây chính là quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì mức độ cạnh tranh cũng ngày
càng gay gắt hơn. Việc tìm và tạo ra lợi thế cạnh tranh, tham gia phân công lao
động, vào chuỗi giá trị sản xuất trong nước và quốc tế để tồn tại và phát triển là
yêu cầu bắt buộc đối với mọi chủ doanh nghiệp và mọi quốc gia. Trong bối cảnh
đó, những lợi thế do những biến đổi chủ quan thông qua hoạt động của con
người ngày càng trở nên quyết định hơn so với lợi thế do phân bố ngẫu nhiên về

3
tài nguyên và vị trí của đất nước. Chính vì thế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất
yếu ngày càng đạt tới trình độ cao hơn,
Thực tế lịch sử đã cho thấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức
và ngày nay phát triển kinh tế số là các giai đoạn phát triển có tính bắt buộc đối
với mọi quốc gia trên con đường trở thành nền kinh tế ngày càng hiện đại. Do
tầm quan trọng của nó, các giai đoạn phát triển này đã được nhận thức và đã trở
thành nội dung trọng yếu trong chính sách, chiến lược phát triển của nhiều quốc
gia. Mặc dù tự thị trường vẫn có thể thúc đẩy quá trình phát triển, nhưng vai trò
của nhà nước là rất cần thiết để công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện
nhanh hơn, có hiệu quả hơn.
Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
là cách thức để Việt Nam sớm ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển.
Nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện khoa học
và công nghệ trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ chưa từng có, các nước
đang trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chuyển mạnh lên kinh tế tri
thức và kinh tế số. Ở trong nước, tuy đã có những phát triển tích cực, nhưng về
cơ bản, chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển.
Đất nước vẫn phải đương đầu với những thách thức gay gắt và những nhiệm vụ
nan giải: một mặt, tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản đặt ra cho nền kinh tế
trong quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên trình độ của nền kinh tế công
nghiệp, như bảo đảm lương thực, thực phẩm, nhu cầu nước sạch, trường học, đi
lại cho người dân; mặt khác, phải nhanh chóng nắm bắt các xu thế phát triển hiện
đại không những chỉ để chống tụt hậu ngày càng xa hơn so với trình độ chung
của thế giới, mà còn phải thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển khi bản
thân họ đã có trình độ phát triển cao hơn. Khi các yếu tố cho phát triển kinh tế xã
hội không chỉ đơn thuần là vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, mà còn có
thêm yếu tố tri thức với ý nghĩa ngày càng có vai trò quan trọng, trực tiếp và
quyết định, nếu không nhanh chóng nắm bắt và vận dụng được tri thức mới thì sẽ

3
không thể tránh khỏi sự tụt hậu, cách xa so với các nước phát triển. Trong điều
kiện đó, chúng ta không thể bỏ lỡ cơ hội, mà phải tìm giải pháp bứt phá, phải
khai thác “lợi thế nước đi sau” nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số.
Chỉ có mạnh dạn đi vào phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số, chúng ta
mới có khả năng đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế
số còn là cần thiết để cải thiện và nâng cao mức sống người dân.
Thứ ba, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức là yêu cầu bắt buộc để tạo lập cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội.
Cơ sở vật chất- kỹ thuật của một phương thức sản xuất là toàn bộ các yếu
tố vật chất của lực lượng sản xuất tương ứng với trình độ kỹ thuật, công nghệ
nhất định; dựa vào đó lực lượng lao động của xã hội tiến hành sản xuất của cải.
Trình độ đạt được của cơ sở vật chất-kỹ thuật chính là tiêu thức dùng để xác định
một thời đại kinh tế, phân biệt phương thức sản xuất chứa đựng nó thuộc loại
hình kinh tế - xã hội lịch sử nào.
Các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản đều dựa trên cơ sở vật
chất-kỹ thuật với công cụ lao động thủ công, lạc hậu, năng suất thấp. Phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến thắng phương thức sản xuất phong
kiến vì nó tạo ra nền đại công nghiệp để có năng suất lao động cao hơn. Điều này
tức là, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa tất yếu phải phát triển dựa trên cơ
sở vật chất-kỹ thuật ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện
đại với cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng khoa học
và công nghệ tiên tiến, được hình thành có kế hoạch trên toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Nó không chỉ kế thừa những thành quả văn minh nhân loại đã đạt
được trong chủ nghĩa tư bản, mà còn được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở

3
những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, tham gia tích cực và có
hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Đối với các nước đã qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc xác lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội được tiến hành thông qua kế thừa, điều chỉnh và hoàn thiện cơ sở
vật chất - kỹ thuật đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của chế độ
mới và phát triển nó lên trình độ cao hơn. Tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật để
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực là đòi hỏi có tính bắt buộc đối với tất cả các
nước muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội21.
V.I. Lênin viết: “Cơ sở vật chất duy nhất và thực sự để làm tăng của cải
của chúng ta, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là đại công
nghiệp... Không có một nền đại công nghiệp tổ chức cao thì không thể nói đến
chủ nghĩa xã hội được, mà lại càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội ở một
nước nông nghiệp được”22.
Đòi hỏi này càng trở nên cấp thiết đối với một nước có điểm xuất phát
thấp như Việt Nam. Con đường cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay tất yếu phải là đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số.
Thứ tư, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng phát triển nổi
trội hiện nay. Trong xu hướng này, nhân loại đang đẩy nhanh việc đi đến một thị
trường thế giới thống nhất, một hệ thống tài chính tín dụng toàn cầu, phát triển,
phân công lao động quốc tế hướng mạnh theo chiều sâu, giao lưu khoa học và
công nghệ giữa các nước ngày càng mở rộng23. Hội nhập kinh tế quốc tế thúc

21
Xem: V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, tr. 218.
22
V.I.Lênin: Toàn tập, Tập 32, Nxb Sự thật, H,1970, tr.528-529.
23
Theo thông tin thì trong vòng ba chục năm gần đây, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của thương
mại quốc tế cao gấp khoảng 1,5-1,6 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu. Nếu tốc độ tăng trưởng mậu

3
dịch

3
đẩy các doanh nghiệp và các quốc gia sẵn sàng hợp tác với nhau để cùng hưởng
lợi do hợp tác mang lại.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo cơ hội cho sự phát triển nhảy vọt
của nước đi sau, nhưng nó cũng đặt ra không ít thách thức đòi hỏi mỗi nước phải
biết lựa chọn giải pháp phát triển. Đối với nước ta, để chủ động hội nhập sâu
hơn, đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương 24 có
hiệu quả, một đòi hỏi có tính bắt buộc là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi tri thức là đòn bẩy làm tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, thúc đẩy
quá trình hội nhập.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức còn bắt nguồn từ vai trò của nó trong việc tạo ra những điều kiện
cần thiết về con người và khoa học, công nghệ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cho phép khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực để tăng trưởng
kinh tế, tạo khả năng thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của mọi người dân. Thông
qua quá trình này sẽ cải thiện điều kiện của người lao động, giải phóng lao động
nặng nhọc, lao động trong môi trường độc hại, tạo điều kiện cho con người phát
triển tự do, toàn diện. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức còn đưa đến nhiều tác dụng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh quốc gia.
Nhận thức tính tất yếu và sự cần thiết của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
kể từ khi Đổi mới, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan trọng.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) chủ trương
công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, coi đó là con đường thoát khỏi
nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị,

hàng năm của thế giới từ năm 1980 lại đây khoảng 5,5-5,6% thì tốc độ chu chuyển vốn quốc tế đạt 20%. Chỉ
riêng từ năm 1979 đến năm 2006, kim ngạch mậu dịch hai chiếu Mỹ - Trung Quốc tăng 144 lần.
24
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2006,
tr.112-114.

3
xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ
nghĩa 25. Đại hội VIII (năm 1996) đề ra đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước với mục tiêu: “Từ nay đến nǎm 2020, ra sức phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” 26. Đại hội IX xác định “Con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt” 27. Định hướng Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 của Đảng xác định: “Phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường” 28. Đại
hội XII yêu cầu: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ,
tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu” 29. Chủ trương
của Đại hội XIII: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền
tảng của tiến bộ khoa học, công nghê và đổi mới sáng tạo” 30.
2. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở VIỆT NAM
2.1. Mục tiêu và quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
2.1.1. Mục tiêu

25
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 53, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2007, tr.190.
26
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H,
1996, tr.19.
27
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H,
2001, tr.91. 28 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia, H, 2011, tr. 75.
29
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2016,
tr 90.
30
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 122.

3
Mục tiêu tổng quát lâu dài của việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là biến nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” 31.
Mục tiêu cụ thể: Để thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên, ở mỗi thời kỳ
cần đạt được các mục tiêu cụ thể. Đại hội lần thứ X của Đảng xác định: Mục tiêu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển 32. Đại hội XIII xác định, đến năm
2025 nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và phấn đấu đến năm 2045, trở
thành nước phát triển, thu nhập cao33.
Các chỉ tiêu chủ yếu:
Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm (2021-2025) đạt
khoảng 6,5 – 7,0%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng
4.700 – 5.000 USD,; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào
tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân
trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa khoảng 45%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế
tạo đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP34.
Tầm nhìn chiến lược trong giai đoạn 2021-2030, có tốc độ tăng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân theo giá
hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD/ người. Tỷ trọng công nghiệp
31
Đảng Cộng sản Việt Nam:, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H,
2011, tr 70.
32
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2006,
tr.76. 33 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H,
2021, tập I, tr 112.
34
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 112 - 113.

4
chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Tốc độ
tăng năng suất lao động xã hội đạt trên 6,5%/năm. Giảm tiêu hao năng lượng
tính trên đơn vị GDP ở mức 1 – 1,5%/năm.
Về xã hội, đến năm 2030, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông
nghiệp giảm xuống dưới mức 20% trong tổng lao động nền kinh tế. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 – 40%.
Về môi trường sinh thái, 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy
chuẩn về môi trường35.
2.1.2. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VII (năm 1994) nêu
quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Quan điểm đó đã được điều chỉnh, bổ sung qua các kỳ Đại hội của Đảng. Dưới
đây là nội dung quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức và kinh tế số của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với phát triển kinh tế tri
thức và kinh tế số.
Hai là, phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động tham gia
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với chủ động hội nhập quốc tế, nắm
bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để phát triển kinh tế số, xã hội số, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế của
các vùng, miền.
Ba là, lấy hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực,

35
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 218-220.

4
hiệu quả là điều kiện tiên quyết để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Bốn là, khơi dậy khát vọng dân tộc thịnh vượng, hùng cường, ý chí tự
cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi
con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển;
lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm phát triển bền vững.
Năm là, phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sáu là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải trên cơ sở làm chủ công
nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao sức chống
chịu, khả năng thích ứng của nền kinh tế. Phát huy nội lực là yếu tố quyết định
gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại. Không ngừng tăng cường tiềm lực kinh
tế, phát triển lực lượng doanh nghiệp của người Việt Nam ngày càng vững mạnh
và huy động sức mạnh tổng hợp của đất nước, nâng cao hiệu quả và lợi ích do
hội nhập quốc tế mang lại.
2.2. Nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta được tiến hành qua ba bước: (1)
Tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (2) Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; và (3) Nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Nước ta vẫn đang ở bước thứ hai, cần tiếp tục được đẩy mạnh 36. Trong bước
này, tập trung vào phát triển các ngành, lĩnh vực chủ yếu gồm công nghiệp, nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, các ngành dịch vụ, kinh tế biển, kinh tế vùng và
liên vùng, phát triển đô thị. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 của

36
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2016,
tr.90.

4
Đảng đặt ra nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên
nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia,
các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm nâng cao
tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh
phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn
dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và
vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới 37.
2.2.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành, lĩnh vực
kinh tế
2.2.1.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành công nghiệp.
Theo quy luật, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ làm cho sản
lượng của tất cả các ngành kinh tế đều được tăng lên theo thời gian, với xu
hướng tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống, trong khi của ngành công
nghiệp và dịch vụ lại tăng lên trong cả hai chỉ tiêu là tổng lực lượng lao động và
tổng giá trị sản lượng của nền kinh tế.
Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng xác định phát
triển nhanh hơn các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Phát triển có chọn lọc
một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây
dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh.
Trong giai đoạn 2021-2030, phát triển một số ngành công nghiệp ưu tiên,
mới, công nghiệp công nghệ cao: Công nghệ thông tin và truyền thông, công
nghiệp điện tử - viễn thông, công nghiệp sản xuất robot, ô tô, thiết bị tích hợp
vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm

37
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 234-235.

4
số, công nghiệp an toàn thông tin, công nghiệp dược phẩm, sản xuất chế phẩm
sinh học. công nghiệp môi trường, công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái
tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp
và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu.
Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày, tập trung vào các khâu tạo giá
trị gia tăng cao dựa trên quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa.
Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng (kết
hợp phục vụ dân sinh), để nó thực sự trở thành một mũi nhọn của công nghiệp
quốc gia.
Ứng dụng công nghệ cao trong tổ chức sản xuất nhằm tạo ra những thay
đổi thực chất trong một số ngành công nghiệp, tạo ra tác động lan tỏa và dẫn dắt
việc cơ cấu lại toàn ngành công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham
gia sâu hơn vào chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu.
Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ và hình thành cụm ngành công
nghiệp tập trung một số ngành ưu tiên. Khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của
doanh nghiệp tư nhân trong nước, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công
nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin38. Tăng cường liên kết giữa khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn đa quốc gia với doanh nghiệp
trong nước trong phát triển chuỗi cung ứng của các ngành công nghiệp.
Phát huy có hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ thông tin
tập trung và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm liên kết ngành,
nhóm sản phẩm chuyên môn hóa cao và theo lợi thế của các địa phương tại một
số vùng, địa bàn trọng điểm.
Phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin chủ lực
thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, nền tảng cho nến kinh tế
số, xã hội số trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

38
Công nghiệp công nghệ thông tin bao gồm công nghiệp phần cứng điện tử - viến thông, công nghệ thông tin,
an toàn thông tin, phần mềm, dịch vụ và nội dung số.

4
Nâng cao năng lực ngành xây dựng, bảo đảm đủ sức thiết kế, thi công các
công trình xây dựng hiện đại, phức tạp trong các lĩnh vực với mọi quy mô và có
khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường hoạt động ra nước ngoài.
Trong giai đoạn 2021-2025, nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa các
ngành, lĩnh vực công nghiệp tập trung vào cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình
độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, tập trung phát triển
những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là công nghiệp cơ khí, chế tạo, nâng
cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào chuỗi
giá trị toàn cầu.
Ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với
môi trường. Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh kết hợp phục vụ dân
sinh. Dựa trên công nghệ mới, hiện đại để phát triển các ngành công nghiệp có
lợi thế, tạo nhiều việc làm, hàng xuất khẩu, đóng góp lớn vào giá trị gia tăng
quốc gia.
Bố trị lại công nghiệp trên các địa bàn lãnh thổ hợp lý hơn, nâng cao hiệu
quả hoạt động các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp.
Nâng cao trình độ khoa học, công nghệ ngành xây dựng đủ năng lực thiết
kế, thi công các công trình xây dựng lớn, phức tạp, hiện đại, có khả năng cạnh
tranh trong nước và quốc tế.
2.2.1.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng để
trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên
liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho
công nghiệp. Nông nghiệp bao gồm nhiều chuyên ngành: theo nghĩa hẹp gồm
trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng gồm nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp. Nông nghiệp là một ngành kinh tế lớn trong khu vực nông
thôn. Nông thôn là phần lãnh thổ mà ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng
nông nghiệp trên lãnh thổ của một quốc gia.

4
Sự phát triển của nông nghiệp không chỉ đóng góp phần lớn vào tăng
trưởng chung của nền kinh tế và nâng cao thu nhập của nông dân, mà còn góp
phần rất quan trọng vào phát triển xã hội, xây dựng nông thôn mới. “Phải đặc
biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn 39. “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng
bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” 40. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển
kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và
khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả
trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo
của Đảng được tăng cường. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở
các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang
bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò
làm chủ nông thôn mới.

39
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1996,
tr.22.
40
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001,

4
tr.88.

4
Nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
là ra sức phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, các ngành công nghiệp chế biến nông
- lâm - thủy sản41. Trong giai đoạn 2021-2030 tập trung vào:
Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, khai thác và phát huy lợi thế nền nông
nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo
hướng hiện đại, vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao. Phát triển mạnh
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp
sinh học, đạt tiêu chuẩn phổ biến vệ sinh an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách
quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hằng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm
nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây
trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường; tăng khả năng chống chịu, thích
ứng của nông nghiệp với biến đổi khí hậu từng vùng, miền; hình thành các vùng
sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công
nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.
Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích
phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường.
Phát triển nuôi trồng thủy sản cả trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công
nghiệp, quảng canh cải tiến, sinh thái; nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ,
phát triển đánh bắt đại dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản.
Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng
cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn,
rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu
quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước và làm

41
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H,1996.,
tr.22.

4
nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường tham gia cộng đồng vào chuỗi giá
trị lâm nghiệp.
Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả,
đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ
thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp; hỗ trợ,
khuyến khich phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp
tác.
Nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công
nghệ, phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng
suất, chất lượng và quản trị ngành. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành
nông nghiệp. Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế, hỗ trợ doanh nghiệp về các
vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong
hội nhập quốc tế.
Trong những năm trước mắt (2021-2025), tập trung vào phát triển một nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh
thái dựa trên cơ sở lợi thế so sánh và tiến bộ khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh cơ
cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng
để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm thích ứng với biến đổi khí hậu.
Xây dựng mô hình sản xuất phù hợp với từng loại cây, con. Khuyến khích
tập trung ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về
quy mô và điều kiện của từng vùng. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công
nghiệp, dịch vụ, sản xuất với bảo quản, chế biến, xây dựng thương hiệu, tiêu thụ,
nâng cao giá trị nông sản.
Tiếp tục đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới, nông thôn kiểu mẫu. Phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và kinh tế
hộ. Giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân trên cơ
sở phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp,

4
phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, kết nối nông thôn với đô thị.
2.2.1.3. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành dịch vụ.
Ngành dịch vụ là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế tạo ra sản
phẩm vô hình chứ không phải là sản phẩm hữu hình. Hiện nay, tất cả các hoạt
động của các nền kinh tế đều được phân chia thành hai loại lớn là hàng hóa và
dịch vụ. Các ngành công nghiệp và nông nghiệp là sản xuất ra hàng hóa hay sản
phẩm hữu hình; còn ngành dịch vụ thì sản xuất và cung ứng sản phẩm vô hình
đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống xã hội. Các ngành dịch vụ bao gồm
ngân hàng, truyền thông, thương mại bán buôn và bán lẻ, tất cả các dịch vụ
chuyên nghiệp như kỹ thuật, phát triển phần mềm máy tính và y học, hoạt động
kinh tế phi lợi nhuận, tất cả các dịch vụ tiêu dùng và tất cả các dịch vụ của chính
phủ, bao gồm cả quốc phòng và quản lý tư pháp. Sự phát triển của các ngành
dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nền kinh tế tập
trung vào dịch vụ là đặc điểm của các nước phát triển. Đối với nước ta, quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu phải ưu tiên phát triển các ngành
dịch vụ. Đảng ta chủ trương phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng
cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ có giá trị
gia tăng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh 42.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 của Đảng xác định, đẩy
mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công
nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục – đào tạo, viễn
thông và công nghệ thông tin, logistics và vận tải, phân phối... Áp dụng chuẩn
mực quốc tế cho các hoạt động kế toán, kiểm toán, ngân hàng, thương mại....

42
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2001, tr.116.

4
Thúc đẩy phát triển thương mại trong nước theo hướng hiện đại, tăng
trưởng nhanh và bền vững, gắn với nâng cao uy tín, chất lượng hàng Việt Nam,
chinh phục người tiêu dùng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất
lượng, an toàn thực phẩm, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người sản
xuất, phân phối và người tiêu dùng. Đẩy mạnh xuất khẩu, khai thác hiệu quả các
hiệp định thương mại tự do, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu,
không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường, bảo đảm cân bằng cán cân xuất,
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Có chính sách thương mại phù hợp với hội nhập
quốc tế, nghiên cứu các biện pháp phòng vệ thích hợp để bảo vệ sản xuất và lợi
ích của người sản xuất và người tiêu dùng, phù hợp với các cam kết mà Việt
Nam tham gia.
Đẩy manh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại
và phát triển đồng bộ, bền vững và hội nhập quốc tế; chú trọng liên kết giữa
ngành du lịch với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình thành nên các
sản phẩm du lịch để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Xây dựng,
phát triển và định vị thương hiệu du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc
đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc43.
Trong những năm trước mắt (2021-2025), tập trung phát triển một số
ngành dịch vụ như: du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải,
logistics, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý... Hiện đại hóa và mở rộng các
dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao... Tổ chức cung ứng
dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế44.
2.2.2. Phát triển kinh tế vùng

43
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 237-249.
44
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 125.

4
Vùng kinh tế là bộ phận cấu thành lãnh thổ kinh tế của một quốc gia, có vị
trí địa lý, ranh giới hành chính rõ rệt, trong đó chứa đựng những mối quan hệ qua
lại được xác định bằng khối lượng hàng hóa, dịch vụ thường xuyên sản xuất ra
và những mối quan hệ kinh tế - xã hội khác. Việc phân vùng kinh tế ở một quốc
gia là cần thiết để khai thác và phát huy thế mạnh, thực hiện phân công lao động
theo lãnh thổ. Đặc trưng cơ bản của kinh tế vùng là phát triển dựa trên sự tương
đồng của các địa phương theo vị trí địa lý, lịch sử, văn hóa, tài nguyên thiên
nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội. Cơ cấu vùng kinh tế được xác định theo ngành
và theo định hướng phát triển vùng kinh tế tổng hợp. Vùng kinh tế tổng hợp là
những bộ phận trong cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc gia.
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc xác định
đúng hướng để phát triển kinh tế vùng có ý nghĩa quan trọng đối với sử dụng và
phân bổ các nguồn lực nhằm phát huy có hiệu quả các lợi thế của từng vùng và
đạt được sự thịnh vượng, phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Mục
tiêu phát triển kinh tế vùng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các vùng
kinh tế, tăng cường tính chủ động và tự chủ trong quản lý và điều hành vùng,
thực hiện chuyên môn hóa theo đặc điểm của từng vùng và hợp tác liên vùng để
tất cả các vùng đều phát triển. Phải định hướng phát triển rõ ràng cho các vùng
kinh tế, cho từng địa phương trong vùng về lựa chọn ngành, lĩnh vực khuyến
khích, tránh đầu tư dàn trải và tận dụng, phát huy có hiệu quả nhất khả năng, thế
mạnh của từng vùng. Đối với mỗi vùng, cần xác định và thành lập các khu kinh
tế tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của toàn vùng, đồng thời tăng cường
mối quan hệ liên kết địa phương để các khu kinh tế phát huy tính lan tỏa.
Phát triển kinh tế vùng trong giai đoạn thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2021-2030 tập trung vào: Xây dựng quy hoạch, tổ chức không
gian lãnh thổ quốc gia một cách hợp lý, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của

5
mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham
gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới45.
Khai thác tốt hơn các thế mạnh của các vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện
tự nhiên, vị trí địa chính trị, nguồn nhân lực trong bối cảnh và yêu cầu phát triển
mới. Phát triển tổng thể, mang tính hữu cơ, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương
trong vùng thành một thể thống nhất.
Tập trung xây dựng các hành lang kinh tế trọng điểm, thúc đẩy liên kết,
hội nhập quốc tế và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Xây dựng
trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm trí tuệ nhân tạo tại các vùng trọng điểm.
Lựa chọn một số địa điểm, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm
kinh tế, tài chính với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù có tính đột phá, có khả
năng cạnh tranh quốc tế cao. Phát triển hệ thống đô thị trung tâm phù hợp với
chức năng của từng vùng. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, giá trị
lịch sử, truyền thống.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng. Tập
trung xây dựng quy hoạch vùng mang tính chất đột phá theo hướng tích hợp, đa
ngành, hình thành chuỗi giá trị và triển khai thực hiện hiệu quả, lấy quy hoạch
làm cơ sở quản lý phát triển kinh tế vùng. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù
thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng và thể chế điều phối phát triển kinh tế
vùng đủ mạnh; quan tâm hơn đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng biên
giới, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nâng cao hiệu quả hoạt động và đổi mới cơ chế quản lý, mô hình phát
triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch gắn
với đô thị hoá trở thành động lực phát triển vùng.
Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững

45
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 251

5
chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn46.
Trong kế hoạch 5 năm 2021-2025, nghiên cứu phân vùng phù hợp, nâng
cao chất lượng quy hoạch vùng theo hướng tích hợp, đa ngành, khai thác tốt hơn
và phát huy tốt nhất các lợi thế của mỗi vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự
nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực và tăng cường tính liên kết nội
vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát
triển mới. Hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp chế về vùng. Nghiên cứu, ban
hành quy chế phối hợp điều hành các vùng, liên vùng; xây dựng cơ chế, chính
sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên vùng47.
2.2.2. Phát triển kinh tế biển
Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt
động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển. Kinh tế biển bao gồm các
lĩnh vực: kinh tế hàng hải; nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy, hải sản; công
nghiệp dầu khí; du lịch biển; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập
trung và khu chế xuất ven biển gắn với các khu đô thị ven biển; phát triển,
nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ về khai thác và quản lý
kinh tế biển. Mục tiêu phát triển kinh tế biển nhằm khai thác và sử dụng hợp lý,
tiết kiệm các nguồn tài nguyên biển, ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, bảo
vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm quốc phòng
an ninh và phát triển bền vững.
Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta xác định: “Phát triển
mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt

46
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 251-252.
47
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập II, tr 114-115.

5
xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng
và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá về
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực
đầu tư để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu,
khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền vững. Tập trung đầu tư, nâng cao
hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển” 48. Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định mục tiêu:
“Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát
triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích
ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái
môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn
các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện
đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển” 49. Đại
hội XIII của Đảng yêu cầu: “Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh
tế biển...” 50. Định hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong
thời gian tới “Tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý thống nhất quy hoạch không
gian biển quốc gia, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển,
đảo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh
tế biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy mạnh đào
tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, nhất là nhân lực chất lượng cao. Tăng
cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, điều tra tài nguyên, môi

48
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2016,
tr.94-95.
49
Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045, H, 2018.
50
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 125.

5
trường biển; xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao năng lực giám sát
môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển51.
Nội dung phát triển kinh tế biển trong giai đoạn 2021-2030 là:
Phát triển bền vững kinh tế biển phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, kiểm
soát khai thác tài nguyên biển, phục hồi hệ sinh thái biển, gắn liền với bảo đảm
quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
Ưu tiên phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là du lịch, dịch vụ biển,
kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác, nuôi
trồng và khai thác hải sản xa bờ, công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo và các
ngành kinh tế biển mới. Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh
tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành phát triển đô thị và
phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh.
Tăng cường bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững các hệ sinh
thái, đa dạng sinh học biển, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập
mặn, rừng phòng hộ ven biển; nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên biển. Mở
rộng diện tích, thành lập mới các khu bảo tồn biển.
Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ
và cập nhật. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần,
quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Có biện
pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn,
xói lở bờ biển. Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển;
tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương.
Về cơ chế vận hành, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-
2030 xác định hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật trên biển.

51
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 125-126.

5
Mục tiêu, phấn đấu đến năm 2030, quy mô kinh tế của 28 tỉnh, thành phố
ven biển bằng 65 - 70% GDP cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ
tầng kinh tế, xã hội cơ bản đầy đủ, nhất là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y
tế, giáo dục52.
3. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
3.1. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là tổng hoà các yếu tố thể lực và trí lực tồn tại trong toàn
bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia được xác định cả về số lượng,
chất lượng và cơ cấu trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong nền kinh tế thị
trường, nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ
năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân và tổ chức.
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định tốc độ và chất lượng của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, cần phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân
trí, đào tạo nhân tài, ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo
phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, phải chú trọng yếu tố chất lượng và
hiệu quả53. Mục tiêu ưu tiên phát triển nguồn nhân lực là xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách
nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế
số ở Việt Nam, trong giai đoạn 2021-2030 cần chú ý các giải pháp:
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Chuyển mạnh giáo dục từ
chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người

52
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 258-259.
53
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2001, tr
108.

5
học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy
và học trực tuyến, qua Internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khoá,
nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đổi mới và nâng cao chất lượng
giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, tạo chuyển biến căn bản, mạnh
mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo trên cơ sở bảo đảm thống nhất với
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực gắn với chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn.
Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động.
Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật, nhất là nhân
lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú
trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân
lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc
sống, chăm sóc con người.
Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động. Đổi mới chế
độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước,
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào
chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu.
Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học
phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Sắp xếp lại hệ thống trường học. Phát triển hài hoà giữa giáo dục công lập
và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng
chính sách. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Thực hiện cơ chế tự chủ một số

5
trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có điều kiện. Phấn đấu đến năm
2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để
thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước” 54.
3.2. Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của
sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Công nghệ là giải pháp, quy trình,
bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng
để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng
thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản
phẩm, hàng hóa”.
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có vai trò là động lực then chốt
để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng
của nền kinh tế.
Để thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và
kinh tế số, cần phải:
Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị
trường và thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam; phát triển mạnh
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc
đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Có cơ chế, chính
sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát
triển và đổi mới công nghệ. Thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc

54
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 136.

5
đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh
doanh mới. Xác định rõ các chỉ tiêu, chương trình hành động để ứng dụng và
phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong mọi mặt hoạt động ở
các cấp, các ngành, địa phương.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế hoạt động nghiên cứu, quản lý khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo, tạo thuận lợi cho nghiên cứu, chuyển giao phù hợp với
cơ chế thị trường, nâng cao tính tự chủ của các đơn vị nghiên cứu khoa học, công
nghệ công lập. Quan tâm đầu tư đúng mức nghiên cứu khoa học cơ bản; tập
trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ số. Cơ cấu lại, đẩy mạnh
và nâng cao năng lực, hiệu quả các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ trong
các doanh nghiệp, trường đại học, cơ sở đào tạo gắn với nhu cầu thị trường.
Tăng cường sự liên kết.
Phát triển một số ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn, trực tiếp góp
phần giải quyết các vấn đề cấp bách, phù hợp với điều kiện, nguồn lực của đất
nước. Ưu tiên chuyển giao, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trọng yếu. Phát triển hạ tầng số và bảo đảm an
ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn
tiếp cận nguồn tài nguyên số, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn.
Lấy việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế là tiêu chí đánh giá
hiệu quả hoạt động của khoa học, công nghệ. Lựa chọn và tập trung hỗ trợ triển
khai nghiên cứu, ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực
then chốt. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, triển khai, trong đó chú trọng
nghiên cứu ứng dụng và thương mại hoá kết quả.
Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo
quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung
tâm. Phát triển doanh nghiệp khoa học, công nghệ, doanh nghiệp công nghệ cao.
Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, đa dạng
hoá đối tác, lựa chọn đối tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học, công

5
nghệ tiên tiến; gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với
hợp tác kinh tế quốc tế. Phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam,
thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở
nước ngoài.
Phát triển mạnh thị trường khoa học, công nghệ gắn với xây dựng cơ sở
dữ liệu quốc gia về khoa học, công nghệ.
Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế” 55.
3.3. Tạo lập nguồn vốn đầu tư cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Theo nghĩa rộng, vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập, là biểu
hiện bằng tiền của các nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong các nguồn
lực của sản xuất được biểu hiện bằng tiền của các giá trị của cải do con người tạo
ra và tích lũy lại. Vốn là một nguồn lực để các tổ chức, cá nhân sử dụng vào hoạt
động đầu tư nhằm thực hiện các dự án công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguồn vốn có thể được sử dụng từ ngân sách nhà nước, huy động trên thị trường
vốn, thị trường tiền tệ, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FII) và nguồn kiều hối... Nói
cách khác, vốn được tạo lập từ hai nguồn là tích lũy trong nội bộ nền kinh tế và
thu hút từ bên ngoài. Đảng ta xác định, về cơ bản, lâu dài, vốn trong nước là chủ
yếu và quyết định, vốn từ bên ngoài là rất quan trọng nhất là trong thời kỳ đầu.
Để thúc đẩy tạo lập nguồn vốn đầu tư, cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, nâng cao
hiệu quả đầu tư.
Vốn là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm việc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trở thành hiện thực.

55
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 226.

5
Tăng cường tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế trên cơ sở nâng cao hiệu quả
sản xuất, kinh doanh, tăng năng suất lao động xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tích lũy và tiêu dùng trong nhân dân trên quan điểm tiết kiệm là quốc sách.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thu đi đôi với cơ cấu lại thu. Xây dựng
một hệ thống thuế đồng bộ, bền vững, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết, hợp lý
của ngân sách nhà nước để khuyến khích cạnh tranh, tích tụ vốn cho sản xuất,
kinh doanh. Mở rộng cơ sở thuế, áp dụng mức thuế suất hợp lý, đảm bảo công
bằng, bình đẳng về thuế giữa các đối tượng nộp thuế; đảm bảo phù hợp theo cam
kết tham gia các định chế quốc tế.
Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính
phủ. Cơ cấu lại thị trường tài chính - tiền tệ đáp ứng yêu cầu huy động và sử
dụng vốn có hiệu quả. Hoàn thiện chính sách thu từ đất, góp phần hình thành thị
trường bất động sản có tổ chức, được quản lý hiệu quả; mở rộng việc giao đất,
cho thuê đất theo hình thức đấu giá, sử dụng đất có hiệu quả. Cơ cấu lại thị
trường bất động sản, đất đai, tài nguyên để đất, tài nguyên được sử dụng hợp lý,
tiết kiệm, có hiệu quả cao. Chống lãng phí, thất thoát vốn.
Thu hút mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế mở cửa nền kinh tế, khuyến khích phát triển kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài, vay vốn, hợp tác liên doanh, thành lập các khu kinh tế
mở… Kiện toàn hệ thống pháp luật về kinh tế đối ngoại, thực hiện hợp lý các
chính sách ưu đãi, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để người và tổ chức
nước ngoài vào ta hợp tác đầu tư.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển thị trường vốn, đa
dạng hóa nguồn vốn đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển.
3.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, công nghệ của
một quốc gia với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế trên cơ
sở phân công lao động và hợp tác quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá, mở rộng

6
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một một đòi hỏi thiết yếu. Thông qua
quan hệ kinh tế này mà phát huy lợi thế của nền kinh tế và mở rộng thị trường,
đồng thời tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ bên ngoài phục vụ cho
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để hiện thực hóa những yêu cầu trên, cần coi trọng quan điểm vừa kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vừa giữ vững độc lập và chủ quyền
quốc gia dân tộc trong mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Tiếp tục
chủ động, tích cực nâng cao năng lực hội nhập để tận dụng tối đa các cơ hội từ
hội nhập, nhất là các hiệp định thương mại tự do đã ký kết.
Nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế để mở rộng thị trường,
tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý. Nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm. Thúc đẩy phát
triển các ngành công nghiệp trong nước, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị
toàn cầu.
Xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa
phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Bảo vệ lợi ích chính đáng của
Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong các tranh chấp kinh tế,
thương mại và đầu tư quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt
Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế” 56.
3.5. Bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước
Quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức không phải hoàn thành trong một sớm một chiều, mà phải trải qua thời

56
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2021,
tập I, tr 162.

6
gian khá nhiều năm. Việc bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho quá
trình này là rất cần thiết và đây chính là điều kiện tiên quyết của sự tăng trưởng
và phát triển.
Phải bảo đảm tính nhất quán, tính đồng bộ và ổn định lâu dài của hệ thống
pháp luật, của đường lối, chính sách nói chung và đường lối, chính sách kinh tế
nói riêng.
Phải bảo đảm sự ổn định về kinh tế, trước hết là ổn định thị trường, giá cả,
phải kiểm soát được lạm phát, môi trường cạnh tranh phải lành mạnh.
Phải bảo đảm sự ổn định về xã hội, người dân tin tưởng vào hoạt động đầu
tư của mình, trật tự an toàn xã hội phải được giữ vững.
Đại hội XI của Đảng yêu cầu: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển
nhanh và bền vững”57.
Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an
ninh là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” 58.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế
số là sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân. Vì thế, sự đồng thuận xã hội là một tiền
đề điều kiện có ý nghĩa quyết định. Để tạo lập tiền đề này, cần tiếp tục hoàn
thiện cơ chế, chính sách và tổ chức bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường
57
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.99.
58
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2016,
tr.147-148.

6
vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Kinh nghiệm trên thế giới cho
thấy, chính sách kinh tế của nhà nước đóng vai trò quyết định sống còn đối với
sự thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Chỉ rõ những khác biệt của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức hiện nay so với công nghiệp hóa thời kỳ trước Đổi mới ở
nước ta?
2. Phân tích các nội dung cơ bản nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số ở Việt Nam?
3. Những điểm mới trong đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức và kinh tế số ở Việt Nam. Liên hệ với thực tiễn địa phương
đồng chí công tác ?
2. Mục tiêu và quan điểm chủ đạo để công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số ở Việt Nam trên tinh thần Đại hội XIII
của Đảng. Liên hệ với thực tiễn địa phương đồng chí công tác ?
3. Trình bày nội dung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành,
lĩnh vực kinh tế ở nước ta theo đường lối Đại hội XIII của Đảng và liên hệ với
ngành, lĩnh vực đồng chí công tác ?
4. Vì sao để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và kinh tế số, nước ta phải đặc biệt coi trọng phát triển nguồn
nhân lực và khoa học, công nghệ? Liên hệ với thực tiễn ngành, lĩnh vực đồng chí
công tác ?
E. TÀI LIỆU HỌC TẬP
* Tài liệu bắt buộc

6
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Chương trình đào tạo cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở ) Hệ Trung cấp lý luận chính trị). Học phần: Đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, H.2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (tập I và tập II), Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2021.
* Tài liệu đọc thêm
1. TS. Phạm Việt Dũng, Kinh tế số - cơ hội "bứt phá" cho Việt Nam,
http://hdll.vn/vi/, 28/05/2020.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, Phần: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), tr 63-90 và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 tr 91-147.
3. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA): Kinh tế tri
thức và chiến lược phát triển kinh tế dựa vào tri thức Việt Nam, http://vusta.vn/,
26/08/2010.
4. TS. Phạm Thuyên: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb Chính trị quốc gia, H.
2019 (817 tr).

6
Bài 3
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Cung cấp cho học viên cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng, phát triển
văn hóa, con người Việt Nam hiện nay cùng hệ thống quan điểm, đường lối của
Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người.
2. Về kỹ năng
Nâng cao kỹ năng tổng kết thực tiễn, năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ phát triển văn hóa, con người.
3. Về tư tưởng
Thấy được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển
văn hóa, con người; tin tưởng vào đường lối văn hóa của Đảng.
B. NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA,
CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm
Văn hóa là khái niệm được dùng rất phổ biến trong đời sống hàng ngày và
là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành khoa học có cách
tiếp cận văn hóa khác nhau. Tính đa nghĩa của khái niệm văn hoá đã làm nên sự
phong phú của số lượng các khái niệm này. Nhà nghiên cứu người Pháp Jaques
Dérrida đã nhận định: “Văn hóa chính là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí
hiểm không cùng với những ai ngày nay đang cố tìm cách suy nghĩ về nó”59.
Từ văn hóa xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ nhiều dân tộc ở phương
Đông và phương Tây. Ở phương Đông, trong ngôn ngữ Trung Hoa cổ đại, văn
hóa xuất hiện với hai nghĩa: “nhân văn giáo hoá” và “văn trị giáo hoá”. “Nhân
59
Dẫn theo F.Mayor: Ban đầu và cuối cùng là văn hóa, Tạp chí Người đưa tin UNESCO, số 10-1993, trang 35.

6
văn giáo hóa” là đem cái đẹp cải hoá, giáo hoá cho con người, làm cho con
người trở nên tốt đẹp. “Văn trị giáo hoá” là lấy cái đẹp để giáo hoá, đưa con
người vào kỷ cương, phép tắc, lễ nghĩa mà tổ chức, quản lý, cai trị họ. Nếu
“nhân văn giáo hoá” là đem văn hóa tác động vào từng cá nhân, biến sinh thể
người thành con người xã hội thì “văn trị giáo hoá” là đem văn hóa tác động vào
cộng đồng để tổ chức cộng đồng, tổ chức xã hội. Ở phương Tây, văn hóa trong
tiếng latinh có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ là cultus. Từ cultus nghĩa ban đầu
là vỡ đất, trồng trọt, gieo trồng cây cối ở ngoài đồng, sau nó chuyển nghĩa thành
gieo trồng trí tuệ, khai mở tinh thần cho con người. Xixirôn, nhà hùng biện của
La Mã (106 - 43 trước Công nguyên) đã quan niệm: “Triết học là văn hóa của
gieo trồng trí tuệ cho con người”. Về bản chất, sự phát triển của con người gắn
liền với trí tuệ, văn hóa chính là gieo trồng trí tuệ cho con người.
Năm 1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”60.
Định nghĩa về văn hoá của UNESCO (2002) nhấn mạnh: Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin61.
Có thể thấy dù có sự khác nhau trong quan điểm xuất phát, nhưng đều có
sự tương đồng trong quan niệm của phương Đông và phương Tây về khái niệm

60
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 458.
61
Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng văn hóa, 2002.

6
văn hóa. Văn hoá là những giá trị sáng tạo tinh thần của con người và xã hội, có
vai trò khai mở, giáo dục, phát triển con người và xã hội. Nói đến văn hóa là nói
đến con người và ngược lại. Văn hoá là kết quả của chính quá trình biến đổi bản
thân con người, với tư cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người.
Trong môi trường (tự nhiên và xã hội), con người tự cải biến bản thân thành chủ
thể của sự vận động lịch sử, thành một cá nhân toàn vẹn. Nguồn gốc của mọi
hiện tượng, mọi quan hệ văn hoá đều gắn với các hoạt động sống của con người.
Văn hóa là bản chất, đặc trưng, sức mạnh của con người, thể hiện trong bản thân
sự phát triển và tầm vóc của con người. Con người vừa là chủ thể vừa là sản
phẩm của văn hóa. Các hoạt động xã hội của con người đều gắn với văn hóa và
chịu sự tác động của văn hóa.
Xây dựng, phát triển văn hóa là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn
hóa tác động vào môi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới
của nền văn hóa (cả về quy mô và chất lượng) theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ.
Hoạt động xây dựng, phát triển văn hóa diễn ra ở tất cả các lĩnh vực hoạt
động văn hóa, tạo ra các điều kiện và cơ hội cho con người tham gia vào quá
trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá, đánh giá và thưởng thức các giá trị văn hóa,
tạo môi trường văn hóa lành mạnh, làm động lực thúc đẩy quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Từ những hoạt động văn hóa đó, con người được phát triển nhân
cách, hình thành phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, đời
sống văn hóa xã hội thay đổi cả bề rộng và chiều sâu theo chiều hướng tích cực.
Xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích của các
chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện cả về trí
tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mĩ.
Như vậy, khái niệm xây dựng, phát triển văn hóa ở đây được xác định là
xây dựng, phát triển đồng bộ và toàn diện các quan hệ văn hóa – xã hội và các
thành tố văn hóa theo hướng tiên tiến, đậm bản sắc dân tộc, dựa trên cơ sở lý

6
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối văn hóa
của Đảng nhằm phát triển con người và môi trường văn hóa, tạo động lực để
thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng, phát triển văn hóa có mối quan hệ mật thiết với xây dựng, phát triển
con người. Xây dựng, phát triển văn hóa, xét cho đến cùng là vì con người, vì sự
phát triển toàn diện của con người. Chính vì vậy, xây dựng, phát triển con người
là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa.
1.2. Vai trò của việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người đối với
mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội
1.2.1. Xây dựng, phát triển văn hóa, con người góp phần kiến tạo nền
tảng tinh thần cho đất nước
Nói đến văn hóa là nói đến các giá trị. Văn hóa là tổng thể các giá trị vật
chất và tinh thần do cá nhân và cộng đồng sáng tạo ra trong quá trình lịch sử,
phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của con người. Các giá trị văn hóa dân tộc
tồn tại khách quan đối với các thế hệ người được sinh ra. Chẳng hạn, tinh thần
yêu nước, ý thức cộng đồng, ý chí bất khuất của dân tộc ta - những giá trị truyền
thống của văn hóa Việt Nam đã kết lại thành nền tảng tinh thần cho sự tồn tại
của dân tộc. Chúng là lẽ sống của dân tộc, là cơ sở để dân tộc ta khẳng định sự
tồn tại của mình trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Theo George F-
M.C Lean, Chủ tịch Hội nghiên cứu giá trị và triết học Hoa Kỳ: mô thức giá trị
và đạo đức kiến tạo ra văn hóa, đó là cách thức để bồi dưỡng tâm hồn và chúng
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và thường xuyên được thẩm định,
điều chỉnh và tái khẳng định trở thành truyền thống văn hóa… Chính vì vậy,
truyền thống được bảo vệ và trở thành nền tảng cho cộng đồng xã hội.
Các giá trị tiêu biểu của văn hoá Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí độc
lập tự chủ, tự cường, truyền thống nhân đạo, đề cao tính cộng đồng, cần cù, hiếu
học, thông minh, trọng tình nghĩa… tạo thành truyền thống văn hóa của dân tộc.

6
Khi được hình thành, truyền thống văn hoá có chức năng định hướng, đánh giá
và điều chỉnh hành vi của xã hội. Nó chính là bộ gien di truyền văn hoá cho các
thế hệ sau, tạo nên sự tiếp nối lịch sử.
Truyền thống văn hoá là cơ sở để tạo lập môi trường văn hoá, môi trường
tinh thần của các cá nhân và cộng đồng. Truyền thống văn hoá lan toả và thể
hiện sâu sắc trong gia đình, làng bản, khu phố, cộng đồng dân cư, và cộng đồng
quốc gia - dân tộc, thể hiện trong các tài sản văn hoá vật thể, phi vật thể và trong
lối sống của con người.
Mục tiêu của sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay là hướng tới sự phát
triển bền vững đất nước. Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của xã hội thì văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội. Chăm lo xây dựng và phát triển văn hoá chính là
chăm lo vun đắp, xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hoá tinh thần
lành mạnh, làm động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
1.2.2. Xây dựng, phát triển văn hóa, con người góp phần tạo động lực,
nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước
Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội mà còn là động lực, là
nguồn lực nội sinh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vai trò động lực của văn
hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội được biểu hiện ở ba nội dung cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, mọi hoạt động văn hóa xét cho cùng là đều hướng đến phát triển
con người về thể lực, trí tuệ, tình cảm, nâng cao kỹ năng lao động sáng tạo và
đạo đức nghề nghiệp, rèn luyện bản lĩnh và ý chí cho con người trong hoạt động
thực tiễn xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chìa khóa của sự phát triển tập
trung ở bốn nhân tố:
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Nguồn vốn (tài chính)
- Trình độ khoa học và công nghệ
- Nguồn lực con người (trong sản xuất và quản lý)

6
Trong đó, nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định đến việc sử dụng
các nguồn lực khác. Kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc đã chỉ rõ điểm này.
Vì vậy, đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là con đường đầu tư
ngắn nhất và hiệu quả nhất mà nhiều quốc gia hiện nay đang hướng tới.
Đại hội XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
giai đoạn 2021 – 2030, trong đó nêu rõ một đột phá có ý nghĩa chiến lược để
đảm bảo phát triển nhanh và bền vững đất nước là: “Tiếp tục phát triển toàn diện
nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị
văn hóa, con người Việt Nam”.62 Như vậy, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao tiếp tục được Đảng ta xác định là đột phá chiến lược để phát
triển đất nước. Muốn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cần tạo bước
chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo, đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học – công
nghệ, đổi mới sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam. Nhiệm vụ trọng
tâm của mọi hoạt động văn hóa ở nước ta hiện nay là tập trung vào phát triển con
người, đào tạo và bồi dưỡng các thế hệ công dân đáp ứng cho nhiệm vụ xây
dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, vai trò động lực của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
thể hiện ở tác động của môi trường văn hóa đối với quá trình phát triển. Đất
nước ta đang ở trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các hoạt
động kinh tế không thể tách rời môi trường văn hóa, môi trường xã hội của dân
tộc. Việc tạo lập được môi trường văn hóa lành mạnh dựa trên nền tảng của trình
độ dân trí cao, các giá trị và chuẩn mực đạo đức và pháp luật rõ ràng, công khai

62
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, trang 220.

7
và minh bạch, giàu tinh thần nhân văn sẽ thu hút được sự ủng hộ và đồng thuận
của xã hội. Môi trường văn hóa này chính là “bà đỡ” cho sự phát triển của nền
kinh tế thị trường nhân văn, chấp nhận tự do cạnh tranh trên cơ sở tôn trọng pháp
lý và đạo lý xã hội, tạo động lực cho kinh tế - xã hội phát triển. Ngược lại, quá
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không thể thực hiện thành công trong môi trường văn
hóa bị nhiễu loạn, đạo đức xã hội bị tha hóa và luật pháp bị coi thường. Vì vậy,
tập trung vào xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, trước hết từ cơ sở, gia
đình, nhà trường, thôn xóm, cơ quan, xí nghiệp, công sở v.v… là nhiệm vụ cấp
thiết hiện nay.
Thứ ba, hiện nay, thế giới đã và đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế
tri thức dựa trên sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Dưới tác động của khoa học công nghệ và sự phát triển của nền kinh tế thị
trường toàn cầu, nhiều lĩnh vực sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa đã
được “công nghệ hóa”, “kinh tế hóa” và trở thành bộ phận quan trọng của nền
kinh tế thế giới. Sự xuất hiện các khái niệm như “công nghiệp văn hóa”, “công
nghiệp giải trí”, “công nghiệp nghe nhìn”, "công nghiệp biểu diễn nghệ thuật",
“công nghiệp điện ảnh”, “thị trường văn hóa phẩm”, “thị trường nghệ thuật”,
“dịch vụ văn hóa”, “du lịch văn hóa”… đã cho thấy sự gắn kết giữa yếu tố văn
hóa và yếu tố kinh tế, kỹ thuật, công nghệ ngày càng gia tăng. Ngành công
nghiệp giải trí của Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây là Trung Quốc đang
chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia này.
Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã được khai thác mạnh mẽ để phát
triển du lịch, dịch vụ. Như vậy, văn hóa đã trở thành nguồn lực trực tiếp để phát
triển kinh tế - xã hội. Nhận thức về vai trò của văn hóa đã được mở rộng, sâu sắc
và toàn diện hơn. Văn hóa không chỉ có chức năng nhận thức và giáo dục xã hội
mà có chức năng kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội. Vì vậy, cần phải thay đổi quan điểm đầu tư cho văn hóa không phải là đầu

7
tư để “chống xuống cấp” hay “đảm bảo phúc lợi xã hội” mà đầu tư cho phát
triển, đầu tư để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, văn hóa không phải là yếu tố
đứng bên ngoài mà là yếu tố bên trong, là nguồn lực nội sinh của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Quan tâm chăm lo cho văn hóa chính là quan tâm đến nền
tảng tinh thần, quan tâm đến động lực và nguồn lực của sự phát triển.
1.2.3. Xây dựng, phát triển văn hóa, con người góp phần khẳng định
tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa
Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, hướng
tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp để nâng đỡ hạnh phúc của con người, thúc đẩy sự
tiến bộ xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế
nhân văn, nền kinh tế vì sự phát triển bền vững của con người. Vì vậy, bản chất
của văn hóa thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà chúng ta
hướng tới. Đảng và Nhà nước ta yêu cầu mọi chương trình, dự án phát triển kinh
tế - xã hội phải vừa chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý đến hiệu quả văn
hóa và xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Đồng thời phải khắc phục xu
hướng chạy theo tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ hoặc hi sinh văn hóa, làm tha hóa
con người. Quá trình phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay đang tái cấu trúc
lại theo hướng phát triển nhanh và bền vững, đề cao chất lượng và hiệu quả của
tăng trưởng cũng chính là nhằm vào mục tiêu văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người và môi trường xã hội. Các giá trị của con người phải được
đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ ra các mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng đó là:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;

7
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Như vậy, văn hóa được khẳng định là một thành tố cơ bản, một mục tiêu
quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng.
2. XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH VÀ TRƯỚC YÊU CẦU, NHIỆM VỤ MỚI
2.1. Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
2.1.1. Đường lối của Đảng
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định
hướng nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam. Trong đó,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về
Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước; Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII của Đảng là những
văn kiện có tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện tập trung, nhất quán tư duy đổi mới
về văn hóa của Đảng, vừa giải quyết những vấn đề đặt ra trước mắt, vừa có tính
định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt
Nam.
Thứ nhất, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với phát triển

7
đất nước được khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
là động lực của sự phát triển bền vững đất nước. Văn hóa Việt Nam là thành quả
lao động sáng tạo của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong hành trình dựng
nước và giữ nước. Văn hóa là kết tinh sức mạnh của toàn dân tộc. Văn hóa được
xem là cơ sở, nền móng mà trên đó mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được kiến
tạo, vận động và phát triển. Vì thế, để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát
triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế như tinh thần Đại hội lần thứ XIII của
Đảng, cần phải nỗ lực “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”63.
Trong thực tiễn, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta
đã đạt được qua 35 năm đổi mới đã chứng minh cho đường lối văn hóa đúng đắn
của Đảng: "Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội.
Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể
có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững" 64.
Thứ hai, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Văn hóa là thành quả sáng tạo của con
người nhưng văn hóa cũng chính là môi trường quan trọng nuôi dưỡng, thúc đẩy
sự phát triển toàn diện của con người. Do vậy, phải có sự gắn kết giữa xây dựng
văn hóa với xây dựng con người. Mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng là mục tiêu xây dựng con người mới Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Trong đó, xây dựng con người là nhiệm vụ cốt lõi, trọng tâm,
xuyên suốt mọi hoạt động văn hóa.

63
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr336.
64
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 55.

7
Thứ ba, giao lưu và tiếp biến là quy luật của phát triển văn hóa. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, để xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần mở rộng giao lưu, hợp tác văn
hóa với các nước, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu thêm
văn hóa dân tộc, đồng thời phải giữ gìn bản sắc, phát huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam.
Những định hướng cơ bản trong đường lối của Đảng trên đây chính là cơ
sở quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển, phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội
nhập quốc tế.
2.1.2. Chính sách, pháp luật của nhà nước
Các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con
người Việt Nam trong những năm vừa qua cơ bản đã được cụ thể hóa và hiện
thực hóa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vị trí, vai trò quan trọng
của văn hóa, nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa đã được Hiến định, được
thực thi trong thực tiễn đời sống xã hội.
Lời nói đầu của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013 khẳng định: “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam
lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun
đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và
xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam”65. Như vậy, vị trí và sức mạnh của một
quốc gia, dân tộc luôn gắn liền với nền văn hiến – vốn là thành quả của lao động
sáng tạo, của khát vọng và bản lĩnh mà thành. Hiến pháp (sửa đổi) còn quy định
cụ thể về nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa và các quyền văn hóa của con
người: Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong đó
đề cập đến ba lĩnh vực cơ bản: Phát triển văn học, nghệ thuật; Phát triển các
65
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nhà xuất bản Lao động, năm 2014, tr 10

7
phương tiện thông tin đại chúng; Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc, xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu
nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân...
Không chỉ được quy định trong một số điều luật cụ thể, văn hóa còn thấm
vào những nội dung cơ bản của Hiến pháp: “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện”66. Các mục tiêu, các giá trị mà Nhà nước hướng tới
cũng chính là các giá trị tốt đẹp nhất, các mục tiêu cao nhất của nền văn hóa.
Trong thực tiễn, việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc luôn được bổ sung, điều chỉnh thực thi trong các chính sách cụ
thể, phù hợp. Hiện nay, ngoài chính sách tổng quát về phát triển văn hoá, con
người, Nhà nước còn chú trọng đến chính sách kinh tế trong văn hóa và văn hóa
trong kinh tế (trọng tâm là chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa);
chính sách gia tăng sức mạnh mềm văn hóa (chiến lược ngoại giao văn hóa...);
xây dựng văn hóa trong chính trị (Đề án xây dựng văn hóa công vụ)...
Như vậy, để đạt được các mục tiêu phát triển cụ thể, đòi hỏi phải nghiên
cứu kỹ, nhận thức đúng, đủ, sâu, vận dụng sáng tạo, phù hợp, cụ thể đường lối,
chính sách vào thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
2.2. Tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành và phát triển.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã giúp đất nước ta thoát khỏi khủng khoảng kinh tế - xã hội và tình trạng
kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, đang đẩy
66
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nhà xuất bản Lao động, năm 2014, tr 7.

75
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, vì là một
mô hình kinh tế “chưa từng có tiền lệ trong lịch sử” nên “thể chế nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập… Chưa tạo
được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
phát triển”67, vì vậy khó tránh khỏi những tác động tiêu cực đến sự phát triển
kinh tế - xã hội. Để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam từng bước được vận hành có hiệu quả, Đảng ta tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng hiện
đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Với những đặc trưng ưu việt và mục đích tốt đẹp của nó, quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những tác động tích
cực to lớn đến quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
Một là, quá trình đổi mới kinh tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa năng động và hội nhập đã làm thay đổi tư duy, nhận
thức, phong cách và khai phóng tiềm năng sáng tạo của con người. Đây là nền
kinh tế “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được
củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” 68. Như vậy, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo những tiền đề quan trọng để mọi chủ thể xã hội

67
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 80.
68
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 129.

76
phát huy năng lực và sức sáng tạo, làm giàu cho chính mình và làm giàu cho xã
hội.
Hai là, ưu điểm và những thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong những năm qua đã tạo nền tảng vật chất thuận lợi cho
việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người một cách toàn diện. Khi kinh tế
phát triển, xã hội ổn định, đời sống vật chất tinh thần của người dân được nâng
cao có thể tạo động lực cho văn hóa phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Nguồn
lực đầu tư cho văn hóa dồi dào và chất lượng hơn. Xã hội hóa hoạt động văn hóa
ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn
hóa…Nền tảng kinh tế ổn định, cơ sở vất chất tốt cũng là điều kiện quan trọng để
con người được phát triển toàn diện, hiện thực hóa các mục tiêu văn hóa cao nhất
của xã hội là “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Quá trình
cấu trúc lại nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và gắn với hội
nhập quốc tế cũng dẫn đến những thay đổi tích cực trong các lĩnh vực văn hóa,
đa dạng hóa các chủ thể sáng tạo, quản lý, phổ biến và tiếp nhận các giá trị văn
hóa…
Bên cạnh những tác động tích cực, mặt trái và những hạn chế trong quá
trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam đã có những tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng, phát triển văn
hóa và con người.
Một là, sự phân hóa về kinh tế làm gia tăng các mâu thuẫn, xung đột xã
hội, là một nguyên nhân dẫn đến những bất ổn xã hội. Đây cũng là một rào cản
đối với việc thực hiện các mục tiêu văn hóa, xã hội đã đặt ra. Mặt khác, sự phân
hóa về kinh tế cũng dẫn đến sự phân hóa về nhu cầu thưởng thức, tiếp nhận và
sáng tạo các giá trị văn hóa. Khi thiếu đi sự kết nối xã hội bền chặt, việc chia xẻ,
thực hành và sáng tạo các giá trị văn hóa trong xã hội trở nên khó khăn hơn.
Hai là, mặt trái và những hạn chế của quá trình phát triển kinh tế thị
trường đã dẫn đến sự suy thoái các giá trị đạo đức, tinh thần tốt đẹp của văn hóa

77
dân tộc. Kinh tế thị trường làm nảy sinh hiện tượng đề cao giá trị vật chất, các lợi
ích kinh tế khiến một bộ phận cá nhân, xã hội có tư tưởng kiếm tiền bằng mọi
giá, xây dựng các mối quan hệ theo nhóm lợi ích kinh tế, dẫn đến sự suy thoái
đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật... Ở góc độ cộng đồng, dẫn đến sự suy thoái
môi trường sinh thái nhân văn, suy thoái các chuẩn mực, giá trị đạo đức, tinh
thần cộng đồng.
Có thể thấy, những tác động tiêu cực của quá trình xây dựng, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay xảy
ra là tất yếu. Các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường như quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, việc tự do hóa thương mại…vốn là ưu điểm,
thế mạnh của kinh tế thị trường, có tác động tích cực mạnh mẽ đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, nhưng khi thiếu sự điều chỉnh của một thể chế kinh tế thị
trường văn minh, hoàn thiện và tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” chưa đủ
mạnh thì nó lại tạo ra những rào cản lớn đến quá trình thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
2.3. Tác động của quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế
Trong hội nhập quốc tế, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định là nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện
quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống
nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam,
bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia,
nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới 69. Do đó, quá
trình giao lưu, hội nhập quốc tế đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển
mọi mặt của đời sống xã hội.

69
Hướng dẫn chi tiết chuyên đề “Hội nhập quốc tế” ban hành kèm theo Hướng dẫn số 42-HD/BTGTW, ngày 1-
9-2017, của Ban Tuyên giáo Trung ương.

78
Về chính trị, hoạt động đối ngoại được mở rộng, vị thế và uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế được ghi nhận. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ
ngoại giao với 187 quốc gia, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện
với 25 nước, trong đó bao gồm cả 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc. Việt Nam chính thức đảm nhận vai trò Ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021 và Chủ tịch luân
phiên của ASEAN từ ngày 1.1.2020. Việc đảm nhận hai trọng trách ở tổ chức
quốc tế và khu vực đã thể hiện vị thế, uy tín, năng lực của Việt Nam trong đối
ngoại đa phương.
Về kinh tế, giao lưu, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển
khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nâng cao năng lực và chất lượng lao động sản xuất; tiếp cận các nguồn
vốn, phương thức kinh doanh hiệu quả. Giao lưu, hội nhập quốc tế cũng tạo cơ
hội để Việt Nam được tham gia các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, ASEAN,
APEC,... có điều kiện mở rộng thị trường, quy mô của nền kinh tế.
Về văn hóa, giao lưu, hội nhập quốc tế là cơ hội để quảng bá hình ảnh Việt
Nam ra thế giới, từng bước đưa Việt Nam trở thành một địa chỉ giao lưu, hợp tác
hấp dẫn, tin cậy cho bạn bè thế giới. Giao lưu, hội nhập quốc tế tạo điều kiện
quan trọng để Việt Nam tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới làm giàu cho văn hóa
dân tộc, cũng là cơ sở để nền văn hóa dân tộc tự sàng lọc, hiện đại hóa và làm
mới chính mình.
Như vậy, việc thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tích
cực chủ động giao lưu, hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực sẽ tiếp tục “góp phần
quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp
quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống
nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới;

79
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”70.
Bên cạnh những tác động tích cực, giao lưu, hội nhập quốc tế cũng có
những tác động tiêu cực như sau:
Một là, tiềm ẩn nguy cơ mất độc lập, tự chủ của dân tộc. Giao lưu, hội
nhập quốc tế làm gia tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là sự phụ
thuộc về kinh tế, chính trị. Khi đó, quốc gia bị lệ thuộc vào các nước lớn sẽ bị
chi phối, áp đặt về mọi mặt, từ chính trị, kinh tế, văn hóa đến an ninh, quốc
phòng…, nguy cơ đánh mất quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc là rất lớn. Vì
vậy, Đảng ta luôn xác định, “hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh,
chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động,
đối đầu, bất lợi”71.
Hai là, giao lưu, hội nhập quốc tế chứa đựng nguy cơ phá vỡ hoặc làm
băng hoại những giá trị văn hoá truyền thống đã được tích tụ và tạo nên bản sắc
văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, cốt cách dân tộc,
định vị “thương hiệu”, hình ảnh quốc gia. Quá trình giao lưu, hội nhập tiếp thu
cái mới dễ làm nảy sinh tư tưởng “sính ngoại”, sự lai căng, mất gốc, dẫn đến
nguy cơ làm phai nhạt bản sắc dân tộc. Thêm vào đó, nếu thiếu bản lĩnh trong
giao lưu, tiếp biến, các yếu tố phản giá trị, phi văn hóa từ bên ngoài có cơ hội
thâm nhập, phá vỡ hoặc làm băng hoại những giá trị truyền thống tốt đẹp.
Ba là, trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, kết
hợp với sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông, thông tin, sự tấn công của các
lực lượng thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa ngày càng tinh vi, nguy hiểm
hơn.
2.4. Tác động của sự phát triển khoa học công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại của nhân loại đang diễn ra
hết sức mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến quá trình phát triển của các nước trên

70
Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
71
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, H 2016, tr 155.

80
thế giới. Mục đích của khoa học và công nghệ là để “phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao trình độ quản lý; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
môi trường; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới Việt Nam; góp phần phát
triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh”72.
Hiện nay, xu thế vận động và phát triển của khoa học và công nghệ là tập
trung vào nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và bảo vệ môi trường.
Khoa học – công nghệ hướng đến phục vụ và mang lại những tiện ích tốt nhất
cho cuộc sống của con người. Đây là mục tiêu mang ý nghĩa nhân văn và cũng là
đạo đức của khoa học công nghệ. Vì vậy, việc đầu tư xứng đáng cho khoa học –
công nghệ, tận dụng lợi ích to lớn mà nó đóng góp cho phát triển là rất cần thiết.
Khoa học, công nghệ là một nhân tố quan trọng đưa xã hội loài người
bước vào một thời kỳ văn minh mới. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích
cực, to lớn trong đời sống con người, nó cũng để lại những hậu quả tiêu cực đối
với sự phát triển của con người và xã hội. Nhiều sản phẩm khoa học công nghệ
đã mang lại tiện ích to lớn cho con người như điện thoại thông minh, ti vi thông
minh, internet, trí tuệ nhân tạo… nhưng cũng chính những tiện ích ấy khiến con
người dễ trở nên vô cảm, lười nhác, giảm sức sáng tạo, thậm chí suy giảm những
giá trị nhân tính. Trong khi đó, sự nhạy cảm và sáng tạo lại là những phẩm chất
thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện của cá nhân và cộng đồng.
Một tác động tiêu cực khác của khoa học – công nghệ là, khi nó không
thực hiện đúng mục tiêu, bị áp đặt bởi tham vọng chứ không phải là nhu cầu
sáng tạo của con người (sự chạy đua quyền lực trong chính trị, kinh tế, quân sự)
thì nó lại trở thành vũ khí hủy diệt con người. “Chưa bao giờ như ngày nay, sự

72
Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2001.

81
căng thẳng giữa khoa học và lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên tới cực
điểm để trở thành một mối đe dọa đối với toàn thế giới”73.
Trong bối cảnh đất nước đang tiến hành mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển văn
hóa, con người không phải chỉ là nhận diện những tác động tích cực và tiêu cực
của khoa học và công nghệ hiện đại. Điều quan trọng là “làm cho khoa học đi
cùng lương tâm, kỹ thuật đi cùng đạo lý là trách nhiệm của chúng ta nếu chúng
ta không muốn chứng kiến “sự bại hoại của tâm hồn”74.
3. QUAN ĐIỂM, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm
3.1.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội.
Quan điểm này không chỉ khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự phát
triển bền vững của đất nước mà còn khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa văn
hóa với chính trị, kinh tế và xã hội. Nghị quyết Trung ương chín khóa XI tiếp tục
khẳng định: Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Quan niệm “ngang hàng” ở đây không có nghĩa là “dàn hàng ngang”, cào bằng,
chia đều theo kiểu “bình quân chủ nghĩa”. Đặt các lĩnh vực ngang hàng nhau
nghĩa là về chiến lược phát triển bền vững, lâu dài thì phải xác định mỗi lĩnh vực
ở đây đều quan trọng như nhau, tuy nhiên, tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể, có thể
nhấn mạnh nhân tố này hay nhân tố khác. Khẳng định điều này chính là để khắc
phục tình trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với kinh tế và chính trị, gây ra hậu quả
không nhỏ là làm gia tăng sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt là

73
Tổng Giám đốc UNESCO, Federo May yor, Một quan điểm đạo lý mới, Tạp chí Người đưa tinUNESCO,
tháng 5/1988, tr4
74
Tổng Giám đốc UNESCO, Federo May yor, Một quan điểm đạo lý mới, Tạp chí Người đưa tinUNESCO, tháng
5/1988, tr 4.

82
tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
hiện nay.
3.1.2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc
trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Đây là quan điểm khẳng định định hướng mô hình, tính chất của nền văn
hóa mà đất nước ta đang xây dựng.
Trước hết, đó là mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc
dân tộc”, thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa. Khái niệm “tiên tiến” ở đây
dùng để chỉ trình độ phát triển của nền văn hóa mà chúng ta đang phấn đấu xây
dựng, đạt đến sự tiến bộ, hiện đại. Đó là nền văn hóa phải cập nhật với trình độ
chung của khu vực và quốc tế, bao gồm tiên tiến về hệ tư tưởng (định hướng giá
trị, chuẩn mực chung của nền văn hóa), tiên tiến về hình thức biểu hiện, tiên tiến
về cơ sở vật chất kỹ thuật, về các thiết chế văn hóa và tổ chức quản lý, điều hành
để thực hiện nội dung, tư tưởng đó. Khái niệm “bản sắc dân tộc” nhấn mạnh đến
việc thể hiện tinh thần, ý thức dân tộc, bản sắc dân tộc, khẳng định tính đặc thù
của văn hóa Việt Nam trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Như vậy, “tiên tiến”
không đồng nghĩa với “cái mới”, “bản sắc” không đồng nghĩa với “cái cũ”. Tiên
tiến và bản sắc dân tộc là hai mặt của một vấn đề, gắn bó hữu cơ và bổ sung cho
nhau.
Thứ hai, tính chất của nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
trong đa dạng. Tính thống nhất của nền văn hóa được thể hiện tập trung ở ba nội
dung cơ bản: 1/Thống nhất về hệ tư tưởng (chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng để chúng ta xây dựng và phát triển nền văn hóa ở
mọi thành tố và mọi vùng miền, mọi dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam); 2/Thống
nhất về thể chế quản lý văn hóa (đảm bảo sự thống nhất chung về hệ thống luật
pháp nhằm đảm bảo quyền văn hóa của người dân và phát huy vai trò của người
dân tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá và hưởng thụ các thành

83
tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại); 3/Thống nhất về thiết chế văn hóa (bao
gồm hệ thống các cơ quan, các tổ chức, bộ máy hoạt động trên lĩnh vực văn hóa).
Đồng thời với việc đảm bảo tính thống nhất của nền văn hóa, chúng ta cần phải
tôn trọng sự đa dạng văn hóa, đảm bảo cho mỗi dân tộc, mỗi vùng miền phát huy
được các giá trị văn hóa đặc sắc vốn có để chung tay xây dựng đời sống văn hóa
chung của toàn dân tộc. Đa dạng văn hóa ở đây là sự đa dạng về phương diện
dân tộc học, tôn trọng sự khác biệt, sự phong phú trong bản sắc văn hóa của các
dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời, đa dạng văn hóa cũng cần
được hiểu là tôn trọng các trào lưu, các xu hướng, các phong cách sáng tạo khác
nhau hướng vào các giá trị dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Bốn đặc trưng của nền văn hóa mà nhân dân ta xây dựng trong thời kỳ đổi
mới hiện nay là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Các đặc trưng này có
mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung và thống nhất với nhau tạo nên diện
mạo mới của nền văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa đó có cơ sở từ kinh tế, chính
trị, xã hội: Về kinh tế, là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nền
công nghiệp và nền nông nghiệp hiện đại, dịch vụ tiên tiến dựa trên trình độ khoa
học công nghệ hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực cạnh
tranh quốc tế và hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Về chính trị, là một nền
chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Về xã hội, là một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đảm
bảo sự đoàn kết của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân hướng vào mục tiêu
chung là xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
3.1.3. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính
cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng tâm của việc
xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng con người, đặc biệt là hoàn thiện về nhân

84
cách con người.
Quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, bởi nếu không xác
định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn thiện nhân cách của con
người thì sẽ dẫn đến nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, làm tha hóa
con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo nên các giá trị văn hóa, vừa là sản
phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra. Trong đó, năng lực và phẩm chất
tạo nên nhân cách của con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất
lượng của các sáng tạo văn hóa, hình thành nên chất lượng của môi trường văn
hóa. Xây dựng nhân cách con người đứng vững trước thách thức của kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng
của văn hóa Việt Nam hiện nay.
Khi nêu quan điểm xây dựng nhân cách con người, Nghị quyết Trung
ương chín khoá XI nhấn mạnh các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa
tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Giá trị yêu nước là giá trị hàng đầu
trong bảng giá trị văn hóa Việt Nam và có vai trò chi phối các giá trị khác của cá
nhân và cộng đồng. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chủ nghĩa yêu nước là giá
trị chủ đạo để đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, cần chăm lo vun đắp xây dựng các đặc tính cơ
bản tạo nên năng lực và phẩm chất, hình thành nhân cách, lối sống tốt đẹp của
con người Việt Nam hiện nay. Đó là sự phát triển về thể lực và trí tuệ, lòng nhân
ái, trọng nghĩa, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Những đức tính tốt đẹp
này đã được hình thành ở con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước. Một trong những hạn chế, yếu kém lớn nhất trong quá trình
xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời gian qua là chúng ta chưa
xây dựng được nhân cách con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước. Hơn nữa, trước sự tác động tiêu cực từ những mặt trái của kinh tế thị
trường và các sản phẩm phản văn hóa từ bên ngoài vào, những đức tính tốt đẹp

85
có nguy cơ bị mai một. Vì vậy, việc bổ sung quan điểm này là rất cần thiết, vừa
có ý nghĩa cơ bản lâu dài, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.
3.2.4. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò
của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú
ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Quan điểm này xác định trọng tâm của xây dựng môi trường văn hóa là
xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa.
Môi trường văn hóa là môi trường chứa đựng các lĩnh vực hoạt động văn
hóa và diễn ra các hoạt động văn hóa mà con người là chủ thể dựa trên các thiết
chế và thể chế văn hóa. Chăm lo xây dựng môi trường văn hóa tiến bộ và lành
mạnh là yêu cầu rất cơ bản để phát triển văn hóa và xây dựng con người. Môi
trường văn hóa của đất nước phụ thuộc vào môi trường văn hóa ở cơ sở, gắn với
sinh hoạt văn hóa của cá nhân và cộng đồng, từ trong gia đình tới ngoài xã hội.
Trong đó, gia đình là tế bào cơ bản, là hạt nhân có ý nghĩa quyết định đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của con người. Bên cạnh việc phát huy vai trò
của gia đình, cần chú trọng phát huy vai trò của các cộng đồng dân cư, trường
học, cơ quan nhà nước, Mặt trận tổ quốc, các hiệp hội, doanh nghiệp v.v… trong
việc tham gia xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến việc xây dựng môi
trường văn hóa hiện nay là giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
và phát triển văn hóa. Ngay từ Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ năm khóa VIII (1998), Đảng ta đã nhấn mạnh rằng không quan tâm giải
quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì
không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Quan điểm tăng trưởng kinh
tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển đã được khẳng định trong
nhiều nghị quyết của Đại hội Đảng. Tuy nhiên, cho đến nay trong chỉ đạo thực
hiện quan điểm này vẫn còn lúng túng, cả ở cấp vĩ mô tới các địa phương. Sự gia

86
tăng xu hướng chạy theo tìm kiếm lợi ích kinh tế thuần túy, không chú ý tới nhân
tố con người và văn hóa trong phát triển đã gây ra nhiều hậu quả xấu, tác động
tiêu cực đến môi trường văn hóa của đất nước. Vì vậy, việc khẳng định rõ và tổ
chức thực hiện nghiêm túc quan điểm này trong hoạt động thực tiễn là yêu cầu
cấp thiết hiện nay.
3.2.5. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí
thức giữ vai trò quan trọng.
Đây là quan điểm khẳng định các chủ thể trọng yếu có vai trò to lớn, là
nguồn lực và động lực để xây dựng và phát triển nền văn hóa và con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước: nhân dân là chủ thể sáng
tạo, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Nền văn hóa chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa mang tính nhân dân,
do nhân dân sáng tạo. Khi xác định nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hóa, chúng
ta cần nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí
thức, đội ngũ doanh nhân và các dân tộc, các tôn giáo khác nhau trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Trong quá trình cách mạng, chúng ta đã xây dựng được một đội ngũ trí
thức mới mà đại bộ phận xuất thân từ nhân dân lao động, đã phát huy truyền
thống yêu nước, thân dân. Đội ngũ đó chính là tinh hoa của văn hóa dân tộc, vì
vậy, họ giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
nước nhà.
Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân,
nhưng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi Đảng là đại
diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, được trang bị thế giới
quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là đại biểu cho trí tuệ, đạo đức, tâm
hồn dân tộc. Đảng vạch ra phương hướng đúng đắn cho sự phát triển văn hóa
dân tộc, là người đi tiên phong trong sự nghiệp xây dựng văn hóa đồng thời tổ

87
chức, lôi cuốn nhân dân tham gia vào sự nghiệp to lớn này.
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đời sống
văn hóa của đất nước sẽ diễn ra hết sức năng động và phức tạp, đòi hỏi phải tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước, khắc phục những yếu kém, bất cập của
công tác quản lý nhà nước trong thời gian vừa qua.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, năm quan điểm trên đã phản ánh được
tư tưởng chỉ đạo vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm
định hướng cho quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời gian tới. Các quan điểm
này đã phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận văn hóa của Đảng.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung ở các
quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.
3.2. Nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam
3.2.1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Nói đến văn hóa là nói đến con người. Ở mỗi chặng đường phát triển văn
hóa, lại có mẫu người hay yêu cầu xây dựng con người tương ứng. Trong thời kỳ
đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, đòi hỏi những con
người mới phải có sự phát triển toàn diện. Đảng ta quan tâm đến vấn đề xây
dựng con người toàn diện với các đặc tính sau:
Thứ nhất, đó là con người đạo đức. Nghị quyết 33-NQ/TW đã nêu ra đích
hướng tới của xây dựng con người là “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của
con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”,
“Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các
giá trị cao đẹp, nhân văn”. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng yêu cầu:
“Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt
lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và

88
lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế
hệ trẻ”75.
Thứ hai, là con người năng lực. Năng lực ở đây trước hết bao gồm năng
lực nhận thức, hiểu biết, năng lực thẩm mỹ: “Hướng các hoạt động văn hóa, giáo
dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới
chân - thiện - mỹ. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập”. “Tăng cường giáo dục nghệ
thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên,
thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm
hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của
mỗi người dân và của cộng đồng”. Ngoài ra, trong xây dựng con người, cần chú
ý năng lực về thể chất, sức khỏe. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác
định: “Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể
chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”76.
Bên cạnh việc nêu cao nhiệm vụ phát huy, xây dựng những phẩm chất tốt
đẹp, tích cực của con người Việt Nam, Nghị quyết 33-NQ/TW cũng nhấn mạnh
việc khắc phục những hạn chế, chống lại những mặt sai trái, tiêu cực của con
người Việt Nam: “Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu;
chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền
văn hóa, làm tha hóa con người”. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng yêu
cầu: “Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống
cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”77.

75
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, tr.136.
76
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, sđd, tr.137.
77
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, sđd, tr.143.

89
Như vậy, xây dựng con người toàn diện ở đây có nghĩa là xây dựng mẫu
người phát triển về mọi phương diện, từ đạo đức, tâm hồn, đến trí tuệ, thể chất.
Toàn diện còn ở chỗ không chỉ có xây mà còn có chống, không chỉ phát huy cái
giá trị, tốt đẹp mà còn hạn chế, đẩy lùi cái phi giá trị, cái xấu, cái ác trong con
người. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nhưng cũng vô cùng khó khăn, lâu
dài, gian khổ, đòi hỏi phải kiên trì, thận trọng và bản lĩnh, quyết tâm cao.
3.2.2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Muốn xây dựng được con người tốt đẹp toàn diện, cần phải xây dựng được
môi trường văn hóa lành mạnh cho con người, bởi môi trường văn hóa lành
mạnh là mảnh đất thuận lợi nuôi dưỡng đời sống tâm hồn, tình cảm, trí tuệ, năng
lực, nhân cách của cá nhân và cộng đồng. Để xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh, theo Nghị quyết 33-NQ/TW, cần chú trọng các nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Xây dựng đời sống văn hóa ở
địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh,
đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng
nếp sống văn hóa, tiến bộ, văn minh. Nghị quyết nhấn mạnh phải làm sao cho
“Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường
văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối
sống”. Muốn vậy, cần tăng cường giáo dục đạo đức công dân, đạo đức xã hội,
chú trọng đặc biệt tới giáo dục đạo đức công quyền, đạo đức nghề nghiệp cho tất
cả mọi người dân để họ có thể chủ động đứng vững trước cám dỗ của mặt trái
kinh tế thị trường, giữ gìn và phát triển những giá trị đạo đức tốt đẹp của con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, xây dựng văn hóa gia đình và văn hóa học đường. Xây dựng gia
đình Việt Nam thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo
dục nếp sống cho con người. Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là trung tâm
văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối
sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ.

90
Thứ ba, gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa vùng miền, giữa
các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Tạo điều kiện để nhân dân chủ động tổ
chức hoạt động văn hóa cộng đồng.
Thứ tư, phát huy các giá trị, các nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo,
tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng
thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời, đẹp đạo”. Khuyến khích các hoạt
động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, từ thiện, nhân đạo.
Thứ năm, việc xây dựng môi trường văn hóa phải được gắn kết với bảo vệ
môi trường sinh thái bởi đây là một yêu cầu cơ bản để bảo đảm nâng cao chất
lượng cuộc sống của con người. Nhà nước cần có hệ thống luật pháp và chính
sách phát triển hợp lý cùng với nâng cao ý thức của người dân, của các doanh
nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
Như vậy, quan niệm về xây dựng môi trường văn hóa được mở rộng và
bao trùm toàn bộ các lĩnh vực và các hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội. Điều quan trọng nhất trong xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là thực
hành dân chủ rộng rãi, phát huy tính tích cực công dân, đề cao trách nhiệm xã
hội của mỗi người dân trong hoạt động văn hóa. Xây dựng môi trường văn hóa
chính là tạo ra những điều kiện để các hoạt động văn hóa diễn ra thường xuyên,
liên tục và đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh của nhân dân, nhằm tiến tới
“nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”,
hướng tới một đất nước “phồn vinh, hạnh phúc” như tinh thần của Đại hội XIII
của Đảng đã đề ra.
3.2.3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc phát triển văn hóa, con

91
người Việt Nam hiện nay là đặt văn hóa trong các mối quan hệ với các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội.
Thứ nhất, xây dựng văn hóa trong chính trị. Văn hóa chính trị là nội lực
của sự trường tồn và phát triển của đảng chính trị, một chế độ xã hội cũng như
của một dân tộc, quốc gia. Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa
chính trị giúp cho các chủ thể chính trị tiếp cận với hệ thống giá trị chính trị
chung trong một nền chính trị hội nhập; động viên, tập hợp các cá nhân, các
nhóm, các giai tầng hướng tới mục tiêu chung cho sự phát triển của đất nước.
Trong Nghị quyết 33-NQ/TW, Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong
chính trị với các yêu cầu cụ thể: Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong
Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng
để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo
đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với
nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương;
tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, công chức, đảng viên.
Thứ hai, xây dựng văn hóa trong kinh tế
Nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa ngày càng được hoàn
thiện cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều này thể hiện rõ trong đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Văn hóa
không đứng ngoài, mà ở trong kinh tế và chính trị, đòi hỏi mọi hoạt động kinh tế
và chính trị phải hàm chứa tinh thần văn hóa - tinh thần nhân bản, nhân văn,
nhân đạo, tất cả vì con người. Trong Nghị quyết Trung ương chín khoá XI, Đảng
nhấn mạnh yêu cầu phải: thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh
tế, phải coi con người là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

92
Muốn vậy, phải tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm
văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng,
phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý
thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền
vững và bảo vệ Tổ quốc.
Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, xây dựng
văn hóa trong kinh tế phải phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn
dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các
thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
3.2.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa
Trong bối cảnh hiện nay, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt
động văn hóa, cần tập trung vào các lĩnh vực cơ bản sau:
Thứ nhất, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Ở lĩnh vực
này, Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu cơ bản là: hài hòa giữa bảo tồn và phát huy, giữ
gìn và phát triển: “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn,
phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội”.
Thứ hai, phát triển sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật. Để làm tốt nhiệm vụ
này, cần quan tâm đồng bộ đến tất cả các yếu tố như văn nghệ sĩ, sáng tạo trao
truyền tác phẩm nghệ thuật, hoạt động lý luận phê bình văn học nghệ thuật...
Đồng thời, tạo mọi điều kiện để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ
thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ánh chân
thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.
Cụ thể là phải chú trọng phát huy tài năng, đặc biệt là tài năng trẻ, tạo điều kiện
để văn nghệ sĩ hoạt động tích cực, hiệu quả đồng thời có chính sách tôn vinh trí
thức, văn nghệ sĩ. Ngoài ra, cần khuyến khích nhân dân sáng tạo, trao truyền và
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm,
công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới
đất nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam.

93
Thứ ba, phát triển báo chí, truyền thông. Cần quy hoạch, sắp xếp lại hệ
thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú
trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên mạng internet để định hướng
tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh, thiếu niên. Đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan
báo chí, truyền thông chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn
chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và
khoa học, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
3.2.5. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện
thị trường văn hóa
Phát triển công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa là xu thế của thời đại
đồng thời cũng là nhiệm vụ cấp bách, phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Phải xác định đầu tư phát triển công nghiệp hóa và thị trường văn hóa là đầu tư
cho phát triển, cần được ưu tiên để tạo ra sự đột phá trong phát triển cả về văn
hóa và kinh tế của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Để phát triển công nghiệp
văn hóa, Nghị quyết 33-NQ/TW nêu rõ quan các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, cần có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Tạo
thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các
nguồn lực xã hội để phát triển. Mặt khác, phát triển công nghiệp văn hóa trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, Đảng ta, trong Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, đã bổ sung thêm yêu cầu: “... vận dụng có hiệu quả các
giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của
thế giới”.78
Thứ hai, cần đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi
để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa. Nâng cao ý
78
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, sđd, tr.145.

94
thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan
trong toàn xã hội. Củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan
quản lý và các cơ quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương đến địa phương.
Thứ ba, cần lựa chọn một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi
thế để tập trung đầu tư các nguồn lực phát triển. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: ‘‘Khẩn trương triển khai phát triển có
trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở
xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam,... ”2.
3.2.6. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại
Hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là một
yêu cầu tất yếu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa của các quốc
gia, dân tộc. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đây là một nhiệm
vụ mang tầm chiến lược để nâng cao sức mạnh của văn hóa Việt Nam đáp ứng
những yêu cầu phát triển chung của thế giới.
Nhiệm vụ này, có hai nội dung cơ bản cần thực hiện: Thứ nhất, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại bao gồm những giá trị nhân văn, khoa học,
tiến bộ, những kinh nghiệm quý báu của các nước trên thế giới trong xây dựng
và phát triển văn hóa từ đó làm giàu có, phong phú hơn cho nền văn hóa dân tộc.
Thứ hai, cần thực hiện tốt việc giới thiệu, quảng bá về văn hóa, con người Việt
Nam với thế giới, để thế giới hiểu rõ hơn về văn hóa dân tộc đồng thời góp phần
làm giàu cho văn hóa nhân loại.
Như vậy, đây là sáu nhiệm vụ rất cơ bản và bao quát một cách toàn diện
tất cả các lĩnh vực và các hoạt động văn hóa liên quan đến phát triển văn hóa và
con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tổ chức thực hiện nghiêm
túc những nhiệm vụ này là điều kiện để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng

2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 145.

95
văn hóa và con người Việt Nam mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương chín khóa
XI đã nêu ra.
3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
3.3.1. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực
văn hóa
Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cần tập trung thực hiện một
số nội dung sau:
Thứ nhất, về nhận thức. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định xây dựng
và phát triển văn hóa, con ngườiViệt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong suốt
thời kỳ đổi mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong
Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa, con ngườiViệt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao
vai trò gương mẫu và động viên, tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển
văn hoá, con người.
Thứ hai, về cách thức. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo
hướng hài hòa, vừa bảo đảm để văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị, tư
tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên
cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng
buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Phải coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước,
mà nội dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết
trong mọi tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên.
3.3.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay,
vai trò của quản lý nhà nước về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để nâng

96
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, Nghị quyết 33-NQ/TW
nhấn mạnh các yêu cầu sau:
- Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của
Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế,
chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với
chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
- Điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với tính đặc thù của
văn hóa, nghệ thuật. Bổ sung chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong
kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triểnkinh tế và phát triển văn hóa;
có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo
hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thúc đẩy cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.
- Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và
tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của
các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản
lý hoạt động văn hóa.
- Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng,
đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có
hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động
không đúng tôn chỉ, mục đích, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường.
Ngoài ra, cần tích cực tiếp thu và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu
khoa học - công nghệ phục vụ hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về văn
hóa, không ngừng đổi mới và nâng cao trình độ quản lý.
3.3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa

97
Giải pháp này liên quan đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực - động lực
của sự phát triển đất nước nói chung, phát triển văn hóa nói riêng. Nghị quyết
Trung ương chín khoá XI đã đề ra các biện pháp cụ thể sau:
- Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm
công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.
- Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ
bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học,
trên đại học trọng điểm, đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
- Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội
nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa,
nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ
trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa
phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên
ngành văn hóa.
- Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ
trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh
chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ
thuật đặc thù.
3.3.4. Tăng cường các nguồn lực cho văn hóa
Để tăng cường nguồn lực cho văn hoá, Nghị quyết Trung ương chín Khóa
XI nhấn mạnh một số nội dung sau:
Thứ nhất, về đầu tư của Nhà nước: Mức đầu tư của Nhà nước cho văn
hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai,
minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các
vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại
hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy.

98
Thứ hai, về xã hội hóa: Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn
đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.
Thứ ba, về quản lý: Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng,
thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân
đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào
tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện
ảnh, hỗ trợ xuất bản...
Thứ tư, về thiết chế văn hóa. Xây dựng một số công trình văn hóa trọng
điểm. Các địa phương, các cơ quan, công sở, trường học, khu công nghiệp,
doanh nghiệp, khu dân cư... có thiết chế văn hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hóa,
công trình thể thao...).
Thứ năm, về nghiên cứu lý luận: Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát
triển văn hóa, xây dựng con người.
Trong bốn giải pháp trên, cần đặc biệt lưu ý đến giải pháp đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước trên
lĩnh vực văn hoá. Nhìn chung, đây là những giải pháp cơ bản, có tầm bao quát,
cần phải được thực hiện đồng bộ, triệt để và thường xuyên dưới sự chỉ đạo thống
nhất trong hệ thống chính trị để tạo nên sự chuyển biến toàn diện, sâu sắc trong
quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Cần phải làm gì để phát huy vai trò của văn hóa, con người trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?
2. Thực tiễn triển khai Nghị quyết của Đảng về xây dựng văn hóa, con
người Việt Nam hiện nay?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích mối quan hệ giữa xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng,
phát triển con người?

99
2. Trình bày các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, phát triển văn
hóa, con người ở nước ta hiện nay?
3. Phân tích các nhiệm vụ cơ bản để xây dựng, phát triển văn hóa, con
người ở nước ta hiện nay?
E. TÀI LIỆU HỌC TẬP
* Tài liệu bắt buộc
1. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Tập I – II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
* Tài liệu đọc thêm
1. Viện Văn hoá và Phát triển, Văn hoá và phát triển ở Việt Nam – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
2. Dương Phú Hiệp (Chủ biên): Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.2012.

10
Bài 4
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO, KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Trang bị một số nội dung cơ bản trong chủ trương, đường lối của Đảng về
giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ.
2. Về kỹ năng
Biết vận dụng tri thức, hiểu biết trong chủ trương, đường lối của Đảng về
giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ vào hoạt động thực tiễn.
3. Về thái độ
Nâng cao ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp phát triển giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ theo chủ trương, đường lối của Đảng trong tình hình
hiện nay.
B. NỘI DUNG
1. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. Khái niệm giáo dục - đào tạo
1.1.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, ra đời cùng với sự xuất hiện của loài
người, là hoạt động đặc trưng, tất yếu, riêng có của xã hội loài người.
“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên nêu khái niệm giáo dục là
“Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể
chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những
phẩm chất, năng lực như yêu cầu đề ra”79.
Là một hiện tượng xã hội, giáo dục là quá trình trao truyền tri thức, kinh
nghiệm giữa con người với con người thông qua ngôn ngữ và các hệ thống ký
hiệu khác nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển nhân loại. Giáo dục còn rèn luyện

79 Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, 2004,
tr.394.
kỹ năng, lối sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, niềm tin, hình thành và
phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách của con người. Vì vậy, trong giáo dục
đã bao hàm nội dung đào tạo.
Nội dung chủ yếu của hoạt động giáo dục bao gồm: giáo dục đạo đức, giáo
dục trí tuệ, giáo dục lao động, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ.
Cấu trúc cơ bản của giáo dục gồm 4 thành tố: giáo dục gia đình, giáo dục
nhà trường, giáo dục xã hội và tự giáo dục của mỗi cá nhân.
Như vậy, hơn bất cứ một hoạt động nào khác, giáo dục là hoạt động có tổ
chức, có kế hoạch, có nội dung, có những phương pháp mang tính đặc trưng
nhằm đạt được mục đích giáo dục.
1.1.2. Đào tạo
“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên nêu khái niệm đào tạo là
“Làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”80.
Nói một cách tổng quát, đào tạo là quá trình giáo dục nhằm hình thành,
phát triển năng lực và nghề nghiệp cho con người theo những tiêu chuẩn, yêu
cầu nhất định của xã hội.
1.3. Giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là hệ thống các biện pháp và cơ quan thực thi nhiệm
vụ giáo dục của một nước.
1.2. Tính chất, nguyên lý của giáo dục Việt Nam
1.2.1. Tính chất
Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Vì vậy, cùng với tính phổ
biến, tính lịch sử của giáo dục nói chung, Điều 3 Luật Giáo dục 2019 xác định
giáo dục Việt Nam có tính nhân dân, tính dân tộc, tính khoa học, tính hiện đại.
Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân, xoá bỏ mọi bất công, phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, phổ cập

80
Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, 2004,
tr.289.
giáo dục phổ thông, nâng cao dân trí, phát huy tối đa nguồn lực con người. Nền
giáo dục đó góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị, làm sâu sắc thêm bản
sắc văn hoá của dân tộc. Nền giáo dục Việt Nam thể hiện sự đồng bộ, toàn diện,
có hệ thống phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước, có
chiến lược, sách lược, nội dung, chương trình phù hợp. Nó hướng tới bắt kịp,
tiếp thu những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ, nhất là của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thành tựu của giáo dục - đào tạo trong nước
và thế giới nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu mà Đảng đã đề ra.
Ngoài ra, nền giáo dục Việt Nam còn có tính chất giai cấp. Tuy nhiên,
hiện nay Đảng và Nhà nước ta chủ trương hướng tới sự bình đẳng, công bằng,
mọi công dân không phân biệt lứa tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo đều có quyền
như nhau trong việc tiếp cận với giáo dục.
1.2.2. Nguyên lý
Nguyên lý giáo dục là những luận điểm chung nhất được khái quát trên cơ
sở khoa học và thực tiễn, góp phần định hướng các hoạt động của giáo dục trong
và ngoài nhà trường để giáo dục thực hiện mục tiêu một cách có hiệu quả cao
nhất. Điều 3 Luật Giáo dục (2019) xác định ba nguyên lý cơ bản của giáo dục
Việt Nam hiện nay là: “Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo
dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
Mỗi nội dung của nguyên lý giáo dục có vị trí, vai trò riêng, song các nội
dung đó gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, tạo nên sự thống nhất và
ưu việt của giáo dục Việt Nam.
Học đi đôi với hành là nội dung quan trọng nhất của nguyên lý giáo dục,
đòi hỏi phải gắn lý thuyết với thực hành như một tất yếu; thực hành với những
kỹ năng, kỹ xảo là thước đo chủ yếu để đánh giá chất lượng và hiệu quả học tập
lý thuyết. Lý luận gắn liền với thực tiễn đòi hỏi nội dung giáo dục phải gắn với
thực tiễn cuộc sống xã hội, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương và những vấn đề khác có liên quan.

10
Giáo dục nhà trường giữ vai trò quyết định song phải gắn với giáo dục gia đình,
giáo dục xã hội và tự giáo dục của cá nhân để gắn kết, phát huy vai trò, tác dụng
của các môi trường giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục do Đảng đề ra.
1.3. Vai trò chủ yếu của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế
1.3.1. Là nền tảng, quốc sách hàng đầu, động lực then chốt đáp ứng yêu
cầu mới của phát triển bền vững đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực trọng yếu quyết định sự tồn tại và phát triển
của nhân loại. Trước đây, việc đánh giá sự phát triển của một quốc gia chủ yếu
dựa vào tiêu chí sự tăng trưởng của nền kinh tế. Những thập kỷ gần đây, Liên
hợp quốc khẳng định giáo dục cùng với khoa học là nền tảng, là trung tâm, là
chìa khoá để thực hiện sự phát triển bền vững. Theo quan điểm về sự phát triển
bền vững, đánh giá chỉ số phát triển con người (HDI) không chỉ dựa trên mức
sống (GDP/người, nói lên sự phát triển kinh tế của một nước) mà còn dựa trên
hai yếu tố quan trọng nữa là tri thức (tiêu chí nói lên tỷ lệ người lớn biết chữ, kết
hợp với số năm học trung bình ở trường do giáo dục - đào tạo mà có), tuổi thọ
(tuổi thọ trung bình của người dân do chăm sóc sức khoẻ mà có).
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng công cụ, phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của khoa học - công nghệ để tạo ra năng suất
lao động ngày càng cao hơn. Hội nhập quốc tế đã và đang là xu thế tất yếu. Cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy, con đường
duy nhất để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là phải
phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng ngày càng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bên vững đất nước. Vì
vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định phải: “Nâng

10
cao, tạo sức chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và
đào tạo”81.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn rất xa về vai trò của giáo dục - đào tạo.
Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực chủ yếu hình thành, hoàn thiện nhân cách con
người. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên”82. Sau này, trong
thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà năm 1945, Người chỉ rõ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các em”83. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhiều lần
khẳng định con người xã hội chủ nghĩa giữ vai trò là yếu tố cơ bản, là điều kiện
tiên quyết: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa”84. Thực tế đã chứng minh điều đó, con người không chỉ là
nguồn lực cơ bản mà còn là nguồn lực của mọi nguồn lực. Trong điều kiện thực
hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nguồn lực con người không chỉ là
dân số mà chủ yếu là dân trí, trình độ văn hoá, trình độ lãnh đạo, quản lý, kỹ
năng nghề nghiệp. Chính giáo dục - đào tạo là lĩnh vực tạo ra nguồn nhân lực, là
những người được đào tạo với chất lượng đáp ứng nhu cầu mọi mặt ngày càng
cao của đời sống kinh tế - xã hội; tạo ra những con người có đủ đức, đủ tài, “vừa
hồng, vừa chuyên”, phát huy cao độ trí tuệ, tình cảm để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của Nhân dân, thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.

81
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t.1, tr.204.
82
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.35.
83
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tập 4, tr.35.
84
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tập 4, tr.66.

10
1.3.2. Có vai trò to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội
chủ nghĩa, là cơ sở để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc
Giáo dục - đào tạo với mục tiêu, tính chất, nội dung, phương pháp đặc
trưng, có vai trò to lớn trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Giáo dục là chức năng bao trùm của văn hoá nên giữa giáo dục và văn hoá
có mối quan hệ hữu cơ. Giáo dục - đào tạo với vai trò là quốc sách hàng đầu,
động lực then chốt của mình là cơ sở để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là xây dựng và bồi đắp tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, lối sống mới, nếp sống mới, phát huy giá trị của thuần phong, mỹ
tục, bổ sung những giá trị mới để xây dựng hệ giá trị quốc gia.
Với những vai trò to lớn nêu trên, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2021 - 2030 do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra xác
định cần đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hoá và thay đổi phương thức giáo dục,
đào tạo, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; chú trọng đào tạo nhân
lực chất lượng cao là một trong những yếu tố của các đột phá chiến lược.
1.4. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục -
đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
quốc tế
1.4.1. Quan điểm chỉ đạo
Nước ta tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế. Cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư với những nội dung và yêu cầu mới, đòi hỏi phải đổi mới
tư duy và hành động, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế
tri thức, kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng

10
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh... Bối cảnh thế giới và trong nước
hiện nay và những năm sắp tới vừa là thời cơ, vừa là thách thức; nếu tận dụng có
hiệu quả thời cơ, vượt qua thách thức thì giáo dục - đào tạo sẽ có những bước
phát triển mới, thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục - đào tạo do Đảng đề ra.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương khoá XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nêu lên những quan điểm cơ bản sau
đây của Đảng ta về phát triển giáo dục - đào tạo:
Một là, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên
đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm
nay đã chỉ rõ vị trí, vai trò của giáo dục - đào tạo, chủ thể lãnh đạo, quản lý và
chủ thể thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục - đào tạo. Cần phải đặc biệt chăm
lo, ưu tiên đầu tư các nguồn lực phát triển giáo dục - đào tạo để giáo dục - đào
tạo phát huy được vai trò tiên phong, mở đường cho phát triển nhanh và bền
vững đất nước.
Hai là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những
vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết. Đổi mới tập trung vào những nội dung như: quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách,
điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo, việc tham gia của gia
đình, cộng đồng, xã hội và người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới giáo dục - đào tạo, Đảng ta nhấn mạnh cần kế
thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, đồng thời chủ
động tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những
nhận thức, việc làm lệch lạc, những “căn bệnh” đã và đang gây hệ luỵ không tốt
trong xã hội thời gian qua. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài

10
hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả
thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp, sát thực tiễn.
Ba là, phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Quan điểm này chỉ rõ mục đích, sứ mệnh của phát triển giáo
dục - đào tạo. Để không còn là “một dân tộc dốt”, “một dân tộc yếu” thì tất yếu
phải tập trung nâng cao dân trí, trên cơ sở đó đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, nhất là chú trọng bồi dưỡng nhân tài để tạo ra động lực then chốt thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế. Muốn vậy, cần
chuyển mạnh quá trình giáo dục - đào tạo từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; thực hiện có hiệu quả nguyên
lý giáo dục mà Đảng ta đã xác định.
Bốn là, phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy
luật khách quan. Quan điểm này đã đặt ra yêu cầu, nguyên tắc, phát triển giáo
dục - đào tạo. Theo đó, giáo dục - đào tạo phải gắn với những nhiệm vụ chính trị
quan trọng nhất của đất nước, trên cơ sở thành tựu và xu hướng phát triển của
khoa học - công nghệ, khắc phục triệt để duy ý chí. Cần chuyển phát triển giáo
dục - đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả,
đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng trước mắt cũng như lâu dài.
Năm là, đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông
giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục - đào tạo. Chuẩn
hóa, hiện đại hóa giáo dục - đào tạo. Quan điểm này xác định phương pháp cơ
bản về đổi mới giáo dục - đào tạo. Theo đó, đổi mới giáo dục - đào tạo phải có
tính mở để phát huy năng lực sáng tạo của hệ thống, không dập khuôn máy móc
và nhất thiết phải phát triển theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá để bắt kịp thành
tựu mới nhất của giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ.
Sáu là, chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và

10
đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa
các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng
đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa
và các đối tượng chính sách. Thực hiện đúng phương châm dân chủ hóa, xã hội
hóa giáo dục và đào tạo. Quan điểm này nhấn mạnh yêu cầu cần phải nhìn nhận
đúng thực trạng giáo dục - đào tạo hiện nay, đảm bảo tính chất của giáo dục -
đào tạo nước nhà, ưu tiên phát triển giáo dục - đào tạo ở các vùng, miền có yếu
tố đặc thù, thực hiện công bằng trong giáo dục - đào tạo; đồng thời xác định rõ
phương châm phát triển giáo dục - đào tạo hiện nay.
Bảy là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào
tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát
triển bền vững đất nước.
Kế thừa những quan điểm trên đây, xuất phát từ dự báo bối cảnh quốc tế
và trong nước thời gian tới, từ yêu cầu của tình hình mới, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng xác định tiếp tục “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người” 85.
Thực hiện đường lối phát triển giáo dục - đào tạo những năm tới, Đảng ta nhấn
mạnh một số quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ
trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Quan điểm này một lần nữa
khẳng định vị trí, vai trò của giáo dục - đào tạo hiện nay cũng như trong những
năm tới, nhấn mạnh vai trò “quốc sách hàng đầu, động lực then chốt để phát triển
nhanh và bền vững đất nước”. Vị trí, vai trò đó chỉ có thể được phát huy khi
Đảng và Nhà nước xây dựng và từng bước hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính
sách phù hợp đối với phát triển giáo dục - đào tạo.

85
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t.1, tr.136.

10
Hai là, tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương
thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế,
phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế
- xã hội, của khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Quan điểm này một lần nữa chỉ rõ những nội dung trọng tâm cần đổi
mới, phương pháp đổi mới giáo dục - đào tạo đáp ứng với bối cảnh quốc tế,
trong nước và yêu cầu mới; nhấn mạnh tính hiện đại và mục tiêu phát triển con
người toàn diện của sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Ba là, chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và
các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc,
truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp, nhất
là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc tốt đẹp của người Việt
Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này xác định những
nội dung quan trọng nhất, có tính chiến lược của giáo dục - đào tạo trong những
năm tới. Trong những nội dung đó, nền tảng vẫn là giáo dục đạo đức, nhân cách,
truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc, những đức tính tốt đẹp của con người
Việt Nam nhưng đồng thời cũng phải hướng đến những nội dung mới, những giá
trị mới, trong đó có năng lực sáng tạo, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, trách nhiệm xã hội của công dân... Đặc biệt chú trọng giáo dục - đào
tạo thế hệ trẻ đáp ứng kỳ vọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo
dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam. Quan điểm này xác định cụ
thể hơn những nội dung cơ bản, sự gắn kết trong nội dung, phương thức giáo dục
- đào tạo, nhấn mạnh tính toàn diện, đồng bộ, thiết thực, trong đó coi trọng đúng
mức nội dung kỹ năng sống và vấn đề nâng cao tầm vóc của con người Việt
Nam; khắc phục về cơ bản sự phiến diện trong giáo dục - đào tạo.
1.4.2. Mục tiêu

11
Mục tiêu của giáo dục - đào tạo là những tiêu chí, những yêu cầu mà giáo
dục - đào tạo cần phải phấn đấu đạt được trong thực tế sau một thời gian nhất
định, nghĩa là nó có thể lượng hoá được một cách cụ thể. Mục tiêu của giáo dục -
đào tạo của nước ta hiện nay và những năm tới chủ yếu được xây dựng trên cơ
sở đường lối đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập quốc tế; chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là những yêu cầu mới về phát triển
nguồn nhân lực, thực trạng (thành tựu, hạn chế) của nền giáo dục - đào tạo hiện
nay, yêu cầu phát triển giáo dục - đào tạo trong những năm sắp tới. Mục tiêu của
giáo dục - đào tạo Việt Nam còn dựa trên dự báo tình hình thế giới, tình hình
trong nước những năm tới và mục tiêu tổng quát phát triển đất nước đến giữa thế
kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với giáo dục - đào tạo nói chung, ở cấp độ tổng quát, Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Điều
2 Luật Giáo dục (2019) cũng như quan điểm do Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng xác định, mục tiêu của giáo dục - đào tạo nhằm đổi mới căn
bản, toàn diện, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo, đáp ứng
ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của
Nhân dân. Phát triển con người toàn diện, có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức
khỏe, thẩm mỹ, kỹ năng sống, nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức
công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhất là khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao
dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản
lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học
tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân
chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững

11
định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Bên cạnh mục tiêu tổng quát, ở cấp độ hệ thống giáo dục quốc dân còn có
mục tiêu cụ thể đối với từng cấp học như: giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên, giáo dục đại học, mục tiêu
đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Ngoài ra, ở cấp độ chuyên biệt, giáo dục cũng có những mục tiêu riêng.
1.4.3. Nhiệm vụ, giải pháp
Để thực hiện các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo
do Đảng đề ra, cần tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả một số nhiệm vụ và
giải pháp sau đây:
1.4.3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt chú
trọng giáo dục mầm non, tiểu học, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện thuận lợi để
mỗi người dân có cơ hội hưởng thụ công bằng, thành quả của nền giáo dục
Để hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, cần quan tâm củng cố và nâng
cao chất lượng phổ cập giáo dục; thực hiện tốt hơn phân luồng học sinh sau
trung học cơ sở; đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Cần tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng xã hội học tập, tạo cơ hội để mọi người được học tập suốt đời, khắc phục
tình trạng học một lần cho cả cuộc đời. Nhà nước ban hành chính sách đột phá
để phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trong đó có việc đẩy mạnh
tự chủ đại học. Phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, thích
ứng với xu hướng chung của thế giới hiện nay.
1.4.3.2. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục -
đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, lấy chất lượng, hiệu quả làm thước đo
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, cần xây dựng
ngay lộ trình miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là ở tiểu học và

11
trung học cơ sở. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở
giáo dục - đào tạo ngoài công lập trên cơ sở bảo đảm chất lượng chuẩn đầu ra,
công bằng xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan tâm thích đáng phát
triển giáo dục - đào tạo ở những vùng đặc thù, trong đó có miền núi, vùng cao,
hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị ảnh
hưởng bởi thiên tai khắc nghiệt.
1.4.3.3. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở
giáo dục - đào tạo
cần gắn kết chặt chẽ hơn nữa giáo dục - đào tạo với khoa học - công nghệ,
tăng cường nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu mới nhất của khoa học - công
nghệ, hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo
mạnh trong các cơ sở giáo dục - đào tạo. Có chính sách đãi ngộ phù hợp, coi
chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo là khâu
then chốt để phát triển giáo dục - đào tạo. Sắp xếp một cách hợp lý hệ thống
trường sư phạm, nhất là nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý của các trường.
1.4.3.4. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục - đào tạo gắn với đổi
mới cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả đầu tư
Cùng với việc tăng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, cần hoàn thiện cơ
chế, chính sách xã hội hoá giáo dục - đào tạo, khắc phục triệt để những lệch lạc
trong quá trình thực hiện chủ trương này. Đầu tư thích đáng cho giáo dục - đào
tạo chất lượng cao, trình độ cao, cho đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục - đào tạo, cho hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở giáo
dục - đào tạo; có chính sách đặc thù cho những vùng khó khăn, vùng đông đồng
bào dân tộc thiểu số. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, kém hiệu
quả.

11
1.4.3.5. Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý và quản trị
nghiệp vụ, chuyên môn trong giáo dục - đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu
quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục - đào
tạo
Trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, cùng với
yêu cầu đổi mới đồng bộ, cần chú trọng nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
quản lý và quản trị nghiệp vụ, chuyên môn trong giáo dục - đào tạo, tuyệt đối
tránh buông lỏng quản lý, khoán trắng cho các cơ sở giáo dục - đào tạo về nghiệp
vụ, chuyên môn và những vấn đề khác có liên quan. Từng bước hoàn thiện và
thực hiện ổn định phương thức đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục - đào
tạo, phương thức tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh vào
các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở đào tạo khác, vừa tránh lãng phí, vừa
đảm bảo chất lượng tuyển đầu vào. Có lộ trình hợp lý thực hiện cơ chế tự chủ
gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục - đào tạo, lấy chất lượng
chuẩn đầu ra là một trong những thước đo chủ yếu.
1.4.3.6. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác, hội nhập
nền giáo dục - đào tạo
Cần làm tốt việc phát huy nội lực, sức mạnh, giá trị và những ưu việt của
giáo dục - đào tạo trong nước; đồng thời kết hợp chặt chẽ việc tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa của giáo dục - đào tạo thế giới; phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc
gia mạnh về giáo dục - đào tạo trong khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của
thế giới, chủ động tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường đào tạo nhân lực
quốc tế.
1.4.3.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về
phát triển giáo dục - đào tạo
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhất là về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo,
nội dung, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo dục - đào tạo và
nguyên lý giáo dục do Đảng đề ra. Chú trọng phát triển Đảng trong đội ngũ nhà

11
giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trong học sinh, sinh viên. Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo thông qua việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách, tạo động lực cho phát triển giáo dục - đào tạo. Chú
trọng công tác thanh tra, kiểm tra, khắc phục bệnh thành tích, thương mại hóa,
xử lý nghiêm các tiêu cực trong giáo dục - đào tạo; xây dựng môi trường giáo
dục - đào tạo lành mạnh, nhân văn.
2. PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
2.1. Khái niệm khoa học - công nghệ
2.1.1. Khoa học
“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên nêu khái niệm khoa học là
“Hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh,
phản ảnh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như hoạt động
tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực”86.
Điều 3 Luật Khoa học công nghệ (2013) xác định: Khoa học là hệ thống
tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Tuy nhiên, để được coi là khoa học, hệ thống tri thức ấy phải do một quá
trình nghiên cứu và khái quát từ thực tiễn rồi phải được chính thực tiễn kiểm
nghiệm. Hệ thống khoa học bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và
khoa học xã hội - nhân văn.
2.1.2. Công nghệ
“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên nêu khái niệm công nghệ là
“Tổng thể nói chung các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái,
tính chất, hình dáng, nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh”87.

86
Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, 2004, tr.503.
87
Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, 2004, tr.208.

11
Theo Điều 3 Luật Khoa học công nghệ (2013), công nghệ là giải pháp,
quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương
tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
Công nghệ còn phải gắn với các kỹ năng, nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
sản xuất trung gian...
2.1.3. Hoạt động khoa học - công nghệ
Theo Điều 3 Luật Khoa học công nghệ (2013), hoạt động khoa học và
công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực
nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công
nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học
và công nghệ.
Như vậy, hoạt động khoa học - công nghệ bao giờ cũng liên quan trực tiếp
đến quá trình tạo ra, nâng cao, áp dụng tri thức khoa học - công nghệ vào sản
xuất, đời sống.
Nghiên cứu khoa học gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và
triển khai thực hiện; là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy
luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng
dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá
bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Nghiên cứu
ứng dụng là hoạt động nghiên cứu vận dụng kết quả nghiên cứu khoa học nhằm
tạo ra công nghệ mới, đổi mới công nghệ phục vụ lợi ích của con người và xã
hội.
Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử
nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.
Dịch vụ khoa học và công nghệ là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho
việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoạt động liên quan đến sở
hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường,

11
chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an toàn bức xạ, hạt nhân và năng lượng nguyên
tử; dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành
tựu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội...
Hiện nay khái niệm công nghệ cao đang được sử dụng khá phổ biến trên
thế giới và trong nước. Đó là công nghệ dựa trên cơ sở khoa học hiện đại với độ
chính xác cao, hiệu suất kinh tế cao. Nói cách khác, công nghệ cao là công nghệ
có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích
hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng,
tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò
quan trọng đối với việc hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại
hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Một số lĩnh vực công nghệ cao thường đề
cập là: công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ tự động hoá...
2.2. Vai trò chủ yếu của khoa học - công nghệ đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế
2.2.1. Là lực lượng sản xuất trực tiếp của quá trình sản xuất xã hội
Phân tích tác động giữa khoa học và lực lượng sản xuất, C.Mác đã đưa ra
một luận điểm quan trọng là khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp; một động lực của quá trình sản xuất. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và
đa chiều đến kinh tế toàn cầu, Đảng ta xác định khoa học - công nghệ, đổi mới
sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định trực tiếp đến sự phát triển bền
vững của đất nước. Thực tế hiện nay, kinh tế tri thức, công nghệ số đã và đang
thay đổi mô hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ; khoa học - công nghệ không còn
là yếu tố bên ngoài mà trở thành yếu tố bên trong, thành lực lượng sản xuất trực
tiếp của quá trình sản xuất xã hội. Khoa học - công nghệ ngày càng giữ vai trò
quyết định năng suất, sản lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng lực cạnh
tranh của mỗi quốc gia.

11
2.2.2. Là nền tảng, điều kiện, quốc sách hàng đầu, động lực then chốt
thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Đẩy mạnh
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo,
nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” 88, “phát
triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo
và chuyển đổi số”89.
Thực tế đã chứng minh những bước tiến kỳ diệu của khoa học - công nghệ
đã và đang làm thay đổi cơ bản sự phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học - công
nghệ làm cho các yếu tố: tài nguyên, vốn, sức lao động ngày càng trở thành thứ
yếu, khoa học - công nghệ với hàm lượng tri thức khoa học, công nghệ cao ngày
càng giữ vai trò quyết định, chủ yếu, trở thành nền tảng, điều kiện, quốc sách
hàng đầu, động lực then chốt của sự phát triển nhanh và bền vững, nhất là phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ứng dụng những
thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ sẽ nhanh chóng làm thay đổi quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, phương tiện, phương pháp
sản xuất tiên tiến, tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, thúc đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, thực hiện thành công mục
tiêu do Đảng đề ra đến giữa thế kỷ XXI.
2.2.3. Góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc
Khoa học - công nghệ không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất
vật chất mà còn góp phần làm chuyển đổi tư duy, tâm lý, phong tục, tập quán, lối
sống, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, những giá trị văn hoá

88
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t.1, tr.200-201.
89
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t.1, tr.214.

11
mới thích ứng với quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế. Điều đó cũng có nghĩa là
khoa học - công nghệ đã và đang tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và
phát triển nền văn hoá mới, con người Việt Nam thời đại mới với những giá trị
mới.
2.3. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển khoa học -
công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
quốc tế
2.3.1. Quan điểm chỉ đạo
Ngày 01/11/2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã ban hành
Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết nêu lên 5 quan điểm tương đối toàn diện
chỉ đạo phát triển khoa học và công nghệ của nước ta định hướng đến năm 2030.
Một là, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một
bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực
quản lý của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học
và công nghệ. Quan điểm này xác định rõ vị trí, vai trò của khoa học - công
nghệ, chủ thể lãnh đạo, quản lý và chủ thể chủ yếu để thực hiện phát triển khoa
học - công nghệ của đất nước ta hiện nay cũng như những năm sắp tới. Để phát
triển đất nước nhanh và bền vững, cần xác định khoa học - công nghệ là một
trong những chính sách hàng đầu của quốc gia, là động lực then chốt, quan trọng
nhất. Do đó phải tập trung lãnh đạo, quản lý, ưu tiên đầu tư các nguồn lực để
khoa học - công nghệ đi trước một bước, chú trọng đúng mức xây dựng đội ngũ

11
cán bộ khoa học - công nghệ có đủ đức và tài, có khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc.
Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý,
cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và
công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự
chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này chỉ ra những nội dung cần tập trung để
đổi mới, phát triển khoa học - công nghệ. Những nội dung đó cần được tiến hành
đồng bộ, trong đó mỗi nội dung có những yêu cầu cụ thể, sát hợp nhưng luôn
gắn kết chặt chẽ và tác động qua lại với nhau.
Ba là, đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển
bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước
có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ. Quan điểm này chỉ rõ vai trò rất quan trọng của nguồn nhân lực khoa
học - công nghệ. Nếu không xây dựng được nguồn nhân lực đặc biệt này thì rất
khó biến mục tiêu phát triển khoa học - công nghệ thành hiện thực. Vì vậy, đồng
thời với việc “khai thác”, phải chú trọng xây dựng, thu hút, trọng dụng đội ngũ
những người hoạt động trên lĩnh vực khoa học - công nghệ, nhất là cán bộ khoa
học - công nghệ có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành.
Bốn là, ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa
học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội
và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu
ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm
của đổi mới ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất
của thị trường khoa học và công nghệ. Quan tâm đúng mức đến nghiên cứu cơ
bản, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện
Việt Nam. Quan điểm này xác định rõ trọng tâm ưu tiên để phát triển khoa học -

12
công nghệ, trách nhiệm của Nhà nước và chủ trương đa dạng hoá các chủ thể
tham gia phát triển khoa học - công nghệ.
Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học
và công nghệ tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học và
công nghệ của Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên,
nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm
việc.
Tiếp thu tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của
Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XI về
phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chủ trương
cần mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển
mạnh khoa học và công nghệ. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2021 - 2030 xác định “phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng
tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế”90 là nhiệm vụ thứ hai của Chiến lược. Đó là một trong những
điểm mới so với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 10 năm trước
đó. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh một số quan
điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt nhất để phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Quan điểm này một lần nữa khẳng định vị trí,

90
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t.1, tr.226.

12
vai trò của khoa học - công nghệ trong toàn bộ quá trình phát triển bền vững đất
nước, nhất là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng
trưởng. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, khoa học - công nghệ, nhất là
công nghệ cao càng ngày càng có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, thương hiệu quốc gia, tạo nên hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hai là, có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế
chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Quan điểm này đặt ra vấn đề phải xây dựng được chiến lược phát triển khoa
học - công nghệ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Chiến lược đó phải khơi dậy
và phát huy tiềm năng khoa học - công nghệ của đất nước, bắt kịp và có những
hoạt động cần đi trước một bước để đón đầu những xu hướng phát triển mới của
khoa học - công nghệ thế giới.
Ba là, chú trọng phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật
và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Quan
điểm này một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu phát triển đồng bộ các hoạt động khoa
học - công nghệ, từ nghiên cứu khoa học đến phát triển công nghệ, từ khoa học
tự nhiên đến khoa học xã hội và nhân văn. Một trong những điểm mới của quan
điểm chỉ đạo này là cần chú trọng phát triển khoa học lý luận chính trị, góp phần
khẳng định giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là đường
lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
2.3.2. Mục tiêu
Mục tiêu của khoa học - công nghệ là những tiêu chí, yêu cầu mà khoa
học - công nghệ cần phải phấn đấu đạt được trong thực tế sau một thời gian nào
đó, nghĩa là có thể lượng hóa một cách cụ thể. Mục tiêu của khoa học - công
nghệ Việt Nam được xây dựng trên cơ sở đường lối đổi mới, đẩy mạnh công

12
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, chủ trương, đường lối của Đảng về
phát triển kinh tế - xã hội, về đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là
những yêu cầu mới về đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển
mạnh khoa học - công nghệ.
Mục tiêu tổng quát về khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế được Đảng ta xác định là: Phát
triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là
động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo
vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần thực hiện mục tiêu đến
năm 2030 nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao, đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Bên cạnh mục tiêu tổng quát, còn có một số mục tiêu cụ thể: Đến năm
2030, nâng tổng đầu tư xã hội cho khoa học - công nghệ đạt khoảng 3% GDP, tỷ
lệ doanh nghiệp có hoạt động sáng tạo đạt 40%, có một số lĩnh vực đạt trình độ
tiên tiến thế giới, tiềm lực khoa học - công nghệ đáp ứng các yêu cầu cơ bản của
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa
học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Bảo
đảm cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách phát triển đất nước. Xây dựng được nền tảng khoa học tự nhiên hiện
đại cho khoa học và công nghệ nói chung; phấn đấu đạt trình độ hàng đầu của
khu vực và thứ hạng cao trên thế giới ở một số lĩnh vực; làm chủ, ứng dụng và
phát triển các công nghệ có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ và chất lượng tăng
trưởng của nền kinh tế, tạo ra các sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao. Hình
thành đồng bộ đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao, tâm huyết,
trung thực, tận tụy. Phát triển các tổ chức, tập thể khoa học - công nghệ mạnh,
các nhà khoa học đầu ngành. Tăng nhanh các công trình được công bố quốc tế.
Phát triển mạnh các doanh nghiệp khoa học - công nghệ.

12
2.3.3. Nhiệm vụ và giải pháp
Để thực hiện các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phát triển khoa học - công
nghệ do Đảng đề ra, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu sau đây:
2.3.3.1. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng,
phát triển khoa học - công nghệ
Cần tập trung nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu
khoa học - công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy phục vụ
hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa làm mục tiêu. Rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học - công nghệ
từ Trung ương đến các địa phương gắn với đổi mới toàn diện chính sách nhân
lực khoa học - công nghệ. Tăng cường đầu tư phát triển khoa học - công nghệ
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở huy động hợp lý
nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân. Hỗ trợ, khuyến khích các
cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chuyển đổi cơ chế đầu tư, quản lý tài chính khoa học - công nghệ theo nguyên
tắc đặt hàng, dựa vào kết quả, hiệu quả cuối cùng, hạn chế hành chính hoá và các
thủ tục hành chính không còn phù hợp. Các ngành, các cấp có trách nhiệm trong
việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào lĩnh vực
mình phụ trách.
2.3.3.2. Phát triển một số ngành khoa học - công nghệ mũi nhọn, trực tiếp
góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách, phù hợp với điều kiện, nguồn lực của
đất nước
Những ngành khoa học - công nghệ mũi nhọn như công nghệ số, thông
tin, sinh học, trí tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động hoá, điện tử y sinh, năng lượng,
môi trường cần phải được tập trung phát triển, trong đó ưu tiên công nghệ số, kết

12
nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, in 3D, internet kết nối vạn vật,
năng lượng sạch. Ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công
nghệ vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, con người, quốc phòng, an ninh
trọng yếu. Phát triển hạ tầng số và bảo đảm an ninh mạng, tạo điều kiện cho
người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn, tiếp cận nguồn tài nguyên số,
xây dựng cơ sở dữ liệu lớn.
2.3.3.3. Tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, thực hiện tốt các chính sách
về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học -
công nghệ
Kịp thời tháo gỡ những rào cản, điểm nghẽn cản trở quá trình phát triển
khoa học - công nghệ, nhất là trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý khoa học - công nghệ. Trong việc xây dựng đội
ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, cần coi việc hoàn thiện chính sách về đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả đội ngũ này là một đòn bẩy để thực hiện chiến lược
phát triển khoa học - công nghệ những năm sắp tới. Chú trọng xây dựng đội ngũ
chuyên gia đầu ngành, thu hút nhân tài trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, hạn
chế đến mức tối đa hiện tượng “chảy máu chất xám”.
2.3.3.4. Tiếp tục phát triển thị trường khoa học - công nghệ, hỗ trợ thương
mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ
Kết nối có hiệu quả các sàn giao dịch công nghệ quốc gia với các trung
tâm ứng dụng và chuyển giao tiếp bộ khoa học - công nghệ ở các địa phương.
Từng bước phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ, nhất
là những công nghệ tiên tiến mà đất nước và các địa phương có nhu cầu. Nâng
cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, góp phần
tăng năng suất lao động. Nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất
lượng và sở hữu trí tuệ, thông tin, thống kê khoa học - công nghệ.
2.3.3.5. Tăng cường hợp tác và hội nhập khoa học quốc tế về khoa học -
công nghệ

12
Đa dạng hóa hợp tác quốc tế, ưu tiên hợp tác với các đối tác chiến lược,
với các quốc gia có nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Gắn hợp tác quốc tế về
khoa học - công nghệ với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng
và an ninh, đối ngoại. Có chính sách hỗ trợ hoạt động giao lưu, trao đổi học thuật
quốc tế, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người
Việt Nam ở nước ngoài.
2.3.3.6. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền về
vai trò của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập quốc tế. Xác định việc phát huy và phát triển khoa học và
công nghệ là một nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng và chính quyền; là
một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng của người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền từ Trung ương đến địa phương. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ khoa học -
công nghệ với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành,
từng cấp; kế hoạch ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ là một nội dung
của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Vai trò chủ yếu của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập quốc tế? Liên hệ làm rõ thực trạng việc thực hiện vai trò
đó của giáo dục - đào tạo nước ta hiện nay?
2. Vai trò chủ yếu của khoa học - công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế? Liên hệ làm rõ thực trạng việc thực hiện vai
trò đó của khoa học - công nghệ nước ta hiện nay?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích làm rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển giáo dục -
đào tạo, từ đó đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp để phát triển giáo dục - đào tạo

12
trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc
tế?
2. Phân tích làm rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển khoa học -
công nghệ, từ đó đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp để phát triển khoa học -
công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập quốc tế?
E. TÀI LIỆU HỌC TẬP
* Tài liệu bắt buộc
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
* Tài liệu đọc thêm
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương khoá XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
2. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI “về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế”.
3. Luật Giáo dục 2019.
4. Luật Khoa học công nghệ 2013.

12
Bài 5
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC, TÔN GIÁO

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Cung cấp những kiến thức cơ bản về đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam đối với dân tộc và tôn giáo.
2. Về kỹ năng
Vận dụng kiến thức để ứng xử với dân tộc và tôn giáo phù hợp với đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
3. Về tư tưởng
Xây dựng thái độ đúng đắn và khách quan trong việc giải quyết những vấn
đề thực tiễn liên quan đến dân tộc và tôn giáo.
B. NỘI DUNG
1. CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ DÂN
TỘC
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước Việt Nam
1.1.1. Một số khái niệm
Dân tộc là một trong những hình thái cộng đồng người, được hình thành
trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người và đang là một
trong những vấn đề quan trọng và phức tạp trên thế giới. Khái niệm dân tộc được
hiểu trên các bình diện chủ yếu: dân tộc - cộng đồng tộc người, dân tộc - quốc
gia, dân tộc - cộng đồng tộc người thiểu số.
- Dân tộc theo nghĩa cộng đồng tộc người. Theo nghĩa thông thường, khái
niệm dân tộc để chỉ một cộng đồng tộc người (Ethnic, Ethnie) có chung ngôn
ngữ, lịch sử - nguồn gốc, đời sống văn hóa và ý thức tự giác dân tộc (ý thức tộc
người). Theo nghĩa này, Việt Nam có dân tộc Kinh (Việt), dân tộc Tày, dân tộc

12
Thái, dân tộc Mường, dân tộc Dao, dân tộc Khmer, dân tộc Ê Đê, dân tộc Ba
Na,... Trong một dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương, có đặc trưng
về văn hóa, ngôn ngữ,... gần nhau. Ví dụ: người Dao có Dao Đại bản, Dao Tiểu
bản, Dao Quần trắng,... người Mông có Mông hoa, Mông xanh, Mông đen,...
người Nùng có Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng Phàn Slình, Nùng Cháo,...
Trong giao tiếp thông thường, từ dân tộc được thay bằng từ người, như
người Kinh, người Tày, Người Thái, người Hmông, người Khmer,... Từ người
còn có nghĩa rộng chỉ cư dân của một quốc gia dân tộc, như: người Việt Nam,
người Pháp, người Đức, người Nga, người Mỹ,...
Như vậy, khái niệm dân tộc theo nghĩa cộng đồng tộc người sẽ không
phân biệt trình độ phát triển, đa số hay thiểu số, sống ở phạm vi quốc gia nào,
bao gồm bốn điểm chung quan trọng là: ngôn ngữ (tiếng nói), lịch sử - nguồn
gốc, đời sống văn hóa và ý thức tộc người (tự nhận mình thuộc dân tộc nào đó).
- Dân tộc theo nghĩa quốc gia. Dân tộc quốc gia là một cộng đồng người
sống trong một quốc gia, một nước thống nhất, có chung một nhà nước, một lãnh
thổ, có chung một thể chế chính trị - xã hội, một nền kinh tế, có chung ngôn ngữ
và văn hóa, như dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Đức, dân tộc Nga,...
Mỗi dân tộc quốc gia được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Ở phương
Tây, quá trình này gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và sự hình thành
thị trường thống nhất. Ở phương Đông, đa số các quốc gia dân tộc được hình
thành sớm hơn, gắn liền với quá trình khai phá và chinh phục thiên nhiên và bảo
vệ đất nước.
Trong giao tiếp, cả nói và viết, thường dùng khái niệm quốc gia dân tộc
hoặc dân tộc quốc gia cho phù hợp với các ngữ cảnh thể hiện. Trong giao tiếp, cả
nói và viết, thường dùng từ nhân dân để nói về cư dân của một quốc gia dân tộc.
Ví dụ dân tộc Việt Nam hay nhân dân Việt Nam, dân tộc Pháp hay nhân dân
Pháp, dân tộc Đức hay nhân dân Đức, dân tộc Nga hay nhân dân Nga,...

12
- Dân tộc theo nghĩa dân tộc thiểu số (hay tộc người thiểu số). Trong một
quốc gia có thể có một dân tộc - tộc người, hoặc có nhiều dân tộc. Ở những quốc
gia có nhiều dân tộc, thì bên cạnh dân tộc chiếm số đông được gọi là dân tộc đa
số, còn các dân tộc khác được gọi là dân tộc thiểu số. Dân tộc đa số, dân tộc
thiểu số chủ yếu căn cứ vào số lượng người chứ không hẳn là căn cứ vào trình độ
phát triển.
Như vậy, khái niệm dân tộc ở Việt Nam được hiểu trên ba bình diện: dân
tộc là cộng đồng tộc người nói chung, dân tộc theo nghĩa quốc gia dân tộc, dân
tộc theo nghĩa dân tộc thiểu số. Trước đây, dân tộc thiểu số còn được gọi là dân
tộc ít người hoặc sắc tộc, nay thống nhất gọi là dân tộc thiểu số. Ba cộng đồng
người có sự khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Khi nói
đến dân tộc Việt Nam không thể không nói đến 54 dân tộc (tộc người) anh em,
và khi nói đến các dân tộc (tộc người) ở Việt Nam không thể không nói đến cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Cơ sở lý luận
1.1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là một vấn đề
rộng lớn, phức tạp. Những năm đầu của thế kỷ XX, khi nghiên cứu vấn đề dân
tộc quốc gia và quan hệ dân tộc quốc gia, V.I. Lênin đã nêu ra Cương lĩnh dân
tộc, trong đó nhấn mạnh: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được
quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại; đó là cương lĩnh dân
tộc mà chủ nghĩa Mác và kinh nghiệm nước Nga đã dạy cho công nhân” 91. Như
vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc bao gồm ba nội dung
cơ bản:
- Các dân tộc có quyền bình đẳng. Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng
của mỗi dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay
thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da,... đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang
91.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 25, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2005, tr. 375.

13
nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi và đi áp bức dân tộc
khác. Quyền đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực trong đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên phạm vi giữa các dân tộc quốc gia, đấu tranh cho bình đẳng dân tộc
gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn liền với
cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức, bóc
lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm phát triển.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc quốc gia là cơ sở thực hiện
quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân
tộc quốc gia. Trong một dân tộc quốc gia, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ ngang nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại.
- Các dân tộc có quyền tự quyết. Quyền tự quyết dân tộc là quyền tự chủ
đối với vận mệnh của mỗi dân tộc quốc gia. Quyền tự quyết bao gồm: tự quyết
định về thể chế chính trị và con đường phát triển của dân tộc; quyền tự do độc
lập về chính trị tách ra thành một dân tộc quốc gia độc lập vì lợi ích của dân tộc
quốc gia; quyền tự nguyện liên hiệp lại giữa các dân tộc quốc gia khác trên cơ sở
bình đẳng, cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài,
giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển dân tộc quốc gia.
Khi giải quyết quyền tự quyết dân tộc quốc gia cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp
với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết
đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước.
- Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản trong
Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, phản ánh bản chất quốc tế của phong trào
công nhân đồng thời phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc

13
quốc gia với giải phóng giai cấp. Điều này đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ
sức mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở
vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các dân tộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành quyền tự quyết, giành độc lập dân tộc dân
tộc và tiến bộ xã hội.
Như vậy, lý luận Mác-Lênin chủ yếu đề cập đến dân tộc quốc gia trên ba
nội dung là: các dân tộc quốc gia có quyền bình đẳng, các dân tộc quốc gia có
quyền tự quyết, các dân tộc quốc gia liên hiệp giai cấp công nhân. Ba nội dung
về dân tộc của lý luận Mác-Lênin được vận dụng giải quyết vấn đề dân tộc quốc
gia ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc (tộc người thiểu số) ở Việt Nam chỉ
vận dụng hai nội dung: các dân tộc có quyền bình đẳng và liên hiệp giai cấp công
nhân giữa các dân tộc. Riêng nội dung các dân tộc có quyền tự quyết không đặt
ra với vấn đề dân tộc - tộc người thiểu số.
1.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho các thế hệ sau những di sản quý bàu về
nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận Mác-Lênin về dân tộc trong điều
kiện thực tiễn của Việt Nam nhằm mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc quốc
gia, đem lại cuộc sống no ấm, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, trong đó
có đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt Hồ Chí Minh đã vận dụng lý luận Mác-
Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Như vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc bao gồm hai nội dung: (1) vấn đề dân tộc ở cấp
độ dân tộc - quốc gia; (2) vấn đề dân tộc ở cấp độ dân tộc - tộc người nói chung
và tộc người thiểu số nói riêng.
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc ở cấp độ quốc gia dân tộc được
thể hiện ở các nội dung sau đây:
Một là, chỉ có con đường cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn, triệt
để vấn đề dân tộc. Hiểu rõ vấn đề dân tộc trong cách mạng dân tộc dân chủ thực

13
chất là vấn đề giành độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh xác định
chỉ có con đường cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn và triệt để vấn đề
dân tộc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản” 92.
Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ:
“Nếu nước độc lập mà không hưởng tự do hạnh phúc tự do thì độc lập chẳng có
nghĩa gì” 93. Từ đó, Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu
nhân loại, mới đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc
sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết” 94.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc ở cấp độ dân tộc - tộc người, trong đó
có dân tộc thiểu số được thể hiện ở các nội dung sau đây:
Một là, các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ nhau trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh xác định: “Nhờ sức đoàn kết
tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập,
các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh
chị em trong cùng một nhà, không có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa.
Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc
lập càng phải đoàn kết hơn nữa”95.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự bình đẳng giữa dân tộc
nên văn kiện Đại hội Đảng lần thứ II (1951) đã thể hiện: “Các dân tộc sống trên
đất nước Việt Nam dều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết
giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc… Cải thiện đời sống cho các dân tộc
thiểu số, giúp đỡ họ tiến bộ vè mọi mặt, đảm bảo để họ tham gia chính quyền và
dùng tiếng mẹ đẻ trong việc giáo dục ở các địa phương thiểu số”96.

92.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 130.
93.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 130.
94.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 130.
95.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 130.
96.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001, tr. 261.

13
Hai là, quan tâm phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hiểu rất rõ các dân tộc ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân khác nhau nên có sự
phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội, Hồ Chí Minh chủ trương phải có
sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, phải làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi.
Đồng thời phải xây dụng đội ngũ cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị các vùng
dân tộc thiểu số. Người căn dặn: “Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc
cán bộ miền núi. Cố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa
phương… chứ không phải là bao biện làm thay”97.
Riêng về văn hóa, Hồ Chí Minh rất quan tâm với chủ trương phải tôn
trọng những giá trị, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc phát
triển hài hòa trong sự phát triển chung của quốc gia dân tộc. Tất cả là để: “Phát
triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ cái mới của văn
hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc,
khoa học và đại chúng”98.
Như vậy, tiếp thu quan đểm về dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí
Minh vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam để giải quyết vấn đề dân tộc trên hai
phương diện: dân tộc quốc gia và dân tộc thiểu số rất rõ ràng và cụ thể. Đây
chính là cơ sở lý luận của chính sách dân tộc ở Việt Nam.
1.1.3. Cơ sở thực tiễn của chính sách dân tộc
1.1.3.1. Số liệu về các dân tộc ở Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc. Theo thông báo của Tổng cục
Thống kê năm 2019, Việt Nam có tất cả 54 dân tộc với 96,20 triệu người, trong
đó người Kinh chiếm 85,3% dân số với 82,10 triệu người, đồng bào các dân tộc
thiểu số chiếm 14,7% dân số với hơn 14,10 triệu người. Cụ thể số lượng như sau:

97.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 225.
98.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 40.

13
- Dân tộc có số lượng trên 1,0 triệu người: 06 dân tộc, là: Tày: 1.845.492
người, Thái: 1.820.950 người, Mường: 1.452.095 người, Hmông: 1.393.547
người, Khmer: 1.319.652 người, Nùng: 1.083.298 người;
- Dân tộc có số dân từ trên 500.000 đến dưới 1.000.000 người: 03 dân tộc,
là: Dao: 751.000 người, Hoa: 749.466 người, Gia Rai: 513.930 người;
- Dân tộc có số dân từ 100.000 đến dưới 500.000 người: 11 dân tộc, là: Ê
Đê: 398.671 người, Ba Na: 286.190 người, Xơ Đăng: 212.277 người, Sán Chay:
201.398 người, Cơ Ho: 200.800 người, Chăm: 178.948 người, Sán Dìu: 183.004
người, Hrê: 149.460 người, Ra Glai (Raglai): 146.613 người, Mnông: 127.334
người, Xtiêng: 100.752 người;
- Dân tộc có số dân từ 50.000 đến dưới 100.000 người: 07 dân tộc, là:
Thổ: 91.430 người, Bru - Vân Kiều: 94.598 người, Khơ Mú: 90.162 người, Cơ
Tu: 74.173 người, Giáy: 67.858 người, Giẻ Triêng: 63.322 người, Mạ: 50.322
người;
- Dân tộc có số dân từ 10.000 đến dưới 50.000 người: 12 dân tộc, là: Tà
Ôi: 43.886 người, Co: 40.442 người, Chơ Ro: 29.520 người, Xinh Mum: 29.530
người, Hà Nhì: 25.539 người, Chu Ru: 23.242 người, Lào: 17.532 người, Kháng:
16.180 người, La Chí: 15.126 người, Phù La: 12.471 người, La Hủ: 12.113
người, La Ha: 10.157 người;
- Dân tộc có số dân từ 1.000 đến 10.000 người: 09 dân tộc, là: Pà Thẻn:
8.248 người, Chứt: 7.513 người, Lự: 6.751 người, Lô Lô: 4.827 người, Mảng:
4.650 người, Cơ Lao: 4.003 người, Bố Y: 3.232 người, Cống: 2.729 người, Ngái:
1.035 người;
- Dân tộc dưới 1.000 người: 05 dân tộc, là: Si La: 709 người, Pu Péo: 903
người, Rơ Măm: 639 người, Brâu: 525 người, Ơ Đu: 428 người99.
Nếu tính theo vùng miền một cách tương đối, số lượng đồng bào dân tộc
thiểu số như sau:
99.
Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2019, Nxb Thống kê, H.2020.

13
- Vùng miền núi phía Bắc (nay gọi chung là Tây Bắc) với các dân tộc
nhóm ngôn ngữ: Việt - Mường, Thái - Ka đai, Tạng - Miến, Hán, Hmông - Dao
với 9,20 triệu người.
- Vùng Tây Nguyên và vùng cao Duyên hải miền Trung (gọi chung là Tây
Nguyên) với các dân tộc nhóm ngôn ngữ: Môn - Khmer, Mã Lai Đa đảo với 3,35
triệu người.
- Vùng đồng bằng sông Cửu Long (gọi chung là Tây Nam Bộ): gồm các
dân tộc Khmer, Chăm, Hoa,…với 1,55 triệu người.
Như vậy, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam rất đa dạng và được tập trung
theo từng vùng cụ thể, chủ yếu ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
1.1.3.2. Đặc điểm các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Việt Nam là một quốc
gia đa dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam có một quá trình gắn bó và một ý thức
dân tộc được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử dựng và giữ nước của cả
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Quá trình phát triển tộc người và hình thành
dân tộc - quốc gia đã tạo nên những đặc điểm về dân cư, tộc người ở Việt Nam.
- Các dân tộc ở Việt Nam cư trú, sinh sống xen kẽ nhau và có sự chênh
lệch khá lớn về nhiều mặt. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, cư
dân các dân tộc cư trú xen kẽ lẫn nhau. Hiện tượng này không chỉ diễn ra trên
phạm vi cả nước mà còn diễn ra ở từng địa phương, nhất là sau năm 1975. Hiện
nay nhiều tỉnh có dến hơn 20 dân tộc cư trú, như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà
Giang, Tuyên Quang, Lam Đồng,... Riêng tỉnh Đắc Lắc có đến hơn 40 dân tộc
cư trú. Việc cư trú xen kẽ một mặt tạo ra những điều kiện thuận lợi trong giao
lưu kinh tế, văn hóa, giúp đỡ nhau giữa các tộc người để cùng phát triển; song
mặt khác cũng đặt ra những khó khăn, phức tạp trong giải quyết các quan hệ dân
tộc - tộc người, nhất là những khó khăn trong công tác quản lý xã hội với những
khác biệt trong phong tục, tập quán, lối sống,...
Về địa bàn cư trú, ngoại trừ người Kinh chủ yếu sống ở các thành phố,
vùng đồng bằng, trung du nơi có những điều kiện sống thuận lợi hơn, còn hầu

13
hết các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú ở các vùng núi, biên giới, hải đảo - nơi
có những điều kiện sống không thuận lợi và nhiều khó khăn. Chính những điều
kiện sống khác nhau này đã dẫn tới sự chênh lệch về trình độ phát triển các mặt
kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong các dân tộc thiểu số, có những dân tộc đã đạt
đến trình độ kinh tế hàng hóa phát triển, song cũng còn không ít các dân tộc kinh
tế hàng hóa mới hình thành.
Với thực trạng các dân tộc cư trú xen kẽ là điều kiện thuận lợi để tăng
cường quan hệ mọi mặt giữa các dân tộc, xây dựng cộng đồng gắn bó cùng nhau
phát triển. Thực trạng này đã và đang đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta những
nhiệm vụ là khắc phục và thu hẹp dần khoảng cách về mọi mặt giữa miền núi với
miền xuôi, vùng cao với vùng thấp, giữa các dân tộc với nhau.
- Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú ở những địa bàn có vị trí quan
trọng. Phần lớn các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú ở vùng miền núi phía Bắc
(nay gọi là Tây Bắc), Tây Nguyên và Tây Nam Bộ chiếm ¾ diên tích cả nước.
Xét về mặt kinh tế, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tiền năng về kinh tế liên
quan đến tài nguyên rừng và đất rừng, phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả,
cây dược liệu và chăn nuôi gia súc,... Vùng miền núi ở Tây Bắc và Tây Nguyên
còn là nơi dự trữ nguồn tài nguyên khoáng sản, nơi phát triển thủy điện và là
nguồn phù sa bồi đắp cho đồng bằng và ven biển. Vùng miền núi còn là nơi bảo
vệ môi trường sinh thái, điều tiết nguồn nước và điều hòa khí hậu,... Vùng đồng
bào dân tộc thiểu số cư trú còn là của ngõ thông thương, giao lưu văn hóa giữa
Việt Nam với các nước láng giềng và các nước trong khu vực.
Xét về mặt an ninh quốc phòng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có đường
biên giới đất liền dài 4.616 km, trong đó có đến hơn 3.000 km nằm ở khu vực
miền núi. Từ xưa đến nay, các thế lực xâm lược và thù địch bên ngoài đều sử
dụng địa bàn này để xâm lược, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
đất nước ta. Và trong tiến trình lịch sử, vùng miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên
từng là căn cứ địa cách mạng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống

13
Mỹ. Ngày nay, vùng miền núi, biên giới là phên dậu vững chắc của Tổ quốc, là
địa bàn chiến lược về an ninh quốc phòng trong việc bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia chống âm mưu thâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ nền hòa
bình và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với vị trí như nói trên, chính sách dân tộc và việc thực hiện chính sách
dân tộc ở Việt Nam không chỉ vì lợi ích các dân tộc thiểu số mà còn vì lợi ích
của cả nước, không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ là vì kinh tế -
xã hội mà cả về chính trị, an ninh, quốc phòng.
- Các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái,
gắn bó lâu đời trong quá trình đấu tranh dựng và giữ nước của dân tộc. Lịch sử
các dân tộc ở Việt Nam là lịch sử của quá trình cải biến tự nhiên khắc nghiệt và
chống giặc ngoại xâm để tồn tại và phát triển. Chính quá trình này đã gắn kết lâu
dài, chung lưng đấu cật, chia ngọt sẻ bùi của các dân tộc anh em đã tạo nên
truyền thống đoàn kết, yêu nước của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc ở Việt
Nam, là một trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của
dân tộc trong các giai đoạn lịch sử. Chính sách dân tộc và thực hiện chính sách
dân tộc cần phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc để xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển.
- Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
không đồng đều. Các quốc gia có nhiều dân tộc, sự phát triển không đồng đều
giữa các dân tộc là tình trạng phổ biến. Ở Việt Nam, do nhiều yếu tố riêng khác
về lịch sử, xã hội, điều kiện tự nhiên nơi cư trú,... đa số các dân tộc thiểu số là
những cộng đồng người có trình độ phát triển xã hội thấp, vừa đi ra khỏi chế độ
thị tộc, bộ lạc, hoặc còn lưu giữ những yếu tố của xã hội thị tộc, bộ lạc, cùng với
đó trình độ kinh tế cũng ở mức thấp, thậm chí có một số dân tộc đang còn trong
thời kỳ săn bắt và hái lượm. Tuy nhiên, cũng có những dân tộc thiểu số cả trình

13
độ xã hội và kinh tế ở mức phát triển cao, cũng có dân tộc thiểu số trình độ xã
hội phát triển cao nhưng trình độ sản xuất vẫn còn ở mức thấp.
Thực trạng về xã hội và kinh tế đặt ra đối với chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước là tập trung nâng cao đời sống dân sinh và trình độ dân trí để khắc
phục sự chênh lệch về kinh tế và xã hội giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa
số.
- Các dân tộc ở Việt Nam đều có bản sắc văn hóa riêng tạo nên sự đa
dạng của văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam bao gồm
những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước trở thành những nét đặc sắc của cộng đồng dân
tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số được
thể hiện qua các hoạt động về lao động, sản xuất; qua việc ăn, mặc, ở, ngôn ngữ,
chữ viết; qua các thiết chế tổ chức xã hội và các mối quan hệ gia đình, quan hệ
cộng đồng, quan hệ xã hội; qua các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo; qua các hoạt
động về văn học, nghệ thuật, kiến trúc, xây dựng,…
Bản sắc văn hóa mỗi dân tộc tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng và
rực rỡ. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước quan tâm phát huy và gìn giữ
văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa,
mở của và hội nhấp quốc tế.
- Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam theo các tôn giáo
khác nhau. Đa số đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba khu vực Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ duy trỳ các hình thức tôn giáo nguyên thủy, thờ đa thần
với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập quán riêng. Sau
này, cùng với thời gian, các tôn giáo thâm nhập vào vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số hình thành những cộng đồng tôn giáo cụ thể. Trước hết là cộng đồng
hơn 1,3 triệu người Khmer ở Nam Bộ theo Phật giáo Nam tông; cộng đồng
60.000 người Chăm ở miền Trung theo Bà-la-môn và 81.000 người Chăm ở
miền Trung và Nam Bộ theo Hồi giáo; cộng đồng 495.000 người dân tộc thiểu số

13
ở Tây Nguyên theo Công giáo và cộng đồng gần 639.000 người dân tộc thiểu số
ở Tây Nguyên theo đạo Tin lành; cộng đồng 233.000 người Hmông và 20.000
người Dao, Sán Chỉ, Pà Thẻn,… ở Tây Bắc theo đạo Tin lành (chưa kể gần
40.0 người Hmông theo Tin lành dã di cư vào Tây Nguyên)100.
Việc một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo tôn giáo đặt ra cho Đảng
và Nhà nước là cùng một lúc phải thực hiện hai chính sách dân tộc và tôn giáo,
cùng một lúc giải quyết hai vấn đề lớn và nhạy cảm dân tộc và tôn giáo.
1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay
1.2.1. Quan điểm về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của
Đảng và Nhà nước Việt Nam
1.2.1.1. Các văn bản về chủ trương, chính sách dân tộc thiểu số thời kỳ
đổi mới:
- Nghị quyết chung về công tác dân tộc: Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 27
tháng 11 năm 1989 của Bộ Chính trị Về một số chủ trương, chính sách lớn phát
triển kinh tế - xã hội miền núi, Nghị quyết 24-NQ/TW, ngày 12 tháng 3 năm
2003 của BCHTW Đảng Về công tác dân tộc.
- Nghị quyết của Đảng đối với vùng miền: Nghị quyết 10-NQ/TW, ngày
18 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị Về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo
an ninh, quốc phòng vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010; Nghị quyết 21-
NQ/TW, ngày 21 tháng 01 năm 2003 của Bộ Chính trị Về phương hướng, nhiệm
vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng
Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001-2010; Nghị quyết 37-NQ/TW, ngày 01
tháng 7 năm 2004 của Bộ Chính trị Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội
và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm
2010.
- Chỉ thị, Thông tri của Đảng liên quan đến một số dân tộc: Thông tri 03-
TT/TW, ngày 17 tháng 10 năm 1991 của Ban Bí thư Về công tác đối với đồng
100.
Ban Tôn giáo Chính Phủ, Thống kê số liệu tôn giáo ở Việt Nam năm 2020, H.2020.

14
bào Chăm; Chỉ thị 68-CT/TW, ngày 18 tháng 4 năm 1991 của Ban Bí thư Về
công tác đối đồng bào Khmer; Chỉ thị 45-CT/TW, ngày 23 tháng 4 năm 1994
của Bộ Chính trị Về một số công tác ở vùng dân tộc Mông; Chỉ thị 62-CT/TW,
ngày 08 tháng 11 năm 1995 của bộ Chính trị Về tăng cường công tác người Hoa
trong tình hình mới,…
- Các Nghị định, chương trình, dự án cụ thể của Chính phủ: Chương trình
135/CT-CP (1999) của Chính phủ Về phát triển kinh tế - xã hội các xã dặc biệt
khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Quyết định 134/QĐ-TTg (2004) của
Thủ tướng Về hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo, khó khăn; Chỉ thị 39/CT-CP (2004) của Chính phủ Về
vấn đề di dân tự do, Quyết định 32/QĐ-TTg (2007) của Thủ tướng Về cho vay
vốn phát triển sản xuất đối với các hộ đặc biết khó khăn; Nghị định 05/NĐ-CP
(2011) của Chính phủ Về công tác dân tộc,…
1.2.1.2. Quan điểm và nguyên tắc của chính sách dân tộc:
Nghị quyết 25-NQ/TW (2003) Về công tác dân tộc, xác định: “Vấn đề dân
tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là
vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển,
cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Kiên
quyết chống mọi âm mưu chia rẽ dân tộc,…” 101.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định:“Thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các
dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán,

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị
101.

quốc gia, H.2003.

14
tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ
thị và chia rẽ dân tộc”.
Hiến pháp 2013 chỉ rõ: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên dất nước Việt Nam. 2-
Các dân tộc bình đẳng, doàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển;
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị và chia rẽ dân tộc. 3- Ngôn ngữ quốc gia là tiếng
Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc văn hóa dân
tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4-
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5) 102.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng nêu rõ: “Bảo
đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Huy động, phân bố, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát
triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào
dân tộc thểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số
trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thức đẩy
tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều bền vững. Chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc”103. Đại hội XIII (2021) của Đảng cũng đã chỉ rõ những nhiệm vụ cần chú
trọng để thực hiện tốt chính sách dân tộc: “Tập trung hoàn thiện và triển khai
thực hiện tốt chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách
đặc thù giải quyết các khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo sinh kế, việc
làm, định canh định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình trình,

102
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.2014
103
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia,
H.202
14
mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi giai đoạn 2021 -2030”104.
Từ Nghị quyết 25-NQ-TW Về công tác dân tộc và Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Hiến Pháp năm 2013 xin rút ra những nguyên
tắc trong chính sách dân tộc:
- Một là, bình đẳng giữa các dân tộc. Bình đẳng giũa các dân tộc là quyền
ngang nhau của mọi dân tộc, không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát
triển, chủng tộc. Bình đẳng giữa các dân tộc được thực hiện trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, được đảm bảo bằng pháp luật.
- Hai là, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết dân tộc là nguyên tắc nhất
quán, xuyên suốt quá trình hoạch định chính sách dân tộc của Đảng. Đoàn kết
dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Ba là, giúp cùng nhau phát triển. Giúp nhau cùng phát triển về kinh tế,
xã hội. Phát triển kinh tế xã hội nhằm nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân
trí cho đồng bào dân tộc thiểu số, xóa đi khoảng cách, chênh lệch về đời sống
kinh tế, xã hội giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số.
- Bốn là, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Gìn giữ
và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số góp phần tạo ra sự đa dạng và
đặc sắc của văn hóa Việt Nam, nhất là trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc
tế.
Như vậy, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ và
trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của các cấp, các ngành trong cả nước. Để giải quyết tốt vấn đề dân tộc hiện nay,

104
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb Chính trị quốc gia,
H.202
14
một mặt cần nắm vững chính sách dân tộc, mặt khác cần quán triệt và vận dụng
tốt các quan điểm chỉ đạo của Đảng vào từng hoàn cảnh cụ thể của từng dân tộc.
1.2.2. Các nội dung cụ thể của chính sách dân tộc
1.2.2.1. Về kinh tế - xã hội:
Phát triển nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát
triển nông nghiệp có cơ cấu một cách hợp lý, phù hợp với địa hình đất dốc và
chia cắt, nhiều tiểu vùng khí hậu, cấu tạo địa tầng địa mạo khác nhau, gắn với
các vùng và thị trường trong nước và ngoài nước.
Làm tốt chính sách định canh, định cư, phân bố lại dân cư hợp lý; thực
hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia: xây dựng nông thôn mới và
xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu như: phát triển hệ
thống giao thông thôn, thủy điện, thủy lợi, nước sạch, trường học, trạm y tế,...
Chú ý bảo vệ bền vững môi trường sinh thái.
Đẩy nhanh công tác xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, trước hết
là đối với những xã đặc biệt khó khăn, thuộc diện trọng điểm vùng sâu, vùng xa.
Có chính sách ưu đãi đặc biệt thu hút đầu tư vào vùng sâu, vùng xa.
1.2.2.2. Về văn hóa, xã hội:
Xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện bằng được mục tiêu
xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục, đào tạo nhất là hệ thống giáo dục phổ thông nội trú các cấp. Đa
dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng
đồng bào dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
trí thức là người dân tộc thiểu số.
Chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân các dân tộc. Do cư trú ở các vùng
khí hậu khắc nghiệt, điều kiện sinh hoạt, lao động thiều thốn, lạc hậu, trình độ
dân trí thấp,… nên việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của đồng bào dân tộc thiểu số

14
cần được quan tâm. Chú trọng công tác y tế dự phòng, xây dựng các trạm y tế xã
hoặc liên xã để chăm sóc sức khỏe cho đồng bào.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Bảo tồn và
phát triển các sắc thái văn hóa riêng của từng dân tộc về ăn, mặc, ở, ngôn ngữ,
chữ viết, văn học, nghệ thuật, phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng truyền
thống,… Đồng thời, đẩy lùi đi tới xóa bỏ những tâm lý, thói quen, hủ tục, cùng
các tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc, rượu chè,…trái với bản sắc văn hóa tốt đẹp
của các dân tộc.
1.2.2.3. Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại:
Xuất phát từ vị trí đặc biệt của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, chống
âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và các thủ đoạn chống
phá khác của bọn phản động và thù địch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Chú ý đến vấn đề dân tộc nhạy cảm do lịch sử để lại, vấn đề dân tộc liên
quan đến các quốc gia láng giềng, vấn đề dân tộc liên quan đến tôn giáo. Nghiêm
trị những hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để hoạt động chính trị, gây
chia rẽ dân tộc. Bằng mọi cách không để xẩy ra xung đột dân tộc.
1.2.2.4. Các chính sách về hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số:
Củng cố hệ thống chính trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chú
trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, chú trọng công tác phát triển Đảng là người
dân tộc thiểu số, đảm bảo thôn, bản nào cũng có đảng viên, xã nào cũng có chi
bộ hoặc đảng bộ cơ sở nhằm tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng trong các
dân tộc.
Công tác cán bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện và
phát huy quyền làm chủ các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đảm bảo dân tộc nào cũng có cán bộ là người của dân tộc mình. Cùng với

14
chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng hợp lý cần quan tâm động viên, tạo điều
kiện thuận lợi về mọi mặt để cán bộ là người dân tộc thiểu số an tâm công tác.
1.2.3. Kết quả và một số vấn đề cần quan tâm trong công tác dân tộc
1.2.3.1. Kết quả về công tác dân tộc
Từ khi đổi mới, các địa phương, các cấp, các ngành tập trung quán triệt
chính sách đổi mới trong công tác dân tộc và triển khai thực hiện đạt những kết
quả quan trọng. Cụ thể:
Thành tựu lớn nhất là tất cả mọi công dân, không phân biệt dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, giới,… đều bình đẳng về chính trị, bình đẳng trong các lĩnh
vực của đời sống và bình đẳng trước pháp luật. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc
không ngừng được củng cố, tăng cường. Các dân tộc thực hiện tôn trọng, đoàn
kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau xây đựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước quan tân và có chính sách ưu tiên đầu tư đối với các vùng dân
tộc thiểu số, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: giao thông
nông thôn, điện, thủy lợi, nước sinh hoạt, các công trình trường học, y tế,… làm
cho bộ mặt nông thôn vùng dân tộc thiểu số chuyển biến rõ rệt.
Sản xuất ở hầu hết các địa bàn dân tộc thiểu số đều phát triển, nhất là lĩnh
vực nông nghiệp đã hình thành một số vùng đã chuyên canh, sản xuất hàng hóa
với các sản phẩn chủ lực như cà phê, hồ tiêu, chè, cao su,… Việc làm và thu
nhập tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống rõ rệt. Đời sống vật chất và tinh thần,
chất lượng cuộc sống của đồng bào từng bước được cải thiện quan trọng.
Công tác giáo dục, đào tạo nhằm tăng cường nguồn nhân lực cho các dân
tộc thiểu số đạt được nhiều kết quả. Đến nay, cơ bản xóa được tình trạng mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trong độ tuổi (năm 2017, tỷ lệ
phổ cập tiểu học đạt 95%, cả nước có 314 trường dân tộc nội trú, 1.013 trường

14
dân tộc bán trú, có 50/54 dân tộc có người học từ trình độ cao đẳng, đại học trở
lên) 105.
Mạng lưới y tế vùng dân tộc thiểu số phát triển, nhiều xã đạt chuẩn về y tế.
Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu được nâng lên, tiêm chủng mở rộng được
thực hiện đều khắp, nhiều bệnh nguy hiểm được kiểm soát và đẩy lùi, đồng thời
từng bước kiểm soát được tỷ lệ sinh đẻ tăng tự nhiên.
Văn hóa các dân tộc thiểu số tiếp tục được giữ gìn và phát huy. Thiết chế
văn hóa cơ sở được củng cố gắn với phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới,
mạng lưới thông tin, phát thanh, truyền hình phủ rộng khắp,… góp phần quan
trọng trong việc mở mang dân trí. Một số di sản văn hóa của đồng bào dân tộc
thiểu số được UNESCO công nhận, nhiều di sản được công nhận là di sản quốc
gia.
Hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu số không ngừng được xây dựng,
củng cố, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội
ở các địa phương. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vùng dân tộc thiểu số là
người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị được từng bước nâng lên, nhất là
ở cơ sở, cả về chất lượng và số lượng.
Lãnh thổ và chủ quyền quốc gia ở các vùng biên giới được đảm bảo. An
ninh chính trị và trật tự xã hội trong vùng dân tộc cơ bản giữ được ổn định. Đồng
bào các dân tộc đoàn kết, nâng cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu
chia rẽ, phá hoại của các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, đời sống cộng đồng dân tộc, công tác dân tộc trong thời kỳ đổi
mới còn có những hạn chế nhất định, cả trong việc xây dựng chính sách và việc
thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số cần phải nỗ lực khắc phục
trong thời gian tới. Cụ thể:

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Các chuyên đề lớp bồi dưỡng kiến thưc mới cho cán bộ quy hoạch
105

cấp chiến lược khóa XIII của Đảng, quyển 3, Nxb Chính trị quốc gia, H.2021, tr.210.

14
- Về đời sống của cộng đồng các dân tộc thiểu số: Đời sống dân sinh, trình
độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số nhìn chung vẫn còn thấp so với mặt
bằng chung. Không gian sinh tồn ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số bị thu
hẹp, đứng trước những rủi ro từ thiên tai và môi trường suy thoái do con người
gây ra. Các vấn đề bảo tồn lưu giữ giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc, vấn
đề bảo tồn các dân tộc rất ít người, vấn đề tái mù chữ, tái đói nghèo, vấn đề di
dân tự do, vấn đề lợi dụng, kích động liên quan đến dân tộc, tôn giáo của các thế
lực thù địch,… vẫn đang đặt ra cần được quan tâm giải quyết một cách cụ thể.
- Về việc xây dựng chính sách: Chưa cụ thể hóa bằng quy định pháp luật
những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước để thực hiện trên các lĩnh
vực kinh tế, quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ, trí thức,… Một số quy định còn
mang tính định hướng chung chung nên khó cụ thể hóa hướng dẫn thực hiện,
một số văn bản cũng chỉ dừng lại ở mức: Nhà nước có chính sách hỗ trợ (đầu tư)
cho vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Một số chính sách cụ thể còn
thiếu tính hệ thống, đồng bộ giữa mục tiêu, thời gian thực hiện, định mức hỗ trợ
và nguồn lực đảm bảo. Một số chính sách chưa phù hợp với đặc điểm vùng, đặc
điểm dân tộc. Một số chính sách mang tính bao cấp tạo sự trông chờ, ỷ nại không
còn phù hợp,…
- Về việc thực hiện chính sách dân tộc: Cán bộ thực hiện chính sách còn
thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Việc tổ chức thực hiện ở một số địa
phương còn lúng túng, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ. Các
nguồn lực thực hiện chính sách còn thiếu do vốn ngân sách hàng năm chưa đáp
ứng, dàn trải nên có những dự án, chương trình dở dang. Vẫn còn tư tưởng ỷ nại,
trông chờ sự bao cấp của nhà nước; chưa chủ động thực hiện nên hiệu quả của
chính sách không cao.
- Đối với việc thực hiện chính sách dân tộc gắn với chính sách tôn giáo:
Thực hiện chính sách dân tộc gắn với chính sách tôn giáo và các chính sách khác
có liên quan còn những hạn chế dẫn đến việc một bộ phận đồng bào dân tộc

14
thiểu số theo tôn giáo, nhất là theo Tin lành nhưng lại nghe theo các tổ chức
phản động và số phần tử cực đoan gây bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên (2001,
2004) và việc một bộ phận người Hmông ủng hộ việc xưng vua ở Mường Nhé
(Điện Biên) năm 2011, việc cổ vũ và ủng hộ những hoạt động ly khai của một số
người Khmer ở Nam Bộ theo tư tưởng của đảng Khmers Kampuchea Krom -
quen gọi là “đảng 3K” ở Căm-pu-chia,…
1.2.3.2. Một số vấn đề cần quan tâm trong công tác dân tộc
Quán triệt đầy đủ chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước,
nhất là chủ trương, chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới trên căn bản bốn nguyên
tắc: bình đẳng giữa các dân tộc - đoàn kết các dân tộc trong khối đại đoàn kết
toàn dân - nâng cao đời sống kinh tế xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số - lưu
giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
Việc xây dựng các chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số cần bám sát thực tế, chú ý lắng nghe ý kiến từ cơ sơ, tránh
sự áp đặt. Việc xây dựng chính sách cần chú ý tính đặc thù riêng khác đối với
các nhóm dân tộc, cần tách thành các lĩnh vực, các vùng miền một cách phù hợp,
tránh cào bằng, dàn trải hoặc chung chung. Cần thực hiện phương châm: “vừa
cho cá, vừa cho cần”.
Việc thực hiện chính sách dân tộc phải tích cực, thận trọng, kiên trì, quyết
tâm chắc chắn và tế nhị. Tổ chức thực hiện các chương trình, dự án về kinh tế,
văn hóa, xã hội cần tăng cường công tác quản lý và giám sát chặt chẽ việc thực
hiện, tránh thất thoát, “rơi vãi” hoặc lãng phí. Chú ý khai thác lực lượng tại chỗ
trong quá trình tổ chức thực hiện.
Bộ máy làm công tác dân tộc cần giữ ổn định. Cán bộ đảng viên khi thực
hiện nhiệm vụ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cán bộ chuyên trách làm
công tác dân tộc, phải: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay
làm”, phải: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách
nhiệm với dân”. Công tác dân tộc cần chú trọng tranh thủ các già làng, trưởng

14
bản - những người có uy tín. Công tác dân tộc chú ý giữ hài hòa giữa luật pháp
và luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số.
Chú trọng các dân tộc thiểu số có tính đặc thù, chứa đựng những yếu tố
phức tạp cần quan tâm giải quyết. Điển hình là mối quan hệ dân tộc Chăm - Kinh
do lịch sử để lại, người Khmer liên quan đến ba yếu tố: vùng đất - tộc người - tôn
giáo, người Hmông với tâm lý “xưng vua, đón vua” và “vương quốc Mông”,…
Đồng thời cần chú ý mối quan hệ dân tộc xuyên biên giới với Trung Quốc, Lào
và Căm-pu-chia.
2. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
VỀ TÔN GIÁO
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách tôn giáo
2.1.1. Một số khái niệm về tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo - phạm trù ý thức xã hội, thuộc tâm linh, là một trong những
khái cạnh quan trọng của đời sống tinh thần. Tôn giáo được hình thành trong quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người và đang là một trong những
vấn đề quan trọng và phức tạp trên thế giới. Khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam khá đa dạng. Cụ thể:
- Tín ngưỡng. Theo nghĩa gốc, tín ngưỡng là niềm tin của con người vào
đấng siêu nhiên - cơ sở của tôn giáo. Tuy nhiên, ở Việt Nam đã thành thói quen,
tín ngưỡng là các loại hình tôn giáo sơ khai, tôn giáo nguyên thủy thờ đa thần có
từ lâu đời vẫn tồn tại đến hiện nay. Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016:
“Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những nghi lễ
gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh
thần cho cá nhân và cộng đồng” 106.
- Tôn giáo. Theo nghĩa gốc, tôn giáo là những hành vi (hoạt động) của
con người để thể hiện niềm tin vào đấng siêu nhiên. Tuy nhiên, ở Việt Nam đã
thành thói quen, tôn giáo là khái niệm để chỉ các loại hình tôn giáo có sự khác

106
Ban Tôn giáo Chính phủ, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, H, 2019,
tr.7
với tôn giáo sơ khai, tôn giáo nguyên thủy (tín ngưỡng), với đầy đủ các yếu tố:
giáo lý, giáo luật giáo lễ (quen gọi là luật lệ, lễ nghi), chức sắc và tổ chức giáo
hội. Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016: “Tôn giáo là niềm tin của con
người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ,
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”107.
- Tổ chức tôn giáo. Tổ chức tôn giáo là khái niệm chỉ cộng đồng tôn giáo
cụ thể, một tổ chức tôn giáo cụ thể. Trên thực tế, một tôn giáo có nhiều tổ chức
tôn giáo, do vậy, nếu tôn giáo là chỉ một loại hình tôn giáo, ví dụ như Cao Đài,
Tin lành,... thì tổ chức tôn giáo là chỉ một tổ chức tôn giáo cụ thể, ví dụ như Hội
thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên, Hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Bắc), Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam,... Theo
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016: “Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức
việc, nhà tu hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu tổ chức nhất
định được Nhà nước công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo”108.
Như vậy, khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng rất đa dạng,
vừa có nghĩa nguyên gốc, vừa có nghĩa được sử dụng lâu ngày theo thói quen, do
vậy khi tiếp cận tín ngưỡng, tôn giáo cần phân biệt trong những ngữ cảnh cụ thể.
2.1.2. Chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở lý luận của chính sách tôn giáo
Đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo được đề
ra trước hết xuất phát từ các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, trong đó có bản chất, nguồn gốc, tính chất của
tôn giáo và nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo.
2.1.2.1. Về bản chất của tôn giáo
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của tôn giáo được khái
quát trong những luận điểm chính sau đây:

107
Ban Tôn giáo Chính phủ, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, H, 2019, tr.7
108
Ban Tôn giáo Chính phủ, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, H, 2019,
tr.8
Thứ nhất, tôn giáo là sản phẩm của chính con người hay nói cách khác con
người dã sáng tạo ra tôn giáo, ra thần thánh. C.Mác đã chỉ ra: “Tôn giáo là sự tự
ý thức, tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để
mất bản thân mình một lần nữa”.
Thứ hai, tôn giáo là sự phản ánh thế giới không đúng như tồn tại mà là
“thế giới quan lộn ngược”. Ph.Ăng ghen nhấn mạnh:“Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người - của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”109.
Thứ ba, tôn giáo là thể hiện sự khốn cùng của hiện thực, sự bế tắc trong
cuộc sống của con người. C.Mác cho rằng:“Sự khốn cùng của tôn giáo vừa là
biểu hiện của sự khốn cùng hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự khốn
cùng hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim
của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”110.
Thứ tư, con người càng hiến mình cho tôn giáo bao nhiêu càng giữ lại cho
mình ít bấy nhiêu, con người trở nên mất lý trí và phụ thuộc vào tôn giáo.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “…Tôn giáo là thứ rượu tinh thần làm cho con người
nô lệ của tư bản mất phẩm cách con người và quên hết những điều họ đòi hỏi để
sông một cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người”111.
Như vậy, theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, tôn giáo là sản phẩm của chính con
người, nhưng con người không nhận ra sản phẩm của chính mình, mà cho đó
thuộc vào một thế giới khác - thế giới thần thánh để tôn giáo quay lại chi phối
con người. Tôn giáo phản ánh sai thế giới, không đúng với sự tồn tại của nó -
một thế giới quan lộn ngược. Tôn giáo là thể hiện sự khốn cùng của hiện thực, sự
bế tắc trong cuộc sống của con người. Con người càng tin vào tôn giáo, càng

109.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, tr.437.
110.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr. 570.
111.
C. Mác, Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr. 170.

15
hiến mình cho tôn giáo bao nhiêu thì càng trở nên mất ý chí và phụ thuộc vào tôn
giáo bấy nhiêu.
2.1.2.2. Về nguồn gốc của tôn giáo
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo có hai nguồn gốc cơ
bản: nguồn gốc liên quan đến tự nhiên và nguồn gốc liên quan đến xã hội. Cụ
thể:
Nguồn gốc liên quan đến tự nhiên. Trong lịch sử loài người, con người đã
từng sống một thời gian dài không có tín ngưỡng, tôn giáo. Trong xã hội nguyên
thủy, con người thường bị thiên nhiên uy hiếp, đe dọa, họ không thể nào lý giải
và khắc phục được. Bất lực trước tự nhiên, họ gán cho tự nhiên những sức mạnh
siêu nhiên, thần thánh, rồi cầu khấn, van xin các bậc siêu nhiên, các vị thần thánh
chở che, phù hộ, độ trì. V.I. Lê-nin cho rằng: “…Sự bất lực của con người dã
man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma
quỷ, vào những phép mầu”112.
Nguồn gốc liên quan đến xã hội. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng,
con người còn bất lực trước các lực lượng xã hội. Sự bần cùng về kinh tế, sự bất
bình đẳng về xã hội, nạn áp bức về chính trị, sự bất lực trong cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp bị trị chấp nhận cuộc sống hiện tại, tin vào thế giới sau khi chết,
tin vào thần thánh và những phép màu. Đúng như Ph.Ănghen viết: “Sự bất lực
của giai cấp bị bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế
giới bên kia”113.
Sau này một số tài liêu bổ sung thêm nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc
tâm lý. Thực ra nhận thức và tâm lý là hai yếu tố thể hiện của hai nguồn gốc nói
trên, không phải là nguồn gốc theo đúng nghĩa, vì nhận thức sai về tự nhiên, tâm
lý lo sợ trước sự áp bức, bóc lột nên hình thành niềm tin vào tôn giáo.

112.
V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2005, tr. 169-170.
113
V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2005, tr. 169-170.

15
+ Về tính chất và chức năng của tôn giáo. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tôn giáo có ba tính chất cơ bản là: tính chất lịch sử, tính chất quần
chúng và tính chất chính trị. Cụ thể:
Tính chất lịch sử: Tính lịch sử của tôn giáo thể hiện ở việc tôn giáo phản
ánh lịch sử qua quá trình ra đời và phát triển của tôn giáo. C.Mác dã khái quát
tính lịch sử liên quan đến xã hội bằng mệnh đề: “Nhà nước ấy, xã hội ấy, đã sản
sinh ra tôn giáo”114. Ph.Ăngghen cũng đã từng khẳng định tôn giáo từ trước cho
đến nay đều là sự biểu hiện của những trình độ phát triển lịch sử của từng dân
tộc. Chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt nhấn mạnh tôn giáo là một phạm trù lịch sử,
có quá trình hình thành, phát triển, và suy vong. Là một phạm trù lịch sử, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo sẽ mất đi trong những điều kiện lịch sử
nhất định - khi mà: “Con người không chỉ mưu sự, mà lại còn làm cho thành sự
nữa, thì khi đó, cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản ánh
vào tôn giáo mới sẽ mất đi, và cùng với nó bản thân sự phản ánh có tính chất tôn
giáo cũng sẽ mất đi vì khi đó không có gì để phản ánh nữa... cho đến khi tôn
giáo chết cái chết tự nhiên của nó”115.
Tính quần chúng: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là
một hiện tượng xã hội phổ biến và mang tính quần chúng rất rõ rệt. Điều đó
được thể hiện: tôn giáo thu hút đông người tin theo, tôn giáo có phạm vi tồn tại
rộng rãi, không ở châu lục, quốc gia, dân tộc nào mà không có tôn giáo - tôn giáo
có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Điều cần quan tâm, từ lâu, tôn giáo đã ăn sâu,
bén rễ, trở thành nhu cầu tình cảm, đức tin, lẽ sống, thậm chí trở thành nhu cầu
tinh thần của cả một cộng đồng, dân tộc, và ở một số nơi có không ít các hoạt
động tôn giáo mang tính cuồng tín. C. Mác đã từng nói “... tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân” theo nghĩa là phổ biến, đại chúng, chứ không phải là thuốc
phiện của một số người.

114
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, tr. 569.
115
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, tr. 439.

15
Tính chính trị: Trong các xã hội có giai cấp, tôn giáo nào cũng phản ánh
lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tôn giáo trong các xã hội có giai cấp bao
giờ cũng tồn tại đồng thời cả hai xu hướng tích cực và tiêu cực; có nhiều hoạt
động thuần túy tôn giáo song cũng có các hoạt động không thuần túy. Lịch sử
nhân loại đã từng cho thấy có không ít những lực lượng chính trị lợi dụng tôn
giáo vì mục đích ngoài tôn giáo. Chúng lợi dụng thần quyền, giáo lý, đức tin tôn
giáo và tổ chức tôn giáo để phục vụ cho lợi ích của chúng. Hơn thế nữa trong
từng tôn giáo bao giờ cũng tồn tại nhiều loại lợi ích khác nhau, do vậy tôn giáo
mang trong mình những mâu thuẫn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần
nhấn mạnh sự lợi dụng tôn giáo cho những mục đích chính trị. Tôn giáo là công
cụ tinh thần của tất cả các giai cấp áp bức nhằm tự biện hộ cho sự thống trị giai
cấp của mình. Trong lịch sử và trong xã hội đương đại, những cuộc Chiến tranh
tôn giáo hoặc những cuộc thánh chiến đẫm máu đã và đang diễn ra, thực chất
vẫn là xuất phát từ lợi ích và việc bảo vệ cho những lợi ích khác nhau.
Cùng với việc chỉ ra về tính chất tôn giáo, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra
chức năng của tôn giáo, trong đó đặc biệt nhấn mạnh chức năng thế giới quan -
luận giải về thế giới theo quan điểm duy tâm và chức năng đền bù một các hư ảo
của tôn giáo bằng việc chấp nhận cuộc sống hiện tại hy vọng vào thế giới sau khi
chết.
+ Nguyên tắc giải quyết tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác-
Lênin đưa ra những nguyên tắc trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Cụ thể:
- Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng,
tôn giáo của quần chúng. Không được phân biệt người có tôn giáo và người
không có tôn giáo, không phân biệt giữa những người theo các tôn giáo khác
nhau. Không xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người dân.
- Kiên trì thực hiện việc giải phóng quần chúng khỏi những thiên kiến tôn
giáo, khỏi tình trạng nô dịch tinh thần của tôn giáo bằng việc triệt tiêu nguồn gốc
sinh ra và nuôi dưỡng tôn giáo, bằng việc cải tạo xã hội, tạo nên một cảnh “cực

15
lạc” ngay trên trái đất này để con người không trông chờ vào cuộc sống cực lạc ở
thế giới bên kia.
- Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Không
được hữu khuynh, cơ hội thỏa hiệp với tôn giáo làm phương hại đến cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Không được thờ ơ với biểu hiện tiêu cực của
tôn giáo hay sự lợi dụng tôn giáo. Tuy nhiên, không được tuyên bố chiến tranh
với tôn giáo và coi đó là nhiệm vụ của Đảng.
- Xây dựng nhà nước thế tục, không chủ trương thiết lập “tôn giáo quốc
doanh”, các tổ chức tôn giáo không được ràng buộc bởi nhà nước. Thực hiện
việc kết nạp những người theo tôn giáo vào đảng nếu họ đi theo đảng, tận tâm
làm trọn nhiệm vụ người đảng viên và không chống lại đảng.
2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn của Việt
Nam. Tư tưởng về tôn giáo của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống tư tưởng của Người. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về tôn giáo có những vấn
đề cơ bản sau:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Tư tưởng tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được Hồ chí Minh thể hiện ngay phiên họp đầu tiên của Hội
đồng Chính phủ ngày 02 tháng 9 năm 1945: “Thực dân và phong kiến tìm cách
chia rẽ đồng bào lương với đồng bào giáo để cai trị, tôi đề nghị Chính phủ ta
tuyên bố: tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Sau đó Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946 chính thức ghi nhận “quyền tự do
tín ngưỡng” là một trong những quyền cơ bản của công dân. Cùng với tôn trọng
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện việc chống lợi dụng
tôn giáo và bài trừ mê tín dị đoan. Chống lợi dụng tôn giáo nhưng đối với những

15
người biết hối cải quay về với Tổ quốc, thì “sẽ được hoan nghênh rộng rãi như
những người con đi lạc mới về” 116.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết
toàn dân. Đây là một trong những nội dung nổi bật và xuyên suốt trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo. Người nhận thức rõ sự nghiệp cách mạng muốn giành
thắng lợi, muốn xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giầu mạnh phải đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, vì “Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Hồ Chí Minh chỉ rõ
muốn đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân, phải lấy mẫu số chung
là quốc gia, dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân; phải thật sự tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; phải quan tâm đến mọi
mặt đời sống của đồng bào các tôn giáo; phải “cầu đồng, tôn dị” tìm kiếm phát
huy những điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng những điều khác biệt để đi đến
sự thống nhất, đoàn kết.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy các giá trị của tôn giáo. Đây là một
trong những nội dung tư tưởng rất lớn và rất mới của tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo. Theo Hồ Chí Minh, các tôn giáo khác nhau về giáo lý, giáo luật nhưng
đều có điểm chung là đề cao tính nhân đạo, tính hướng thiện của con người:
Người viết: “Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức
là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” . Không những thế, Hồ Chí
117

Minh còn tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ các danh nhân thế giới, trong đó có
những người sáng lập tôn giáo. Người viết: “Học thuyết của Khổng tử có ưu
điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là
lòng bác ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách Tam dân thích hợp với điều kiện
nước ta. Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung

116.
Viện Hồ Chi Minh, Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh, H. 1993, tr.134.
117.
Viện Hồ Chi Minh, Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh, H. 1993, tr.134.

15
đó sao. Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc chung cho xã hội. Nếu các vị còn sống
trên đời này, nếu các vị ấy họp lại một chỗ, tôi tin rằng các vị ấy nhất định sống
chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm
người học trò nhỏ của các vị ấy”118.
Nói tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự tiếp thu trí tuệ của
nhân loại và sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo vào
hoàn cảnh Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo có nội dung phong phú
và đa dạng, chứa đựng giá trị và nhân văn sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo vẫn còn giữ nguyên giá trị trong công cuộc đổi mới hiện nay.
2.1.4. Đặc điểm về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam - cơ sở thực tiễn của
chính sách tôn giáo
+ Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Ở Việt
Nam có cả những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão
giáo, Nho giáo, có cả tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Công giáo, Tin
lành; có cả tôn giáo bên ngoài du nhập vào như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành,
Hồi giáo,... có cả tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hoà
Hảo,... Ở Việt Nam có cả tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ
nghi và chức sắc, tổ chức giáo hội), có cả những hình thức tôn giáo sơ khai (tín
ngưỡng); có cả những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định, có cả những
tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù
hợp. Ở Việt Nam có khoảng trên 90% dân số có đời sống tâm linh về tín ngưỡng
và tôn giáo, trong đó có có 25,232 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số. Cụ thể: Phật
giáo 14.331.000 tín đồ, Công giáo: 7.063.000 tín đồ, Phật giáo Hòa Hảo:
1.336.000 tín đồ, Tin lành: 1.121.000 tín đồ, Cao Đài: 1.116.000 tín đồ, Tịnh độ
cư sỹ Phật hội Việt Nam: 258.828 tín đồ, Hồi giáo: 80.045 tín đồ, các tôn giáo
khác: 140.000 tín đồ119.

118.
Viện Hồ Chi Minh, Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh, H. 1993, tr.134.
119.
Nguyễn Thanh Xuân, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, H. 2020, tr.227, 228.

15
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo và nhiều tổ chức tôn
giáo như nói trên, người ta thường ví tôn giáo ở Việt Nam như bức tranh thu nhỏ
của tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín
ngưỡng, tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và đặc
sắc. Tuy nhiên, số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam chỉ chiếm 27% dân số, trong
khi chủ thể quản lý đa số là những người không theo tôn giáo nên ít hiểu biết về
tôn giáo dẫn đến những khó khăn trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối
với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể; đồng thời đa dạng về tôn
giáo cũng đặt ra việc thực hiện việc bình đẳng tôn giáo trước pháp luật.
+ Các tôn giáo ở Việt Nam đoàn kết, không có xung đột về tôn giáo. Như
nói trên, Việt Nam có nhiều tôn giáo, nhiều người theo tôn giáo, có tôn giáo
nguồn gốc phương Đông, có tôn giáo nguồn gốc phương Tây, có tôn giáo truyền
vào từ rất sớm, có tôn giáo mới truyền vào; có tôn giáo đông tín đồ, phạm vi hoạt
động rộng, có tôn giáo ít tín đồ, hoạt động trong phạm vi một số địa phương,…
Nhưng tất cả tôn giáo ở Việt Nam sống hòa đồng không xảy ra xung đột hoặc
chiến tranh tôn giáo. Tất nhiên, trong quá trình truyền giáo, cả trước đây và sau
này, một số tôn giáo có những va chạm với văn hóa tín ngưỡng truyền thống
mang tính cục bộ nhưng sớm được khắc phục.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam, với các lối sống đạo khác nhau, nhưng
nhìn chung đều có đức tin, tình cảm và niềm tin tôn giáo sâu sắc. Đặc biệt là tín
đồ các tôn giáo có nhu cầu cao trong sinh hoạt tôn giáo, nhất là những sinh hoạt
tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Điều này khác với tín đồ tôn giáo ở
một số nước phương Tây hoặc các nước tiến tiến, các sinh hoạt tôn giáo đi theo
hướng cá nhân, ở gia đình. Ở Việt Nam cũng vẫn còn một bộ phận tín đồ của
một số tôn giáo còn mê tín dị đoan, thậm chí cuồng tín dễ bị số người cơ hội lôi
kéo, lợi dụng.
Vấn đề đặt ra trong ứng xử với tôn giáo là vừa phải phát huy tinh thần
đoàn kết hòa hợp giữa các tôn giáo, phát huy lòng yêu nước và tinh thần lao

15
động cần cù của các tín đồ tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
vừa phải giải quyết thỏa đáng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của tín đồ
các tôn giáo, vừa nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho tín đồ các tôn
giáo, vừa khắc phục những tồn tại, hạn chế do lịch sử để lại trong một bộ phận
tín đồ tôn giáo.
+ Ở Việt Nam có lực lượng chức sắc, nhà tu hành, chức việc các tôn giáo
đông đảo. Năm 2019, tổng số chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo ở Việt Nam
khoảng trên dưới 87,0 nghìn người. Cụ thể của từng tôn giáo: Phật giáo: 54.200,
Công giáo: 37.385 (trong đó hơn 30.000 nam nữ tu sỹ), Cao Đài: 13.411, Tin
lành: 2.066, Hồi giáo: 435,…120. Hầu hết các chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo ở
Việt Nam là người có tri thức, được đào tạo rất căn bản. Chức sắc, nhà tu hành
các tôn giáo là những người hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo cho tín đồ. Và ở
những mức độ khác nhau, chức sắc các tôn giáo có thần quyền. Do đó, chức sắc
các tôn giáo có uy tín và ảnh hưởng rất quan trọng đối với tín đồ, không chỉ
trong đời sống tinh thần mà ngay cả trong đời sống văn hóa, xã hội. Cùng với
chức sắc, nhà tu hành, các tôn giáo ở Việt Nam có trên dưới 200 nghìn chức việc
- gồm cả chức sắc và tín đồ có chức vụ trong bộ máy tổ chức các tôn giáo.
Chức sắc, nhà tu hành, chức việc là lực lượng quan trọng trong mối quan
hệ giữa giáo hội của các tôn giáo với nhà nước và là đầu mối trong việc hướng
dẫn, quản lý về hoạt động tôn giáo. Đồng thời, do vị trí ảnh hưởng của các chức
sắc, nhà tu hành đối với tín đồ và xã hội nên trong công tác tôn giáo nói chung,
công tác quản lý nhà nước nói riêng, việc vận động, tranh thủ các chức sắc, nhà
tu hành, chức việc là đặc biệt quan trọng và cần thiết.
+ Các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Trong các
tôn giáo ở Việt Nam, có nhiều tôn giáo được du nhập từ bên ngoài vào, nhất là
những tôn giáo lớn, như: Phật giáo với 520 triệu tín đồ chủ yếu ở các nước châu
Á; Công giáo với 1,250 tỷ tín đồ ở 193 quốc gia và vùng lãnh thổ ở tất cả các
120.
Ban Tôn giáo Chính phủ, Báo cáo Tình hình Công tác tôn giáo năm 2019, tài liệu lưu trữ, H. 2015, tr.16.

16
châu lục; Tin lành với 820 triệu tín đồ ở tập trung các nước Tây Âu, Bắc Âu, Bắc
Mỹ và Nam Phi; Hồi giáo với 1,450 tỷ tín đồ ở Trung Cận Đông, Bắc Phi, Tây
Á, Trung Nam Á và Đông Nam Á,… Điều đó cũng có nghĩa là tôn giáo ở Việt
Nam có mối quan hệ quốc tế khá rộng rãi.
Vấn đề quan hệ quốc tế của các tôn giáo đang là vấn đề rất lớn và rất quan
trọng trong chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, cũng
như trong công tác hướng dẫn, quản lý hoạt động tôn giáo. Vấn đề quan hệ quốc
tế tôn giáo cần được xem xét giải quyết thỏa đáng trong điều kiện chính sách đối
ngoại rộng mở và hội nhập quốc tế của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam
và trong xu hướng toàn cầu hoá và quốc tế hoá các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã
hội.
+ Các tôn giáo ở Việt Nam vẫn là đối tượng lợi dụng của các thế lực cơ
hội và thù địch. Trước đây, khi xâm lược Việt Nam, Pháp, Nhật, Mỹ đều tìm
cách lợi dụng các tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của họ. Việc lợi
dụng các tôn giáo của các thế lực đế quốc đã để lại nhiều hậu quả mà Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam đang phải giải quyết. Ngày nay, các thế lực cơ hội và
thù địch ở trong nước và ngoài nước đang thực hiện chiến lược “diễn biến hoà
bình” để chống phá Việt Nam. Với chiến lược này, các thế lực cơ hội và thù địch
đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn giáo gắn với vấn đề dân chủ và nhân
quyền, trong đó khai thác những sai sót trong việc thực hiện chính sách tôn giáo
ở một số cơ sở để xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực cơ hội và thù địch như nói trên đặt ra
cho công tác tôn giáo vừa phải thực hiện tốt chính sách tôn giáo trên căn bản tôn
trọng và đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của quần chúng tín đồ, vừa phải
cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu và những hoạt động của các thế lực
xấu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, tiếp cận
vấn dề này, cần phân biệt rõ những phần tử cơ hội và thù địch Việt Nam khác
những người chưa hiểu, đúng hơn là thiếu thông tin về tình hình tôn giáo ở Việt

16
Nam, hoặc tiếp cận vấn đề tôn giáo, nhân quyền theo góc nhìn truyền thống của
các nước, nhất là từ Âu Mỹ.
Cơ sở thực tiễn xây dựng và thực hiện chính sách tôn giáo thời kỳ đổi mới
còn chú ý đến tình hình tôn giáo thế giới. Thời gian gần dây, nhất là những thập
niên cuối của thế kỷ XX và những thập niên đầu của thế kỷ XXI, cả trên bình
diện quốc gia và quốc tế, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo có những biến đổi quan
trọng. Trên thế giới, trừ một số tôn giáo truyền thống ở Tây Âu suy giảm, còn lại
các khu vực khác, tôn giáo đang phát triển. Đó là sự phục hồi phát triển tôn giáo
ở các nước trước đây theo thể chế xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa
bước vào thời kỳ đổi mới. Đó là sự phát triển nhanh và mở rộng của đạo Tin
Lành ở những nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa. Đó là sự phát triển nhanh
của Hồi giáo cùng với việc tăng cơ học về dân số ở những quốc gia Hồi giáo. Đó
là việc mở rộng địa bàn truyền giáo của nhiều tôn giáo trong điều kiện toàn cầu
hóa. Nếu như năm 2000 số tín đồ tôn giáo là 4.88 tỷ/6 tỷ dân số, chiếm 81% thì
năm 2015 là 6,493 tỷ/7,324 tỷ dân số, tăng lên 88,66%. Bên cạnh đó, những hiện
tượng tôn giáo mới, tà giáo đang phát triển nhanh dưới tác động của toàn cầu
hóa. Năm 2000, trên thế giới có trên 20.000 hiện tượng tôn giáo mới với 130
triệu người tin theo. Xung đột dân tộc và tôn giáo gắn với chủ nghĩa ly khai cũng
đang gia tăng ở một số quốc gia. Trong vòng 10 năm cuối thế kỷ XX dầu thế kỷ
XXI, có hàng trăm cuộc xung đột tôn giáo lớn trên thế giới,...
Cùng với sự biến đổi tôn giáo như nói trên, tình hình tôn giáo thế giới, tôn
giáo ở Việt Nam đặt trong môi trường quốc tế, nhất là điều kiện toàn cầu hóa.
Đặc biệt là môi trường luật pháp quốc tế về tôn giáo, trong đó có hai văn bản
quan trọng của Liên Hợp quốc (United Nations - UN) là: Tuyên ngôn Thế giới về
Nhân quyền (Universal Declaration Human Rights - UDHR) năm 1948, Công
ước Quốc tế về Quyền dân sự và Chính trị (International Covenent on Civil and
Political Rights - ICCPR) năm 1966. Điều này đặt ra chính sách và quy định

16
pháp luật về tôn giáo của các nước, trong đó có Việt Nam là thành viên của Liên
Hợp quốc phải có sự tương thích với luật pháp quốc tế.
Đặc điểm tôn giáo của Việt Nam và tình hình tôn giáo trên thế giới trên
đây là cơ sở thực tiễn để Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam hoạch định chủ
trương, chính sách đối với tôn giáo, và đó cũng là những điều lưu ý khi tiếp cận
nghiên cứu, hoặc giải quyết một vấn đề tôn giáo cụ thể ở Việt Nam.
2.2. Về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước đối với tôn giáo thời kỳ đổi mới
2.2.1. Quan điểm chủ trương của Đảng đối với tôn giáo
Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý trong lĩnh vực tôn
giáo, Đảng ban hành các chủ trương thông qua các nghị quyết, chỉ thị, từ đó Nhà
nước tổ chức thực hiện bằng những chính sách và quy định pháp luật cụ thể, hình
thành hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
tôn giáo. Thời kỳ đổi mới, chủ trương chính sách của Đảng đối với tôn giáo bao
gồm các văn kiện như sau: Nghị quyết 24-NQ/TW, ngày 16 tháng 10 năm 1990
của Bộ Chính trị Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị số
37-CT/TW, ngày 02 tháng 7 năm 1998 của Bộ Chính trị Về công tác tôn giáo
trong tình hình mới; Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 của
BCHTW Đảng Về công tác tôn giáo,... Và gần đây là Chỉ thị 18-CT/TW, ngày
10 tháng 01 năm 2018 của Bộ Chính trị BCHTW Đảng Tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 25-NQ/TW Về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Nghị quyết 24-NQ/TW (1990) là dấu mốc cho đổi mới về chính sách tôn
giáo đã mở rộng cách tiếp cận tôn giáo, đã bổ sung nguyên nhân ra đời và tồn tại
của tôn giáo, đã khách quan trong đánh giá vai trò của tôn giáo, từ đó có ba quan
điểm đột phá thể hiện rõ bước chuyển biến mạnh mẽ trong đổi mới tư duy về tôn
giáo và công tác tôn giáo: một là, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; hai là,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; ba là, nhìn nhận và phát
huy những giá trị tích cực về đạo đức của tôn giáo. Đây là cách tiếp cận khoa

16
học dưới góc nhìn đa chiều về tôn giáo, khắc phục được cách nhìn mặc cảm,
nặng về yếu tố chính trị đối với tôn giáo. Sau đó, Nghị quyết 25-NQ/TW (2003)
đã phát triển, bổ sung. Sau đây là những nội dung cụ thể về quan điểm, chủ
trương của Đảng đối với tôn giáo thời kỳ đổi mới qua Nghị quyết 24-NQ/TW
(1990) và Nghị quyết 25-NQ/TW (2003).
+ Về phương hướng. Tiếp tục tinh thần đổi mới được đặt ra từ Nghị quyết
24-NQ/TW (1990), Nghị quyết 25-NQ/TW (2003) Về công tác tôn giáo xác
định: “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”121.
+ Về quan điểm, chủ trương. Nghị quyết 24-NQ/TW (1990) và Nghị
quyết 25-NQ/TW (2003) xác định quan điểm, chủ trương của Đảng đối với tôn
giáo trên các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo,
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng
pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước
pháp luật.
Hai là, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời nghiêm cấm lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị
121

quốc gia, H.2003.

16
và chính sách của nhà nước, kích động nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối,
xâm phạm an ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động
viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất
Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong
đó có đồng bào các tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp,
nhiều ngành. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng. Công
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo và đấu tranh chống việc
lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận
động quần chúng.
Năm là, việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác
đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không ép buộc người dân theo đạo.
Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền
đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Chủ trương chính sách đổi mới của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo được thể
hiện trong Hiến pháp năm 1992, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013: “1- Mọi người
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2- Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3- Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn

16
giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Điều 24)122. Như vậy, theo
Hiến pháp năm 2013, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người
(không chỉ là quyền của công dân như trước); Nhà nước tôn trọng và bảo hộ
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (không chỉ là bảo đảm như trước).
Gần đây, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc năm 2021 xác định:
“Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt
đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảm bảo cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến
chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp và các người lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển của đất
nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn
giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại
đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết dân tộc” 123.
2.2.2. Chính sách và quy định pháp luật của Nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo
+ Các văn bản quy định pháp luật của Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo.
Với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, sau khi Đảng ban hành
Nghị quyết thể hiện quan điểm, chủ trương đối với công giáo và công tác tôn
giáo, Nhà nước sẽ cụ thể hóa bằng quy định pháp luật cụ thể để thể chế hóa quan
điểm, chủ trương của Đảng, đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Thời kỳ
đổi mới, sau khi Bộ Chính trị BCHTW Đảng ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW
(1990), Chính phủ ban hành Nghị định 69/NĐ-HĐBT, ngày 21 tháng 3 năm
1991 Quy định về các hoạt động tôn giáo, sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định
26/NĐ-CP, ngày 19 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ Về các hoạt động tôn giáo

Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. CTQG, tr.17-18.
122.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
123

H.2021, tr.171.

16
thay thế Nghị định 69/NĐ-CP. Sau khi BCHTW Đảng ban hành Nghị quyết 25-
NQ/TW (2002), Chủ tịch nước ký ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo,
ngày 18 tháng 6 năm 2004 (gọi là Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004),
Nghị định 22/2005/NĐ-CP, ngày 01 tháng 3 năm 2005 Hướng dẫn thi hành một
số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, sau đó được thay bằng Nghị định
92/2012/NĐ-CP, ngày 18 tháng 11 năm 2012, Quy định chi tiết và biện pháp thi
hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Qua 12 năm thực hiện Pháp lệnh Tín
ngưỡng, tôn giáo, để tiếp tục thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà
nước đối với tôn giáo, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XIV,
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại Kỳ họp thứ 2 ngày 18
tháng 11 năm 2016 và được Chủ tịch nước ký Lệnh số 12/2016/L/CTN, ngày 01
tháng 12 năm 2016 công bố Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (gọi là Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2016). Sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định 162/2017/NĐ-CP,
ngày 30 tháng 12 năm 2017 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 được ban hành
nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm
2004; tiếp tục thể chế hóa các quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo; cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền công dân liên
quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; đồng thời tiếp tục sự
tương thích với luật pháp quốc tế trong điều kiện Việt Nam mở cửa và hội nhập
quốc tế một cách sâu rộng.
+ Những quy định pháp luật trong việc thực hiện chính sách về tín
ngưỡng, tôn giáo.
Việc Nhà nước quy định phạm vi điều chỉnh và những khung pháp lý đối
với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chính là đưa chủ trương, chính sách của Đảng
đối với tôn giáo vào cuộc sống, hay nói cách khác là để tín đồ, chức sắc tôn giáo
thụ hưởng những chủ trương chính sách mới đối với tôn giáo, để tạo điều kiện
cho công tác quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Có

16
nhiều nội dung hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến chính sách của Nhà
nước cũng như quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Có thể khái quát một số hoạt động chủ yếu về tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
- Hoạt động tín ngưỡng: Là những hoạt động diễn ra ở các cơ sở tín
ngưỡng, như: đình, đền, miếu, phủ,… gắn với các lễ hội.
- Sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Là những sinh hoạt tôn giáo tập trung của
tín đồ tại cơ sở thờ tự: chùa, nhà thờ nhà nguyện, thánh đường, thánh thất,… và
địa điểm hợp pháp khác.
- Hoạt động của chức sắc tôn giáo. Là những hoạt động của chức sắc trong
việc hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo của tín đồ và những hoạt động xã hội, trong đó
có hoạt động từ thiện xã hội.
- Công nhận pháp nhân tổ chức tôn giáo. Là sự công nhận của nhà nước
đối với sự hợp pháp của tổ chức tôn giáo qua hai bước: đăng ký và công nhận tư
cách pháp nhân (pháp nhân phi thương mại).
- Các hoạt động của tổ chức tôn giáo. Là các hội nghị (theo tháng, theo
quý, theo năm), đại hội (chủ yếu theo nhiệm kỳ) của tổ chức tôn giáo và tổ chức
tôn giáo trực thuộc.
- Đào tạo chức sắc. Là việc mở trường đào tạo chức sắc, mở lớp bồi dưỡng
về tôn giáo cho tín đồ, chức sắc, chức việc của các tổ chức tôn giáo.
- Phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu
hành. Là việc phong phẩm chức sắc, việc bổ nhiệm, bầu cử, suy cử các chức việc
của các tổ chức tôn giáo.
- In ấn xuất bản kinh sách, sản xuất đồ dùng tôn giáo. Là việc xuất bản,
xuất nhập khẩu các ấn phẩm tôn giáo, sản xuất các đồ thờ, đồ dùng phục vụ cho
sinh hoạt tôn giáo của các tổ chức tôn giáo
- Đất đai, xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự. Là việc giải quyết đất đai phục
vụ nhu cầu xây dựng nơi thờ tự tùy theo quỹ đất và quy hoạch; là việc cải tạo,
nâng cấp và xây dựng mới nơi thờ tự của tín ngưỡng và tổ chức tôn giáo.

16
- Hoạt động an sinh xã hội của cá nhân, tổ chức giáo. Là những hoạt động
về giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo.
- Người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Là việc sinh hoạt tôn
giáo tập trung của người nước ngoài, việc hoạt động tôn giáo của chức sắc người
nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.
- Quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo. Là việc quan hệ quốc tế của tổ
chức tôn giáo, tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ theo
hiến chương (điều lệ) của các tổ chức tôn giáo phù hợp với luật pháp Việt Nam,

Thực hiện những nội dung về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như nói
trên, pháp luật Việt Nam quy định thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn
giáo. Cùng với nội dung thanh tra, pháp luật Việt Nam quy định cá nhân, tổ chức
tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng có quyền khiếu tố, khiếu nại, khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật có liên quan;
đồng thời tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạp pháp luật sẽ bị xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật. Kể từ năm 2004, ban hành Pháp lệnh Tín
ngưỡng tôn giáo, năm 2016 ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là những văn
bản lập pháp nên các quy định pháp luật có tính hiệu lực và tính thống nhất, tức
là mọi quy định đều phải được thực hiện và thực hiện trên toàn cõi Việt Nam,
không phân biệt vùng miền, địa phương.
2.3. Kết quả thực hiện và một số vấn đề cần quan tâm
2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách tôn giáo
+ Về sinh hoạt tôn giáo của tín đồ: Tất cả các sinh hoạt tôn giáo của tín đồ
tại gia đình và nơi thờ tự theo luật lệ, lễ nghi truyền thống đều được phục hồi.
Các sinh hoạt tôn giáo tập trung với quy mô lớn được thực hiện: Lễ đón Pháp
nhân của Hội thánh Cao Đài Tây Ninh năm 1997 với sự tham gia của gần 200
nghìn tín đồ chức sắc tham dự, Đại lễ Vesak 2008, Vesak 2014, Vesak 2019, Lễ

16
Khai mạc Năm Thánh 2010 của Công giáo, Lễ Kỷ niệm 100 năm Tin lành đến
Việt Nam 2011 của các tổ chức Tin lành,... với sự tham gia từ vài chục nghìn đến
hàng 100 nghìn người trong nước và quốc tế.
+ Về công nhận tổ chức tôn giáo: Trước đổi mới cả nước có 03 tôn giáo
được công nhận về tổ chức: Hội thánh Tin lành Việt Nam (1958), Hội đồng
Giám mục Việt Nam (1980), Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981). Từ khi đổi
mới đến 2020, Nhà nước đã công nhận 37 tổ chức tôn giáo và cấp đăng ký hoạt
động cho 03 tổ chức tôn giáo, đưa tổng số tăng lên đến 43 tổ chức tôn giáo được
công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Có thể nói, đến nay hầu hết các tôn giáo ở
Việt Nam đều được hoạt động bình thường về tổ chức và chịu sự điều chỉnh của
pháp luật.
+ Về đào tạo chức sắc tôn giáo: Trước đổi mới chỉ có một vài cơ sở đào
tạo mang tính “nhỏ giọt” dẫn đến tình trạng “đào tạo chui”. Đến nay cả nước có
60 cơ sở đào tạo chức sắc (17 cơ sở cấp đại học) với 10.000 học viên theo học.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 48 cơ sở, gồm: 04 học viện, 01 trường cao đẳng,
35 trường trung cấp; Giáo hội Công giáo 08 đại chủng viện và 01 học viện; các
Hội thánh Tin lành có 04 trường Thánh kinh thần học,... Có đến 1.200 chức sắc
các tôn giáo du học thạc sỹ, tiến sỹ ở nước ngoài. Trước đổi mới, năm 1985, tỉnh
Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) chỉ có 30 linh mục, năm 2016,
tỉnh Nam Định có đến 216 linh mục; năm 1985 Giáo phận Bắc Ninh có 04 linh
mục, năm 2016 có đến 97 linh mục,... 124.
+ Về suất bản kinh sách. Trước đổi mới hầu như không có xuất bản kinh
sách, ấn phẩm tôn giáo, nếu có thực hiện theo quy chế xuất bản nhất thời. Từ khi
đổi mới, nhất là từ khi thành lập Nhà xuất bản Tôn giáo (1999), mỗi năm xuất
bản từ 500 đến 600 đầu sách. Riêng số Kinh Thánh xuất bản trên dưới 1,0 triệu
quyển. Hiện nay, ở cấp toàn đạo có tất cả 15 tờ báo và tạp chí đang hoạt động,

124 Nguyễn Thanh Xuân, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, sđd,

1
trong đó những tạp chí có uy tín, như: Nghiên cứu Phật học, Văn hóa Phật giáo,
Khuông Việt, Giác ngộ,... của Phật giáo, Hiệp thông, Người Công giáo Việt
Nam, Công giáo và Dân tộc,... của Công giáo, Mục vụ, Thông công của Tin
lành, Hương sen của Phật giáo Hòa Hảo,...
+ Về xây dựng sửa chữa nơi thờ tự. Hiện nay số lượng nơi thờ tự các tôn
giáo là 29.000, trong đó, gần 7.000 cơ sở thờ tự được cấp đất để xây mới. Đến
nay, gần như tất cả đều được trùng tu sửa chữa, trong đó hơn 60% trùng tu và
sửa chữa với quy mô lớn. Chỉ tính riêng đất đai cấp cho Phật giáo, như: Thiền
viện Trúc Lâm Bạch Mã (Huế): 1,90 ha, Thiền viên Trúc Lâm Tây Thiên (Vĩnh
Phúc) 5,2 ha, Thiền viện Trúc Lâm Chính Pháp (Tuyên Quang) 3,0 ha (trong quy
hoạch gần 40 ha), Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng (Thanh Hóa) 10,0 ha, Thiền
viện Trúc Lâm Yên Ngộ (Ninh Thuận) 4,3 ha, Thiền Viện Trúc Lâm Phú Lâm
(Quảng Nam) 19,5 ha, Thiền viên Trúc Lâm Tây Nguyên (Gia Lai) 2,0 ha, Thiền
viện Trúc Lâm Phương Nam (Cần Thơ) 3,9 ha, Thiền viên Trúc Lâm Cà Mau
1,9 ha,… Chùa Linh Sơn (Lai Châu) 4,0 ha, chùa Hưng Quốc (Sơn La) 14,0 ha,
chùa Ba Vàng (Quảng Ninh) 21,0 ha (trong qui hoạch khoảng 123 ha), quần thể
chùa Bái Đính (Ninh Bình) 539 ha, quần thể chùa Tam Trúc (Hà Nam) 5.100 ha,
… 125.
+ Về hoạt động từ thiện xã hội. Trước đổi mới, hoạt động từ thiện xã hội
của các tôn giáo chưa được quan tâm, chủ yếu hoạt động tự phát. Đến nay, riêng
Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 150 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng chẩn trị y học,
10 phòng khám đa khoa, 1.000 lớp học tình thương,... Giáo hội Công giáo Việt
Nam có 189 cơ sở khám chữa bệnh và điều dưỡng, 159 cơ sở giúp đỡ người
khuyết tật, trẻ mồ côi, 797 cơ sở giáo dục mầm non, Riêng Giáo hội Phật giáo
Hòa Hảo có đến 300 xe cứu thương phục vụ miễn phí tại vùng đồng bằng sông
Cửu Long,...

125
Nguyễn Thanh Xuân, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, sđd,

1
+ Về quan hệ quốc tế: Trước đổi mới hầu như không có hoạt động quốc tế
tôn giáo, trừ một số hoạt động phong phẩm chức sắc của Công giáo từ Va-ti-can.
Thời kỳ đổi mới, mối quan hệ quốc tế các tôn giáo được mở rộng. Từ 2005 đến
2013 có đến 205 đoàn tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam, có 1.343 đoàn tôn giáo
Việt Nam ra nước ngoài. Tới đây, Việt Nam đồng ý Va-ti-can cử đại diện thường
trú trong quan hệ với Giáo hội Công giáo Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
Đánh giá chung. Từ khi thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo, đời sống tôn giáo ở Việt Nam chuyển
biến rất quan trọng. Các tôn giáo ở Việt Nam hoạt động đi vào ổn định, nề nếp,
chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Cụ thể là các hoạt động về tổ chức, như đại hội,
hội nghị, mở trường lớp đào tạo chức sắc, phong chức phong phẩm, xuất bản ấn
phẩm tôn giáo, xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự, quan hệ quốc tế của các tổ chức
tôn giáo,...
Các tôn giáo ở Việt Nam khi được nhà nước công nhận đều xây dựng và
nỗ lực thực hiện đường hướng gắn bó với dân tộc và tuân thủ pháp luật. Phật
giáo là Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội, Công giáo là Sống Phúc âm giữa
lòng Dân tộc, đạo Tin lành là Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ
quốc và Dân tộc, đạo Cao Đài là Nước vinh, Đạo sáng, Giáo hội Phật giáo Hòa
Hảo là Vì Đạo pháp, vì Dân tộc,...
Các tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, góp phần
cùng nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội để lại từ hai cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ, cùng những vấn đề xã hội mới nẩy sinh. Từ thực tế hoạt
động từ thiện xã hội của tôn giáo, năm 2018, Đảng ta đã chính thức xác định tôn
giáo là nguồn lực xã hội cần được phát huy.
Các tôn giáo mở rộng quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế các tôn giáo vừa
tạo mối quan hệ giữa tôn giáo ở Việt Nam với tôn giáo thế giới, vừa là kênh
ngoại giao nhân dân, kênh đấu tranh đối ngoại chống lại các luận điệu sai trái của
các thế lực thù địch về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.

17
Có thể nói, đổi mới chính sách tôn giáo và sự chuyển biến đời sống tôn
giáo ở Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của đất
nước. Tuy nhiên tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo còn những vấn đề đặt ra
cần quan tâm giải quyết trong thời gian tới đây.
- Về tình hình tôn giáo. Hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật tuy đã giảm
đi nhiều nhưng vẫn còn diễn ra ở một số địa phương đối với một số tôn giáo;
việc khiếu kiện, trong đó có khiếu kiện đất đai vẫn xẩy ra, một số vụ việc trở
thành điểm nóng; mâu thuẫn nội bộ tôn giáo gây mất ổn định tôn giáo và ổn định
xã hội; hiện tượng tôn giáo mới gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến tôn giáo và đời
sống xã hội; một số tôn giáo phát triển nhanh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số gây xung đột văn hóa; các thế lực thù địch vẫn tìm cách lợi dụng tôn giáo
chống phá cách mạng Việt Nam.
- Về công tác tôn giáo. Một số cán bộ, đảng viên chưa quán triệt về chủ
trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo; một số nơi,
nhất là ở cơ sở còn vi phạm trong việc thực hiện chính sách tôn giáo, trong đó có
việc đối xử không bình đẳng giữa các tôn giáo; chưa quan tâm đến công tác vận
động quần chúng và nhất là tranh thủ chức sắc, không ít trường hợp coi công tác
này chỉ là hình thức,...
2.3.2. Một số vấn đề cần quan tâm trong công tác tôn giáo
Trước hết, cần quán triệt quan điểm, nhận thức mới đối với tôn giáo của
Đảng trong việc xác định tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; nhìn nhận và phát huy những giá
trị tích cực đạo đức và văn hóa của tôn giáo (nay là nguồn lực xã hội của tôn
giáo). Giải quyết vấn đề nhận thức là nền móng, là gốc cho việc thực hiện tốt
chính sách tôn giáo.
Thực hiện đầy đủ và đúng đắn chính sách và quy định pháp luật của Nhà
nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo dể tạo niền tin của chức sắc, tín đồ tôn
giáo. Tránh việc vi phạm hoặc không thực hiện chính sách đã ban hành hoặc

17
thực hiện không bình đẳng giữa các tôn giáo,... dẫn đến mất lòng tín, nghi ngờ,
thậm chí phản ứng từ phía các tôn giáo. Tôn giáo có những lợi thế riêng thường
đặt chính quyền trước “việc đã rồi”, thì cần chủ động giải quyết theo hướng
“đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” để đáp ứng nhu cầu và đúng quy định của
pháp luật.
Xác định công tác cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng,
đồng thời cần quan tâm đặc biệt công tác vận động, tranh thủ chức sắc, chức việc
tôn giáo, nhất là chức sắc cấp cao có uy tín ảnh hưởng trong tôn giáo, theo
phương châm: “đến với một người sẽ được muôn người”. Tranh thủ chức sắc,
“nếu còn 1/1000 sự tranh thủ được vẫn cần tranh thủ”.
Tiếp cận, luận giải các vấn đề tôn giáo cần khách quan và phương pháp
khoa học - phương pháp Mác-xít, tránh chủ quan, duy ý chí, nhất là không được
“cường điệu hóa”, chính trị hóa vấn đề tôn giáo, dẫn đến đề xuất và xử lý không
hiệu quả, thậm chí để hậu quả nghiêm trọng, lâu dài. Giải quyết một vấn đề tôn
giáo cụ thể cần chú ý đến các yếu tố: (1) nhu cầu nguyện vọng của tín đồ, chức
sắc; (2) chính sách pháp luật đã ban hành; (3) an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội; (4) bình đẳng tôn giáo trước pháp luật; (5) dư luận quốc tế.
Khi xây dựng chính sách và thực hiện tôn giáo trong hiện nay đặt trong
toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần tứ tư: 4.0 (trong đó có việc bùng nổ
về khoa học công nghệ thông tin), cần chú ý đến sự tương thích với luật pháp
quốc tế, nhất là những tổ chức quốc tế và những công ước quốc tế Việt Nam đã
ký kết và gia nhập; cần chú ý đến việc các thế lực thù địch lợi dụng những sai sót
để qua công nghệ thông tin, truyền thông xuyên tạc về đời sống tôn giáo và
chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
Khi thực hiện chính sách tôn giáo, cũng như giải quyết các vấn đề tôn giáo
có sự khác biệt, nhất là những “điểm nóng tôn giáo”, cần bình tĩnh, không để các
phần tử cực đoan kích động tâm lý đám đông qua đức tin tôn giáo. Chú ý việc
trao đổi đối thoại theo phương châm “cầu đồng, tôn dị”, thượng tôn pháp luật

17
nhưng chú ý đến đặc trưng riêng khác của từng tôn giáo, nhất là luật lệ, lễ nghi
tôn giáo; chú ý chủ động giải quyết giảm nhẹ theo hướng “đại sự trở thành trung
sự, trung sự trở thành tiểu sự”.
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, dân tộc và tôn giáo là hai vấn đề lớn,
phức tạp và nhạy cảm. Để giải quyết tốt hai vấn đề dân tộc và tôn giáo phải thực
hiện đúng đắn và đầy đủ chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước. Đối với dân tộc và tôn giáo, cần thận trọng, không được khinh xuất
hoặc bất cẩn, nếu không thì việc nhỏ trở thành việc lớn, việc đơn giản trở thành
phức tạp.
C. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày những cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam?
2. Trình bày nội dung đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước Việt Nam hiện nay?
3. Trình bày những cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối, chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam?
4. Trình bày nội dung đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam hiện nay?
D. TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2003.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2021.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002.
4. Ban Tôn giáo Chính phủ, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb. Tôn giáo,
H.2019.
5. Nguyễn Thanh Xuân, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb. Tôn giáo, H.2020

17
BÀI 6
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, AN SINH XÃ HỘI
VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
- Cung cấp kiến thức cơ bản liên quan đến chính sách xã hội, an sinh xã
hội và quản lý phát triển xã hội; Cập nhật quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách xã hội, an sinh xã hội, quản lý phát
triển xã hội.
2. Về kỹ năng
- Nhận diện, nắm bắt các quy luật nảy sinh, mối liên hệ và những vấn đề
đặt ra trong hoạch định, thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã hội và quản lý
phát triển xã hội; vận dụng tri thức khoa học về chính sách xã hội, an sinh xã hội
và quản lý phát triển xã hội trong hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý.
3. Về tư tưởng
- Nâng cao ý thức sử dụng phương pháp, cách tiếp cận, tri thức khoa học;
cũng như quán triệt quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
chính sách xã hội, an sinh xã hội, quản lý phát triển xã hội trong hoạt động thực
tiễn lãnh đạo, quản lý.
B. NỘI DUNG
1. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, AN SINH XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI
1.1. Chính sách xã hội và an sinh xã hội
1.1.1. Chính sách xã hội và phân loại chính sách xã hội
Có thể hiểu chính sách xã hội là đường lối hành động của Đảng và Nhà
nước để giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc nhằm mục tiêu nâng cao phúc
lợi xã hội, bảo trợ xã hội, phát triển xã hội và phát triển con người. Định nghĩa

17
này nhấn mạnh yếu tố hành động được triển khai trên thực tế của chính sách xã
hội. Đồng thời nhấn mạnh yếu tố được hiện thực hóa trong cuộc sống, chứ không
phải là một quyết định trừu tượng hóa khó có thể đưa vào cuộc sống. Nói cách
khác, định nghĩa này nhấn mạnh chính sách với tính cách là hoạt động, hành
động xã hội xuất hiện trong quá trình phát hiện và giải quyết những vấn đề nhất
định của đời sống. Định nghĩa này nhấn mạnh chính sách là đường lối của hành
động có chủ đích, tương đối ổn định, tức là có mục tiêu, mục đích, kế hoạch và
được theo đuổi một cách nhất quán, kiên định chứ không phải là hành vi tình cờ,
ngẫu nhiên, may rủi và không phải tùy tiện, thất thường, bất ổn định.
Có thể phân chia chính sách xã hội thành các nhóm loại: 1) Chính sách
phúc lợi xã hội; 2) Chính sách bảo trợ xã hội; 3) Chính sách phát triển xã hội; 4)
Chính sách ưu đãi xã hội; 5) Chính sách điều chỉnh hành vi, quan hệ xã hội.
1.1.2. An sinh xã hội và các trụ cột cơ bản của an sinh xã hội
Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng
trong lãnh đạo đất nước, là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống
của nhân dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững
ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc
phòng, an ninh. Ngay từ khi Cách mạng Tháng 8 thành công, Đảng và Nhà nước
đã coi nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc dốt như diệt giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí
Minh có mong ước “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”.
Cụm từ “an sinh xã hội” được chính thức sử dụng tại Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam (4/2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội
và an sinh xã hội”. Đặc biệt, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) “Một số vấn đề về chính sách xã hội
giai đoạn 2012-2020” đã coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên,
quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; xây

17
dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước,
xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ.
Tiếp đó, điều 34 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Công dân có quyền được bảo
đảm an sinh xã hội. Bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
An sinh xã hội là hệ thống cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước và
xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với những rủi ro, cú
sốc về KT-XH làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai
sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các
nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa và cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng…thông qua các mạng lưới về bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội…
Hệ thống an sinh xã hội được hình thành từ các trụ cột cơ bản: 1) Nghèo
đa chiều và giảm nghèo bền vững; 2) Đào tạo nghề, lao động, việc làm; 3) Bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các loại bảo hiểm khác; 4) Bảo trợ xã hội; 5) Các
dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch, nhà ở, thông tin…).
1.1.3. Một số nguyên tắc thiết lập, thực hiện chính sách xã hội, an sinh
xã hội
Để đảm bảo tính các mục tiêu, tính hiệu quả, hiệu lực trong quá trình
hoạch định, thực hiện chính sách xã hội và an an sinh xã hội cần phải chú ý quan
tâm đồng bộ, đảm bảo tốt các nguyên tắc sau: 1) Góp phần đảm bảo định hướng
chủ nghĩa xã hội; đảm bảo sự phân phối lại và công bằng xã hội; 2) Công cụ thực
hiện, giải quyết, quản lý hiệu quả các vấn đề xã hội; 3) Kết nối và phát huy các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; 4) Sự tham gia chủ động, tích cực của tất
cả chủ thể liên quan; 5) Được thực hiện thường xuyên, từng bước, có lộ trình và
trong suốt quá trình phát triển; 6) Đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa hệ
thống chính sách xã hội, an sinh xã hội và hệ thống chính sách kinh tế; xác định
là phương thức đầu tư cho phát triển bền vững của xã hội; 7) Phải đảm bảo tính

17
đa dạng, toàn diện, bền vững, công bằng; 8) Đảm bảo sự sự chia sẻ giữa Nhà
nước, xã hội và người dân, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; đảm bảo sự lãnh đạo,
quản lý của Đảng và Nhà nước; 9) Tăng cường xã hội hóa, khuyến khích các tổ
chức, doanh nghiệp và người dân tham gia tự bảo đảm an sinh xã hội; 10) Không
ngừng đẩy mạnh, tăng cường hợp tác quốc tế.
1.2. Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
1.2.1. Phát triển xã hội
Có thể hiểu phát triển xã hội là quá trình thưc hiện các mục tiêu phát triển
xã hội vì: con người; cộng đồng; xã hội theo hướng bình đẳng về trách nhiệm,
quyền và cơ hội phát triển. Phát triển xã hội là làm cho con người được sống
trong những điều kiện ngày càng đầy đủ về vật chất và tinh thần trong một môi
trường tự nhiên và xã hội trong sạch, lành mạnh, an toàn; làm cho con người có
đủ sức khỏe, tri thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để sống, lao động và hoàn
thiện mình, xứng đáng là Con người, trong các quá trình lịch sử của một quốc
gia dân tộc và của toàn nhân loại126.
Phát triển xã hội là một phạm trù bao hàm các nội dung: 1) Sự biến đổi về
chất trên lĩnh vực kinh tế, tạo ra các điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề
xã hội; 2) Trên cơ sở các tiền đề phát triển kinh tế, phát triển xã hội là cải thiện
chất lượng sống cho con người; 3) Sự biến đổi về chất các thể chế/thiết chế xã
hội, nâng cao địa vị pháp lý, vai trò các tổ chức, các nhóm xã hội chính thức và
không chính thức; 4) Thiết lập sự công bằng xã hội, bình đẳng trong xã hội; 5)
Bảo đảm an sinh xã hội; 6) Ổn định xã hội, giữ vững an toàn, trật tự xã hội; đảm
bảo quyền công dân, quyền con người; 7) Bảo vệ môi trường sinh thái, việc khai
thác tài nguyên được thực hiện một cách bền vững127.
Phát triển xã hội bao hàm các thành tố: 1) Mục đích phát triển xã hội là
vấn đề nâng cao mức sống và chất lượng sống của con người (cá nhân và cộng

126
Phan Xuân Sơn (2015), Phát triển xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5.
127
Phan Xuân Sơn (2015), Phát triển xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5.

17
đồng), thúc đẩy tiến bộ xã hội; 2) Phương tiện phát triển xã hội: Phát triển về số
lượng và chất lượng các nguồn lực, các điều kiện, nhằm đáp ứng tốt hơn các vấn
đề xã hội; 3) Phương thức phát triển xã hội: Là sự giải quyết kịp thời, đúng đắn,
hợp lý các vấn đề nảy sinh trong đời sống của cộng đồng dân cư, từ chính trị,
kinh tế, văn hóa đến môi trường128.
Vai trò của phát triển xã hội trong điều kiện Việt Nam hiện nay, bao gồm:
1) Thước đo thể hiện mức độ định hình các giá trị của chủ nghĩa xã hội trong tiến
trình đổi mới; 2) Tái tạo nguồn nhân lực xã hội, tạo động lực tăng trưởng kinh tế
bền vững; 3) Duy trì xã hội trong kỷ cương, trật tự, ổn định xã hội và phòng
ngừa rối loạn xã hội; 4) Bảo vệ và phát triển các giá trị nhân quyền và dân
quyền; 5) Góp phần định hình lối sống hài hoà giữa con người với con người,
giữa cá nhân với cộng đồng, giữa con người với môi trường xung quanh 129. Để
xã hội Việt Nam phát triển bền vững cần thực hiện chủ động, có hiệu quả quản
lý phát triển xã hội.
1.2.2. Quản lý phát triển xã hội
Có thể hiểu, quản lý phát triển xã hội chính là sự tác động có định hướng,
có tổ chức của các chủ thể quản lý (Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, cộng đồng, nhóm xã hội và cá nhân công dân) đến
khách thể (con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội, chức
năng xã hội, cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội, biến đổi xã hội, vấn đề xã hội, sai
lệch xã hội, tình huống bất thường...) nhằm mục tiêu phát triển xã hội nhanh, hài
hòa, bền vững.
Xét về chủ thể quản lý thì quản lý phát triển xã hội bao gồm đa dạng chủ
thể khác nhau: không chỉ có Đảng cầm quyền, Chính phủ, mà còn có cả các chủ
thể xã hội khác nữa (mà chủ yếu là các tổ chức xã hội khác nhau và các cá nhân).

128
Phan Xuân Sơn (2015), Phát triển xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5.
129
Hoàng Chí Bảo, Đoàn Minh Huấn (2012), Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội hiện nay vận dụng cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18
Các chủ thể khác nhau của quản lý phát triển xã hội thường hoán đổi vị trí vai
trò khi thực hiện quản lý phát triển xã hội 130.
Có thể chỉ ra một số biểu hiện cụ thể vai trò của từng chủ thể quản lý phát
triển xã hội như sau: 1) Vai trò của Nhà nước: quản lý, điều hành thông qua xây
dựng và hỗ trợ về thể chế cho các yếu tố của mô hình như: thị trường lao động,
hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dịch vụ xã hội cơ bản, dịch vụ công,…
2) Vai trò của thị trường, khu vực tư nhân: cung cấp dịch vụ xã hội, dịch vụ
công, thực hiện các trách nhiệm đã được quy định trong các lĩnh vực như bảo
hiểm xã hội, thất nghiệp, tham gia các hoạt động trợ giúp xã hội,...3) Vai trò của
các tổ chức xã hội: hỗ trợ, kiểm tra và giám sát, nhất là ở cấp cơ sở việc thực
hiện các quy định trong lĩnh vực xã hội; 4 ) Vai trò của người dân và xã hội dân
sự: huy động sự tham gia của người dân, thực hiện các hoạt động hỗ trợ cộng
đồng trong nhiều dịch vụ xã hội cơ bản và trợ giúp xã hội...131.
Nội dung quản lý phát triển xã hội trong quá trình đổi mới và hội nhập
phải thực sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; vị thế của
nhân dân là chủ xã hội và quyền làm chủ được tôn trọng; gia đình hòa thuận,
cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển
toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả. Thiết lập các tiêu chuẩn,
các chỉ báo xã hội; phân loại các vấn đề xã hội; áp dụng phương pháp quản lý
một cách khoa học để giải quyết các vấn đề đó; lập kế hoạch về việc thực hiện
các quan hệ xã hội và các quá trình xã hội; dự báo xã hội. Nội dung quản lý của
nhóm thường đặt ra ở quy mô nhỏ, phạm vi hẹp, chủ yếu là giải quyết các vấn đề
xã hội thường trực mà mọi thành viên của nhóm ý thức được và tự nguyện lập kế
hoạch tổ chức thực hiện132.
Xét về phương tiện quản lý phát triển xã hội bao gồm hệ thống thiết chế,
chuẩn mực xã hội. Không chỉ là các thiết chế, chuẩn mực xã hội cứng: như luật,

130
Đoàn Minh Huấn (2016), tài liệu đ d
131
Trịnh Duy Luân (2018), tài liệu đd.
132
Hoàng Chí Bảo, Đoàn Minh Huấn (2012), sđd..
18
18
lệ, quy định, chính sách mà còn cả các chuẩn mực mềm như đạo đức, giá trị,
chuẩn mực xã hội. Đối với Đảng và Nhà nước thì pháp luật, quy định, chính sách
là những phương tiện chính yếu của quản lý xã hội; tuy nhiên cũng không nên bỏ
qua các chuẩn mực mềm. Cụ thể là: 1) Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật;
2) các nhóm, cộng đồng và tổ chức xã hội thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
thông qua giám sát thực thi pháp luật và nhân dân thượng tôn pháp luật. Tạo sự
đồng thuận xã hội bằng giải pháp đối thoại; dân chủ hóa; đề cao trách nhiệm,
tính tự nguyện, tự giác của các chủ thể liên quan.
Xét về mục tiêu, nhiệm vụ quản lý phát triển xã hội có rất nhiều mục tiêu
và nhiệm vụ khác nhau, và không nhất thành bất biến. Đó là: duy trì trật tự xã
hội, quy định hành vi xã hội, phối hợp các quan hệ xã hội với việc duy trì trật tự
xã hội, phát huy bản sắc cộng đồng, thúc đẩy sự hài hòa xã hội và giải quyết các
xung đột xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, đối phó với rủi ro xã hội và làm
giảm các mâu thuẫn xã hội, kiểm soát xung đột xã hội, làm cầu nối thu hẹp các
khác biệt xã hội…Trong số đó, giải quyết xung đột xã hội và duy trì trật tự xã
hội là mục tiêu và nhiệm vụ bao trùm của quản lý xã hội 133. Mục tiêu quản lý
phát triển xã hội hướng tới phát triển xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”; định hình các giá trị của chủ nghĩa xã hội; tạo động
lực tăng trưởng kinh tế bền vững; duy trì xã hội trong trật tự, kỷ cương, phòng
ngừa xung đột xã hội; bảo vệ và phát huy các giá trị nhân quyền; hình thành lối
sống hài hòa giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa
con người với môi trường xung quanh.
1.2.3 Một số nguyên tắc thiết lập và thực hiện quản lý phát triển xã hội
Việc thiết lập và thực hiện phương thức quản lý phát triển xã hội cần quán
triệt những nguyên tắc sau đây: 1) Quản lý phát tiển xã hội là có tính tất yếu, phù
hợp với yêu cầu kiến tạo, phát triển xã hội; 2) Có nhiều cách thức để tiếp cận,
133
Hong Xiaoliang (2011), Định hướng đổi mới quản lý xã hội ở Trung Quốc (Trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
về Quản trị biến đổi xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa, do Học viện CT-HC khu vực I thuộc HVCT-HCQG Hồ
Chí Minh.

18
giải thích và biện pháp can thiệp nhằm đáp ứng mục tiêu quản lý phát triển xã
hội; 3) Cần ưu tiên tập trung vào các hiện tượng xã hội, vấn đề xã hội mới, phức
tạp, nan giải; 4) Nhấn mạnh việc cùng tham gia đồng thời của nhiều chủ thể xã
hội; 5) Thực hiện và sử dụng hệ thống thiết chế xã hội trong quản lý phát triển xã
hội; 6) Hướng đến các mục tiêu hiệu quả tổng thể của hoạt động quản lý: hài
hòa, bền vững, đồng bộ, kịp thời, khả thi; 7) Việc ứng dụng tri thức khoa học-
công nghệ là nền tảng đảm bảo sự thành công của quản lý phát triển xã hội; 8)
Quản lý phát triển xã hội là biện pháp song hành, hỗ trợ của hoạt động quản lý
nhà nước; 9) Quản lý phát triển xã hội chủ yếu dựa vào quyền lực xã hội, giá trị
xã hội; 10) Đề cao sự tôn trọng và lắng nghe, đảm bảo lợi ích chính đáng của cá
nhân, nhóm xã hội; 11) Đề cao việc đánh giá hiệu quả dựa trên đầu ra: kết quả và
các chiều cạnh tác động; 12) Đề cao tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở dữ
liệu để ra quyết định quản lý.
2. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, AN SINH XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Một số kết quả, hạn chế và vấn đề đặt ra trong hoạch định và
thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã hội ở Việt Nam
2.1.1. Một số kết quả trong hoạch định và thực hiện chính sách xã hội,
an sinh xã hội ở Việt Nam
Một số thành quả trong thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã hội ở Việt
Nam hiện nay, bao gồm: 1) Đã hình thành tư duy và nhận thức chính sách xã hội,
an sinh xã hội luôn song hành với quá trình phát triển của xã hội, với chính sách
phát triển kinh tế ; 2) Đã xác lập tầm quan trọng của chính sách xã hội, an sinh
xã hội trong tổng thể định hướng đường lối phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước; 3) Lấy con người làm điểm xuất phát, mục tiêu, động lực; 4) Chính sách
xã hội, an sinh xã hội là công cụ giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội; 5)
Chính sách xã hội, an sinh xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người; 6)
Tạo cơ hội, năng lực tiếp cận các nguồn lực để phát triển; 7) Chính sách xã hội,

18
an sinh xã hội hướng tới mục tiêu tối thượng vì con người; 8) Xuất phát từ trình
độ, đặc điểm phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và địa phương; 9) Từng bước
tập trung vào xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế- thực hiện công bằng
xã hội-giải quyết, quản lý các vấn đề xã hội; 10) Nguồn lực: nhà nước, người
dân, cộng đồng, quốc tế; 11) Phù hợp với chuẩn mực, giá trị xã hội hiện hành;
12) Chính sách phải xuất phát từ thực tiễn và phục vụ cho ai ; 13) Hình thành và
triển khai ba chiến lược trong hoạch định, thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã
hội: Phòng ngừa/giảm thiểu/khắc phục.
2.1.2. Một số hạn chế trong hoạch định và thực hiện chính sách xã hội,
an sinh xã hội ở Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đã đạt được việc hoạch định và thực
hiện hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội vẫn còn những hạn chế, bất cập
sau đây: 1) Chậm đổi mới, thiếu nhất quán trong tư duy nhận thức so với yêu cầu
đặt ra; 2) Còn không ít biểu hiện tiêu cực, bất cập trong thực hiện; 3) Khả năng
huy động ngân sách cho hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội còn gặp nhiều
khó khăn; 4) Hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội còn phân tán, manh
mún, thiếu sự gắn kết; 5) Chưa có hệ thống lý luận vững chắc, chỉnh thể trong
hoạch định phát triển hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội phù hợp với bối
cảnh xã hội hiện nay; 6) Ban hành chính sách xã hội, an sinh xã hội tương đối
tốt, tuy nhiên tính hiệu lực/hiệu quả chưa cao chưa tương xứng với mục tiêu,
nguồn lực; 7) Hệ thống giải pháp trong thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã
hội khá đồng bộ, nhưng còn thiếu tính chủ động và có khả năng ứng phó với
những biến đổi khôn lường của thực tiễn; 8) Bất cập về trách nhiệm cụ thể, sự
phối kết hợp của từng chủ thể có liên quan; 9) Bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ,
nguồn lực, công nghệ trong thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã hội còn bất
cập; 10) Công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, vận dụng chính sách xã hội, an
sinh xã hội chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn…

18
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách xã hội và an sinh
xã hội ở Việt Nam
2.2.1 Chính sách ưu đãi người có công
Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và hệ thống chính sách an
sinh xã hội là hai bộ phận cấu thành của chính sách xã hội được ở Việt Nam hiện
nay134. Điều 59 Hiến pháp 2013 khẳng định: Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen
thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước. Trong thời
gian qua chính sách ưu đãi người có công không ngừng được bổ sung, sửa đổi
cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước như: việc ban hành Pháp
lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Pháp
lệnh ưu đãi người có công với nước, cùng với hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi
được ban hành có tác dụng to lớn, sâu rộng về chính trị, xã hội được toàn dân
hưởng ứng. Tuy nhiên, đời sống của một bộ phận gia đình người có công với
cách mạng vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số. Một bộ phận người có công chưa được xác nhận, công nhận và hỗ
trợ. Vẫn còn thiếu quy định về xác nhận người có công và một số chế độ trợ cấp
chưa đảm bảo nâng cao mức sống người có công trên mức trung bình của xã hội.
Chưa tạo ra cơ chế phù hợp để xã hội hóa, chia sẻ và phát huy đầy đủ các nguồn
lực của toàn xã hội cùng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần người có công.
Vẫn còn những thiếu sót trong các khâu cải cách hành chính nhà nước bao gồm
thể chế chính sách, tổ chức bộ máy và công chức, công vụ. Đặc biệt, tình trạng
chậm giải quyết chế độ chính sách cho người có công, tình trạng gian lận, tham
nhũng vẫn còn xảy ra trong lĩnh vực thực hiện chính sách người có công...
Trong thời gian tới, cần phải đẩy mạnh việc hoàn thiện chính sách pháp
luật và tính công bằng trong thực hiện chính sách người có công. Tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức trong cán

134
Đảng cộng sản Việt Nam. Nghị quyết số 15-NQ/TW (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI) “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”. Ngày 21 tháng 6 năm

18
2012.

18
bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ
trẻ về sự hy sinh, đóng góp to lớn của các thế hệ người có công với cách mạng.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi xã hội đối
với người có công với cách mạng, cụ thể là hoàn thiện các quy định về xác nhận
người có công, điều chỉnh chế độ trợ cấp ưu đãi trên cơ sở mức tiêu dùng bình
quân xã hội. Tăng cường đổi mới quản lý nhà nước về ưu đãi xã hội, trong đó coi
trọng đổi mới đồng bộ cả thể chế chính sách, tổ chức bộ máy và công chức, công
vụ. Coi trọng việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ứng dụng công
nghệ thông tin. Tăng cường xã hội hóa, đa dạng hóa các nguồn lực, tiếp tục tổ
chức thực hiện các phong trào toàn dân chăm sóc người có công; tạo điều kiện
việc làm, học nghề, giảm nghèo cho người có công và thân nhân người có công
tham gia ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của gia đình và cộng đồng...
2.2.2. Chính sách lao động, việc làm
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: chính sách lao
động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất
năng lực của người lao động. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: tập trung
giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập; khắc phục những bất
hợp lý về tiền lương, tiền công135.
Chính sách lao động-việc làm đi vào cuộc sống góp phần giải quyết việc
làm, xây dựng thị trường lao động, nâng cao thu nhập và đời sống người lao
động. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách
giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách lao động-việc làm như: hoàn thiện thể
chế thị trường lao động, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, xây dựng
quỹ hỗ trợ việc làm, có chính sách hỗ trợ lao động di chuyển, xuất khẩu lao
động…Cơ cấu lao động được phân bổ trong các ngành, trong các loại hình kinh

135
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, đã dẫn

18
tế hợp lý hơn, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế. Số lao động qua đào tạo
có xu hướng tăng lên.
Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng việc làm còn thấp, trong khi khả năng
tạo việc làm của nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế không cao đã
ảnh hưởng đến kết quả giải quyết việc làm cho người lao động. Nguồn lực cho
các dự án, chương trình hỗ trợ tạo việc làm thấp, trong khi các địa phương chưa
đảm bảo cam kết đối ứng hoặc khó khăn, không có nguồn lực để thực hiện các
chương trình, dự án hỗ trợ giải quyết việc làm. Tỉ trọng lao động được đào tạo và
được cấp bằng cấp, chứng chỉ còn ít, tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động, việc
làm còn chậm, tỉ trọng lao động giản đơn còn cao, tỉ trọng lao động trình độ
chuyên môn bậc cao còn ít…
Do đó trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để thúc đẩy
chính sách lao động, việc làm: 1) Nâng cao trình độ của lực lượng lao động; 2)
Phát triển nguồn nhân lực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; 3) Hỗ trợ đào tạo nghề
phù hợp cho các nhóm gặp khó khăn; 4) Thúc đẩy phụ nữ tham gia vào thị
trường lao động; 5) Tăng cường đối thoại giữa các chủ thể: nhà nước, người sử
dụng lao động, công đoàn, và người lao động…; 6) Thúc đẩy cơ hội việc làm,
thu nhập, giảm nghèo bền vững; 7) Hỗ trợ phát triển sản xuất, tín dụng, giải
quyết việc làm; 8) Kết nối thông tin thị trường lao động; 9) Tiếp tục phát triển thị
trường lao động, phát triển việc làm; 10) Từng bước hoàn thiện thị trường lao
động, kết nối cung cầu lao động; 11) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo
việc làm và chuyển dịch cơ cấu việc làm; 12) Tăng cường đào tạo và phát triển
kỹ năng cho người lao động…
2.2.3. Chính sách giảm nghèo bền vững
Chương trình xóa đói-giảm nghèo quốc gia đầu tiên được Chính phủ
Việt Nam triển khai từ năm 1998 bao gồm các dự án mục tiêu và một số
chính sách về y tế, giáo dục và hỗ trợ xã hội cho người nghèo. Bộ mặt các xã
nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã có sự thay đổi đáng kể, nhất là về kết cấu hạ

18
tầng phục vụ cho phát triển sản xuất hàng hóa và phục vụ dân sinh. Chất
lượng cuộc sống của người dân ở các xã nghèo được nâng cao, nhất là nhóm
hộ nghèo, đồng bào dân tộc ở miền núi và phụ nữ. Bên cạnh thước đo về tỷ
lệ hộ nghèo, những thước đo về nghèo đói khác, như các chỉ số xã hội cũng
đạt được những thành tựu đáng kể. Cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nước sạch, vệ sinh môi trường...Chính
sách hỗ trợ học sinh, sinh viên con em người nghèo trong giáo dục, đào tạo
được ngành giáo dục và các tỉnh, thành phố quan tâm, với nhiều cách làm
linh hoạt như: Quỹ học bổng, Quỹ tín dụng cho con em hộ nghèo; thực hiện
chế độ cử tuyển ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn...Tỷ
lệ xóa đói-giảm nghèo năm sau tăng nhanh hơn năm trước, hạn chế tốc độ
gia tăng chênh lệch giàu nghèo, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, nhất là ở khu vực nông thôn. Chính sách xóa đói-giảm nghèo đang ngày
càng tập trung vào khu vực nông thôn theo hướng vững chắc và gắn với
phát triển, trên cơ sở có chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực, nhất là năng
lực thị trường của người nghèo và tạo cơ hội cho hộ nghèo, xã nghèo phát
triển kinh tế hàng hóa, tạo việc làm có giá trị cao, tăng thu nhập thông qua
chính sách khuyến khích hộ nghèo vươn lên làm giàu (đầu tư hạ tầng cơ sở,
chính sách đất đai, tín dụng, khuyến nông, dạy nghề, chính sách khoa học
và công nghệ, chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm).
Mặc dù đã đạt được những kết quả khá ấn tượng tuy nhiên, chính sách
giảm nghèo bền vững ở Việt Nam hiện nay vẫn đang gặp nhiều bất cập, khó
khăn. Do vậy, trong công tác dân vận đối với thực hiện chính sách giảm nghèo
đa chiều và bền vững cần quan tâm nắm bắt và góp phần giải quyết những khó
khăn sau đây. Một là, việc xác định tiêu chí nghèo và đo lường thu nhập của hộ
nghèo trong thực tế; Hai là, tính hiệu quả của hoạt động đào tạo nghề ở
huyện/vùng nghèo đáp ứng phù hợp với thị trường lao động; Ba là, tính hiệu quả
của hoạt động giảm nghèo bền vững cho dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu;

18
Bốn là, tình trạng ỷ lại, sự thiếu tích cực chủ động của một bộ phận không nhỏ
hộ gia đình và người nghèo; Năm là, vẫn còn tình trạng thất thoát, lãng phí và
tham nhũng trong hoạt động giảm nghèo; Sáu là, xu hướng phân cực xã hội
(khoảng cách giàu nghèo) đang có xu hướng gia tăng và khó được kiểm soát;
Bảy là, những hạn chế trong nhận thức và hành động đối với nghèo đa chiều và
giảm nghèo bền vững; Tám là, tình trạng giảm nghèo thiếu bền vững và nguy cơ
tái nghèo còn cao.
Trong thời gian tới Việt Nam cần nỗ lực thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững trên các mục tiêu như sau: 1) Các chính sách giảm nghèo đối với các
huyện nghèo; 2) Ưu tiên đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn; 3)
Thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội; 4) Sửa đổi chính sách hỗ trợ
hộ cận nghèo để giảm nghèo bền vững; 5) Đảm bảo giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước
giảm 1,5 - 2%/năm; 6) Tập trung vào các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao, để giảm
nghèo khoảng 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn; 7) Hoàn hiện bộ máy
quản lý Chương trình giảm nghèo Quốc gia…
2.2.4. Chính sách bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội 136. Bảo hiểm xã hội được chia thành các nhóm
loại: 1) Bảo hiểm bắt buộc; 2) Bảo hiểm tự nguyện; 3) Bảo hiểm thất nghiệp; 4)
Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 5) Bảo hiểm y tế; 6) Bảo hiểm
thương mại. Trong đó, đáng lưu ý nhất là bảo hiểm y tế. Bảo hiểm y tế là hình
thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của
Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ
chức thực hiện.

136
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo hiểm xã hội

18
Các nguyên tắc cơ bản nhất để đối với sự vận hành và phát triển của bảo
hiểm xã hội là: 1) Đóng-hưởng; 2) hỗ trợ, chia sẻ; 3) Nhà nước đóng vai trò quản
lý, chủ đạo. hệ thống bảo hiểm xã hội ngày càng hoàn thiện, đa tầng, đa chiều,
công bằng, chia sẻ, rộng mở hơn. Cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của
Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội ngày
càng được hoàn thiện. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 đã mở rộng đối tượng tham
gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tùy theo khả năng ngân sách từng thời
kỳ; tăng cường các biện pháp bảo đảm bền vững tài chính để bảo đảm sự bình
đẳng trong tham gia bảo hiểm xã hội giữa các thành phần kinh tế; nâng cao các
biện pháp xử lý đối với các vi phạm về chính sách bảo hiểm xã hội…Đối tượng
tham gia các hình thức bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng. Số người tham
gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên hàng năm.
Cho đến nay đã có khoảng 35% số người tham gia bảo hiểm xã hội so với
lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp chiếm
tỷ lệ 29,2% so với lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm
đạt 90,9% dân số tham gia bảo hiểm y tế…
Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
đang còn những bất cập và vấn đề đặt ra như sau: 1) Mối quan hệ giữa mức đóng
và hưởng thụ bảo hiểm xã hội; 2) Nhận thức của người dân về lợi ích bảo hiểm
xã hội; 3) Trốn tránh, nợ đọng bảo hiểm xã hội; 3) Nguy cơ vỡ qũy bảo hiểm xã
hội; 4) Tình trạng thất thoát, tham nhũng, trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội; 5) Tính
bền vững, minh bạch của quỹ bảo hiểm xã hội; 6) Khả năng bảo hiểm xã hội là
công cụ hữu hiệu cho nhà nước; 7) Bảo hiểm xã hội đã thực sự là chỗ dựa vững
chắc cho người lao động khi nghỉ hưu; 8) Vấn đề phát triển bảo hiểm xã hội tự
nguyện ở nông dân và kinh tế phi chính thức; 9) Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã
hội đa tầng...

19
Trong thời gian tới Việt Nam cần nỗ lực thực hiện chính sách bảo hiểm xã
hội theo các mục tiêu: 1) Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; 2) Sự
liên kết, hỗ trợ các chính sách bảo hiểm xã hội; 3) Củng cố niềm tin, tăng mức
độ hài lòng; 4) Tăng tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi chính thức; 5)
Thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình; 6) Đa dạng danh mục, đầu
tư Quỹ bảo hiểm xã hội; 7) Đảm bảo sự an toàn/bền vững/hiệu quả của bảo hiểm
xã hội; 8) Điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối so với tiền lương...
Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách bảo hiểm y tế ở Việt Nam
đang gặp các vấn đề bất cập như sau: 1) Sự không tương thích giữa mức đóng và
mức hưởng thụ bảo hiểm y tế; 2) Những khó khăn trong sử dụng thẻ bảo hiểm y
tế; 3) Khả năng tăng số người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; 4) Tình trạng
thất thoát quỹ, gian lận chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế...
Trong thời gian tới Việt Nam cần nỗ lực thực hiện chính sách bảo hiểm y
tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân theo các mục tiêu: 1) Chủ động phòng chống
dịch bệnh; 2) Giảm tải các bệnh viện; 3) Đổi mới cơ chế tài chính y tế công lập;
4) Thực hiện Luật bảo hiểm xã hội, thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân; 5)
Tăng cường mạng lưới y tế cơ sở; 6) Tăng cường nhân lực y tế; 7) Thí điểm
khám chữa bệnh theo nhu cầu; 8) Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, giáo dục
sức khỏe; 8) Bảo đảm y tế tối thiểu; 9) Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân
dân ở các tuyến cơ sở, nhất là ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, dân tộc
thiểu số; 9) Hoàn thiện quản lý các đơn vị thuộc ngành y tế ở địa phương; 10)
Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em...
2.2.5. Chính sách bảo trợ xã hội
Chính sách bảo trợ xã hội là sự trợ giúp cá nhân, nhóm người mất hoặc
thiếu điều kiện lao động, điều kiện sống bình thường do gặp phải những rủi ro
gây ra. Trong thời gian qua, hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không ngừng
mở rộng, bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già; hỗ
trợ không chỉ người nghèo mà còn mở rộng sang các đối tượng khác. Bảo trợ xã

19
hội được phân thành hai nhóm khác nhau: bảo trợ thường xuyên và bảo trợ đột
xuất.
Hỗ trợ thường xuyên: Điều kiện để được hưởng hỗ trợ thường xuyên từng
bước được cải tiến theo hướng mở rộng đối tượng được hưởng nên số đối tượng
gia tăng nhanh. Người già cô đơn, không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, người tàn tật
không có người nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên của
xã, phường hoặc đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở bảo trợ xã hội,
được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng,
dạy nghề, tạo việc làm,…
Hỗ trợ đột xuất: Những rủi ro về dịch bệnh, thiên tai, mất mùa là những
yếu tố bất thường ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Nhà nước có các
chính sách, chương trình hỗ trợ đột xuất (bằng tiền mặt, lương thực…) cho đồng
bào trước những rủi ro đó. Công tác hỗ trợ (cứu trợ) trong những năm qua được
triển khai tương đối kịp thời, có sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự tham gia
tích cực của cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương, doanh nghiệp,..
Bên cạnh những kết quả đạt được việc hoạch định và thực hiện chính sách
bảo trợ xã hội ở Việt Nam đang gặp phải những bất cập sau đây: 1) Độ bao phủ
của chính sách bảo trợ còn hạn chế; 2) Khả năng đúng đối tượng bảo trợ xã hội;
3) Tính chồng chéo nhiều chủ thể thực hiện bảo trợ xã hội; 4) Sự thiếu công
bằng trong bảo trợ xã hội; 5) Sự thiếu tính chủ động trong bảo trợ xã hội; 6) Thất
thoát trong bảo trợ xã hội…
Do đó, trong thời gian tới Việt Nam cần nỗ lực thực hiện chính sách bảo
trợ xã hội theo các mục tiêu: 1) Nâng cao hiệu quả công tác bảo trợ xã hội; 2)
Mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; 3) Nâng mức trợ
cấp xã hội phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước; 4) Cụ thể hóa các căn cứ
xác định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội; 5) Tiếp tục hoàn thiện
chính sách bảo trợ xã hội; 6) Phát triển cơ sở bảo trợ xã hội, phát triển mô hình
chăm sóc cộng đồng; 7) Khuyến khích sự tham gia của tư nhân vào triển khai

19
các mô hình bảo trợ xã hội; 8) Bảo đảm người bị thiệt hại gặp rủi ro, thiên tai
được hỗ trợ kịp thời; 9) Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức
thực hiện bảo trợ xã hội; 10) Mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng; 11)
Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; 12) Tiếp tục tuyên truyền vận
động và tổ chức tốt các phong trào tương thân, tương ái...
2.3. Quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam
2.3.1. Vai trò của quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam
Một là, quản lý phát triển xã hội chính là một nguồn lực quan trọng để
phát triển xã hội Việt Nam trong điều kiện mới. Công tác lãnh đạo chỉ thực sự là
nguồn vốn xã hội khi định hướng được dư luận xã hội quan tâm đến quản lý phát
triển xã hội; hơn thế còn lôi cuốn ngày càng nhiều người thuộc các tầng lớp dân
cư khác nhau tích cực tham gia thực hiện phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội dưới các hình thức dịch vụ xã hội hoặc hoạt động công ích không vụ lợi,
và tạo được mạng lưới bảo đảm xã hội sâu rộng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0137.
Hai là, bảo đảm sự cân bằng các trụ cột của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Bao gồm: 1) Trụ cột xã hội: Sự cân bằng các quan hệ và
thể chế xã hội, trong đó trước tiên và cơ bản là thể chế kinh tế - xã hội, được bảo
đảm bằng đường lối, chủ trương, chính sách và luật pháp của Đảng và Nhà nước;
2) Trụ cột cạnh tranh: Các quan hệ và thể chế giám sát cạnh tranh trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế được bảo đảm bằng
đường lối, chính sách và luật pháp của Đảng và Nhà nước; 3) Trụ cột ổn định:
Việc xây dựng, hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế, được bảo đảm bằng đường lối, chính sách và luật pháp
của Đảng và Nhà nước; 4) Trụ cột tương thích với thị trường định hướng xã hội

137
Nguyễn Thanh Tuấn (2018), Quan niệm, vai trò, định hướng đổi mới quản lý phát triển xã hội trong nền kinh
tế thị trường, hội nhập quốc tế cà cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong Hội thảo: Quản lý phát triển xã hội ở
nước ta trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư . Tạp chí Cộng
sản, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nội

19
chủ nghĩa, hội nhập quốc tế: Đường lối, chủ trương, chính sách, luật pháp của
Đảng và Nhà nước thường xuyên điều tiết quá trình tập trung hóa và độc quyền
sản xuất, kinh doanh theo hướng cạnh tranh lành mạnh 138. Có thể thấy trong tư
duy quản lý phát triển xã hội của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa luôn thể hiện hai đặc điểm rõ rệt. Thứ nhất, kiên
định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế. Thứ hai, gắn kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với việc giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra để
hướng tới mục tiêu đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội.
Ba là, quản lý phát triển xã hội chính là nhân tố thúc đẩy việc hoàn thiện
và thực hiện thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có
rất nhiều các quan điểm khác nhau khi bàn về khái niệm nhà nước pháp quyền,
tuy nhiên về cơ bản các khái niệm này đều thống nhất rằng: Nhà nước pháp
quyền là mô hình nhà nước hoạt động dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật.
Nói cách khác, mô hình nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải quản lý phát triển xã
hội dựa trên luật pháp và các cơ quan thực hiện quyền lực pháp luật cũng bị giám
sát chặt chẽ bởi luật pháp. Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, quan điểm phát triển mà mô hình về nhà nước pháp quyền có những đặc
trưng khác nhau.
Bốn là, quản lý phát triển xã hội là nhằm bảo đảm tính hiệu lực và hiệu
quả quản trị phát triển xã hội. Quản trị tốt gồm những cơ chế, thể chế và tiến
trình mà thông qua đó các nhà chức trách có thể giải quyết hài hòa và thỏa đáng
4 vấn đề: 1) sự tham gia; 2) trách nhiệm giải trình; 3) sự minh bạch; 4) trách
nhiệm của Nhà nước.

138
Nguyễn Thanh Tuấn (2018), Quan niệm, vai trò, định hướng đổi mới quản lý phát triển xã hội trong nền kinh
tế thị trường, hội nhập quốc tế cà cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong Hội thảo: Quản lý phát triển xã hội ở
nước ta trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư . Tạp chí Cộng
sản, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nội

19
2.3.2. Quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay-một số vấn đề đặt
ra
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định thành công
bước đầu của quản lý phát triển xã hội. Đó là từng bước hoàn thiện đồng bộ và
thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo; phát triển
thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hệ lao động hài hòa ổn định và tiến
bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế. Bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm hơn phúc
lợi xã hội cho người dân; chính sách đối với người có công được thực hiện ngày
càng tốt hơn; tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương; mở rộng bảo hiểm xã hội
(tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90%), chú trọng phòng chống dịch bệnh, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ
nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 3%; nhà ở xã hội được quan tâm.
Đã hoàn thành mục tiêu và về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ139.
Tuy nhiên, quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội
chưa được quan tâm đúng mức; chưa kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình
phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế, quản lý xã hội còn nhiều bất cập; tình trạng
gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội; tiêu cực xã hội, mâu thuẫn xã hội…gây bức xúc
trong dư luận nhân dân. Chưa có giải pháp để xử lý hữu hiệu những vấn đề về
kiểm soát thu nhập, phân hóa giàu- nghèo, gia tăng bất bình đẳng, kiểm soát và
xử lý các mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội phát sinh; giảm nghèo còn chưa bền
vững. Chính sách tiền lương thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi
xã hội chưa thật sự hiệu quả; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển đất
nước chưa đồng đều, hài hòa140.
Quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa đảm bảo
tính đồng bộ; chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức quản lý phát
triển xã hội. Năng lực quản lý của một số địa phương chưa đáp ứng yêu cầu;

139
Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, 2021, tr 65.
140
Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, 2021, tr 85.

19
trong khi sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ, đã làm
giảm hiệu lực, hiệu quả của việc phân cấp, ảnh hưởng đến vai trò quản lý tập
trung thống nhất của Trung ương và tính năng động, chịu trách nhiệm của địa
phương. Tổ chức và hoạt động của chính quyền ở một số địa phương chậm đổi
mới; chưa có quy định phù hợp với đặc điểm vùng đô thị và hải đảo141.
Do vậy, phải đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản
lý phát triển và quản lý xã hội. Tập trung cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng
của người dân, doanh nghiệp làm tiêu chí đánh giá. Phát huy vai trò làm chủ,
tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Triển khai
đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường,
trên cơ sở đó đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để tăng hiệu quả của phát triển
xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, thiết chế phát triển xã hội, quản
lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa.
Đồng thời, phải hướng đến mục tiêu: quản lý phát triển xã hội có hiệu quả,
nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn
minh; chú trọng nâng cao chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm
đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện
tốt an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân142.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, quản lý phát triển xã hội đang được
nhấn mạnh nhằm thực thiện tốt các mục tiêu: 1) Ưu tiên đầu tư vào con người,
nguồn nhân lực; 2) Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, hệ thống bảo trợ xã hội
phát triển; 3) Xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu khác biệt nông thôn-thành thị,
khác biệt vùng miền; 4) Hoàn thiện hệ thống luật pháp, thể chế và áp dụng nhất

141
Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, 2020, tr 115.
142
Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, 2021, tr 116.

1
quán cho tất cả mọi người; 5) Thực hành quản trị tốt, chống tham nhũng; 6) Mở
rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội; 8) Đảm bảo 8 mục tiêu
được xác lập trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội143.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã
hội và quản lý phát triển xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt
Nam/địa phương hiện nay?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày những vấn đề cơ bản của chính sách xã hội, an sinh xã hội và
quản lý phát triển xã hội?
2. Phân tích mối quan hệ giữa chính sách xã hội, an sinh xã hội và quản lý
phát triển xã hội?

E. TÀI LIỆU HỌC TẬP


* Tài liệu bắt buộc
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Tài liêu đọc thêm
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số 15-NQ/TW (Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI) “Một số vấn đề
về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết quyết số 27-NQ/TW ngày
19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

143
Vũ Mạnh Lợi (2012), tài liệu đã dẫn.

19
Bài 7
CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về chiến lược bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, giúp người học hiểu được
việc hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc là một tất yếu khách quan. Trên cơ sở
đó quán triệt được những nội dung cơ bản: mục tiêu, quan điểm, phương châm
và những giải pháp chủ yếu trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2. Về kỹ năng
Giúp người học, đặc biệt là những cán bộ lãnh đạo quản lý trong các lĩnh
vực, có thêm kiến thức, kỹ năng tham mưu, tham gia hoạch định, tổ chức thực
hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong các điều kiện cụ thể…
3. Về tư tưởng
Thông qua chuyên đề, giúp người học nâng cao ý thức trách nhiệm cùng
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
B. NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM VÀ CĂN CỨ ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC BẢO
VỆ TỔ QUỐC
1.1. Khái niệm chiến lược bảo vệ tổ quốc
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) của Đảng và Nhà nước
xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm
tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng-
an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững hòa bình, ổn định đất nước;
ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”,

19
bạo loạn lật đổ, ly khai, can thiệp, xâm lược của giặc ngoài, thù trong, phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc,
cần đặt nó trong mối quan hệ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các
chiến lược khác, trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới có quan hệ hữu cơ
với Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, hình thành chiến lược quốc gia,
nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là
xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Cùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc giữ
vai trò chủ đạo đối với việc nghiên cứu hoạch định và tổ chức thực hiện các
chiến lược khác có liên quan đến thực hiện thắng lợi cả hai nhiệm vụ trên
như chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh, chiến lược đối ngoại,
giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, Bưu chính viễn thông v.v…
Cùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc
còn đồng
thời là cơ sở pháp lý để các bộ, ngành thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành trực
thuộc Trung ương có căn cứ vững chắc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch
chiến lược có liên quan đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo một định
hướng thống nhất.
1.2. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn hiện nay
1.2.1. Học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
C.Mác, Ph.Ăngghen sống trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh, các nước tư bản lớn nhất lúc này phát triển tương đối đồng đều, mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong các nước đó có độ chín muồi ở trình
độ không chênh lệch nhau, khi mà giai cấp chưa trở thành giai cấp cầm quyền,

19
chưa có quốc gia, chưa có quyền lực nhà nước. Vì thế, C.Mác và Ph.Ăngghen

20
cho rằng, cách mạng vô sản không những sẽ có tính dân tộc mà còn sẽ đồng thời
xảy ra ở tất cả các nước văn minh nhất, như Anh, Pháp, Mỹ, Đức… và cách
mạng vô sản là một cuộc cách mạng có tính chất toàn thế giới. Trong tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản các nhà lý luận Mác xít viết : "Công nhân không
có Tổ quốc . Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có…Vì thế giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng
thành một giai cấp dân tộc"1
Qua kinh nghiệm Công xã Pari năm 1871, C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng,
sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản phải nhanh chóng củng cố nền
chuyên chính vô sản, củng cố khối liên minh công nông, giải giáp quân đội cũ,
vũ trang toàn dân, thành lập các đội dân cảnh, xây dựng xã hội mới, kiên quyết
tiến công đập tan mọi hành động phản kháng của giai cấp tư sản. Đó là những tư
tưởng ban đầu về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của C.Mác, Ph.Ăngghen.
V.I. Lênin phát hiện quy luật phát triển không đều về kinh tế, chính trị
của chủ nghĩa tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và đi đến kết luận hết sức
quan trọng: Trong điều kiện lịch sử mới, giai cấp vô sản có thể giành được chính
quyền ở mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, tức là cách mạng vô sản có thể
thành công ở một nước, thậm chí ở một nước có trình độ phát triển chưa cao.
Thực tiễn ở nước Nga cách mạng vô sản Nga thành công vào tháng 10 năm
1917.
Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một cống hiến mới của
V.I. Lênin vào kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa đang đặt ra trực tiếp ở nước Nga Xô viết ngay sau khi
cách mạng vô sản Nga thành công năm 1917.
Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin là người có công đóng góp to lớn trong việc
bảo vệ và phát triển học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai
1
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, H, 1980, tập 1, tr. 565

20
đoạn đế quốc chủ nghĩa, Người khẳng định : "Kể từ ngày 25 tháng 10 năm 1917,
chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành "bảo vệ
Tổ quốc", nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách
là Tổ quốc"2.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo
xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng
được đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ chiến lược của các nước xã
hội chủ nghĩa, hai nhiệm vụ chiến lược này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù
và thực tiễn cách mạng thế giới. Sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh đổ về mặt chính trị, nhưng chúng vẫn
chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Do vậy, chúng
tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động và chủ nghĩa tư bản bên ngoài
hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân. Thực
tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi Tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện, nhân
dân các nước xã hội chủ nghĩa phải đương đầu chống trả những âm mưu và hành
động lật đổ, xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mười bốn nước đế quốc tập trung bao vây
hòng tiêu diệt nước Nga Xô viết. Từ khi chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ
thống thế giới, sự chống phá của kẻ thù càng quyết liệt hơn. Sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất của phong trào cách mạng
thế giới, song nó cũng để lại cho các nước xã hội chủ nghĩa những bài học đắt
giá rằng : xây dựng chủ nghĩa xã hội phải luôn gắn liền với bảo vệ Tổ quốc xã
2
V.I. Lênin: Toàn tập, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 36,tr. 102.

2
hội chủ nghĩa. Có như vậy, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới tồn tại và phát triển.
Thực tiễn trên đây một lần nữa đã chứng minh cho luận điểm của V.I. Lênin rằng
: giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền còn khó khăn hơn.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự vận
dụng sáng tạo Học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào
tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Trong điều kiện lich sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, kế thừa tinh hoa
truyền thống dân tộc, nắm vững quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Viêt
Nam “dựng nước phải đi đôi với giữ nước”, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đưa ra hệ thống quan điểm, tư tưởng, làm
cơ sở cho đường lối của Đảng trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu biểu cho ý chí, quyết tâm giải phóng dân tộc,
quyết tâm bảo vệ đất nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân
dân ta. Điều đó được thể hiện đậm nét trong nhiều bài nói, bài viết trong các hoạt
động thực tiễn của Người; những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh đã
trở thành chân lý, thôi thúc ý chí, quyết tâm của cả dân tộc: "Các vua Hùng đã có
công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" 3. Ý chí giữ nước của
Người rất sâu sắc và kiên quyết. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày
19-12-1946, Người nói: "Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng
lên !...”; Dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập; Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì
chúng ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi...
Vận dụng sáng tạo về học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương kiên quyết bảo vệ chính quyền nhân dân và chủ
quyền dân tộc, thực hiện nguyên tắc “dĩ nhu xử cương, dĩ bất biến ứng vạn
3
Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1995, tập 5, tr. 553.

20
biến”, hết sức tranh thủ thời gian hòa hoãn xây dựng lực lượng mọi mặt cho sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Người đưa ra hàng loạt các biện pháp xây dựng và củng
cố chính quyền cách mạng, tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội, thông qua hiến
pháp; kiên quyết chống “giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt”, ra chỉ thị “kháng
chiến kiến quốc”, đồng thời cùng Trung ương Đảng quyết định chủ trương “hòa
để tiến”; quyết định ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946 để có
thời gian chuẩn bị kháng chiến, bảo vệ chính quyền.
Cùng với việc khẩn trương xây dựng các tiềm lực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, xây dựng tinh thần kháng chiến của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
hết sức coi trọng xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng bộ đôi chủ
lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, đồng thời tích cực thực hiện các biện
pháp ngoại giao, lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù, phân hóa chúng, cũng như
hết thức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cách mạng
nước ta lúc đó.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi
công dân Việt Nam. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định : "Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm
lược nước ta, Người kêu gọi : Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp cứu Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ ra một chân lí rằng : "Không có gì quý hơn độc lập tự do". "Hễ còn một tên
xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi",
trước khi đi xa, trong bản Di chúc Người căn dặn: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của nhiều
người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn
toàn". Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn

20
toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả
nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Có thể nói, Học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là bộ phận hợp thành lý luận các mạng xã hội chủ nghĩa,
bao gồm một hệ thống các quan điểm, tư tưởng hết sức cơ bản về tính tất yếu,
nhiệm vụ và nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng với các biện pháp
có tính chiến lược trong xây dựng, củng cố quốc phòng, chuẩn bị đất nước về
mọi mặt và đường lối đối ngoại đúng đắn để có thể đánh thắng thù trong, giặc
ngoài bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Đường lối, quan điểm của ĐảngCộng sản Việt Nam về xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. V.I. Lênin, người thầy vĩ đại của cách
mạng thế giới đã chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự
vệ”. Trải qua các giai đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây dựng và phát
triển kinh tế-xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ
chiến lược sống còn. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, được biểu
hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau
là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Từ nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong các kỳ đại hội, nhất là qua 35 năm đổi mới,
tư duy xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta có sự phát triển và đổi mới
mạnh mẽ. Chúng ta ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn về hai
nhiệm vụ chiến lược, cũng như những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh

20
tổng hợp của đất nước. Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 8
(Khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã nêu nhận thức
mới về nội hàm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế: Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ
lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền
văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa
XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới tiếp tục kế thừa nội hàm
bảo vệ Tổ quốc đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX); đồng
thời chỉ rõ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là: Giữ vững sự lãnh
đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững môi trường hoà bình,
ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước; đồng thời
luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, xâm
lược của các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống;
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...
Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay được xác định rõ là kiên định về mục tiêu,
nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh
chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tranh thủ
sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hoá, cô lập
các phần tử, thế lực ngoan cố chống phá Việt Nam; lấy việc giáo dục, thuyết

20
phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý
nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật; chủ động đấu tranh với các âm mưu,
hoạt động "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, không để hình thành tổ
chức chính trị đối lập dưới bất kỳ hình thức nào...
Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng
ta nhìn nhận toàn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến
lược là phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh
vực khác, bảo đảm kinh tế xã hội phát triển ổn định, bền vững; quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh
tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng-an ninh. Phát triển kinh tế - xã
hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; bảo đảm quốc phòng,
an ninh trở thành một trong những mục tiêu trọng yếu của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội; kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết,
đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, thực hiện tốt công bằng xã hội,
quốc phòng, an ninh được bảo đảm, đối ngoại được mở rộng sẽ tạo ra sức mạnh
vật chất và tinh thần to lớn, mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng được đổi
mới và hoàn thiện theo hướng chủ động gắn kết xây dựng với tự bảo vệ; kết hợp
theo quy hoạch, kế hoạch của từng địa phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập
trung thống nhất của Trung ương; kết hợp theo khu vực, vùng lãnh thổ, ngành,
lĩnh vực kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn quốc; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh
tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong các dự án đầu tư, quy hoạch phát triển
các vùng, các ngành kinh tế, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn
chiến lược, các ngành kinh tế quan trọng.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định vấn đề tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,

20
thành phố vững mạnh, tiếp tục phát triển quan điểm qua các kỳ đại hội của Đảng
khẳng định: “Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược
bảo vệ Tổ quốc”. Đây là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong lịch sử; nâng
lên tầm cao mới truyền thống, bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc”, huy động
sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng của cha ông.
Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa; chú trọng trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiến thức
về quốc phòng, an ninh, đồng thời cung cấp những thông tin về âm mưu, hoạt
động chống phá, nhất là chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong; các mối
đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền thống.
Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tăng cường tuyên
truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo
vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi
người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong điều kiện mới, như chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp
chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, khủng
bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia”…
1.2.3. Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc và kinh nghiệm
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới
1.2.3.1. Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc
Việt Nam là một nước nhỏ, có vị trí chiến lược ở khu vực Đông Nam châu
Á, luôn là đối tượng bị các thế lực bành trướng ngoại bang xâm chiếm. Cũng
chính vì thực tiễn đó mà ông cha ta đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm

20
trong kế sách giữ nước, bảo vệ Tổ quốc. Muốn giữ nước, bảo vệ Tổ quốc phải
luôn “ đề phòng việc không ngờ”, phải “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”, “ lo
trị nước từ khi chưa loạn”…Trong kế sách giữ nước, phải quan tâm bảo vệ một
cách toàn diện, nhất là việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, khơi dậy lòng yêu
nước, ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường của dân tộc. Giữ nước phải “dựa vào
dân”, “nước lấy dân làm gốc”, Phải “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”;
chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng dân giàu, nước mạnh. Thực hiện “trong
ấm, ngoài êm”. Trong nước đoàn kết, ổn định, bên ngoài hữu nghị, hòa hiếu,
mềm dẻo, khéo léo, giữ gìn hòa bình để xây dựng đất nước giàu mạnh là thượng
sách để giữ nước.
1.2.3.2. Kinh nghiệm bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới
Trong quá trình đổi mới đất nước cùng với quá trình nhận thức và đổi mới
tư duy lý luận của Đảng về nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong 35 năm
đổi mới dựa trên cơ sở quy luật dựng nước phải đi đôi với giữ nước, là một quá
trình xuất phát từ thực tiễn của đất nước qua các giai đoạn, các sự kiện, các mốc
lịch sử quan trọng, từ bối cảnh khu vực và quốc tế và từ yêu cầu, khả năng về
quốc phòng, an ninh và sự phát triển kinh tế. Đây là một quá trình nhận thức
từng bước, có sự điều chỉnh phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước, đổi mới và
hội nhập quốc tế.
Một là, nhận thức đúng, đủ về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc và về mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược này
ngày càng rõ hơn, sâu sắc hơn.
Hai là, nhận thức mới về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng
phù hợp với tình hình thế giới, khu vực và thực trạng đất nước.
Ba là, nhận thức về quan điểm và phương châm chỉ đạo bảo vệ Tổ quốc
ngày càng toàn diện, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ đất nước.
Bốn là, nhận thức về sức mạnh tổng hợp và lực lượng bảo vệ Tổ quốc
ngày càng đầy đủ hơn.

20
Năm là, nhận thức về phương thức bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
cũng có những nội dung bổ sung, phát triển.
Sáu là, nhận thức ngày càng hoàn thiện về xây dựng nền quốc phòng toàn
dân gắn chặt với xây dựng nền an ninh nhân dân, gắn quốc phòng với an ninh,
đấu tranh quốc phòng gắn với bảo vệ an ninh.
Bảy là, nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội, với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Tám là, nhận thức về đối tác, đối tượng có bước phát triển mới, có cách
nhìn biện chứng.
1.2.4. Tình hình thế giới, khu vực và trong nước ảnh hưởng đến nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc
1.2.4.1. Tình hình thế giới và khu vực
- Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ
có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng
thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ,
bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố
đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài
chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.
Chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan, thực dụng, cường quyền nước lớn
trong quan hệ quốc tế gia tăng; sự can dự, cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn; chạy đua vũ trang; không gian chiến lược mới; các loại hình tác chiến mới
đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định trên thế giới, khu vực và
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước, nhất là nước nhỏ đang phát
triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghiệp số phát triển
mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng,
tạo ra cả thời cơ, thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Xuất hiện nhiều hình
thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược. Sự xuất hiện của các

20
loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại đã làm thay đổi cơ bản tổ chức
quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Với sự ra đời của chiến
tranh mạng, tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh thế giới, khu vực và của
mỗi quốc gia. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là khủng bố, thiên tai,
dịch bệnh tiếp diễn phức tạp.
Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn
còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ
cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương
quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có nhiều thay
đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng
lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa
các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an
ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên
tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã
hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp.
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông - Nam Á
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất
ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình
thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên
kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu
vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức.
1.2.4.2. Tình hình trong nước
Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín và vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được
nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đất
nước đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là
tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn

21
cầu, kiểm soát tốt đại dịch Covid-19, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng nhanh; bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân được
củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế
độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ
vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, vị thế và
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu của
những năm đổi mới đã tạo cho đất nước thế và lực mới, tạo tiền đề để nước ta
tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức
đặt ra đối với quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại: Nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng suy thoái
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên gắn với tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng, làm giảm sút
niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
đang có những diễn biến phức tạp.
Những yếu kém trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, các
vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nếu
không được kịp thời khắc phục có hiệu quả, sẽ là nguy cơ tiềm ẩn đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Các hành động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
nước ta, nhất là trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp…Đó là những thách

21
thức, khó khăn cần khắc phục và giải quyết trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện
nay là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ
vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội;
chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Về chính trị:
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hiệu lực quản
lý của Nhà nước đối với toàn xã hội, bảo vệ mục tiêu và con đường phát triển
theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Bảo vệ mọi thành quả cách mạng Việt Nam đã giành đươc; giữ vững ổn
định chính trị đất nước, đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; vô hiệu hóa mọi âm mưu,
thủ đoạn tập hợp lực lượng, hình thức tổ chức chính trị đối lập.
- Về kinh tế - xã hội
Bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển
nhanh, bền vững, hiệu quả; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; thực hiện

21
thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố
quốc phòng - an ninh.
Đẩy lùi nguy cơ tụt hậu và tái khủng hoảng; hạn chế tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường; đấu tranh hiệu quả với các tội phạm kinh tế, tệ quan liêu, tham
nhũng, gian lận thương mại; thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí.
Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển
nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết.
- Về tư tưởng, văn hóa
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của xã hội ta là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc
phòng - an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực
tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Bảo vệ và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam; kiên
quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, phủ
nhận lịch sử, tuyên truyền những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền tư sản, đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập của các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội.
- Về đối ngoại
Bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia, dân tộc trong quá
trình mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế.
Chủ động tạo thế đứng ngày càng vững chắc và nâng cao vị thế của nước
ta trong khối ASEAN, trong khu vực và trên thế giới; tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Về quốc phòng – an ninh

21
Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bảo
vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, chủ
quyền, lãnh thổ, dân cư, môi trường… của quốc gia.
Tăng cường xây dựng quốc phòng – an ninh và tạo thế chủ động ngăn
ngừa, đẩy lùi đập tan các mưu đồ hành động chống phá hoặc gây chiến tranh
xâm lược của địch; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định lâu dài để phát triển
đất nước.
2.3. Quan điểm và nhiệm vụ
2.3.1. Quan điểm
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là
lợi ích cao nhất của Tổ quốc.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định, nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế,
quốc phòng- an ninh, đối ngoại.
Bốn là, xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của cả khối đại
đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý điều hành của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng cường tiềm
lực quốc phòng - an ninh, không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
Năm là, ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác
mọi thuận lợi bên ngoài. Quán triệt đường lối độc lập tự chủ, kiên trì chính sách
đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm thêm bạn,

21
bớt thù, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cố gắng tham gia hợp tác, tránh sung đột,
tránh đối đầu, tránh cô lập, lệ thuộc.
Sáu là, chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố
bên trong có thể dẫn đến đột biến bất lợi.
2.3.2. Nhiệm vụ
2.3.2.1. Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiêp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Bởi vì: Đặc điểm nổi bật trong thời đại ngày nay là các nước với chế độ xã hội
và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh gay gắt
vì lợi ích quốc gia dân tộc. Dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc trên thế giới
đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh của
dân tộc mình nói riêng và loài người nói chung. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi
khí hậu toàn cầu...Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Vì
vậy, duy trì được một môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ tạo ra các nhân tố
thuận lợi cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, giúp cho chúng ta vượt qua
thách thức, đẩy lùi các nguy cơ đưa đất nước phát triển tiến lên.
Để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước vấn đề
đầu tiên là chúng ta phải tiếp tục đưa các quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, đồng
thời tiếp tục mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước, các tổ chức quốc tế, trong
đó cần chú ý quan hệ với các nước, các trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế
giới. Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng
cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp
tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền; Phát triển công tác đối ngoại nhân
dân; tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới, góp phần
vào cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, phát triển công bằng, bền vững, dân chủ

21
và tiến bộ xã hội; Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm
công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có năng lực và trình độ nghiệp vụ cao,
có đạo đức và phẩm chất tốt; Tăng cường công tác nghiên cứu dự báo, tham mưu
về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các nhà nghiên cứu và các
nhà khoa học; Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung
của Nhà nước đối với công tác đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại
của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và
kinh kế đối ngoại; đối ngoại quốc phòng và an ninh...
2.3.2.2. Phát triển kinh tế - xã hội, gắn với tăng cường quốc phòng an
ninh đáp ứng mọi yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh luôn giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia
dân tộc.
Để nâng cao hiệu quả sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng
cường sức mạnh quốc phòng - an ninh, một mặt phải giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Trong đó, phải thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng
xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập quốc
tế. Mặt khác, phải tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, xem đó là nhiệm vu trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước
và toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền
tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh; quốc phòng an ninh vững mạnh sẽ là
điều kiện rất thuận lợi để giữ vững hòa bình, tạo môi trường an toàn cho xây
dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia và
chế độ xã hội chủ nghĩa.

21
2.3.2.3. Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ
Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, Đảng là một bộ phận trong
hệ thống chính trị, Đảng có trách nhiệm lãnh đạo hệ thống chính trị ấy. Đảng
lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội để đưa đất nước đi lên theo con đường mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình
độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng, đảm bảo đầy đủ dân chủ và kỷ cương trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên
tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và
mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Yếu tố quyết định nhất của năng lực cầm quyền của Đảng là năng lực
hoạch định cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương đúng đắn. Để có đường
lối, chủ trương đúng đắn, Đảng phải đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân, kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm chắc tình
hình quốc tế và khu vực; nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sinh động của đất nước,
khái quát lý luận và rút ra các bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng đất
nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đảng phải phát huy và tập trung trí tuệ của toàn dân tộc, nhất là trí tuệ của
đội ngũ nhà khoa học, cán bộ lão thành cách mạng, cũng như của các tầng lớp
nhân dân. Đảng phải khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, yêu Tổ quốc và
quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, hướng phát
huy dân chủ vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự gương mẫu đi đầu trong
việc tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức, tập hợp nhân dân; xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận trong Đảng, Nhà nước và nhân dân nhằm tổ
chức thực hiện thắng lợi cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng.

21
Đảng phải ra sức xây dựng hệ thống tổ chức, nhất là tổ chức cơ sở đảng và
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng tổ chức, bộ máy lãnh đạo phù hợp, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Cần tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức cách mạng, có lối sống giản dị, trong sáng, có tinh thần tự phê
bình và phê bình; có trách nhiệm cao trước Tổ quốc, trước nhân dân, hết lòng hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đồng thời phải xử lý nghiêm các biểu
hiện thiếu trách nhiệm, vi phạm tư cách đạo đức, lối sống của mọi cán bộ, đảng
viên.
Khắc phục tệ quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu, tham ô, tham nhũng của
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị để lấy lại lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đổi mới tác phong và lề lối làm
việc của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị theo phương châm vì nhân
dân phục vụ, cán bộ là "công bộc" của nhân dân; có cơ chế để nhân dân giám sát
hoạt động của cán bộ trong bộ máy của hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
2.3.2.4. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự, kỷ cương chú trọng giải
quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, để phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình hiện nay cần phải nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân

21
chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về
quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với
lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa,
khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường
đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài
hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt
nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ
đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý
kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những
người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân
bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Cho nên phải tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở
mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà nước tôn trọng
và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát
triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp
luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó
là người đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; Thực hiện dân chủ và xây dựng xã
hội lành mạnh; Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; Giáo dục lý tưởng và đạo
đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân

21
dân với Đảng, Nhà nước.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa
các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết
với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng
kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc
thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
2.3.2.5. Tiếp tục triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ
quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội
lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác
động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế.
Tích cực tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa
phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc.
Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc
đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng biến

22
đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có
liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm
thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính
trị của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới
biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản
lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước
láng giềng có chung biên giới.
Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng
ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò
quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm
quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc
lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ
chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng - an
ninh.
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược bảo
vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay
2.4.1. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước

22
Đây là giải pháp then chốt quyết định nhất để thực hiện có hiệu quả chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Để tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước ta đối với quá trình tổ chức thực hiện Chiến lược, cần phải: thực hiện
tốt nguyên tắc:Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân
Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt;… Nhà nước thống nhất quản lý đối với
Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng - an ninh theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua sự định hướng về mục tiêu,
phương hướng, biện pháp tổ chức thực hiện; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý;
trực tiếp kiểm tra giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách; vận
động nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể… chấp hành nghiêm chỉnh
nghĩa vụ, quyền lợi của mình và tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước về quốc phòng - an ninh cần
nắm vững mục đích chính trị, bản chất giai cấp và tính ưu việt của nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân ở nước ta; phải nhất quán, tuân thủ sự định
hướng của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đối với toàn bộ các hoạt động quản lý nhà nước. Tất cả đều hướng đến phục
vụ, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, sự tồn tại và phát
triển của chế độ xã hội chủ nghĩa; hướng tới xây dựng lực lượng và thế trận của
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Mặt khác, phải kết hợp chặt chẽ quản lý nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc với quản lý trên các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, nhằm tạo nên
sức mạnh tổng hợp góp phần thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước tạo
điều thuận lợi cho tất cả các lĩnh vực đều thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Nhà nước cần thể chế hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ

22
Tổ quốc; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an
ninh ở các cấp, các địa phương, các lực lượng vũ trang; tăng cường công tác bảo
vệ bí mật quốc gia, bảo đảm an ninh thông tin.
Năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với chiến
lược bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta thể chế hóa thành cơ chế lãnh đạo và quản
lý điều hành đất nước là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ và
cơ chế thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh, quân sự: Đảng lãnh đạo, chính
quyền quản lý, điều hành, cơ quan quân sự, công an và các cơ quan ban ngành
làm tham mưu; người chỉ huy quân sự, chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang
thuộc quyền. Chúng ta cần thực hiện nghiêm túc cơ chế đó và ngày càng làm cho
cơ chế đó hoàn thiện hơn.
2.4.2. Đẩy mạnh công tác tư tưởng văn hóa
Đây là lĩnh vực rất quan trọng nhằm xây dựng nhân tố chính trị – tinh
thần, tạo thế trận lòng dân để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ
mới.
Trong tình hình hiện nay, công tác tư tưởng, văn hóa cần tập trung giải
quyết tốt các vấn đề sau:
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
Công tác chính trị - tư tưởng hướng vào việc làm cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân và cả hệ thống chính trị nhận thức rõ về bối cảnh chiến lược quốc tế và
tình hình đất nước; về ta, về địch…Từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, nhận rõ bản chất kẻ thù, đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam; kiên
quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch; phê phán, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng.

22
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; loại trừ những
sản phẩm phản văn hóa; chủ động đấu tranh với các thủ đoạn chống phá nước ta
dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.
Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản, văn hóa, văn
nghệ; kịp thời ngăn chặn các biểu hiện lệch lạc, thương mại hóa trong hoạt động
văn hóa, văn nghệ…
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó đặc biệt chú trọng
công tác dân tộc, tôn giáo: không để các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá,
Nâng cao vai trò của mặt trận và các đoàn thể trong việc động viên các tầng lớp
nhân dân thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động của địch
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.4.3. Phát triển kinh tế - xã hội
Phải tập trung sức thực hiện thắng lợi các mục tiêu tổng quát của chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2025: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao hơn mức bình quân của 5 năm trước 2016-2020, chào mừng kỷ niệm 50
năm giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, nước ta là nước phát
triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp. Nâng cao năng xuất hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện
các giải pháp khắc phục tác động của đại dịch Covid-19, nhanh chóng phục hồi
kinh tế…Phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức sáng tạo
của mỗi cá nhân; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, dân chủ, công bằng,
văn minh; bảo đảm cuộc sống bình yên và hạnh phúc của người dân; tăng cường
quốc phòng, an ninh; kiên quyêt, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước…

22
Để đạt được mục tiêu đó phải thực hiện tốt các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị
trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu
quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo,
tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Phát triển kinh tế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng
thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Phát triển kinh tế
đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách.
Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và phát triển kinh tế tri thức.
Tạo sự chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hóa, đạo đức và lối
sống; kiềm chế tốc độ phát triển dân số, nâng cao thể chất và sức khỏe nhân dân;
bảo vệ và cải thiện môi trường.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm, khuyến khích
làm giàu hợp pháp, xóa đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh xã hội; đẩy
lùi các tệ nạn xã hội.
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, nâng cao
hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển rõ rệt về
cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường quốc phòng – an ninh, ổn định chính trị, mở rộng quan hệ đối
ngoại, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

22
2.4.4. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc
phòng - an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực
tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ
khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên
quốc gia...
Tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây
dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân
vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh
với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và
sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng
hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình
huống.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở
vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị
hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực
lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh,
đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch.
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
quốc phòng - an ninh.

22
Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng - an ninh và hệ thống cơ chế, chính
sách về quốc phòng - an ninh trong điều kiện mới; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân đội, công an và các tổ
chức chính trị - xã hội.
Xây dựng hoàn chỉnh các phương án phòng chống và xử lý các tình huống
có thể xảy ra trong điều kiện chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.
2.4.5. Tích cực và chủ động trong hoạt động đối ngoại
Để tạo môi trường hòa bình, ổn định lâu dài cho đất nước, về hoạt động
đối ngoại cần tập trung thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ công tác đối
ngoại của Đảng: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu, đẹp, thân thiện và vững mạnh.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận
lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa , bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ
quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội
lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác
động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế.
Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương
vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế,
đặc biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực
và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và

22
nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức
quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên
quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc
nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh
quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới
biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản
lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước
láng giềng có chung biên giới.
Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng
ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò
quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm
quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc
lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ
chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới.
Coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân. Tăng
cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; chăm lo
đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thường xuyên bồi
dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị
với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng - an
ninh.
KẾT LUẬN

22
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới là một
bộ phận trọng yếu của chiến lược an ninh quốc gia, nhằm cụ thể hóa đường lối
tăng cường quốc phòng – an ninh của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo tinh thần theo tinh thần Nghị quyết Đại hôi IX,
X, XI, XII,XIII của Đảng đã đề ra; đó là một chiến lược tổng hợp, toàn diện, do
Đảng và Chính phủ đề ra.
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới có phạm vi rộng lớn, với
tầm nhìn chiến lược từ 10 đến 20 năm tới và nó được xác lập trên cơ sở vững
chắc của đường lối chiến lược khác có liên quan và tình hình quốc tế, trong nước
quy định.
Vì vậy, đặt ra cho việc quán triệt và tổ chức thực hiện bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới nhiều vấn đề cần được tiếp tục cân nhắc, điều chỉnh, bổ sung
cho phù hợp với tình hình mới.
Những giải pháp chủ yếu của chiến lược cần được cụ thể hóa thành các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của các bộ, ngành và địa phương, trên mọi lĩnh
vực hoạt động của đất nước với một cơ chế, chính sách ngày càng hoàn chỉnh
hơn.
C. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Làm rõ những căn cứ để hoạch định chiến lược Bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay?
2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay?
3. Quan điểm và giải pháp chủ yếu để thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới?
4. Phân tích nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa hiện
nay? Liên hệ việc thực hiện nhiệm vụ này ở cơ quan, đơn vị đồng chí đang công
tác?

22
D. TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình trung cấp lý luận
chính trị, , Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, Nxb.Lý luận
chính trị, H2021.
2. Quốc hội nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Quốc phòng,
số 22/2018/QH14, năm 2018.
3. Quốc hội nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật an ninh
mạng, số 22/2018/QH14, năm 2018

23
Bài 8
CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Trang bị nội dung cơ bản về an ninh quốc gia và chiến lược an ninh quốc
gia của Việt Nam Trên cơ sở thống nhất nhận thức để thực hiện các giải pháp
nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
2. Về kỹ năng
Bồi dưỡng kỹ năng thực hiện nhiệm vụ trong các điều kiện cụ thể để góp
phần bảo vệ an ninh quốc gia góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
3. Về tư tưởng
Nâng cao trách nhiệm cá nhân cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, hệ
thống chính trị thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh quốc gia, góp phần bảo
vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
B. NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ AN NINH VÀ BẢO VỆ AN NINH
QUỐC GIA
1.1. Khái niệm an ninh quốc gia và đặc điểm bảo vệ an ninh quốc gia
1.1.1. An ninh quốc gia và bảo vệ an ninnh quốc gia
An ninh là nhu cầu đầu tiên và thiết yếu của mỗi con người, mỗi quốc gia
và toàn nhân loại; đồng thời, an ninh cũng là điều kiện cơ bản và quan trọng số
một đảm bảo cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Hiểu theo nghĩa chung nhất của
ngôn ngữ, “an ninh” là khái niệm dùng để chỉ: “Trạng thái ổn định, an toàn,
không có dấu hiệu nguy hiểm đe doạ sự tồn tại và phát triển bình thường của cá
nhân, của từng tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã

23
hội”144. Nội hàm của an ninh không chỉ giới hạn ở tình trạng, mà còn bao gồm cả
biện pháp để mang lại tình trạng đó, tức là hành động để thực hiện an ninh.
An ninh quốc gia, theo quan niệm truyền thống, an ninh quốc gia và bảo
vệ an ninh quốc gia mang nội hàm đồng nghĩa với sử dụng sức mạnh để chống
xâm lược, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thể chế chính trị của quốc
gia. Nội dung chủ yếu của an ninh truyền thống bao hàm an ninh chính trị và an
ninh quân sự.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, tình hình an ninh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, nổi lên các thách
thức an ninh phi truyền thống, như: khủng bố; cướp biển; tội phạm xuyên quốc
gia; khủng hoảng kinh tế, tài chính; an ninh năng lượng; an ninh lương thực; an
ninh mạng; biến đổi khí hậu toàn cầu; thảm họa môi trường, thiên tai, dịch bệnh;
xung đột tôn giáo, sắc tộc; bạo loạn, ly khai... Do đó, khái niệm an ninh quốc gia
và bảo vệ an ninh quốc gia ngày nay được mở rộng hơn gồm cả an ninh phi
truyền thống. An ninh phi truyền thống là nhận thức mới và là sự phát triển mở
rộng nội hàm và ngoại diên khái niệm an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc
gia.
Mỗi quốc gia trên thế giới đặt ra nội hàm an ninh quốc gia khác nhau, sự
khác nhau đó phụ thuộc vào chế độ chính trị, vị thế, sức mạnh của mỗi nước.
Nhìn chung, quan niệm về an ninh quốc gia của các nước lớn không chỉ bó hẹp
trong phạm vi quốc gia mà nó vượt ra bên ngoài lãnh thổ, khu vực và mở rộng
trên phạm vi toàn cầu.
An ninh quốc gia là: “Sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội
chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”145

144
Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr 25.
Luật An ninh quốc gia Việt Nam, Quốc hội VN khóa XI, 2004, Điều 3.
145

23
Như vậy có thể hiểu, an ninh quốc gia là an ninh tổng hợp toàn diện, bao
hàm cả an ninh chính trị; kinh tế, xã hội; tư tưởng, văn hóa; khoa học, công
nghệ; quốc phòng, đối ngoại; an ninh về lãnh thổ, dân cư, môi trường và trong
các lĩnh vực khác, trong đó an ninh chính trị là cốt lõi xuyên suốt, an ninh kinh tế
làm nền tảng.
“Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh
làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia” 146; bảo vệ cho quốc gia
luôn có sự ổn định và phát triển bền vững về mọi mặt (chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, tài nguyên, môi trường...); bảo vệ an ninh thể chế chính trị gắn với bảo vệ
an ninh độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là
tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại của cả hệ thống chính trị, của toàn dân
tộc để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm ngăn chặn, loại trừ các nguy cơ đe dọa
đến an ninh quốc gia.
Nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia được xác định không chỉ là những nhân
tố bên ngoài lãnh thổ, mà còn bao gồm các nhân tố bên trong có khả năng thực tế
gây nguy hại cho an ninh quốc gia.
Từ nhận thức trên, bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ là bảo vệ sự tồn tại
của quốc gia, mà quan trọng hơn là bảo vệ sự phát triển bền vững của quốc gia
về mọi phương diện trong sự cùng tồn tại và phát triển với các quốc gia, dân tộc
khác trong khu vực và trên thế giới. An ninh quốc gia luôn gắn với an ninh khu
vực và an ninh thế giới.
1.1.2. Đặc điểm của bảo vệ an ninh quốc gia
Bảo vệ an ninh quốc gia là bảo vệ những lợi ích cực kỳ quan trọng của
quốc gia, dân tộc, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, đến bản chất và
sự tồn, vong của chế độ; có ý nghĩa quyết định đến quá trình xây dựng và phát
triển của đất nước. Do đó, bảo vệ an ninh quốc gia mang tính phòng ngừa rất
cao.
146
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật số 32/2004/QH11 về An ninh quốc gia, H.2004.

23
Quá trình ngăn chặn, loại trừ các nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia thể
hiện tính chất gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài của đấu tranh giai cấp, đấu
tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc; đó là cuộc chiến đấu thường xuyên, liên tục,
trong mọi hoàn cảnh nhằm chống lại những âm mưu, hoạt động phá hoại của các
thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Do đó
mang tính quyết liệt, liên tục. Các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia thường
không có giới hạn về không gian, mà diễn ra trên toàn bộ các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong từng tổ chức, từng địa phương, trên phạm vi cả nước, có khi
cả ở phạm vi quốc tế.
Bảo vệ an ninh quốc gia thực chất là cuộc đấu tranh cùng một lúc với
nhiều kẻ thù, nhiều loại đối tượng khác nhau, cả trong nước và ngoài nước; các
loại đối tượng này hoạt động vừa bí mật, vừa công khai, bằng nhiều thủ đoạn
thâm độc, xảo quyệt để che đậy bản chất, thực hiện ý đồ phá hoại.
Bảo vệ an ninh quốc gia chịu sự tác động, chi phối trực tiếp của tình hình
quốc tế, khu vực, tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường... có nhiều
diễn biến phức tạp, khó lường. Vì vậy, phải luôn chủ động nắm chắc tình hình,
dự báo những tình huống phức tạp nhất có thể xảy ra để chủ động đối phó.
1.2. Nội dung cơ bản Luật an ninh quốc gia của Việt Nam
Luật An ninh quốc gia là một đạo luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam
được ban hành nhằm tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất cho việc bảo vệ an ninh
quốc gia. Luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11 quy định quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia để sẵn
sàng đối phó kịp thời, có hiệu quả trước các hành động xâm phạm an ninh quốc
gia, ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc; được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 7 năm 2005. Luật gồm 5 chương, 36 điều. Luật an ninh quốc gia
quy định một số nội dung cơ bản như sau:

23
1.2.1. Những quy định chung
Chính sách an ninh quốc gia: Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện chính sách hoà bình hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với
tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Nhà nước có chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát
triển kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại vững
mạnh, giữ vững ổn định chính trị để bảo đảm an ninh quốc gia.
Nguyên tắc hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia: Tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức,
cá nhân.
Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự quản lý thống nhất
của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn
dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt.
Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia với nhiệm vụ xây
dựng, phát triền kinh tế, văn hoá, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an
ninh, quốc phòng và đối ngoại.
Chủ động phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.
Bảo đảm điều kiện cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia: Nhà nước bảo
đảm ngân sách và cơ sở vật chất cho các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia trong
mọi tình huống, ưu tiên các địa bàn chiến lược, xung yếu, quan trọng về an ninh
quốc gia; có chính sách huy động thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ hoạt
động bảo vệ an ninh quốc gia.
Trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia: Bảo vệ an ninh quốc gia
là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ
bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.
Tuyên truyền, giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia: Chính phủ, các bộ, cơ

23
quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm tổ chức, chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia.
Cơ quan thông tin tuyên truyền có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ
biến pháp luật và nâng cao ý thức bảo vệ an ninh quốc gia cho toàn dân.
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên
truyền, giáo dục, vận động công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài bảo vệ an ninh quốc gia.
Giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia là một nội dung giáo dục quốc dân, cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa nội dung giáo
dục bảo vệ an ninh quốc gia vào chương trình dạy học trong các nhà trường và
các cơ sở giáo dục khác phù hợp với ngành học, cấp học.
1.2.2. Bảo vệ an ninh quốc gia
Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia: Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích
khác của quốc gia. Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an
ninh quốc gia. Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại
trừ các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia.
Các biện pháp cơ bản bảo vệ an ninh quốc gia: Các biện pháp cơ bản bảo
vệ an ninh quốc gia bao gồm: Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh
tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang. Nội dung, điều kiện, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục và trách nhiệm áp dụng các biện pháp trên do pháp luật quy
định.
Xây dựng nền an ninh nhân dân: Vận động toàn dân tham gia phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc; giáo dục, động viên cán bộ, công chức, người lao động
và mọi công dân tham gia xây dựng địa phương cơ quan, tổ chức vững mạnh;

23
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân.
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch bảo vệ an
ninh quốc gia gắn với xây dựng củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, đối ngoại và kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn
dân.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; xác định và cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ an ninh
quốc gia.
Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh; xây dựng các
phương án và tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để chủ động bảo vệ
an ninh quốc gia trong mọi tình huống.
Quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia: Tham gia
lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia theo qui định của pháp luật. Tố cáo hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, hành
vi lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Phát hiện, kiến nghị với chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an
ninh quốc gia khắc phục sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ
an ninh quốc gia. Phát hiện cung cấp kịp thời những thông tin, tài liệu liên quan
đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia cho chính quyền hoặc cơ quan chuyên
trách bảo vệ an ninh quốc gia nơi gần nhất.
Thực hiện yêu cầu của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo
qui định của pháp luật. Giúp đỡ tạo điều kiện cho cơ quan có trách nhiệm tiến
hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động
xâm phạm an ninh quốc gia.
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong bảo vệ an ninh quốc gia: Cơ

23
quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và các quy định khác của
pháp luật.
Thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, huy động sức
mạnh của cơ quan, tổ chức để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia; đưa
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia vào chương trình, kế hoạch và các hoạt động
chuyên môn của cơ quan, tổ chức.
Giáo dục, động viên mọi thành viên của cơ quan, tổ chức mình và nhân
dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia. Phát hiện, cung cấp kịp thời thông tin, tài
liệu liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia cho cơ quan chuyên
trách bảo vệ an ninh quốc gia hoặc chính quyền nơi gần nhất. Thực hiện yêu cầu
của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.
Luật cũng quy định trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên trong bảo vệ an ninh quốc gia; bảo vệ an ninh quốc gia khi có
tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh; áp dụng một số biện pháp cần thiết
khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng
khẩn cấp.
1.2.3. Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia
Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia gồm: Cơ quan chỉ đạo, chỉ
huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ Công an nhân dân; cơ quan chỉ đạo,
chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo Quân đội nhân dân; Bộ
đội Biên phòng, Cảnh sỏt biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở
khu vực biên giới đất liền và khu vực biển và trên biển.
Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể phạm vị trách nhiệm hoạt
động và quan hệ phối hợp của các cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia
do pháp luật quy định.
Quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc
gia

23
Quyền hạn: Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ theo quy định của pháp luật;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật khi có căn
cứ xác định liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia; yêu cầu cơ
quan, tổ chức tài chính, kho bạc, ngân hàng kiểm tra, phong tỏa tài khoản, nguồn
tài chính liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia; yêu cầu cơ quan,
tổ chức bưu chính, viễn thông, hải quan bóc mở hoặc giao thư tín, điện tín, bưu
phẩm, bưu kiện, hàng hoá để kiểm tra khi có căn cứ xác định trong đó đã có
thông tin, tài liệu, chất nổ, vũ khí, vật phẩm khác có nguy hại cho an ninh quốc
gia; kiểm tra phương tiện giao thông, phương tiện thông tin, máy tính, mạng máy
tính, đồ vật, tài liệu, hàng hoá, chỗ ở, nơi làm việc hoặc các cơ sở khác của cơ
quan, tổ chức, cá nhân khi có căn cứ xác định liên quan đến hoạt động xâm phạm
an ninh quốc gia; trưng dụng theo quy định của pháp luật phương tiện thông tin,
phương tiện giao thông, phương tiện khác và người đang sử dụng, điều khiển ph-
ương tiện trong trường hợp cấp bách để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia hoặc để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội đang xảy ra hoặc có nguy cơ
xảy ra; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc sử dụng phương tiện thông tin liên lạc
hoặc các hoạt động khác trên lãnh thổ Việt Nam khi có căn cứ xác định các hoạt
động này gây nguy hại cho an ninh quốc gia; yêu cầu ngừng các chuyến vận
chuyển bằng các loại phương tiện giao thông của Việt Nam hoặc các phương
tiện giao thông của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam để bảo vệ an ninh quốc
gia và bảo đảm an toàn cho các phương tiện đã; áp dụng các biện pháp cần thiết
để bảo vệ người cộng tác, người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong các
vụ án xâm phạm an ninh quốc gia.
Trách nhiệm: Tiến hành các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật;
tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; trong trường hợp vì yêu cầu bảo vệ an ninh
quốc gia phải hạn chế các quyền và lợi ích đã thì phải được người có thẩm quyền

23
quyết định; giữ bí mật về sự giúp đỡ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với công
tác bảo vệ an ninh quốc gia.
Luật còn quy định quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ chuyên trách bảo vệ
an ninh quốc gia và chế độ chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ cơ quan chuyên
trách bảo vệ an ninh quốc gia.
1.2.4. Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia
Nội dung quản lý nhà nước về an ninh quốc gia: Xây dựng và tổ chức
thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch, phương án bảo vệ an ninh quốc gia
và bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia; ban hành
và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia;
Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thu thập, phát hiện, điều tra, xử lý
thông tin, tài liệu, hành vi liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia;
Chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia;
Tổ chức bộ máy, trang bị phương tiện, đào tạo cán bộ làm công tác bảo vệ
an ninh quốc gia; bồi dưỡng kiến thức bảo vệ an ninh quốc gia cho cán bộ chủ
chốt của các cơ quan, tổ chức; xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giáo
dục về bảo vệ an ninh quốc gia; xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia;
Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động bảo vệ an
ninh quốc gia;
Hợp tác quốc tế về bảo vệ an ninh quốc gia.
Thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia: Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia.
Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ
Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ an ninh quốc gia.
Bộ Quốc phòng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách
nhiệm trước Chính phủ phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nước về

24
bảo vệ an ninh quốc gia; chỉ đạo các lực lượng thuộc quyền phối hợp chặt chẽ
với lực lượng Công an nhân dân và chính quyền địa phương để bảo vệ an ninh
quốc gia theo quy định của pháp luật. Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an với Bộ
Quốc phòng trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia do Thủ t-
ướng Chính phủ quy định.
Bộ Ngoại giao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và các quy định khác của
pháp luật có liên quan và phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, các cơ quan
hữu quan khác để bảo vệ an ninh quốc gia. Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an
với Bộ Ngoại giao trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia do Thủ
tướng Chính phủ quy định.
Luật cũng xác định trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ trong quản
lý nhà nước về an ninh quốc gia; trách nhiệm của uỷ ban nhân dân các cấp trong
quản lý nhà nước về an ninh quốc gia.
2. ĐƯỜNG LỐI, QUAN ĐIỂM VỀ CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC
GIA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
2.1. Về mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(sửa đổi năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “Mục tiêu, nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật
tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta”.
Trong nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, phần xác định hướng
phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì

24
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh
chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an
ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu
tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động
và cơ hội chính trị” 147.
Như vậy mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia là: Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hóa. Tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi, ngăn chặn, làm
thất bại âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và môi trường hòa bình, tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Góp phần thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Về chính trị: Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với toàn xã hội. Bảo vệ mọi thành
quả cách mạng Việt Nam đã giành được; giữ vững ổn định chính trị đất nước,
đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn

147
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập1
tr.117

24
dân tộc, đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; vô hiệu hóa mọi âm mưu,
thủ đoạn tập hợp lực lượng, hình thức tổ chức chính trị đối lập.
Về kinh tế - xã hội: Bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả; không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân; thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Đẩy lùi nguy cơ tụt hậu; hạn chế tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường; đấu tranh hiệu quả với các tội phạm kinh tế,
tệ tham nhũng, gian lận thương mại; thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí.
Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về tư tưởng, văn hóa: Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
kiến thức quốc phòng - an ninh, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi
ích quốc gia. Bảo vệ và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc chủ nghĩa
xã hội, phủ nhận lịch sử, tuyên truyền những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền
tư sản, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập của các thế lực chống phá chủ nghĩa
xã hội.
Về đối ngoại: Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
và lợi ích quốc gia, dân tộc trong quá trình mở rộng hợp tác và đẩy mạnh hội
nhập quốc tế. Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, chủ
động tạo thế đứng ngày càng vững chắc, nâng cao vị thế của nước ta trong khối
ASEAN, trong khu vực và trên thế giới.
Về quốc phòng, an ninh: Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, chủ quyền, lãnh thổ, dân cư, môi trường sinh
thái... gắn bó chặt chẽ, mật thiết với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

24
hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Tăng cường
tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận
an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin
và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó
với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh,
an toàn thông tin, an ninh mạng. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa
một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao
chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, Nhà nước và nhân dân
2.2. Quan điểm
Một là, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của toàn Đảng, toàn dân và Nhà nước ta; phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh trong nước
và sức mạnh quốc tế trong bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia; dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của
Nhà nước, trong đó Công an nhân dân và Quân đội nhân dân đóng vai trò nòng
cốt.
Hai là, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội với nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Lấy việc ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước làm nền tảng giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh quốc gia; lấy
ổn định chính trị, củng cố an ninh quốc gia làm điều kiện để giữ vững ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội; lấy củng cố bên trong, phát huy nội lực làm nền tảng
đi đôi với việc nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Chủ động phát hiện và khắc
phục kịp thời những sơ hở không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Kết

24
hợp chặt chẽ kinh tế với an ninh, quốc phòng trong các chiến lược, quy hoạch
tổng thể cũng như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ đối ngoại. Kết
hợp chặt chẽ nhiệm vụ đối ngoại với an ninh, quốc phòng. Quán triệt đường lối
độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.
Bốn là, quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa chủ
động tiến công và chủ động phòng ngừa, lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên
trong là chính, đồng thời tích cực, chủ động phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh vô
hiệu hóa hoạt động của địch ngay từ nơi xuất phát, trung tâm, sào huyệt của
chúng.
Năm là, giữ vững nguyên tắc chiến lược, đồng thời có sách lược mềm dẻo,
linh hoạt; Xử lý các vấn đề có liên quan đến an ninh quốc gia một cách kiên
quyết, khôn khéo; tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân
trong nước và dư luận quốc tế.
* Xác định đối tác, đối tượng
Xác định đối tác, đối tượng là một vấn đề rất quan trọng và nhạy cảm liên
quan mật thiết đến an ninh quốc gia. Để phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức,
bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới, việc xác định đối tác, đối tượng của
cách mạng theo nguyên tắc: những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền,
thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt
Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động
chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều là đối tượng đấu tranh 148. Mặt khác, trong tình
hình phức tạp hiện nay cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có
thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt,

Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
148

ương Đảng khóa IX, Nxb CTQG, H.2003, tr.44.

24
mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trong từng lĩnh vực, thời điểm cũng có những đối
tác, đối tượng khác nhau. Cần khắc phục cả hai khuynh hướng: mơ hồ mất cảnh
giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong cách xử lý.
Theo đó, đối tượng phải thường xuyên đấu tranh để bảo vệ an ninh quốc
gia trong thời kỳ mới là:
- Các thế lực thù địch, cơ quan đặc biệt của các nước, các tổ chức phản
động, trung tâm phá hoại tư tưởng ở nước ngoài có hoạt động xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích quốc gia của Việt Nam,
thành quả cách mạng, chế độ chính trị, đoàn kết thống nhất dân tộc, an toàn trong
hoạt động của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam.
- Đối tượng cơ hội chính trị; bọn phản động lợi dụng dân tộc, tôn giáo;
bọn phản động trong số tù phản cách mạng đã được tha, trong đảng phái ngụy
quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ không chịu cải tạo.
- Bọn khủng bố quốc tế.
- Các tổ chức tội phạm quốc tế hoạt động xâm phạm đến lợi ích quốc gia,
đến sự an toàn các cơ quan của Việt Nam ở nước ngoài, đến tính mạng, tài sản,
cuộc sống của công dân Việt Nam đang lao động, học tập, công tác ở nước
ngoài.
- Các loại tội phạm ở trong nước, nhất là các tội tham nhũng, tội phạm có
tổ chức, tội phạm ma túy, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm trên lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, phá hoại tài nguyên môi trường, tội phạm tin học, tội phạm sử
dụng công nghệ cao.
- Các loại tệ nạn xã hội, các hành vi vi phạm trật tự, an toàn xã hội và các
vấn đề phức tạp khác về trật tự, an toàn xã hội.
2.3. Nhiệm vụ
2.3.1. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trước hết và quan trọng nhất
là bảo vệ Đảng và Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

24
Mục tiêu quan trọng hàng đầu của các thế lực thù địch là bằng mọi thủ
đoạn, biện pháp thâm nhập phá hoại, làm suy yếu và chuyển hóa chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, trước hết là vô hiệu hóa và xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, vai trò hiệu lực quản lý xã hội của Nhà nước ta. Vì vậy, bảo
vệ chế độ chính trị nói chung và bảo vệ Đảng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhiệm vụ hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đến việc giữ
vững an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.
Bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ Đảng, trước hết phải bảo vệ nền tảng lý
luận và tư tưởng xã hội - xã hội chủ nghĩa của nước ta; đó là học thuyết chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ đường lối và chính sách đổi
mới do Đảng ta đã đề ra; không chệch hướng, sai lầm và tự chuyển hóa theo âm
mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Thường xuyên giáo dục chính trị - tư tưởng, nâng cao tinh thần yêu nước,
yêu chế độ xã hội chủ nghĩa; kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng, với
con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; đẩy mạnh công tác nghiên cứu
lý luận gắn với công tác tổng kết thực tiễn và kiên quyết đấu tranh chống lại các
quan điểm sai trái, thù địch.
Tập trung củng cố, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh từ Trung ương
đến cơ sở, nhất là hệ thống tổ chức Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; bảo đảm đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành
động; chống biến chất, chống cục bộ, bè phái.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “ Chủ động đấu tranh
phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, phòng ngừa ngăn chăn biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an
ninh thông tin truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội.”149
Và thường xuyên: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia T1,
149

H.2021, tr.280,281.

24
quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ
hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”
150
.
Xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ theo hướng: “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ”; tăng cường các hình thức dân chủ trực
tiếp, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; khắc phục những sai phạm
của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và
quan hệ với dân; lập lại trật tự kỷ cương phép nước, khôi phục và củng cố lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Kết hợp chặt chẽ công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng với xây dựng Nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân; gắn xây dựng Đảng với công tác bảo vệ
chính trị nội bộ, trước hết là bảo vệ nội bộ Đảng, cơ quan Nhà nước và các lực
lượng vũ trang nhân dân; tăng cường các biện pháp phòng ngừa và chống địch
móc nối, thâm nhập, cài cắm nội gián, tác động chuyển hóa từ trong nội bộ ta.
Phát hiện, xử lý kịp thời đối với số cơ hội chính trị; số có quan điểm tư tưởng trái
với quan điểm của Đảng, số thoái hóa biến chất, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp
luật Nhà nước.
Các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên cảnh giác và chủ động có biện
pháp tự bảo vệ cơ quan, đơn vị mình là chính; chấp hành nghiêm túc các quy chế
bảo vệ bí mật, bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là bảo vệ các cơ quan đầu não, các bộ
phận quan trọng, thiết yếu, bảo vệ tuyệt đối an toàn các đồng chí lãnh đạo cấp
cao của Đảng và Nhà nước. Bổ sung, hoàn chỉnh và thực hiện các quy chế về
quản lý cán bộ, về quan hệ với các tổ chức và cá nhân nước ngoài và đi công tác,
học tập ở nước ngoài.
Khắc phục những sai phạm của tổ chức đảng và chính quyền các cấp, đấu

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia T1,
150

H.2021, tr.183.

2
tranh, phê phán với những biểu hiện nhận thức lệch lạc, mơ hồ, mất cảnh giác;
xử lý nghiêm minh theo kỷ luật Đảng và pháp luật của nhà nước đối với những
hành vi vi phạm của cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng
“đa nguyên chính trị”; phát hiện, xử lý kịp thời số cơ hội chính trị, ngăn chặn
không để hình thành tổ chức chính trị độc lập. Thực hiện tốt tinh thần Đại hội lần
thứ XIII của Đảng đề ra: Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới
kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà nước
với quy định của Đảng.
2.3.2. Bảo vệ vững chắc an ninh chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc
Đây là nhiệm vụ quan trọng của an ninh quốc gia nhằm chống lại sự xâm
phạm, phá hoại dưới mọi hình thức để giữ vững toàn vẹn chủ quyền nhà nước
đối với lãnh thổ quốc gia. Hoạt động an ninh cần phối hợp chặt chẽ với hoạt
động quốc phòng và hoạt động đối ngoại; phát huy sức mạnh của toàn dân, sức
mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân với sức mạnh của lực lượng và
thế trận quốc phòng toàn dân ở mọi nơi, mọi lúc trong quá trình xây dựng đất
nước và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa
xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù
hợp với luật pháp quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lâp, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển”151.
Xác định rõ trách nhiệm đối với công cuộc giữ vững an ninh quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng và toàn

151
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập1
tr.156-157

2
dân ta, trong đó Công an nhân dân và Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Trong mọi hoạt động của nhà nước và của toàn dân trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ và thực hiện tốt cả nhiệm vụ quốc phòng
và an ninh nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp toàn diện để răn đe, ngăn chặn, đẩy
lùi mọi âm mưu thủ đoạn xâm hại an ninh chủ quyền nước ta của các thế lực thù
địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
2.3.3. Bảo vệ sự ổn định và phát triển bền vững nền kinh tế, tài chính,
tiền tệ, khoa học - công nghệ; bảo vệ an ninh thông tin, an toàn mạng bưu
chính, viễn thông, tài nguyên, môi trường, tiềm lực quốc phòng, an ninh và
các lợi ích của quốc gia dân tộc
Phát triển bền vững nền kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô không để
xẩy ra những rối loạn, xáo động lớn về kinh tế, tài chính, tiền tệ; bảo đảm an
ninh kinh tế, nổi lên là an ninh năng lượng, an ninh lương thực.
Tập trung phát triển có chọn lọc một số công nghệ trọng điểm: Những
công nghệ tiên tiến, công nghệ có tác động to lớn tới việc hiện đại hóa các ngành
kinh tế, kỹ thuật, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tạo điều kiện hình thành và phát
triển một số ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; những
công nghệ phát huy được lợi thế của nước ta về tài nguyên, sản xuất nông
nghiệp, lực lượng lao động dồi dào...
Phát triển khoa học - công nghệ gắn với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia; nghiên cứu phát triển công nghệ lưỡng dụng vừa bảo đảm phát triển kinh tế -
xã hội, vừa sẵn sàng đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh khi cần thiết; có biện
pháp bảo vệ bí mật khoa học - công nghệ của quốc gia; bảo vệ an ninh thông tin,
an toàn mạng bưu chính viễn thông, tài nguyên môi trường... cùng với bảo vệ các
lợi ích quốc gia dân tộc.
2.3.4. Bảo vệ vững chắc nền văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ vững chắc nền văn hóa của dân tộc là nét mới, là sự phát triển

25
trong nhận thức của Đảng, là một nội dung rất quan trọng trong bảo vệ an ninh
quốc gia, nhằm tạo nên nền tảng tư tưởng, tinh thần, sự phát triển lành mạnh của
nền văn hóa dân tộc và đây cũng là lĩnh vực rất nhạy cảm, rất dễ bị xâm phạm
trong tình hình hiện nay.
Trước hết phải kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kế thừa, phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng
định: “Kiên định vận dụng không ngừng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi
mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” 152.
Tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ;
thường xuyên định hướng tư tưởng, chăm lo bồi dưỡng sự sáng tạo, lành mạnh
trong nghệ thuật; kịp thời ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, thương mại hóa
trên lĩnh vực văn hóa, chống sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai độc hại. chỉ đạo
thực hiện hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
mới” ở khắp các địa bàn dân cư. Tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo và
phương tiện điều kiện hoạt động xây dựng và bảo vệ trên mặt trận văn hóa -
thông tin trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và vận động các tầng lớp
nhân dân, nhất là thanh niên, sinh viên, học sinh phát huy truyền thống dân tộc,
giữ gìn bản sắc văn hóa, văn hiến tốt đẹp Việt Nam; cảnh giác và làm thất bại
mọi âm mưu tuyên truyền, áp đặt cái gọi là “giá trị” tư sản về tự do, dân chủ,
nhân quyền, đa nguyên đa đảng; phủ nhận hoặc xuyên tạc giá trị của chủ nghĩa
xã hội và lịch sử truyền thống tốt đẹp của Việt Nam.
2.3.5. Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền con người và bảo vệ

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia T1,
152

H.2021, tr.180.

25
tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; bảo vệ khối đại đoàn
kết dân tộc
Bảo đảm và duy trì trạng thái xã hội sống có trật tự kỷ cương, trong đó
mọi người được sống tự do, yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật và chuẩn
mực đạo đức pháp lý xác định. Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trên tất cả các lĩnh
vực; giữ gìn trật tự công cộng, phòng chống tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông;
chủ động và kiên quyết tiến công tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức; chú
trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao cảnh giác, vận động nhân dân
tham gia phòng, chống tội phạm; kiên quyết trấn áp tội phạm hình sự nguy hiểm,
tội phạm có tổ chức hoạt động xuyên quốc gia, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống
tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn ma túy, mại dâm... không để lây lan, phát
triển.
Bảo vệ quyền con người, tôn trọng và chăm lo đến quyền được lao động,
học tập, đi lại, cư trú, tín ngưỡng; dân chủ tự do trong khuôn khổ pháp luật quy
định của quốc gia và thông lệ quy định của quốc tế. Thực hiện bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ giữa các dân tộc, tôn giáo trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, cùng
nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, phân biệt đối
xử.
Có chính sách ưu tiên đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, ổn định
và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo
vùng đặc biệt có khó khăn; từng bước xóa bỏ sự chênh lệch giữa các vùng miền,
các dân tộc, tôn giáo; tôn trọng, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
tốt đẹp của từng dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở liên minh vững
chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; nhằm tạo động lực, sức mạnh to lớn để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia thời kỳ mới.
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA

25
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
3.1. Giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc
gia cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
Sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia thời kỳ mới, phụ thuộc rất lớn vào sự
hiểu biết và ý thức trách nhiệm tự giác tham gia của toàn đảng, toàn dân, toàn
quân, đây là yếu tố có tính chất quyết định tới an ninh quốc gia.
Giáo dục an ninh quốc gia cho toàn dân phải gắn với giáo dục quốc phòng:
“Giáo dục quốc phòng - an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, một
nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân” 153,
được xác định là môn học chính khóa trong chương trình giáo dục, đào tạo; đồng
thời xác định học tập, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh là quyền lợi và
nghĩa vụ của cán bộ, công chức và của toàn dân. “Kiến thức quốc phòng - an
ninh tương ứng với chức danh cán bộ là một trong các tiêu chuẩn bắt buộc và là
một trong những tiêu chí để xem xét, đề bạt, bổ nhiệm đối với người giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức các cấp, các ngành”154.
Mục tiêu nhằm góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, hiểu biết
một số nội dung cơ bản về quốc phòng - an ninh; truyền thống đấu tranh chống
ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ
quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; nhận rõ âm mưu, bản chất,
thủ đoạn của các thế lực thù địch, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, kiên
quyết đánh bại âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai
của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị và an ninh quốc gia; có kiến
thức cơ bản về đường lối quốc phòng, an ninh; có kỹ năng quân sự, an ninh cần
thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Giáo dục quốc phòng - an ninh phải tiến hành đồng bộ, bằng nhiều hình

153
Chính phủ, Nghị định số 116/2007/NĐ-CP về Giáo dục quốc phòng - an ninh, H.2007, tr.2.
154
Sđd, tr.2.

25
thức, nội dung phù hợp với từng đối tượng theo chương trình, nội dung được
chuẩn hóa, do Nhà nước quy định; xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch
giảng dạy thống nhất bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực và có hệ thống,
đáp ứng với mục tiêu đào tạo của từng bậc học, cấp học trong toàn bộ hệ thống
các nhà trường của nước ta.
Phát huy hệ thống nhà trường chính quy, các tổ chức chính trị - xã hội;
thực hiện đúng đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại; lý thuyết đi đôi với
thực hành, nghiên cứu thực tế; giáo dục trong nhà trường kết hợp với tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các tổ chức đoàn thể và
cộng đồng dân cư; tạo phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp, liên tục toàn dân
tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Phát huy vai trò Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh các cấp; không
ngừng bồi dưỡng, nâng cấp chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, giáo
viên giáo dục quốc phòng - an ninh; phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành, cơ quan
liên quan trong xây dựng chương trình, tổ chức biên soạn, thẩm định, nghiệm thu
chương trình, giáo trình, tài liệu... bảo đảm đầy đủ, kịp thời kinh phí, cơ sở vật
chất, chế độ... góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng - an ninh.
3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước
đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
Tăng cường lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia là nhân tố bảo đảm vững chắc an
ninh quốc gia, nhằm đối phó, xử lý kịp thời mọi tình huống. Thực hiện nguyên
tắc: hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
thống nhất của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và
toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt.
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

25
Giữ vững nguyên tắc: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối
với sự nghiệp quốc phòng - an ninh, đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân; đối với các lực lượng nòng cốt chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia và toàn
bộ sự nghiệp an ninh và quốc phòng đất nước từ Trung ương đến các địa
phương, cơ sở.
Mọi chủ trương, phương hướng chỉ đạo xây dựng và hoạt động của các lực
lượng vũ trang, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có liên quan đến an
ninh - quốc phòng đều phải do Đảng trực tiếp đề ra và lãnh đạo thực hiện theo
quy chế phân định quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng.
Trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác an ninh ở các địa
phương, cơ sở, cần vận dụng linh hoạt sáng tạo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, điều hành tập trung, thống nhất và phát huy quyền làm chủ của dân, có
sự tham mưu, hướng dẫn và làm nòng cốt của cơ quan, lực lượng chuyên trách
an ninh ở từng cấp, từng bộ, ngành để thực hiện có kết quả nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia.
3.2.2. Phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước
Mọi đường lối, chủ trương về xây dựng và bảo vệ an ninh quốc gia của
Đảng đều phải được Nhà nước thể chế hóa thành hệ thống luật pháp, chính sách
để làm công cụ pháp lý quản lý, điều hành, giám sát việc thực hiện.
Trên cơ sở Luật An ninh quốc gia đã ban hành, Nhà nước cần có các văn
bản quy định trách nhiệm của các cấp, các ngành trong bảo vệ an ninh quốc gia
và hướng dẫn cụ thể hóa các điều luật, làm cơ sở thống nhất nhận thức và tổ
chức thực hiện ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến các địa phương.
Chính phủ cần chỉ đạo các ngành, các cấp xây dựng hệ thống các chương
trình, kế hoạch thực hiện Chiến lược an ninh quốc gia với những bước đi phù
hợp trong từng giai đoạn, cả trong xây dựng tiềm lực và thế quốc phòng toàn dân
gắn với xây dựng tiềm lực và thế trận an ninh nhân dân, cũng như trong các hoạt
động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn và làm thất bại các âm mưu, hoạt động

25
phá hoại, giảm thiểu, tiến tới loại trừ các nguy cơ, các mối đe dọa an ninh quốc
gia trong thời kỳ mới.
Chính quyền các cấp thường xuyên thực hiện nghiêm chức năng kiểm tra,
thanh tra nhà nước đối với mọi tổ chức thành viên thuộc quyền quản lý về việc
thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch chiến lược có liên quan đến công
cuộc xây dựng và bảo vệ an ninh quốc gia. Có chính sách khen thưởng, kỷ luật
kịp thời.
3.2. Tiếp tục đổi mới biện pháp công tác và chủ trương đối sách về an
ninh quốc gia
3.2.1. Đối với hoạt động của đối tượng từ bên ngoài
Lấy giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là
lợi ích cao nhất của Tổ quốc; tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên
ngoài; kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, cố gắng
gia tăng hợp tác, tránh xung đột, tránh đối đầu, tránh bị cô lập và lệ thuộc; kiên
định các nguyên tắc chiến lược, đi đôi với vận dụng linh hoạt sách lược, tranh
thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hóa, cô
lập các phần tử chống đối, các thế lực chống phá Việt Nam.
Chủ động hợp tác với các nước để tác động nhằm hạn chế các hoạt động
chống phá Việt Nam. Tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại, đấu tranh
phản bác các luận điệu tuyên truyền phá hoại tư tưởng của bọn phản động. Triển
khai các biện pháp bao vây, cô lập, lôi kéo phân hóa và đấu tranh với hoạt động
của từng đối tượng ngay từ bên ngoài. Chủ động phát hiện, ngăn chặn các hoạt
động móc nối, xâm nhập, hoặc triển khai các hoạt động vào trong nước. Đồng
thời nâng cao ý thức cảnh giác và “sức đề kháng” cho cán bộ, đảng viên, nhân
dân trước hoạt động lôi kéo, khống chế, tác động phá hoại tư tưởng của các cơ
quan đặc biệt nước ngoài và bọn phản động; chủ động giải quyết những nhân tố
phức tạp từ bên trong không để bên ngoài lợi dụng can thiệp kích động.

25
3.2.2. Đối với những nhân tố gây mất ổn định ở bên trong
Chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong
có thể dẫn đến những đột biến bất lợi; lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục thuyết
phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm
minh các sai phạm; đối với các thế lực chống đối cần phân hóa, cô lập bọn đầu
sỏ, ngoan cố; xử lý nghiêm minh, kiên quyết với những kẻ cố tình chống đối, đi
ngược lại với lợi ích dân tộc; giáo dục, lôi kéo những người lầm đường, không
để hình thành tổ chức đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.
Trên cơ sở phân loại, thống nhất đánh giá tính chất các sự việc, hiện
tượng, phân biệt mâu thuẫn trong nội bộ với những hoạt động chính trị phản
động, giữa những người có tư tưởng lệch lạc với những trường hợp có hành vi vi
phạm pháp luật để có hình thức, biện pháp đấu tranh phù hợp. Giải quyết những
nhân tố này phải bằng sức mạnh tổng hợp, bằng nhiều hình thức, nhiều biện
pháp theo một kế hoạch thống nhất; chú trọng phát huy sức mạnh của các ngành,
các tổ chức, đoàn thể trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ
động nắm tình hình, bao vây cô lập số đối tượng có hoạt động cực đoan chống
đối; ngăn chặn không để những người mất cảnh giác hoặc bị lợi dụng, lôi kéo,
kích động; kiên quyết xử lý số có hoạt động vi phạm pháp luật; không để bên
ngoài móc nối, lôi kéo hoặc lợi dụng can thiệp.
3.3. Phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, chăm lo xây dựng lực lượng
chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng
chống các âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc giữ vững an ninh quốc gia trong
thời kỳ mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh làm điểm tương đồng; tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung,
tăng cường đồng thuận xã hội; trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa
các thành viên trong xã hội. Trong đó, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở

25
vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thường xuyên chăm lo bồi dưỡng sức dân, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn
giáo; giải quyết tốt các chính sách xã hội... trên cơ sở đó mà hướng sức dân vào
công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ an ninh quốc gia theo những mục tiêu,
yêu cầu đã đề ra.
Xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, phát triển sâu rộng phong trào
quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc với tinh thần làm chủ, ý thức cảnh
giác, phòng gian bảo mật; phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh với mọi
hoạt động phá hoại của các đối tượng tình báo, gián điệp, bọn phản động trong
các dân tộc, tôn giáo, đảng phái phản động cũ, những phần tử cơ hội chính trị.
Đi đôi với việc xây dựng lực lượng an ninh quần chúng rộng rãi, cần quan
tâm chăm lo xây dựng lực lượng chuyên trách, gồm: lực lượng an ninh, tình báo,
cảnh vệ Công an nhân dân; lực lượng bảo vệ an ninh quân đội, tình báo Quân đội
nhân dân, biên phòng, cảnh sát biển làm nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia. Bên
cạnh đó, xây dựng lực lượng công an xã, dân quân tự vệ, bảo vệ cơ quan, doanh
nghiệp, bảo vệ dân phố, dân phòng tham gia hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia ở
từng địa phương, cơ sở.
Nâng cao chất lượng công tác tình báo chiến lược; chủ động phòng ngừa,
phát hiện, đánh địch từ xa, bảo vệ vững chắc an ninh biên giới, vùng biển đảo
thuộc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.
3.4. Mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ an ninh quốc gia
- Mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường quan hệ với các nước láng giềng,
thúc đẩy phát triển quan hệ với các nước lớn, các nước trong khu vực và bạn bè
truyền thống. Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm góp phần giữ vững
hòa bình, ổn định và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước.
- Tăng cường đấu tranh trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc
tộc, “Diễn biến hòa bình”. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế

25
và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết
đấu tranh và làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc
gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
- Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh
giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.
- Phát huy vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. Tích cực hợp tác cùng
các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách
thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu. Thực hiện tốt
các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Chủ động, tích
cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh,
tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các
khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại và văn hóa đối
ngoại. Chủ động và tăng cường công tác vận động người Việt Nam ở nước
ngoài, tranh thủ số đông hướng về Tổ quốc, khuyến khích các hoạt động góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài; phân hóa cô lập, kiềm chế hoạt động chống phá đất nước của bọn phản
động lưu vong. Coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân.
- Tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới có nội dung và
phạm vi rộng lớn, là an ninh tổng hợp toàn diện bao gồm cả an ninh chính trị,
kinh tế, xã hội; tư tưởng, văn hóa; khoa học công nghệ; quốc phòng, an ninh…..
việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ an
ninh quốc gia đang đặt ra nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh,

25
bổ sung thường xuyên cho phù hợp với thực tiễn.
Đây là nhiệm vụ thường xuyên liên tục, đòi hỏi phải huy động và phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, bằng mọi biện
pháp kiên quyết, kiên trì vừa mềm dẻo, linh hoạt. Cần tạo sự thống nhất, trong
nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các cấp, các
ngành, của cả hệ thống chính trị; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp, về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của nhà nước, cấp ủy
Đảng, chính quyền các cấp; phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt chuyên
trách bảo vệ an ninh quốc gia góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Bảo vệ an ninh quốc gia có vai trò gì trong nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc?
2. Để thực hiện tốt đường lối quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc
gia trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ gì?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nêu những khái niệm cơ bản liên quan đến an ninh quốc gia và bảo vệ
an ninh quốc gia?
2. Trình bày những nội dung chủ yếu của Luật an ninh quốc gia
3. Phân tích các giải pháp chủ yếu bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam
giai đoạn hiện nay?
E. TÀI LIỆU HỌC TẬP
* Tài liệu bắt buộc
1. Giáo trình Trung cấp lý luận Chính trị ( Phần đường lối Đảng cộng sản
Việt Nam).
2. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninnh đối tượng 3.
* Tài liệu đọc thêm

26
1. Học viện Quốc phòng, Một số vấn đề cơ bản về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, H.2015.
2. Học viện An ninh Nhân dân, Một số vấn đề cơ bản về Chiến lược An
ninh quốc gia của Việt Nam, H.2014.
3. Luật An ninh quốc gia, H.2005

26
Bài 9
ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
- Trang bị những kiến thức cơ bản về sự hình thành, những nội dung mới
trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay;
làm rõ quá trình triển khai, kết quả thực hiện đường lối đối ngoại và chủ trương
hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua.
2. Về kỹ năng
Nâng cao kỹ năng phân tích, tổng hợp và khái quát được chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, trên
cơ sở đó mà vận dụng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại trong điều kiện cụ
thể của mình.
3. Về tư tưởng
Củng cố niềm tin về tính đúng đắn, hiệu quả của đường lối đối ngoại thời
kỳ đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, từ đó, trên cương vị công tác của mình tích
cực góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách đối ngoại trong tình hình
mới.
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Cơ sở hình thành
1.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là
kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, trong quá
trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt

26
Nam luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính nguyên tắc.
1.1.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin về đối ngoại
Trong quá trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính nguyên tắc, bởi
vì: Chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những những nội dung có tính khoa học và
cách mạng về thời đại, về vấn đề dân tộc và quốc tế, về quan hệ quốc tế và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, về tư tưởng cùng tồn tại hòa bình giữa các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, về quyền dân tộc tự quyết trong
quan hệ quốc tế… Đây là cơ sở lý luận luôn được Đảng ta chú trọng nghiên cứu
và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh thế giới mới và điều kiện cụ thể của Việt
Nam.
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống các quan điểm về
đường lối chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc tế.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện trên các vấn đề lớn, mang tính chiến
lược như:
Một là, độc lập dân tộc: Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là phương
châm hành động của ngoại giao Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt
Nam phải luôn giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định đường lối,
chủ trương của mình. Điều đó cũng có nghĩa, chỉ trên tinh thần độc lập dân tộc,
Đảng ta mới nắm được tình hình cụ thể, khả năng, lợi ích của đất nước, từ đó mà
đề ra chủ trương, chính sách phù hợp để đạt được mục tiêu đã xác định. Vấn đề
này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi lợi ích quốc gia dân
tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế.
Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Theo Hồ Chí
minh, sức mạnh dân tộc bao gồm sức mạnh vật chất (sức mạnh cứng) thể hiện ở

26
sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự… và sức mạnh tinh thần (sức mạnh mềm)
như: tính chính nghĩa của những mục tiêu mà dân tộc Việt Nam theo đuổi;
truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường chống ngoại xâm; nền văn
hóa dân tộc được xây dựng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; vị trí
địa - chính trị và địa kinh tế quan trọng…
Sức mạnh thời đại thể hiện qua các trào lưu lớn của thời đại như: nội dung
chủ yếu của thời đại ngày nay, phong trào độc lập dân tộc; phong trào dân chủ và
tiến bộ xã hội, cũng như các xu thế lớn của thế giới như: quyền độc lập cho mọi
quốc gia; quyền tự quyết cho mọi dân tộc; xu thế hòa bình cho toàn thế giới và
sự hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia, không phân biệt nước lớn hay nhỏ…
Sức mạnh thời đại thể hiện qua các “dòng chảy chính” của thế giới hiện nay như:
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư); xu thế toàn cầu hóa và liên kết khu vực; trào lưu tái cấu trúc và đổi
mới mô hình tăng trưởng…
Ba là, ngoại giao tâm công: Đó là nền ngoại giao đề cao tính chất chính
nghĩa, đánh vào lòng người bằng chính nghĩa, bằng lẽ phải, đạo lý và nhân tính;
là nền ngoại giao mang tính nhân bản sâu sắc, phù hợp với khát vọng hòa bình,
tự do, công lý; là nền ngoại giao coi phong trào tiến bộ của nhân dân thế giới là
lực lượng của mình, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết nhất trí giữa các nước xã hội
chủ nghĩa…
Bốn là, ngoại giao hòa hiếu với các dân tộc khác: Đó là nền ngoại giao
theo đuổi phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “làm cho nước mình ít kẻ thù và
nhiều bạn đồng minh hơn hết” và đây cũng thể hiện tính nhân văn của dân tộc
Việt Nam. Đó là nền ngoại giao luôn dành mối quan tâm hàng đầu cho nhiệm vụ
củng cố quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, tập trung nỗ
lực thiết lập và củng cố quan hệ với các nước lớn, đồng thời không ngừng tăng
cường quan hệ hợp tác hữu nghị với mọi quốc gia khác trên thế giới.

26
Năm là, ngoại giao dĩ bất biến, ứng vạn biến: Đó là nền ngoại giao kiên trì
trong nguyên tắc nhưng linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo trong sách lược. Đối với
Hồ Chí Minh, vấn đề bất biến, có tính nguyên tắc là bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Song để đạt được mục tiêu đó, phương thức thực hiện phải thiên biến vạn
hóa, khi cương khi nhu, khi tiến khi lui tùy theo từng vấn đề, thời điểm và bối
cảnh cụ thể.
Sáu là, ngoại giao nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước: Đó là
nền ngoại giao phải biết nắm vững thời cơ, chủ động tạo lập thời cơ, đồng thời
chủ động tấn công giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
1.1.2. Nhiệm vụ cách mạng trong nước
Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng ta được hoạch định nhằm: Thứ
nhất, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp một cách có hiệu quả sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ mục tiêu xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Thứ hai, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, hoạch định
đường lối đối ngoại, trước hết phải căn cứ vào nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử
thách to lớn: trong nước thì khủng hoảng kinh tế - xã hội; Trên lĩnh vực đối
ngoại, nước ta bị bao vây, cấm vận về kinh tế, bị cô lập về chính trị. Đây là thời
kỳ khó khăn nhất của nước ta sau ngày thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó,
Đại hội VI của Đảng thông qua đường lối đổi mới toàn diện, trong đó xác định
rõ: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa

26
trong chặng đường tiếp theo. Với chủ trương đó, Đại hội đã xác định nhiệm vụ
có tính cấp bách trước mắt là giải phóng sức sản xuất, tập trung phát triển kinh
tế - xã hội để nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội,
phá thế bị bao vây, cấm vận, cô lập và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Những Đại hội sau đó xác định nhiệm vụ cơ bản, lâu dài là sớm đưa Việt
Nam thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa 155, đồng thời kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ156.
Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đường lối đối ngoại của Đảng phải góp phần tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất
nước vượt qua những khó khăn thách thức đang đặt ra nhằm thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đường lối đối
ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng ta được hoạch định nhằm tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài, kết hợp một cách có hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, phục vụ mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.1.3. Tình hình thế giới và khu vực
Tình hình thế giới và khu vực từ sau chiến tranh lạnh, đặc biệt từ đầu thế
kỷ XXI đến nay nổi lên một số đặc điểm và xu thế vận động chủ yếu tác động
đến việc hoạch định đường lối đối ngoại của Việt Nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cục diện chính trị - an ninh thế giới có nhiều chuyển biến lớn, trong
đó nổi bật là sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn
Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã, trật tự thế giới hai

155
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
2021, tr. 36.
156
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
2021,tr. 117.

26
cực chấm dứt đã làm đảo lộn các quan hệ liên minh kinh tế, chính trị, quân sự
được thiết lập trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Tương quan lực luợng thế giới
cũng có sự thay đổi nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn
thời đại giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục tồn tại, song
không còn là nhân tố duy nhất chi phối quan hệ quốc tế cũng như việc tập hợp
lực lượng giữa các nước trên thế giới.
Trong thời kỳ quá độ hình thành trật tự thế giới mới, tất cả các nước trên
thế giới tuy ở các mức độ khác nhau đều đứng trước những thách thức mới như:
xung đột khu vực, mâu thuẫn quốc gia, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hố ngăn cách
giàu - nghèo Bắc - Nam; sự bất bình đẳng trong quan hệ giữa các nước; nhu cầu
phát triển kinh tế và ổn định chính trị ở mỗi nước; hoạt động ngày càng tăng của
chủ nghĩa khủng bố, sự tăng lên của những vấn đề mang tính toàn cầu ...
Đặc biệt, trong quá trình hình thành trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh,
tương quan lực lượng của thế giới có sự thay đổi lớn, bản đồ quyền lực có sự
chuyển dịch. Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ trong khi Mỹ tiếp tục suy yếu
tương đối. Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của một số cường quốc đang trỗi dậy trong
nhóm BRICS đang gây sức ép phải xây dựng luật chơi mới trong quan hệ quốc
tế ngày càng tăng.
Đứng trước những vấn đề nêu trên, các nước trên thế giới thời kỳ sau
Chiến tranh lạnh đều tập trung ưu tiên nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã
hội ở trong nước, đồng thời đấu tranh để tạo lập môi trường quốc tế và khu vực
hòa bình, ổn định, giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của
đất nước mình. Do đó, hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển trở thành xu thế
lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia trên thế giới trong giai đoạn hiện
nay của thời đại.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học- công nghệ, nhất là cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 đang tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội

26
Sự phát triển khoa học-công nghệ đã và đang tác động sâu rộng đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và quan hệ quốc tế. Ngày nay, khoa học-công nghệ
đã trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội; trí tuệ và kỹ
năng có vai trò mấu chốt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát
triển khoa học-công nghệ góp phần làm thay đổi vị thế của mỗi một quốc gia
trong quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,
nước nào chiếm lĩnh khoa học-công nghệ sẽ tiếp tục phát triển nhanh chóng và
ngược lại. Trong quan hệ giữa các nước lớn, nước nào giành và giữ ưu thế về
công nghệ cao thì nước đó có ưu thế trong việc giành ngôi vị siêu cường số 1 thế
giới.
Tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng cách mạng công nghiệp lần thứ tư
càng làm cho sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất được
quốc tế hóa khiến cho xu hướng đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của các nước trở
thành đòi hỏi khách quan. Các nước ra sức mở rộng quan hệ quốc tế, không phân
biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau, với tất cả những ai có khả năng hợp tác
hiệu quả; việc xác định bạn - thù, hình thức và mức độ quan hệ cũng trở nên rất
linh hoạt. Phương thức tập hợp lực lượng theo kiểu truyền thống đã được thay
bằng sự tập hợp lực lượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc.
Một đặc điểm khác của thế giới trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp
lần thứ tư là toàn cầu hóa với nền kinh tế số. Toàn cầu hóa là một quá trình
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Là quá trình khách quan, là
nấc thang phát triển của nhân loại, toàn cầu hóa đem lại cơ hội cho mọi quốc gia
dân tộc cùng phát triển. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa được thực hiện bởi các
nhân tố chủ quan mà lợi thế thuộc về các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với
sức mạnh kinh tế, khoa học - công nghệ, thị trường vốn, lao động và hàng hóa…
các nước phát triển thông qua các công cụ của mình là các tập đoàn tư bản xuyên
quốc gia đang lợi dụng lợi thế này để phục vụ lợi ích riêng của mình, gây bất lợi
cho các nước nghèo, các nước đang phát triển. Chính vì vậy, đối với đại bộ phận

26
các nước trên thế giới, toàn cầu hóa là quá trình luôn chứa đựng tính hai mặt:
thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, tích cực và tiêu cực, hợp tác và đấu
tranh. Sự kiện Brexit, các cuộc biểu tình phản đối mặt trái của toàn cầu hóa cho
thấy, đằng sau vấn đề kinh tế, chính trị.
Hơn nữa, nền kinh tế số là kết quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư sẽ dẫn tới sự dịch chuyển quyền lực toàn cầu trên cả phương diện không
gian địa lý và chủ thể quyền lực. Trong nền kinh tế số, cạnh tranh quốc tế sẽ tập
trung trong không gian số, trên lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ và nguồn
nhân lực chất lượng cao. Trong thế giới của kinh tế số, hợp tác và hội nhập quốc
tế sẽ vừa có động lực mới bởi sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia,
khu vực qua không gian số và mạng internet toàn cầu, nhưng cạnh tranh, cọ xát
và xung đột lợi ích giữa các quốc gia và trên phạm vi toàn cầu cũng sẽ ngày càng
mở rộng và trở nên sâu sắc, khốc liệt hơn. Cuộc cạnh tranh này sẽ có tác động
quan trọng tới việc hình thành những hình thức hợp tác, những tuyến lợi ích,
những tập hợp lực lượng mới trên thế giới, có ý nghĩa quyết định đối với việc
đẩy nhanh quá trình định hình những đường nét cơ bản của trật tự kinh tế khu
vực, quốc tế mới, nhất là ở khu vực châu Á-Thái Bình dương.
Thứ ba, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, nhất
là ở khu vực châu Á - Thái Bình dương
Một đặc điểm nổi bật của thế giới trong giai đoạn hiện nay là các nước
lớn và quan hệ giữa các nước lớn trở thành nhân tố có vai trò quan trọng đến sự
phát triển thế giới. Trong thập niên gần đây, các nước lớn có nhiều điều chỉnh
quan trọng theo hướng đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, đặc biệt là Trung Quốc
và Mỹ. Kể từ Đại hội XIX (2017), Trung Quốc cơ bản đã từ bỏ phương châm
“giấu mình chờ thời” sang hướng “chủ động hơn, cứng rắn hơn”, quyết đoán
theo đuổi lợi ích cốt lõi, kể cả ở Biển Đông. Nước Mỹ trong nhiệm kỳ của Tổng
thống D. Trump thực hiện phương châm “nước Mỹ trên hết”, theo đó, các chính
sách được triển khai theo hướng thực dụng, coi trọng cơ chế hợp tác song

26
phương hơn đa phương.. Các nước lớn và trung tâm quyền lực khác như Nga,
Nhật Bản, Ấn Độ, EU cũng có những điều chỉnh theo hướng ngày càng đề cao
lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đặc biệt, ở khu vực châu Á- Thái Bình dương, cạnh tranh chiến lược giữa
Mỹ và Trung Quốc đã chuyển sang giai đoạn gay gắt hơn, quyết liệt hơn. Nếu
như trên bình diện thế giới, cục diện thế giới cơ bản vẫn cục diện “nhất siêu, đa
cường” thì ở khu vực châu Á - Thái Bình dương đang định hình ngày càng rõ nét
cục diện “lưỡng siêu, đa cường”.
Nhìn chung, thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, cùng với xu thế hòa bình, hợp
tác vì phát triển, các nước lớn, một mặt, thường thỏa hiệp với Mỹ để tìm tiếng
nói chung nhằm tăng cường hợp tác; mặt khác, lại đấu tranh gay gắt với nhau
nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển cũng như khẳng
định vị thế của nước mình trong trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình
thành, chống tham vọng thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Sự
cạnh tranh tranh giành ảnh hưởng và lợi ích giữa các nước lớn thể hiện trên
nhiều lĩnh vực, ở nhiều khu vực trên thế giới vẫn tiếp tục gay gắt trong tư thế
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kiềm chế lẫn nhau. Với sức mạnh của mình,
quan hệ giữa các nước lớn, dù nồng ấm hay lạnh nhạt, dù hòa dịu hay căng
thẳng, đều tác động trực tiếp đến hòa bình, an ninh, phát triển của thế giới.
Thứ tư, Nhiều vấn đề mang tính toàn cầu nổi lên, tác động lớn đến đời
sống quan hệ quốc tế:
Nhân loại ngày nay đang đối phó với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu cấp
bách đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Đại dịch COVID - 19
hiện nay là một ví dụ. Những nổ lực chung của cộng đồng quốc tế nhiều năm
qua đã đưa lại một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, do tính chất nghiêm trọng
và phức tạp của những vấn đề toàn cầu tiếp tục đòi hỏi các nước phải tích cực
phối hợp, hợp tác một cách hiệu quả, thiết thực cả trong khuôn khổ song phương

27
cũng như đa phương. Đây cũng là nguyên nhân khách quan của xu thế hợp tác
trong quan hệ quốc tế giai đoạn hiện nay.
Thứ năm, Tình hình khu vực Đông Á
Từ sau chiến tranh lạnh đến nay, Đông Á trở thành khu vực phát triển
năng động, góp phần vào sự phát triển chung của thế giới. Cùng với vị thế quốc
tế ngày càng tăng, Đông Á cũng là nơi diễn ra sự tranh giành ảnh hưởng một
cách quyết liệt giữa các nước lớn. Những biến đổi sâu sắc của môi trường địa -
chính trị và địa - kinh tế tại Đông Á kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh đã mở ra
một không gian phát triển mới cho khu vực và tạo nên vị thế mới của Đông Á
trong quan hệ quốc tế. Điều đó được thể hiện qua việc ký Hiệp định Đối tác Kinh
tế Toàn diện Khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership - RCEP)
vào ngày 15/11/2020 tại Hà Nội. Đây là một hiệp định thương mại tự do bao
gồm 10 nước thành viên ASEAN và 5 quốc gia mà ASEAN đã ký hiệp định
thương mại tự do (Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New
Zealand), hướng tới mục tiêu hình thành Hiệp định thương mại tự do Đông Á
(EAFTA) và khởi đầu cho Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA). Có thể
nói, vai trò của Đông Á trong quan hệ quốc tế ngày càng quan trọng hơn xét trên
cả hai phương diện: chính trị - an ninh và kinh tế.
Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị Đông Á tiếp tục diễn biến rất phức
tạp. Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các thực thể quyền lực khác đã tạo nên cục
diện ganh đua quyết liệt, tập hợp lực lượng, hòa hoãn, liên kết đa phương đa
diện, cạnh tranh và hợp tác hết sức năng động, tùy thuộc lẫn nhau vô cùng sâu
sắc. Có thể thấy, cấu trúc quyền lực của trật tự Đông Á hiện nay đang được duy
trì trong trạng thái "cân bằng thấp" vì Đông Á còn thiếu một cấu trúc nội tại ổn
định có vai trò lãnh đạo, chi phối toàn diện cả về kinh tế lẫn chính trị trong khu
vực ; sự ổn định an ninh khu vực phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài, trong

27
đó đặc biệt phải kể đến vai trò can dự của Mỹ. 157 Ở Đông Á hiện vẫn còn tồn tại
nhiều yếu tố có khả năng gây mất ổn định, đòi hỏi phải có sự tham gia mạnh mẽ
của các nước liên quan để giải quyết. Đáng chú ý nhất là chương trình hạt nhân
của Bắc Triều Tiên, vấn đề eo biển Đài Loan và những mâu thuẫn, xung đột chủ
quyền ở Biển Đông và Biển Hoa Đông …
1.1.4. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ cha ông
chúng ta đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm đối ngoại quý báu mà Đảng ta cần
quán triệt và vận dụng nó trong điều kiện mới. Một trong những nét nổi bật hàng
đầu trong truyền thống ngoại giao của dân tộc là truyền thống ngoại giao hoà
bình, hữu nghị. Đây là sự thể hiện tư tưởng đối ngoại nhân văn, hòa hiếu bắt
nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời, đây cũng còn được quy
định bởi vai trò, vị trí địa - chiến lược, địa - chính trị quan trọng của nước ta ở
khu vực. Trong quá trình xây dựng và phát triển, mặc dù thường phải đối mặt với
các thế lực xâm lược nước ngoài lớn mạnh gấp bội, song dân tộc ta trong đối
ngoại, một mặt thể hiện rõ tinh thần quật khởi, không chịu khuất phục, mặt khác
luôn chủ động, khôn khéo, sáng tạo, linh hoạt và mềm dẻo, biết cách vượt qua
những thử thách hiểm nghèo để bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất dân tộc.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi
mới
Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình,
khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng (12/1986) và tiếp tục được bổ sung, phát triển,
hoàn thiện ở các Đại hội Đảng tiếp theo đó. Có thể chia quá trình này thành ba
giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (12/1986) đến năm 1995

157
Nguyễn Hoàng Giáp, Nhận diện trật tự quyền lực ở Đông Á hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số
4(110) 4-2010, tr. 8

27
Đây là giai đoạn hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, đồng thời phá
thế bị bao vây cấm vận về kinh tế, bị cô lập về chính trị, thể hiện qua các Văn
kiện sau:
- Đại hội VI của Đảng (12/1986) khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước, đồng thời cũng mở đầu quá trình hình thành chính sách đối ngoại thời
kỳ đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ hàng đầu là: “tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Để góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta, trên cơ sở phân tích tình hình
thế giới và trong nước, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới tư duy đối ngoại,
thực hiện chính sách đối ngoại thêm bạn, bớt thù; phá thế bị bao vây, cấm vận;
mở rộng quan hệ quốc tế, theo đó, phương hướng đối ngoại được xác định là:
+ Phát triển và củng cố quan hệ hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia,
trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền mỗi nước;
+ Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam;
+ Sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam
- Trung Quốc, tiến tới bình thường hóa quan hệ;
+ Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa
bình.
- Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (5/1988) là bước ngoặt, có tính
đột phá về đổi mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự hình thành bước đầu chính
sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa. Với nhận thức mới đúng đắn, toàn
diện hơn về vấn đề an ninh, bao gồm cả yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong,
Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại chuyển từ chỗ chú trọng nhân tố chính trị -
quân sự sang ưu tiên cho nhân tố kinh tế, ưu tiên giữ vững hòa bình, độc lập dân
tộc, có cách tiếp cận toàn diện hơn về tình hình thế giới và khu vực. Để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta triển khai chính sách đối ngoại “thêm bạn, bớt
thù”, nhấn mạnh chủ trương phát triển quan hệ với tất cả các nước có chế độ

27
chính trị khác nhau trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…
- Hội nghị TW 6 khóa VI (3/1989) là sự phát triển tiếp theo của đổi mới tư
duy đối ngoại. Hội nghị đã nhận thức nhiều vấn đề đối ngoại cần phải giải quyết,
trong đó một lần nữa tái khẳng định: Đối ngoại phải chuyển từ chính trị- an ninh
là chủ yếu sang chính trị - kinh tế là chủ yếu; thúc đẩy quá trình bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc; xác định lộ trình cải thiện quan hệ với các nước
ASEAN; xác định lộ trình rút quân khỏi Campuchia; tiếp cận lộ trình bình
thường hóa quan hệ với Mỹ…
- Đại hội VII của Đảng (6/1991) là bước phát triển mới trong việc hình
thành chính sách đối ngoại đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ
vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên tinh thần đó, Đại hội đề ra
chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả
các nước không phân biệt chế độ chính trị khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình. Tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng đưa ra phương châm
chiến lược trong chính sách đối ngoại “Việt Nam muốn là bạn với các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” 158, đồng
thời khẳng định chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa của Nhà nước Việt Nam.
- Khẳng định mục tiêu của đối ngoại là giữ vững hòa bình, mở rộng quan
hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị TW 3 khóa VII (1992) đã nêu ra 4
phương châm chỉ đạo, xử lý các vấn đề quốc tế: Một là, Bảo đảm lợi ích dân tộc
chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân; Hai là, Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; Ba là, Nắm vững hai mặt hợp tác
158
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H.1991, tr.147

27
và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; Bốn là, Tham gia hợp tác với các nước trong
khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, chú trọng quan hệ với
các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn. Bốn phương châm này được xem là cẩm
nang trong xử lý các vấn đề đối ngoại cho mọi cấp mọi ngành và mọi địa
phương.
Với chính sách đối ngoại đúng đắn này, ngoài việc huy động nguồn lực từ
bên ngoài để cùng nguồn lực trong nước, chúng ta không những đã đưa đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà còn phá được thế bị bao vây, cấm vận
về kinh tế, bị cô lập về chính trị, tạo điều kiện thuận lợi để nước ta bước vào
chặng đường phát triển mới - chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
1.2.2. Giai đoạn từ sau Đại hội VIII (6/1996) đến năm 2010 - giai đoạn
mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế
Trước những biến đổi của tình hình thế giới và xuất phát từ nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam, các Đại hội VIII, IX và X của Đảng tiếp tục bổ sung, phát
triển đường lối đối ngoại đổi mới, cụ thể như sau:
- Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đối
ngoại đổi mới. Trên cơ sở thế và lực mới của nước ta, Đại hội lần đầu tiên nêu
nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo hướng “xây dựng nền kinh tế
mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đây là điểm khởi
đầu quan trọng cho một chủ trương đối ngoại lớn và xuyên suốt của Đảng là hội
nhập kinh tế quốc tế (và đến nay là hội nhập quốc tế). Đại hội này cũng đồng
thời tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”;
- Đại hội IX của Đảng (4/2001) bổ sung làm rõ thêm chính sách đối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tại
Đại hội này, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực” theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả

27
hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường. Phát triển quan điểm mở rộng quan hệ đối ngoại của Đại hội VII và VIII,
Đại hội IX nêu rõ: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”159;
- Đại hội X (4/2006) của Đảng tiếp tục bổ sung đường lối đối ngoại thời
kỳ đổi mới với tuyên bố: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”,
“Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền
vững”160. Đại hội cũng bổ sung quan điểm hội nhập quốc tế với chủ trương “chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Với chủ trương đúng đắn này, quan hệ đối ngoại của Việt Nam không
ngừng được mở rộng. Đến cuối năm 2010, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với
179 nước, quan hệ kinh tế – thương mại với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu
hút ngày càng nhiều nguồn lực quý báu cho phát triển kinh tế - xã hội nước nhà.
Đây cũng là giai đoạn Việt Nam đẩy mạnh hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực như: tích cực triển khai các hoạt động trong khuôn khổ Khu vực mậu
dịch ASEAN (AFTA), là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)
năm 1996 và đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEM - 5 năm 2004; Tham
gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình dương năm 1998 và đăng cai tổ
chức Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2006; chính thức trở thành thành viên Tổ
chức Thương mại thế giới đầu năm 2007 …
1.2.3. Giai đoạn từ sau Đại hội XI (01/2011) đến nay - giai đoạn đưa các
quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện
- Tại Đại hội XI của Đảng (01/2011), đường lối đối ngoại tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện. Tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng xác định mục tiêu hàng đầu của

159
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.119-120
160
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.112

27
đối ngoại là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh”161. Như vậy, lợi ích quốc gia dân tộc là tiêu chí hàng đầu để xác định
hợp tác và đấu tranh, là đối tác và đối tượng ”. Cũng tại Đại hội này, trên cơ sở
thế và lực mới của Việt Nam trên trường quốc tế, Đảng đưa ra chủ trương “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế…”162. Như vậy, Đảng đã chuyển nội dung trọng
tâm của đối ngoại từ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế sang hội nhập quốc
tế một cách toàn diện.
- Đai hội XII của Đảng (01/2016), trên cơ sở kế thừa những nội dung đối
ngoại của các Đại hội trước đó, đã nhấn mạnh mục tiêu hàng đầu của đối ngoại
là phải “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc”, xác định nhiệm vụ đối
ngoại là phải “nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…”. Đại hội cũng nhận thấy
tầm quan trọng của ngoại giao đa phương trong quan hệ quốc tế hiện nay và
nhấn mạnh nhiệm vụ đối ngoại là phải “tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi
vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ
động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”163.
- Đai hội XIII của Đảng (01/2021) tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế…, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế”164.

161
Sđd, tr. 236
162
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.236
163
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr. 153
164
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, H.2021, Tập I,
tr.161,162.

27
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, nhiệm vụ đối ngoại
2.1.1. Mục tiêu
“Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định mục tiêu
hàng đầu của hoạt động đối ngoại là vì lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc. Lợi ích
tối cao quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc cao nhất của đối
ngoại. Đối ngoại vì lợi ích quốc gia dân tộc thể hiện qua các nhiệm vụ như: Đoàn
kết dân tộc, tập hợp lực lượng đông đảo người Việt Nam trong và ngoài nước,
phát huy tối đa nguồn lực trong nước, đồng thời huy động có hiệu quả nguồn lực
nước ngoài vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, đồng thời bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đoàn kết quốc tế, tác động tích cực tới nỗ lực tập hợp lực
lượng quốc tế của Việt Nam vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển; nâng
cao uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định mục tiêu, lý tưởng của
Đảng ta là vì lợi ích quốc gia dân tộc.
2.1.2. Tư tưởng chỉ đạo
- Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng cùng có lợi. Trong mọi hoạt động
đối ngoại, phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Lợi ích tối cao quốc gia -
dân tộc khái quát nhất là vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, khi
đề cao lợi ích quốc gia dân tộc, Việt Nam dựa trên cơ sở của luật pháp quốc tế,
nhấn mạnh lợi ích quốc gia dân tộc chân chính, đối lập với lợi ích dân tộc cường
quyền nước lớn, bất chấp luật pháp quốc tế.

27
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển. Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ được hoạch định trên cơ sở nhiệm vụ
cách mạng Việt Nam và trước những biến động của tình hình thế giới, coi trọng
nguồn lực bên ngoài nhưng luôn xác định nguồn lực trong nước có tính quyết
định. Đó là đường lối đối ngoại để góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, xem đây là điều kiện để mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, trên cơ sở
đó mà phục vụ mục tiêu phát triển đất nước.
- Chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa. Đó là đường lối đối
ngoại nhằm thiết lập và tăng cường quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng
phát triển với các chủ thể khác nhau trong quan hệ quốc tế. Đó là đường lối đối
ngoại mà hoạt động được triển khai trên mọi lĩnh vực và trên tất cả các kênh đối
ngoại.
- Là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế. Đó là đường lối đối ngoại nhằm: tăng cường quan hệ hòa bình, hữu nghị
với tất cả các nước; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các đối tác; thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên
đồng thời có những sáng kiến đóng góp cho mục tiêu hòa bình, phát triển của thế
giới.
2.1.3. Nguyên tắc
Có hai loại nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại: nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt, bao trùm và các nguyên tắc cụ thể:
- Nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm trong đường lối đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta là hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng
thời, phải sáng tạo, năng động, linh hoạt trong xử lý các tình huống, phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể, với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế
giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm của từng đối tác, đối tượng. Trong xử lý
tình huống, cần ba tránh: tránh bị cô lập; tránh xung đột; tránh đối đầu.

27
- Các nguyên tắc cụ thể, bao gồm: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; Không dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; Giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thông qua thương lượng hoà bình; Tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng
có lợi.
2.1.4. Nhiệm vụ đối ngoại
Thứ nhất, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ. Nhiệm vụ đối ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích tối cao
quốc gia - dân tộc, bảo vệ Tổ quốc bao gồm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Để giữ vững hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vấn đề đầu tiên phải xây dựng nền
quốc phòng chính quy, ngày càng hiện đại. Tuy nhiên, trong điều kiện thế giới
ngày nay, để bảo vệ đất nước theo quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là giữ nước từ
sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước còn chưa nguy thì còn cần phải kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sử dụng sức mạnh trong nước và sức mạnh
bên ngoài và do đó, đối ngoại có tầm rất quan trọng.
Thứ hai, góp phần quan trọng trong việc giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Nhiệm vụ
đối ngoại là phải tạo lập được môi trường hòa bình để phục vụ cho sự nghiệp đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giữ
vững môi trường hòa bình bao gồm hòa bình, ổn định trên tất cả lĩnh vực ở trong
nước, là môi trường hòa bình ở khu vực, trước hết là khu vực Đông Nam Á, tiếp
đến là khu vực Đông Á và rộng hơn là khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chỉ
trên cơ sở giữ vững môi trường hòa bình, chúng ta mới có điều kiện mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước.
Điều này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi cuộc cách mạng

28
công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và tác động sâu
rộng.
Thứ ba, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Để nâng
cao vị thế của đất nước, trong các Văn kiện Đại hội, chúng ta đã khẳng định Việt
Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế. Tuy nhiên, chủ trương đối ngoại phải được thể hiện trong thực tế. Do đó, hoạt
động đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hòa bình, hữu nghị với các nước, đẩy
mạnh quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác trên các lĩnh vực khác nhau,
đồng thời làm tròn nghĩa vụ của nước thành viên và có đóng góp tích cực cho sự
phát triển của tổ chức mà Việt Nam tham gia. Đây chính là tiền đề quan trọng để
trên cơ sở đó, chúng ta có thể huy động được nguồn lực bên ngoài cùng với
nguồn lực bên trong phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa;
Thứ tư, đối ngoại đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là tối cao song Việt Nam
không từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trái lại, Đảng và Nhà
nước Việt Nam luôn khẳng định nhiệm vụ của đối ngoại là góp phần vào cuộc
đấu tranh vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Nhiệm vụ đối ngoại theo tinh thần của Đại hội XIII nhằm đạt được ba lợi
ích có quan hệ mật thiết với nhau: An ninh - Phát triển - Vị thế, trong đó vấn đề
phát triển đất nước là nhiệm vụ quan trọng nhất. Phục vụ cho phát triển đất nước
được coi là nhiệm vụ hàng đầu của đối ngoại vì chỉ có phát triển mới tạo nên nền
tảng vật chất cho việc thực hiện mục tiêu an ninh và nâng cao vị thế quốc tế của
đất nước. Tuy nhiên, không thể có sự phát triển và phát huy được ảnh hưởng
quốc tế nếu không giữ vững được an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ.
2.2. Phương châm đối ngoại

28
Thứ nhất, Phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại;
dựa và phát huy nội lực là chính, tranh thủ tối đa ngoại lực
Nội hàm của “sức mạnh dân tộc” trong bối cảnh ngày nay bao gồm cả các
yếu tố sức mạnh “cứng” như kinh tế, quân sự, con người…, các nguồn lực có thể
huy động ở trong nước và các yếu tố của sức mạnh “mềm” như văn hóa, truyền
thống… Sức mạnh cứng và sức mạnh mềm cần được vận dụng, kết hợp một cách
hiệu quả, linh hoạt để bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc.
Nội hàm sức mạnh thời đại bao gồm: lựa chọn con đường phát triển phù
hợp với nội dung chủ yếu của thời đại ngày nay và những nhân tố mới trong giai
đoạn hiện nay là cuộc cách mạng khoa học công nghệ; xu thế toàn cầu hóa, hợp
tác liên kết khu vực; xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển…
Thứ hai, Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh
Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức
từ bên ngoài cũng gia tăng. Do đó, cần nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp
tác và đấu tranh, coi đây là hai mặt gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế. Trong
phương châm nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, Đảng nhấn mạnh một
nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh trực diện đối đầu,
không để cho các thế lực không thân thiện với Việt Nam lợi dụng sơ hở để đẩy ta
vào thế cô lập, đặc biệt là tránh một cuộc xung đột quân sự hoặc bị khiêu khích
vũ trang. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh còn nhằm lợi dụng mâu thuẫn
và sự cạnh tranh giữa các đối tác có quan hệ với nước ta, nhất là giữa các nước
lớn, tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được, phân hoá và thu hẹp đến
mức có thể được các thế lực chống đối hoặc không thân thiện với Việt Nam.
Cần phải tỉnh táo, có sách lược khôn khéo trong hợp tác và đấu tranh, để mở
rộng được quan hệ đối ngoại, “thêm bạn bớt thù”, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định phục vụ mục tiêu phát triển đất nước.

28
Thứ ba, Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả
các nước
Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
Việt Nam là mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn
định, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt
chú trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một
môi trường hoà bình, ổn định lâu dài. Việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác trên
cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như về phát triển với các nước trong
khu vực sẽ là sự bảo đảm hết sức quan trọng đối với Việt Nam nhằm xác lập một
vị thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.
Cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng
và khu vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải
mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh
tế lớn vì đó là những lực lượng có ảnh hưởng quan trọng đến an ninh và phát
triển của khu vực và của Việt Nam.
Thứ tư, Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả
Đây là phương châm đồng thời cũng là một định hướng quan trọng về đối
ngoại của Đại hội XII. Để đảm bảo tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả,
vấn đề đầu tiên là phải xác định đúng các biện pháp để nâng cao hiệu quả đối
ngoại như: nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược phục vụ
cho hoạch định chính sách; đưa các quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sâu,
ổn định, bền vững …
Thứ năm, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
Kiên quyết đấu tranh vì vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
là thiêng liêng, không thể nhượng bộ. Tuy nhiên, vấn đề tranh chấp Biển Đông là
vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều nước, nhất là Trung Quốc cho nên giải
quyết nó phải kiên trì, cần có thời gian, không thể nóng vội. Kiên quyết, kiên trì

28
đấu tranh phải trên cơ sở giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển
đất nước.
2.3. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng
Kế thừa chủ trương hội nhập quốc tế của Đại hội XI và XII, Đại hội XIII
tiếp tục khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc,bảo đảm độc
lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”165. Có thể nói, hội nhập quốc tế là quyết sách
chính trị quan trọng, là định hướng mới trong đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta khi đất nước bước sang thời kỳ mới, phản ánh bước phát triển mới
trong tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở nhận thức sâu sắc về các xu thế lớn
của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chủ trương hội nhập quốc tế bao
gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
2.3.1. Về mục tiêu
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa
bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh
và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng
cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước;
góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
trên thế giới.
2.3.2. Quan điểm chỉ đạo
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối
ngoại thời kỳ đổi mới, quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm
được tổng kết trong Cương lĩnh; đồng thời phải chú trọng một số quan điểm chỉ
đạo sau:
165
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, H.2021, Tập I, tr.164.

28
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của
Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa;
- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn toàn dân và của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước;
- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và
thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện
đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh
quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng,
khu vực trong nước; “gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động
tiềm năng toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng
lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước”166
- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo
thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng
cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải
được phát triển đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ
trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước;
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích
quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi
vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên
minh của bên này chống bên kia;
- Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với
chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ
quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động
đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng
166
Sđd, tr.164

28
cao vai trò của cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
2.3.3. Nội dung “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”
Quan điểm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” thể hiện bước đi và lộ
trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Hội nhập quốc tế được
triển khai đồng bộ và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đưa các quan hệ đã được
thiết lập đi vào chiều sâu, bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Đó là quá trình thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và
WTO, đồng thời triển khai có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình dương
(CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA),
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á - Âu (bao
gồm: Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan), Hiệp định thương mại
tự do Vương quốc Anh-Việt Nam (UKVFTA) … Trong những năm tới, Việt
Nam phải đưa hội nhập đi vào chiều sâu, tức là phải tận dụng các cam kết quốc
tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế; gia tăng mức độ tự chủ của nền kinh tế, xác
lập vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng ở khu vực và toàn cầu,
đồng thời phải tận dụng được hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế
để bảo vệ các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt
Nam trong quan hệ với các đối tác nước ngoài.
- Chủ động và tích cực hội nhập trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
ninh
Tiếp tục thúc đẩy hội nhập quốc tế trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
ninh, đưa quan hệ này của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu tức là phải
tạo được sự đan xen, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững giữa Việt Nam
và các đối tác, đưa khuôn khổ quan hệ đã được thiết lập đi vào thực chất, nhất là

28
với các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh và phát triển của
Việt Nam; tạo dựng được lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu
quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các
bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động
nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của Việt Nam.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng,
an ninh còn phải thể hiện qua việc phát huy vai trò của Việt Nam trong các hoạt
động quốc tế. Trong những năm gần đây, chúng ta đã chuyển từ chủ trương tham
dự sang phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm trong các tổ chức, trên các
diễn đàn khu vực và toàn cầu. Trong 5 năm tới, trong hoạt động quốc tế, chúng
ta “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong
xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế,
thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và hiệp định thương mại đã ký kết” 167 Các
hoạt động này đã khẳng định uy tín của Việt Nam, qua đó từng bước nâng cao vị
thế trên trường quốc tế. Trong thời gian tới, chúng ta cần tích cực đóng góp hơn
nữa vào công việc chung của thế giới, góp phần đưa Việt Nam trở thành một
nhân tố khá quan trọng của khu vực và thế giới, gắn hòa bình, thịnh vượng
chung của Việt Nam vào hòa bình, thịnh vượng của khu vực và thế giới.
- Chủ động và tích cực hội nhập trên các lĩnh vực khác
Đó là quá trình chủ động hơn trong việc nghiên cứu, lựa chọn các bộ tiêu
chí, xây dựng và triển khai lộ trình áp dụng, đồng thời tham gia xây dựng các
tiêu chí, chuẩn mực chung, góp phần nâng trình độ phát triển của Việt Nam trong
các lĩnh vực này; phục vụ các mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức và con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể
hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030 và các Đề án, Kế hoạch triển
167
Sđd, tr.164

28
khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế, đặc biệt là
Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 15/11/2016 về hội nhập kinh tế quốc tế.
3. THÀNH TỰU, HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1. Thành tựu
Sau 35 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã thu được
nhiều thành tựu hết sức quan trọng, thể hiện trên các vấn đề lớn như sau:
Thứ nhất, đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh
tế đối với nước ta, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia, kể cả các nước
lớn và các trung tâm hàng đầu thế giới. Trong giai đoạn từ 1986 - 1995, thông
qua các hoạt động ngoại giao tích cực, trong đó có việc phối hợp với tất cả các
bên để đi tới một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Việc ký Hiệp định
về Campuchia (10/1991) đã chấm dứt tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Việt
Nam với một số nước lợi dụng vấn đề Campuchia để bao vây, cô lập Việt Nam,
góp phần khai thông quan hệ giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài; đẩy mạnh
các hoạt động ngoại giao để tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
vào tháng 11/1991; chủ động khai thông quan hệ với các nước ASEAN; đấu
tranh đòi Mỹ phá bỏ cấm vận và tiến tới bình thường hóa quan hệ với Việt
Nam… Đến năm 2020, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189 nước; trong đó,
Việt Nam đã xác lập 03 quan hệ đặc biệt, 17 quan hệ đối tác chiến lược, 13 quan
hệ đối tác toàn diện. Trong số các nước này đều là các nước lớn, các trung tâm
kinh chính trị, kinh tế của thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan
hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả nước lớn, trong đó có 5 nước
thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc, toàn bộ G7, 13/20
nước G20, 8/9 nước trong ASEAN.
Thứ hai, đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung
phát triển kinh tế - xã hội.Thông qua các hoạt động ngoại giao cụ thể, tích cực,
đặc biệt là chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác chủ chốt, thúc

28
đẩy hợp tác kinh tế quốc tế và bắt đầu hội nhập chặt chẽ vào nền kinh tế khu vực
và thế giới, Việt Nam đã tranh thủ được nguồn ngoại lực phục vụ cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 nước, Việt
Nam thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả
châu lục; đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tham gia hơn 500 hiệp định song phương
và đa phương trên nhiều lĩnh vực, thu hút một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Tính lũy kế đến ngày
20/9/2020, cả nước có 32.658 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 381,5
tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước
đạt 225,8 tỷ USD, bằng 59,1% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Theo đối
tác đầu tư: Trong tháng 9 năm 2020, có thêm dự án mới từ nhà đầu tư Colombia,
nâng tổng số quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam
lên 138, trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký gần 70,14 tỷ
USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư), Nhật Bản đứng thứ hai với gần 59,9 tỷ
USD (chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài
Loan, Hồng Kông. Đáng chú ý là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm
tỷ trọng cao nhất với 222,92 tỷ USD, chiếm 58,4% tổng vốn đầu tư.
Thứ ba, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
đồng thời từng bước giải quyết được nhiều vấn đề về biên giới trên bộ và trên
biển với các nước có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để quản
lý biên giới, bảo vệ chủ quyền, mở rộng hợp tác quốc tế, góp phần củng cố hòa
bình, ổn định trong khu vực. Cho đến nay, thông qua các hoạt động ngoại giao,
Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định biên giới trên bộ và hoàn thành việc
phân giới cắm mốc trên bộ; ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định
nghề cá Vịnh Bắc Bộ; ký Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết
vấn đề trên biển. Công tác phân giới cắm mốc giữa Việt Nam với Lào và
Campuchia đang được tích cực triển khai trên cơ sở những Hiệp định biên giới
đã ký kết. Ngoài ra, Việt Nam đã ký các Thỏa thuận song phương về hợp tác giải

28
quyết vùng chồng lấn trên biển với từng nước trong khu vực như với Malaixia,
Inđônêxia, Philíppin, Thái Lan trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tạo điều kiện
thuận lợi việc mở rộng và tăng cường hợp tác.
Thứ tư, có những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm và mang
tính xây dựng cho xu thế hòa bình, hợp tác. Thông qua các hoạt động cụ thể như
tổ chức thành công nhiều Hội nghị quốc tế: Hội nghị cấp cao Pháp ngữ, Hội nghị
cấp cao ASEM; Chủ tịch luân phiên của ASEAN 2010 và 2020; Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và nhiệm kỳ
2020-2021, là nước chủ nhà Hội nghị thượng đỉnh APEC 2006 và 2017…, Việt
Nam cũng đã tham gia giải quyết nhiều vấn đề lớn của thế giới và khu vực, trong
đó có việc Việt Nam cùng các nước khác trong ASEAN ký Tuyên bố về ứng xử
các bên trên Biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc (11/2002) và gần
đây là ký kết Khung Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung
Quốc (8/2017) – bước tiến tích cực cho tiến trình đàm phán thực chất Bộ Quy tắc
ứng xử ở Biển Đông (COC), góp phần duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực;
tham gia với tư cách khách mời Hội nghị thượng đỉnh G7 tổ chức tại Canada và
Nhật Bản; Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Đức… Với những đóng góp tích cực,
đầy tinh thần trách nhiệm và mang tính xây dựng, tiếng nói của Việt Nam được
cộng đồng quốc tế coi trọng, lắng nghe, qua đó mà không ngừng nâng cao vị thế
của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
3.2. Hạn chế
Một là, Yếu kém trong công tác nghiên cứu cơ bản và dự báo chiến lược.
Công tác này trong những năm qua tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng
tốt yêu cầu, có lúc còn thiếu tính chủ động, thiếu sự phối hợp điều hành thống
nhất;
Hai là, Trong quan hệ với một số đối tác quan trọng, mức độ tin cậy vẫn
chưa cao, chưa đồng đều và chưa thật bền vững. Cho đến nay, Việt Nam đã mở
rộng đáng kể quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ trên nhiều lĩnh vực khác

29
nhau, nhưng chưa đưa mối quan hệ đó phát triển chiều sâu, bền vững do chưa
xây dựng các khuôn khổ quan hệ hoặc chưa cụ thể hóa các thỏa thuận đã ký kết.
Một số đối tác lớn của Việt Nam như Nga, Ấn Độ, hợp tác kinh tế còn khá nhiều
hạn chế, chưa toàn diện. Việc bảo đảm quan hệ Việt _ Trung phát trển ổn định,
lành mạnh cũng gặp không ít trở ngại từ vấn đề Biển Đông…
Ba là, Những hạn chế trong công tác chỉ đạo, quản lý. Trong những năm
qua, hoạt động đối ngoại là khá sôi động, song không ít các hoạt động tính hiệu
quả thấp, thậm chí còn gây lãng phí. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, sự
quản lý công tác đối ngoại trong nhiều trường hợp vẫn còn thiếu nhịp nhàng, ăn
khớp…
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới.
2. Nội dung chủ trương Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Việt Nam hiện nay.
3. Đánh giá quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Việt Nam thời kỳ đổi mới.
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nội dung chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng
và Nhà nước Việt Nam.
2. Nội dung cơ bản đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam
thời kỳ đổi mới.
3. Quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam thời kỳ đổi mới: Thành tựu và những vấn đề đặt ra.
E. TÀI LIỆU HỌC TẬP
* Tài liệu bắt buộc

29
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2021, Tập I, tr. 49-50; 69; 88; 110; 117; 135;
161-164.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham
gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (ban hành ngày 05/11/2016).
3. Đặng Đình Quý (chủ biên), Chủ nghĩa đa phương trên thế giới và đối
ngoại đa phương của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2019.
4. Phạm Bình Minh, Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai
đoạn mới, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 69-79.
* Tài liệu đọc thêm
1. Nguyễn Anh Cường, Phạm Quốc Thành, Chính sách đối ngoại của Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2018.
2. Lê Hoài Trung, Đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời kỳ chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017.
3. Nguyễn Minh Đức, Ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2020.

29
Bài 10
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; định hướng các giải pháp về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí ở Việt Nam hiện nay
2. Về kỹ năng
Cung cấp những kỹ năng cơ bản về phân tích các vấn đề lý luận, đánh giá
thực tiễn đề xuất các giải pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở
Việt Nam hiện nay
3. Về tư tưởng
Củng cố nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng, chống
tham nhũng, lãng phí; có quan điểm đúng đắn và tin tưởng tuyệt đối vào những
thành tựu đạt được, cũng như công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí ở Việt Nam hiện nay
B. NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG,
LÃNG PHÍ
1.1. Khái niệm tham nhũng, lãng phí
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu, khách quan trong xã
hội có phân chia giai cấp, có nhà nước, nên tham nhũng là một phạm trù mang
tính lịch sử. Tham nhũng tồn tại ở mọi quốc gia, hiện diện trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển
Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều quan điểm khác nhau về tham nhũng.
Theo Từ điển tiếng Việt thì: Tham nhũng là những hành vi của các cá nhân lợi
dụng quyền lực nhà nước, nhũng nhiễu để lấy của cải, vật chất. Còn theo Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2018 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

29
Nam thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 1, Điều 3). Vậy dưới góc độ của khoa
học pháp lý, tham nhũng được quan niệm như thế nào?
Đi sâu nghiên cứu cho thấy, tham nhũng do người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện, bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân; Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh
nghiệp; Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức v.v..
Những chủ thể nêu trên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thu về các lợi ích vật chất, phi vật chất không
chính đáng cho mình, cho gia đình hoặc cho cơ quan, đơn vị, tổ chức của mình.
Mục đích này được gọi là mục đích “vụ lợi”.
Một số hành vi cụ thể, như: nhận hối lộ; tham ô tài sản; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong thi hành công vụ để vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành công
vụ để vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh
nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi v.v.. Những hành vi này đều vi phạm pháp luật
của Việt Nam.
Tham nhũng là hành vi do người có chức vụ, quyền hạn cố ý thực hiện,
xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và gây ra những hậu quả
xấu cho xã hội.
Từ sự phân tích có thể rút ra khái niệm: Tham nhũng là hành vi vi phạm
pháp luật do người có chức vụ, quyền hạn cố ý thực hiện, đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình để vụ lợi và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội.
1.1.2. Khái niệm lãng phí
Lãng phí là một hiện tượng hầu như có mặt ở khắp các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về lãng phí.
Dưới góc độ kinh tế lãng phí là một khái niệm đặt trong quan hệ so sánh
các yếu tố tương xứng: giữa sử dụng nguyên vật liệu, nhân lực, tài chính với kết
quả đạt được trong sản xuất. Hay nói cách khác đó là quan hệ cơ bản giữa chi phí

29
đầu vào và đầu ra của sản phẩm tại một đơn vị sản xuất hoặc so sánh giữa các
đơn vị sản xuất với nhau.
Xem xét dưới góc độ của phát triển xã hội bền vững và góc độ kinh tế - xã
hội, lãng phí là một loại hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lãng phí suy đến cùng là
sự hủy hoại tài sản, thời gian, nhân lực của xã hội hay nói cách khác chính là sự
thiệt hại vật chất của xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: lãng phí là việc “làm tốn kém, hao
tổn một cách vô ích”168. Theo Từ điển Hán Việt lãng phí là “làm một cách vô ích
tiền tài, sức lực, thời gian”169
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, khoản 2, Điều 3 quy
định: Lãng phí là việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động
và tài nguyên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế
độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử
dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian
lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế
độ hoặc không đạt mục tiêu đã định.
Đi sâu nghiên cứu cho thấy, chủ thể thực hiện hành vi lãng phí có thể là cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân bất kỳ trong xã hội. Các chủ thể này trong quá
trình hoạt động của mình đã quản lý, sử dụng vốn tài sản, lao động, thời gian lao
động, tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, tạo ra hiệu quả thấp hoặc không
hiệu quả.
Nguyên nhân lãng phí có thể kể đến như: do nền kinh tế đang chuyển đổi;
sự yếu kém trong bộ máy quản lý nhà nước, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập;
ý thức chấp hành pháp luật của cả người có thẩm quyền và người thực thi còn
yếu kém; việc xử lý lãng phí chưa được đề cao và thường gắn với xử lý tham
nhũng; cơ chế giám sát, xử lý lãng phí còn hạn chế…
Lãng phí được biểu hiện dưới các hình thức: quyết định hoặc tổ chức thực
hiện gây thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...;

168
Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Đà Nẵng, 2009, tr.417
169
Từ điển Hán Việt, Nxb Văn học, H.2007, tr.392

29
đầu tư tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; Mua sắm, sử dụng tài sản
công vượt quy định; Chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc; Sử dụng không
hiệu quả nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động… lãng phí còn là việc sử
dụng tài sản, lương thực, thực phẩm của cá nhân bừa bãi, vượt quá yêu cầu của
các tổ chức, cá nhân làm thất thoát các nguồn lực của xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể đưa là khái niệm: Lãng phí là hành vi quản lý,
sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động, tài nguyên và các nguồn lực
khác của nhà nước, tổ chức, cá nhân không hiệu quả gây ra những thiệt hại cho
xã hội và làm chậm tiến trình phát triển bền vững của xã hội.
1.2. Khái niệm và đặc điểm phòng, chống tham nhũng, lãng phí
1.2.1. Khái niệm phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Tham nhũng và lãng phí có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hành vi tham
nhũng thường đi cùng với hành vi lãng phí. Tham nhũng, lãng phí là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, gây ra những thiệt hại về vật chất, tinh thần cho xã hội,
gây mất ổn định, thậm chí đe dọa tới sự tồn vong của chế độ và được xem là giặc
“nội xâm”. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta phải đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí bao gồm hai phạm trù: Phòng tham
nhũng, lãng phí và chống tham nhũng, lãng phí.
- Phòng ngừa tham nhũng, lãng phí là biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa
sự phát sinh các hành vi tham nhũng, lãng phí (không để tham nhũng, lãng phí
xảy ra).
Ở Việt Nam, Phòng tham nhũng, lãng phí là việc Đảng đưa ra chủ trương,
đường lối, nghị quyết về phòng tham nhũng, lãng phí, chỉ đạo, lãnh đạo các cơ
quan nhà nước và toàn xã hội phòng ngừa hành vi tham nhũng, lãng phí; còn
Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để phòng ngừa tham nhũng,
lãng phí, lãnh đạo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cán bộ, công chức
tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát để phòng ngừa việc tham
nhũng, lãng phí; các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và mọi công

29
dân tiến hành các hoạt động giám sát, phản biện xã hội tham gia vào việc phòng
ngừa tham nhũng, lãng phí với phương châm “phòng là chính”.
Chống tham nhũng, lãng phí là việc Đảng ta đề ra các chủ trương, nghị
quyết về chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng hệ thống cơ quan để trực tiếp
chống tham nhũng, lãng phí, như hệ thống cơ quan Nội chính, hệ thống cơ quan
kiểm tra Đảng từ trung ương tới địa phương để tiến hành các hoạt động thanh tra,
kiểm tra đối với các tổ chức, đảng viên để phát hiện ra các hành vi tham nhũng,
lãng phí và kịp thời xử lý. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí để làm căn
cứ cho việc chống tham nhũng, lãng phí. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như
Thanh tra, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành thanh tra, điều tra, truy tố
và xét xử các vụ án tham nhũng, lãng phí để xử lý các hành vi tham nhũng, lãng
phí. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và
nhân dân tham gia vào việc phát hiện xử lý hành vi tham nhũng, lãng phí, từ đó
góp phần vào việc chống tham nhũng, lãng phí. Phòng tham nhũng, lãng phí và
chống tham nhũng, lãng phí có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ, mật thiết với
nhau.
Phòng tham nhũng, lãng phí là việc ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí từ xa
để hành vi tham nhũng, lãng phí không thể xảy ra, khi hành vi tham nhũng, lãng
phí không xảy ra thì không phải chống tham nhũng, lãng phí, giảm áp lực cho
việc chống tham nhũng, lãng phí.
Ngược lại, chống tham nhũng, lãng phí hỗ trợ cho việc phòng tham nhũng,
lãng phí, tạo lập niềm tin cho các tổ chức, cá nhân làm công tác phòng tham
nhũng, lãng phí, răn đe những người đang có ý định tham nhũng, lãng phí không
dám tham nhũng, lãng phí. Như vậy, có thể nói phòng tham nhũng, lãng phí góp
phần rất quan trọng vào việc chống tham nhũng, lãng phí và chống tham nhũng,
lãng phí cũng góp phần rất quan trọng vào việc phòng tham nhũng, lãng phí.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm phòng, chống tham nhũng,
lãng phí như sau: Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là bao gồm các hoạt động
của hệ thống cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức

29
xã hội và toàn thể nhân dân, dựa vào chủ trương, đường lối của Đảng và căn cứ
vào pháp luật để phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, lãng
phí, nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và của công
dân, bảo vệ thành quả cách mạng, góp phần vào việc giữ vững ổn định và phát
triển của toàn xã hội.
1.2.2. Đặc điểm của phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Thứ nhất, chủ thể tham gia vào phòng, chống tham nhũng, lãng phí rất đa
dạng, phong phú, đó là hệ thống cơ quan Đảng từ trung ương tới địa phương. Bộ
máy nhà nước gồm hệ thống cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực hiện việc
phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân tham gia tích cực vào
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Thứ hai, đối tượng của phòng, chống tham nhũng, lãng phí có số lượng
rất lớn. Đối với phòng, chống tham nhũng là một số cán bộ, công chức, viên
chức có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước; đó là một số cán bộ, công
chức trong các doanh nghiệp nhà nước hoặc đại diện cho Nhà nước trong một số
doanh nghiệp; một số cán bộ, công chức trong các tổ chức chính trị - xã hội, v.v..
Đối với lãng phí đối tượng của phòng, chống lãng phí là tất cả các cơ quan nhà
nước, cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, phạm vi phòng, chống tham nhũng, lãng phí rất rộng, được tiến
hành trên cả nước gồm bộ máy nhà nước ở trung ương, như Chính phủ, các Bộ,
Cơ quan ngang bộ, v.v..; bộ máy nhà nước ở địa phương gồm cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã và các cơ quan, cá nhân, tổ chức tham mưu, giúp việc cho hệ
thống cơ quan này.
Thứ tư, lĩnh vực phòng, chống tham nhũng, lãng phí rất lớn, bao gồm các
lĩnh vực như: đất đai, tài nguyên môi trường, đầu tư xây dựng, tài chính, ngân
hàng, tín dụng, khoa học công nghệ, y tế, đầu tư trong nước, đầu tư ra nước
ngoài, an ninh quốc phòng, v.v..
Thứ năm, trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí sử dụng nhiều hình
thức, biện pháp khác nhau, như Đảng đề ra các chủ trương, đường lối, nghị quyết

29
về phòng chống tham nhũng, lãng phí. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật
ngăn chặn và xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí, hoặc sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhằm phòng chống
tham nhũng, lãng phí, tham gia vào phòng, chống tham nhũng, lãng phí…
1.3. Vai trò và các điều kiện đảm bảo phòng, chống tham nhũng, lãng
phí

1.3.1. Vai trò phòng, chống tham nhũng, lãng phí


Phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai trò vô cùng quan trọng ở nước
ta hiện nay:
Một là, phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai trò thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhận rõ tác
hại của tham nhũng, lãng phí nên Đảng ta, trong các Văn kiện, Nghị quyết, đã
nhấn mạnh tác hại của tệ nạn tham nhũng, lãng phí và vấn đề đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”170.
Như vậy, rõ ràng việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai
trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng
về phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Hai là, phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Trong
những năm qua, ở nước ta nhiều vụ tham nhũng, lãng phí lớn đã được đưa ra ánh
sáng, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã thu được những kết quả to
lớn, đã thu về cho Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng, bảo vệ được các lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân, tạo lập và nâng cao niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí.

170
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, Tập 1, tr.288.

29
Ba là, phòng, chống tham nhũng, lãng phí góp phần quan trọng trong việc
giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ các thành quả của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Tham nhũng, lãng phí ở nước ta hiện nay được xem là “quốc nạn”, là
“giặc nội xâm” vì nó gây ra những thiệt hại rất lớn về tài sản của đất nước, đang
làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, nguy cơ dẫn đến
mất ổn định chính trị xã hội. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai
trò rất lớn trong việc củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ thành quả của cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Bốn là, phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ Nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước. Nghiên cứu vấn đề tham nhũng, lãng phí cho thấy hành vi tham nhũng,
lãng phí nhất là tham nhũng, lãng phí trong khu vực công tập trung vào một số
cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, có thể nói những kẻ tham nhũng, lãng
phí là những “sâu, mọt” đang hàng ngày gặm nhấm và dần dần làm mục ruỗng
bộ máy nhà nước. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng, lãng phí có tác dụng bảo vệ
bộ máy nhà nước, loại bỏ dần những kẻ “sâu, mọt” ra khỏi bộ máy nhà nước. Từ
đó làm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Năm là, phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai trò quan trọng trong
việc ngăn ngừa, xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí của những người có
chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức, thu hồi tài sản về cho
Nhà nước và các tổ chức. Hiện nay tình trạng tham nhũng, lãng phí xảy ra ở một
số cơ quan nhà nước, các tập đoàn kinh tế và một số tổ chức xã hội có những vụ
đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng, lãng phí góp phần vào
việc phòng ngừa, hạn chế và xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng
phí.
Sáu là, phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai trò quan trọng trong
việc thực hiện các cam kết về phòng, chống tham nhũng mà Việt Nam đã ký kết
với nhiều nước trên thế giới và mở rộng hợp tác quốc tế. Trong thế giới đương
đại hiện nay, tham nhũng, lãng phí có mặt ở tất cả các quốc gia trên thế giới, tuy

30
nhiên, ở mỗi nước khác nhau có mức độ biểu hiện khác nhau. Vì vậy, các nước
trên thế giới đã ký kết Công ước về chống tham nhũng và Việt Nam cũng là
thành viên tham gia Công ước chống tham nhũng của Liên Hợp quốc. Như vậy,
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí có vai trò rất lớn trong việc thực
hiện các cam kết quốc tế về phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Việt Nam
với các nước trên thế giới và khu vực. Đặc biệt, các nước trên thế giới hiện nay
rất quan tâm tới các chỉ số minh bạch và việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí
của các nước đang phát triển. Do đó, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí còn có vai trò rất lớn trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc
tế của Việt Nam với các nước trên thế giới.
1.3.2. Các điều kiện đảm bảo phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, cho thấy, để phòng, chống tham
nhũng, lãng phí có hiệu quả cần có những điều kiện đảm bảo sau đây:
Thứ nhất, điều kiện về chính trị
Tham nhũng, lãng phí được thực hiện với những hành vi hết sức tinh vi,
xảo quyệt và có mối quan hệ phức tạp. Vì vậy, để phòng, chống tham nhũng,
lãng phí có hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là Đảng phải đề ra các chủ trương,
đường lối, các quan điểm về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã có nhiều nội dung về đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nên đây là căn
cứ chính trị hết sức quan trọng cho chúng ta tiến hành đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí thu được những kết quả to lớn.
Song song với việc ban hành chủ trương, đường lối thì sự lãnh đạo, chỉ
đạo quyết liệt của các cơ quan Đảng, đặc biệt là của Bộ Chính trị và Ban Bí thư
về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là điều kiện hàng đầu cho sự
thành công của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Thứ hai, điều kiện về pháp luật phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Để phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả thì pháp luật nói chung
và pháp pháp luật phòng, chống tham nhũng, lãng phí nói riêng có vai trò vô
cùng quan trọng, là công cụ hiệu nghiệm bậc nhất trong phòng, chống tham

30
nhũng, lãng phí. Bởi khi chúng ta ban hành pháp luật đầy đủ và chặt chẽ thì
muốn tham nhũng, lãng phí cũng không thể tham nhũng, lãng phí được. Nếu
pháp luật có những hình phạt nghiêm minh đối với hành vi tham nhũng, lãng phí
thì những người có ý định tham nhũng, lãng phí sợ mà “không dám tham nhũng,
lãng phí”; Pháp luật quy định các chính sách, các chế độ đãi ngộ đối với những
người có chức vụ, quyền hạn, đầy đủ rõ ràng, bảo đảm được cuộc sống của bản
thân và gia đình họ thì chắc chắn nhiều người sẽ “không cần tham nhũng”. Vì
vậy, đây là điều kiện không thể thiếu được trong phòng, chống tham nhũng, lãng
phí.
Thứ ba, điều kiện về đội ngũ cán bộ, công chức đấu tranh phòng chống
tham nhũng, lãng phí
Đây là điều kiện vô cùng quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, bởi muốn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu
quả thì cần phải có những con người cụ thể, những cán bộ, công chức cụ thể. Vì
vậy phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí có trình độ năng lực, hiểu biết sâu sắc nhiều lĩnh
vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; phải có phẩm chất đạo đức
tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, dám đương đầu với những nguy hiểm trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Thứ tư, điều kiện về cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, lãng
phí
Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng, lãng phí của các nước trên thế
giới và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam, trong
những năm gần đây, thì một điều kiện rất quan trọng để đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí có hiệu quả thì phải có một cơ quan chuyên trách phòng,
chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước.
Thứ năm, điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn lực tài chính
phục vụ cho việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Để đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí các cơ quan Đảng, Nhà
nước phải sử dụng nhiều công cụ, phương tiện máy móc thiết bị để tiến hành

30
thanh tra, kiểm tra, truy tố, xét xử. Hoạt động này diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa
phương khác nhau, có những vụ rất khó khăn, phức tạp, kéo dài và rất tốn kém.
Vì vậy, cơ sở vật chất trang thiết bị và nguồn lực tài chính là điều kiện không thể
thiếu cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nếu không
quan tâm hoặc thiếu điều kiện này thì công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí sẽ gặp nhiều khó khăn và hiệu quả sẽ không cao.
2. THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ Ở
VIỆT NAM
2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.1.1. Những kết quả đạt được về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam trong
những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. “Công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột
phá, được tiến hành quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết
chặt chẽ giữa “xây” và “chống”171. “Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn
chặn và có chiều hướng giảm”172 . Kết quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí
thể hiện trên một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, về thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan,
tổ chức, đơn vị. Thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhiều Bộ,
ngành, địa phương đã công khai trên trang thông tin điện tử về các văn bản quy
phạm pháp luật; tổ chức các buổi giao lưu trực tuyến để giải đáp những thắc
mắc, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức
cũng thường xuyên tiến hành kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý
các sai phạm trong thực hiện các quy định về công khai, minh bạch đã góp phần
quan trọng vào công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Thứ hai, về xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Thực
hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, các bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh

171
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, Tập 1, tr.77.
172
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, Tập 1, tr.76

30
việc rà soát để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về chế độ, định mức,
tiêu chuẩn trong các lĩnh vực, nhằm phòng ngừa tham nhũng, lãng phí.
Đến nay, hệ thống tiêu chuẩn nhà nước, tiêu chuẩn ngành và các định mức
trong các lĩnh vực chuyên môn đã được xây dựng tương đối đồng bộ hoàn thiện;
giúp cho công tác quản lý, sử dụng kinh phí, tài sản của Nhà nước chặt chẽ, hiệu
quả hơn, góp phần phòng ngừa tham nhũng, lãng phí.
Thứ ba, về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Kiểm soát tài
sản và thu nhập là một trong những giải pháp quan trọng trong phòng, chống
tham nhũng và đang được triển khai rộng rãi trong các cơ quan của Đảng, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang. Việc
kiểm soát tài sản, thu nhập để biết rõ tài sản, thu nhập, biến động về tài sản, thu
nhập, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm của người có nghĩa vụ kê khai
nhằm phòng ngừa tham nhũng, phục vụ công tác cán bộ, kịp thời phát hiện tham
nhũng, ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng.
Có thể nói, việc kê khai tài sản, thu nhập có tác động tích cực đến nhận
thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và cán bộ, công chức về minh
bạch tài sản, thu nhập; có tác dụng tích cực trong phòng ngừa tham nhũng, lãng
phí và giúp cho công tác quản lý cán bộ, đảng viên được chặt chẽ hơn.
Thứ tư, thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, nghị định của Chính
phủ, thông tư hướng dẫn của Bộ Nội vụ về việc xử lý trách nhiệm của người
đứng đầu, nhiều bộ, ngành, địa phương đã ban hành văn bản để cụ thể hóa và
tiến hành xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để
xảy ra tham nhũng, lãng phí và đã xử lý một số người đứng đầu để đơn vị xảy ra
tham nhũng, lãng phí. Điều này đã có tác dụng răn đe, từ đó có tác dụng nâng
cao ý thức trách nhiệm của người đứng đầu trong phòng chống tham nhũng, lãng
phí thuộc cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Thứ năm, về việc đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán
nhằm phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Chương trình phần mềm quản lý, đăng
ký tài sản nhà nước đã được xây dựng và triển khai thực hiện thống nhất trên cả
nước.

30
Tính đến tháng 11 năm 2020, Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công đã lưu
trữ được thông tin về tài sản của 106.820 cơ quan, tổ chức, đơn vị trên phạm vi
cả nước, thuộc phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan trung ương và các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Nhiều địa phương đã tích cực nghiên cứu, áp
dụng các giải pháp kỹ thuật để nâng cao hiệu quả tiết kiệm173.
Thứ sáu, về công tác xử lý các vụ việc tham nhũng và thu hồi tài sản tham
nhũng. Trong những năm qua, nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng,
phức tạp đã được phát hiện và đưa ra xử lý nghiêm minh theo đúng các quy định
của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.
Theo báo cáo tổng kết phong trào chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020
đã tiến hành kỷ luật Đảng hơn 131.000 đảng viên trong đó có nhiều trường hợp
liên quan tới tham nhũng. Còn từ năm 2016 đến nay (tháng 12/2020), kỷ luật
87.000 đảng viên trong đó có hơn 3.200 trường hợp liên quan tới tham nhũng.
Cũng từ năm 2013 đến tháng 12/2020 đã xử lý 110 cán bộ thuộc diện Trung
ương quản lý, trong đó có 27 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương, 4 ủy viên,
nguyên ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng của lực lượng vũ trang 174.
Qua phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng, các cơ quan chức năng đã kiến nghị
khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế - xã hội, góp phần phòng,
chống tham nhũng có hiệu quả, thu về cho ngân sách nhà nước hàng chục ngàn
tỷ đồng. Tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng năm 2016 đạt 26%;
năm 2017, đạt 29,4%; năm 2018, đạt 19%; năm 2019 đạt 47,32%; năm 2020 đạt
38,43%. Từ năm 2016 đến 2020, riêng các vụ việc, vụ án tham nhũng kinh tế
nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo đã
tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản hơn 84.000 tỷ đồng175.
Thứ bảy, về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí: nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
được thực hiện, như: Tổ chức các cuộc họp, các lớp học để tuyên truyền, phổ
173
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2020-11-18/tai-san-cua-hon-100-nghin-
don-vi-cap-nhat-tren-co-so-du-lieu-quoc-gia-95440.aspx.
174
Báo Thanh niên số 348 ra ngày 13/12/2020
175
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, Tập II, tr.210

30
biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí v.v.. qua đó đã góp phần
nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan,
đơn vị, đảng viên, cán bộ, công chức, nhân dân đối với công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
Thứ tám, đặc biệt, trong thời gian gần đây, Đảng ta và nhất là Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt việc đấu tranh, phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã vào cuộc, tiến hành kiểm
tra ở các bộ, ngành, như Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường và ở
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Khánh Hòa, Đồng Nai, Hà Tĩnh, Đà
Nẵng, Vĩnh Phúc, Thành phố Hồ Chí Minh… và đã xử lý kỷ luật một số cán bộ
lãnh đạo được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ.
Thứ chín, từ năm 2016 đến 2020, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều chỉ
đạo để hoàn thiện các luật, quy định về phòng, chống lãng phí. Chương trình
tổng thể về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2020 được triển
khai thực hiện có hiệu quả nhất là trong lĩnh vực phòng, chống lãng phí trong
quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, đầu tư công, quản lý tài nguyên, vốn, tài
sản của nhà nước ở các doanh nghiệp... Các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm, chỉ
đạo và đạt kết quả bước đầu quan trọng.176
2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Một là, Đảng ta đã đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn về phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng và trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII. Đặc biệt, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và trực tiếp
tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Hai là, hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng ngày càng được
hoàn thiện. Trong những năm qua, Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2018 và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013.
Các văn bản hướng dẫn thi hành hai đạo luật này ngày càng được hoàn thiện.

176
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, Tập II, tr.210, 211

30
Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới phòng, chống
tham nhũng như Bộ luật Hình sự, Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai và một số đạo
luật khác đã được sửa đổi, bổ sung tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.
Ba là, trình độ, năng lực, phẩm chất và bản lĩnh của các cán bộ, công chức
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được nâng cao. Đảng và Nhà nước
ta trong những năm qua đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng
lực, chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất và bản lĩnh chính trị cho các cán bộ, công
chức làm công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Bốn là, cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước từng bước được hoàn thiện.
Tham nhũng, lãng phí thường gắn liền với quyền lực, nhất là quyền lực nhà
nước. Trong những năm qua, chúng ta đã xây dựng được cơ chế kiểm soát quyền
lực bên trong bộ máy nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán. Đồng thời, xây dựng và triển khai cơ chế kiểm soát bên ngoài vào bộ máy
nhà nước như giám sát của Mặt trận, Công đoàn, các tổ chức chính trị - xã hội và
toàn thể nhân dân.
Năm là, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Đảng, các cơ quan trong
bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Trong những năm qua, các cơ quan Đảng như Ban Nội
chính, Ủy ban Kiểm tra đã phối hợp khá chặt chẽ với các cơ quan Công an, Viện
Kiểm sát, Tòa án và các tổ chức chính trị - xã hội để thực hiện các nhiệm vụ
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Sáu là, huy động được các cơ quan báo chí, truyền thông và toàn thể nhân
dân tham gia vào đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Báo chí và các
cơ quan truyền thông có vai trò đặc biệt trong phòng, chống tham nhũng, lãng
phí.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phòng,
chống tham nhũng, lãng phí
2.2.1. Những hạn chế trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí

30
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế:
Một là, cho đến nay, quyền tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp
chưa được bảo đảm. Một số cán bộ, công chức lợi dụng quy định về bí mật nhà
nước để che giấu thông tin, nhằm mục đích tham nhũng. Nhiều quy định của
Luật Phòng, chống tham nhũng về công khai, minh bạch chưa được thực hiện
đầy đủ.
Hai là, chế độ, định mức, tiêu chuẩn vẫn còn nhiều nội dung chưa phù hợp
với thực tế, nhất là chế độ lương, phụ cấp, công tác phí cho cán bộ, công chức,
viên chức; định mức chi tiêu hành chính, định mức kinh tế kỹ thuật… chưa phù
hợp. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhũng nhiễu, lãng
phí, gây thất thoát tài sản của Nhà nước.
Ba là, việc kê khai tài sản, thu nhập còn nặng về hình thức; hầu hết các
bản kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa giúp cho các cơ
quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức
vụ, quyền hạn; công tác quản lý, theo dõi việc kê khai, công khai, xác minh về
tài sản, thu nhập chưa có tính hệ thống. Do đó, đến nay vẫn chưa có vụ việc tham
nhũng lớn nào được phát hiện thông qua hình thức này.
Bốn là, số người đứng đầu bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng,
lãng phí ở các cơ quan, đơn vị còn ít. Nguyên nhân là do sự thiếu kiên quyết, nể
nang, né tránh trong xử lý; chủ trương cán bộ lãnh đạo, quản lý “chủ động từ
chức vì lý do trách nhiệm” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa X chưa
đi vào cuộc sống.
Năm là, việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất
là việc kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan,
đơn vị còn yếu; các biện pháp hỗ trợ hoạt động tư pháp còn hạn chế, nhất là công
tác giám định tư pháp trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ
bản, khoa học công nghệ v.v.. Một số trường hợp chưa xử lý triệt để, muốn xử
lý nhẹ, xử lý nội bộ, không muốn chuyển cơ quan chức năng xem xét để xử lý
theo quy định pháp luật.

30
Sáu là, việc thu hồi tài sản do tham nhũng còn gặp rất nhiều khó khăn lượng
tài sản tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng thấp. Thậm chí là không thể thu
hồi được. Thực tế cho thấy, khối lượng tài sản trong các vụ án tham nhũng rất
lớn lên tới hàng ngàn tỷ đồng nhưng tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng bình quân
giai đoạn 2013-2020 đạt 32,04%177. Đặc biệt, một số vụ án tiền, tài sản tham
nhũng thu hồi được nhỏ hơn rất nhiều so với tổng số thiệt hại do các đối tượng
chiếm đoạt, như vụ án xảy ra tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần ACB; Vụ án
“lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Ngân hàng Vietinbank; Vụ án “Cố ý làm
trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”
xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin; vụ án “Cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra
tại Ngân hàng Xây dựng – VNCB; “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, “Vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng”, “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại
Dương – Ocean Bank , vụ án “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng công ty
Hàng hải VN – Vinalines v.v.. thì việc thu hồi tài sản tham nhũng về cho Nhà
nước là rất khó, hạn chế và tỷ lệ không cao
Bảy là, nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng
phí chưa thật sự phong phú, đa dạng, hấp dẫn. Một bộ phận cán bộ, công chức,
viên chức thiếu tự giác trong tuyên truyền phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Một số báo, đài chưa có chuyên trang, chuyên mục về phòng, chống tham nhũng,
lãng phí hoặc đã có nhưng chưa duy trì thường xuyên, nên chưa phát huy hết vai
trò, trách nhiệm trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
2.2. Nguyên nhân của hạn chế trong phòng, chống tham nhũng, lãng
phí ở Việt Nam
Một là, vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn
hóa, xã hội, giữa đổi mới kinh tế với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
177
Báo Thanh niên số 348 ra ngày 13/12/2020

30
có một số mặt còn lúng túng, nên hạn chế cho việc phòng, chống tham nhũng,
lãng phí.
Hai là, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn một số hạn
chế, bất cập.
Cho đến nay, cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm
2013 vẫn chưa được ban hành cụ thể, chi tiết. Một số chủ trương của Đảng về
phân công, phân nhiệm và đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền vẫn
chưa được thể chế hóa kịp thời thành pháp luật.
Pháp luật về giám sát và phản biện xã hội chậm được hoàn thiện, thiếu
một số quy định cụ thể nên chưa phát huy được hết vai trò của công dân và các
tổ chức xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và trong kiểm
soát quyền lực nhà nước.
Pháp luật về tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng còn một số
bất cập, hạn chế, thiếu quy định để cơ quan tư pháp kiểm soát hoạt động của cơ
quan hành pháp, gây khó khăn cho việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí trong lĩnh vực này.
Pháp luật về kinh tế, tài chính còn một số khe hở hoặc không phù hợp nên
một số cán bộ, công chức lợi dụng để tham nhũng, lãng phí. Pháp luật chưa có
quy định cụ thể về xử lý vấn đề lợi ích nhóm, nên rất khó cho việc xử lý hành vi
tham nhũng của một nhóm người. Pháp luật Hình sự chưa ban hành đầy đủ các
quy định để làm cho những kẻ tham nhũng sợ mà không dám tham nhũng.
Ba là, hiện nay chúng ta chưa đề cao vấn đề phòng tham nhũng, lãng phí
mà chủ yếu đề cao chống tham nhũng, lãng phí nhưng về mặt lý luận và thực
tiễn thì phòng tham nhũng, lãng phí là rất quan trọng để tham nhũng, lãng phí
không thể diễn ra, hoặc diễn ra thì chưa gây thiệt hại lớn đã bị phát hiện và xử lý.
Vừa qua, nhiều vụ việc tham nhũng, lãng phí gây hậu quả lớn cho xã hội rồi
chúng ta mới phát hiện, do đó thiệt hại rất lớn cho Nhà nước, cho nhân dân mà
không thể khắc phục được.
Bốn là, một số vụ việc, vụ án chưa có sự phối hợp tốt giữa cơ quan Thanh
tra với cơ quan tiến hành tố tụng (như việc chuyển giao vụ việc có dấu hiệu tham

31
nhũng sang cơ quan điều tra để xem xét khởi tố hình sự) hoặc giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng (như nhận định, đánh giá chứng cứ, tội danh, quan điểm xử lý
vụ án...) dẫn đến việc xử lý một số vụ việc, vụ án thiếu kiên quyết, kéo dài.
Năm là, chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp
lý, chậm được cải cách. Lương không đủ đảm bảo nhu cầu của cuộc sống cho
cán bộ, công chức dẫn đến tình trạng vì cuộc sống của bản thân và gia đình, nên
một số cán bộ, công chức đã có hành vi “tham nhũng vặt”.
Sáu là, giữa quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước với hành động
thực tiễn của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị
trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn có khoảng cách, một số trường
hợp nói không đi đôi với làm. Một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức,
đơn vị và người đứng đầu chưa thực sự quan tâm đúng mức tới công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Còn có sự bao che, thiếu kiên quyết, nể nang, né
tránh trong xử lý các hiện tượng tham nhũng, lãng phí.
Bảy là, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ
nghĩa cá nhân “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ
phận cán bộ đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa bị đẩy lùi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi
thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý hoặc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Tám là, trình độ, năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức và
bản lĩnh của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí trong tình hình hiện nay, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan, đơn vị
có chức năng phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí còn hạn chế.
3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG,
LÃNG PHÍ Ở VIỆT NAM
3.1. Quan điểm về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở
Việt Nam

31
Thứ nhất, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện
nay phải quán triệt các quan điểm của Đảng về phòng chống tham nhũng, lãng
phí
Trong những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ đã đề ra
nhiều chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong các Văn
kiện Đại hội Đảng ta tiếp tục chỉ rõ sự nguy hại của tham nhũng, lãng phí đến sự
tồn vong của chế độ. Đảng ta coi tham nhũng, lãng phí là “quốc nạn” và luôn
khẳng định quyết tâm phòng, chống tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kế thừa và bổ
sung các quan điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: đẩy mạnh đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu là một trong những phương hướng, nhiệm
vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng trong suốt nhiệm kỳ. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực” 178; “Tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện
sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí...kịp thời xử lý,
thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tham nhũng, lãng phí...nâng
cao hiệu quả phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí”179.
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, trong quá trình đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta, cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ
bản sau: Đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí phải kết hợp chặt chẽ giữa xây,
phòng và chống, vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm mọi hành vi tham
nhũng, lãng phí.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí một cách chủ động, huy
động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng trong hệ thống chính trị và toàn dân;

178
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, Tập 1, tr.38
179
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, Tập 1, tr.195, 196.

31
thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế,
hình sự... Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là cuộc đấu tranh phức
tạp, vừa cấp bách, vừa lâu dài, phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, với
những bước đi vững chắc, tích cực có trọng tâm, trọng điểm.
Xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh về trách nhiệm chính trị, hành
chính hoặc hình sự đối với người có hành vi tham nhũng, lãng phí, bất kể người
đó là ai và giữ cương vị gì.
Thứ hai, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cần có trọng tâm,
trọng điểm.
Ở Việt Nam hiện nay, trọng tâm, trọng điểm để đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí là một số người có chức vụ, quyền hạn cao trong bộ máy
nhà nước và bộ máy Đảng, các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế,
những người làm công tác bảo vệ pháp luật có hành vi tham nhũng, lãng phí. Vì
vậy, trước mắt trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cần phải có
trọng tâm, trọng điểm tập trung vào những vấn đề lớn gây bức xúc cho dư luận
và xã hội, gây thiệt hại lớn cho tài sản của nhà nước, tổ chức và nhân dân.
Thứ ba, người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí phải liêm khiết và có bản lĩnh.
Đối với Việt Nam, để phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả,
những người đứng đầu Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, các
cấp, các ngành mà trong sạch, có quyết tâm mạnh mẽ và thực sự vào cuộc thì
cuộc đấu tranh này chắc chắn sẽ thành công.
Thứ tư, phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện nay phải sử
dụng sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.
Để phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta hiện nay có hiệu quả,
cần thấu suốt quan điểm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn thể nhân dân và
của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sức mạnh của các phương tiện thông tin đại
chúng trong việc phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí.
Thứ năm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải sử dụng mạnh mẽ
phương tiện pháp luật một cách có hiệu quả và không ngừng đổi mới.

31
Quán triệt quan điểm này trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, một
mặt phải bịt kín các lỗ hổng về phương diện pháp lý trên tất cả các lĩnh vực quản
lý nhà nước, từ kinh tế, văn hóa, xã hội và tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà
nước. Mặt khác, phải hoàn thiện pháp luật trực tiếp phục vụ cho việc phòng,
chống tham nhũng, lãng phí như quy định rõ các hành vi tham nhũng, lãng phí,
chế tài xử lý nghiêm minh; pháp luật về tố tụng, điều tra, truy tố, xét xử nhanh
chóng, kịp thời; thu hồi được đầy đủ tài sản tham nhũng và pháp luật phải
thường xuyên hoàn thiện.
3.2. Các giải pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở
Việt Nam
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí
Từ thực tế cho thấy, trong những năm gần đây khi các cơ quan của Đảng
từ Trung ương đến địa phương chỉ đạo quyết liệt và đề cao quyết tâm chính trị
trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí thì công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí thu được những kết quả lớn. Vì vậy, cần thực hiện những biện pháp cụ
thể:
- Đưa những cán bộ có trình độ, có bản lĩnh chính trị, trong sạch, liêm
khiết vào các cơ quan phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Đảng và giữ vai
trò chủ chốt trong các cơ quan này.
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy tổ chức đảng, các đảng viên
là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng
phí.
- Bí thư cấp ủy, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền các cấp phải
thật sự gương mẫu và dành thời gian thích đáng để lãnh đạo, chỉ đạo công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng,
tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; mở rộng dân chủ, tạo đồng
thuận cao trong nhận thức và quyết tâm phòng, chống tham nhũng lãng phí.

31
Tăng cường vai trò của Ủy ban Kiểm tra các cấp trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí và
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan
Thứ nhất, hoàn thiện Luật Phòng, chống tham nhũng.
Một là, cần phải quy định một cách toàn diện, bao quát các biện pháp để
bảo đảm thực hiện việc công khai, minh bạch đầy đủ, kịp thời các hoạt động của
cơ quan, tổ chức, đơn vị để mọi người biết.
Hai là, cần quy định các biện pháp hữu hiệu để quản lý, xác minh các tài
sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn; xây dựng các cơ quan, tổ
chức chuyên trách quản lý, xác minh tính trung thực, chính xác của các bản kê
khai tài sản, thu nhập.
Ba là, cần quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền trong việc xác minh phản ánh, tin báo, kiến nghị của người dân, báo chí…
Quy định rõ người thực hiện việc xác minh tài sản, thu nhập phải có trình độ
chuyên môn, có nghiệp vụ, phải có phẩm chất đạo đức và có bản lĩnh vững vàng
không bị mua chuộc v.v..
Bốn là, quy định cụ thể cơ chế xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung
thực và không được giải trình một cách hợp lý
Cần đưa ra cơ chế thừa nhận việc tố cáo tham nhũng nặc danh thì sẽ phát
huy hiệu quả, tạo điều kiện cho người dưới quyền, người dân dám nói lên sự
thật, dám tố cáo người có hành vi tham nhũng.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật hình sự: Bổ sung trách nhiệm hình sự của
pháp nhân đối với tội đưa hối lộ và xây dựng chế tài hình sự thích hợp đối với
pháp nhân đưa hối lộ. Ban hành những hình phạt nghiêm khắc như “tù chung
thân không giảm án” đối với hành vi tham nhũng để răn đe người có ý định tham
nhũng sợ mà không dám tham nhũng.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật hành chính:
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện một bước hệ thống pháp luật
hành chính, nhất là thủ tục hành chính. Kiểm soát các quy định thủ tục hành

31
chính ngay từ khâu dự thảo; công khai, minh bạch thủ tục hành chính.
Thứ tư, hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan.
- Đối với pháp luật về tài chính: Cần hoàn thiện cơ chế pháp lý về chi tiêu
bằng thẻ tín dụng mà không dùng cơ chế tiền mặt. Như vậy, mới có thể kiểm
soát chặt chẽ các nguồn tiền, nhất là nguồn tiền do tham nhũng mà có.
- Đối với pháp luật về đất đai: Cần nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện Luật
Đăng ký bất động sản để thống nhất quản lý đất đai và tài sản gắn liền với đất
cùng với Luật Thuế sử dụng đất, Luật về nhà ở nhằm bảo đảm sự quản lý chặt
chẽ đất đai và bất động sản; giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất đều vận hành theo
cơ chế thị trường để hạn chế tham nhũng trong lĩnh vực đất đai.
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống hiệu
quả tham nhũng, lãng phí
Tham nhũng, lãng phí bao giờ cũng gắn với những người có chức vụ,
quyền hạn, nhất là những người nắm giữ quyền lực nhà nước. Vì vậy, phải xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực. Nếu quyền lực được kiểm soát
tốt thì không thể lợi dụng quyền lực nhà nước để tham nhũng, lãng phí. Để thực
hiện giải pháp này, cần:
Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp về nguy
cơ tham nhũng, lãng phí từ sự tha hóa quyền lực nhà nước và vai trò kiểm soát
quyền lực nhà nước trong phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phát huy cơ chế này trong phòng, chống
tham nhũng, lãng phí ở nước ta hiện nay. Vì vậy, cần tập trung vào hoàn thiện cơ
cấu, tổ chức, hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và việc
thực hiện các quyền kiểm soát lẫn nhau giữa ba cơ quan.
Ba là, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng phải bảo đảm được quyền lực nhà nước
là thống nhất vì quyền lực là của nhân dân.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế pháp lý về sự kiểm soát của Đảng Cộng sản đối
với cơ quan nhà nước. Với tư cách là một đảng cầm quyền duy nhất, quyền lực

31
của Đảng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lực nhà nước. Do vậy, để có thể
kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả, đã đến lúc chúng ta cần xây
dựng một cơ chế pháp lý về sự kiểm soát quyền lực của Đảng đối với Nhà nước.
Năm là, cần tăng cường sự giám sát của nhân dân và các cơ quan truyền
thông đối với các cơ quan nhà nước, góp phần vào việc kiểm soát quyền lực nhà
nước.
3.2.4. Xây dựng cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, lãng
phí để xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí
Học tập kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, ở Việt Nam, để
phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả, cần xây dựng cơ quan phòng,
chống tham nhũng, lãng phí riêng. Theo chúng tôi, nên thành lập một cơ quan
phòng, chống tham nhũng, lãng phí trực thuộc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước. Cơ
quan này có quyền thanh tra, kiểm tra, khởi tố các hành vi có dấu hiệu tham
nhũng, lãng phí đối với tất cả các cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và
hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương. Những người làm việc trong
các cơ quan này phải có trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp sâu trong nhiều
lĩnh vực, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và
nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Có cơ chế pháp lý
đặc biệt riêng cho cơ quan này để đảm bảo cho cơ quan này hoạt động có hiệu
quả.
3.2.5. Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và xử lý
nghiêm minh đối với các hành vi tham nhũng, lãng phí
Thực tiễn phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở các nước cũng như ở nước
ta cho thấy hiệu quả của cuộc đấu tranh này cũng phụ thuộc rất lớn vào thái độ
của người đứng đầu cơ quan Đảng và Nhà nước cũng như chế tài xử phạt. Nếu
người đứng đầu có thái độ kiên quyết, không nửa vời, gương mẫu không tham
nhũng, lãng phí và có sự đồng thuận của toàn xã hội, thì công cuộc phòng, chống
tham nhũng, lãng phí sẽ đạt hiệu quả tốt.
Mặt khác, các chế tài xử phạt đối với hành vi tham nhũng, lãng phí
nghiêm minh sẽ có tác dụng lớn đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng,

31
lãng phí. Thêm vào đó, cần đào tạo một đội ngũ thẩm phán chuyên xét xử các tội
phạm tham nhũng, lãng phí. Đội ngũ này gồm những người thực sự trung thực,
trong sạch, có bản lĩnh chính trị, có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn để xử
lý nghiêm minh đối với các tội phạm tham nhũng, lãng phí.
3.2.6. Hoàn thiện chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, công
chức, viên chức.
Đây được xem là một phương án phòng, chống hữu hiệu đối với nạn tham
nhũng. Bởi một trong những nguyên nhân sâu xa của những hiện tượng tham
nhũng, đó là chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý,
chưa đáp ứng được những nhu cầu cơ bản thiết yếu của họ. Vì vậy, cần phải
hoàn thiện các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức; nâng mức
lương của cán bộ, công chức đủ nuôi sống bản thân, gia đình và có tích luỹ thì
mới hạn chế được tham nhũng.
3.2.7. Nâng cao trình độ năng lực và có chế độ khen thưởng đối với
những cán bộ, công chức làm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Để phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả thì Đảng và Nhà nước
cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho
những cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng
phí. Rèn luyện bản lĩnh chính trị, không khoan nhượng trong phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích những người làm công tác
kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý tham nhũng cũng như chế độ khen thưởng, đề
bạt kịp thời những cán bộ, công chức có thành tích trong phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Đồng thời có cơ chế bảo vệ đối với những người tích cực đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí cũng như gia đình họ. Đồng thời, xử lý
nghiêm những người lợi dụng chống tham nhũng, lãng phí để vu khống, gây mất
đoàn kết nội bộ.
3.2.8. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo
dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán

31
bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; kiên trì giáo
dục, rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham
nhũng, lãng phí trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN
1. Phân tích đặc điểm, vai trò và điều kiện phòng, chống tham nhũng, lãng
phí ở Việt Nam hiện nay?
2. Phân tích các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để phòng, chống
tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện nay?
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nêu khái niệm, phân tích các đặc điểm, vai trò, điều kiện đảm bảo
phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện nay?
2. Phân tích những thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân trong phòng,
chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam?
3. Phân tích các quan điểm và giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng
phí ở Việt Nam?
E. TÀI LIỆU HỌC TẬP
* Tài liệu bắt buộc
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Trung cấp lý luận
chính trị, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2021
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Tập I, II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
3. Quốc hội, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
4. Quốc hội, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013
* Tài liệu đọc thêm
1. Ban Nội chính Trung ương: Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn 30
năm đổi mới (1986-2016) về Tư pháp - Nội chính – Phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
2. Nguyễn Phú Trọng, Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.
3. Báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học cấp bộ (trọng điểm):

31
Những giải pháp đột phá phòng, chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước
ở Việt Nam, đề tài do PGS,TS Nguyễn Cảnh Quý chủ nhiệm, Cơ quan chủ
trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nghiệm thu năm 2018).

32
Bài 11
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức: Trang bị kiến thức cơ bản về quyền con người và bảo
đảm quyền con người; quan điểm, chính sách, pháp luật, thực tiễn bảo đảm
quyền con người và phương hướng, nhiệm vụ cơ bản bảo đảm quyền con người
ở Việt Nam hiện nay.
2. Về kỹ năng: Nâng cao năng lực phân tích, đánh giá việc bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam hiện nay và có khả năng liên hệ thực tiễn với lĩnh vực mà
mình phụ trách.
3. Về thái độ: Củng cố niềm tin, thái độ của người học về tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người theo quan điểm của Đảng, Nhà nước ta.
B. NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người có lịch sử phát triển lâu đời, nội dung rộng lớn, bao quát
hầu hết các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trải qua
hàng nghìn năm đấu tranh của loài người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội
con người ngày càng ý thức sâu sắc hơn về những khát vọng của tự do, công lý,
bình đẳng, ý thức về quyền con người, trong đó có quyền được sống trong nhân
phẩm đã trở thành động lực trong các cuộc đấu tranh cách mạng chống lại cường
quyền, áp bức và nô dịch con người.
Khái niệm quyền con người hiện nay được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau như tôn giáo, chính trị, văn hóa, pháp lý... Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới
góc độ nào, thì khía cạnh chung, bao trùm nhất của quyền con người được cộng

32
đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận đó là những đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn
từ phẩm giá vốn có của mọi thành viên trong gia đình nhân loại, và nếu con
người không có các quyền con người, thì không thể tồn tại; quyền con người gắn
liền với hành động công nhận, thừa nhận chứ không phải là ban phát, từ chối
hay tước đoạt vô cớ từ quyền lực nhà nước hay bất kỳ thực thể nào khác trong xã
hội; do đó quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật, bằng nhà nước
pháp quyền. Do vậy, có thể hiểu: Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên,
bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và
quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ bằng pháp luật hệ thống pháp luật quốc
gia và quốc tế.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền con người
1.1.1.1. Tính phổ biến và tính phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử, văn hóa, dân
tộc, tôn giáo: Tính phổ biến có nghĩa là quyền con người thuộc về tất cả mọi
người, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
hoàn cảnh kinh tế và các điều kiện khác; đã là con người thì đều được hưởng các
quyền của con người. Tuy nhiên, nội dung, mức độ bảo đảm thực hiện của quyền
con người lại phụ thuộc vào sự khác biệt về lịch sử, trình độ phát triển kinh tế,
truyền thống pháp lý, văn hóa, dân tộc, tôn giáo ở mỗi quốc gia.
1.1.1.2. Tính không thể chuyển nhượng: Các quyền con người đều là những
quyền không thể ban phát, thương thuyết hay tùy tiện tước đoạt, vì nó thuộc sở
hữu vốn có của mỗi người, bất kể địa vị của họ trong nền văn hóa hay hệ thống
pháp luật. Cũng không thể lấy quyền của người này chuyển giao cho người khác.
1.1.1.3. Tính không thể phân chia: Các quyền con người dù ở lĩnh vực
chính trị, dân sự hay kinh tế, xã hội và văn hóa thì chúng đều có giá trị và tầm
quan trọng như nhau; không quyền nào quan trọng hơn quyền nào. Tuyên bố và
chương trình hành động Viên (1993) đã khẳng định: “Cộng đồng quốc tế phải xử

32
lý quyền con người trên phạm vi toàn cầu một cách công bằng, bình đẳng và coi
trọng như nhau180”.
1.1.1.4. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa là tổng thể không thể tách
rời, quan hệ, phụ thuộc và tác động lẫn nhau; quyền này phụ thuộc vào quyền kia
và ngược lại; bảo đảm thực hiện tốt quyền chăm được chăm sóc sức khỏe, sẽ
thúc đẩy quyền được tiếp cận giáo dục, hay thực hiện tốt quyền được tiếp cận
thông tin, sẽ thúc đẩy cơ hội tìm kiếm việc làm, phát triển kinh tế, xã hội…
Ngược lại, sự vi phạm một quyền nào cũng sẽ tác động tiêu cực đến các quyền
khác.
1.2. Khái niệm và tầm quan trọng của bảo đảm quyền con người
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người
Về mặt pháp luật, thuật ngữ “bảo đảm quyền con người” gắn liền với nghĩa
vụ của nhà nước và đã được công nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013:
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân” (Điều 3). Nhà nước
bảo đảm quyền con người thông qua các biện pháp luật pháp, chính sách, thể chế
và các biện pháp khác phù hợp với các quan điểm của Đảng và Hiến pháp, pháp
luật.
Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và các văn kiện nhân quyền
quốc tế, bảo đảm quyền con người bao hàm các nội dung chủ yếu sau: i) Chủ thể
có nghĩa vụ hàng đầu trong bảo đảm quyền con người là các quốc gia (nhà nước)
thành viên của Liên hợp quốc và thành viên của các Công ước; bên cạnh đó còn
có nghĩa vụ của các chủ thể khác, như các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp;
các tổ chức quốc tế; các doanh nghiệp; và các gia đình; ii) Các quyền được bảo
đảm là các quyền được ghi nhận trong các văn kiện nhân quyền quốc tế, trong
Hiến pháp và pháp luật quốc gia; chủ thể hưởng thụ quyền này là các cá nhân và
180
N.trên, tr.44

32
nhóm xã hội; iii) Biện pháp bảo đảm là tổng hợp các biện pháp về lập pháp, hành
pháp, tư pháp và các biện pháp thích hợp khác; iv) Quá trình bảo đảm phải tuân
thủ nguyên tắc và tiêu chuẩn chung về quyền con người, chẳng hạn nguyên tắc
bình đẳng và không phân biệt đối xử; nguyên tắc nghĩa vụ quốc gia v.v...
Từ những lập luận trên có thể quan niệm: Bảo đảm quyền con người là việc
các chủ thể có nghĩa vụ, áp dụng tổng thể các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư
pháp và các biện pháp thích hợp khác nhằm hiện thực hóa các quyền đã được
pháp luật quốc gia và quốc tế công nhận.
Hiện nay, bảo đảm quyền con người đòi hỏi các nhà nước phải thực hiện
đầy đủ các cấp độ nghĩa vụ: tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền con người
và thực hiện quyền con người, như: ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp
và luật; giáo dục quyền con người; ngăn ngừa, trừng phạt các hành vi vi phạm
quyền con người cả ở khu vực công cũng như khu vực tư; tạo điều kiện thuận lợi
để người dân được hưởng các quyền con người trong các chương trình phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa.
1.2.2. Ý nghĩa và tầm quan trọng của bảo đảm quyền con người
+ Bảo đảm quyền con người là mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội. Theo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội gắn liền
với cuộc đấu tranh giành và bảo vệ các quyền con người, trước hết cho giai cấp
công nhân và người lao động. Việc giành những quyền tự do như tự do báo chí,
tự do lập hội và tự do hội họp, quyền đầu phiếu phổ thông - những quyền mà nếu
không có nó giai cấp tư sản vẫn có thể làm được công việc của mình, nhưng nếu
không có chúng thì công nhân sẽ không bao giờ có thể giải phóng được mình…
Tự do báo chí, quyền lập hội, giáo dục phổ thông toàn dân, đó là chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa xã hội181.
+ Bảo đảm quyền con người là một nội dung cơ bản của của nguyên tắc
tiến bộ và công bằng xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội, giải phóng con người
181
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.6, Hà Nội.1994, tr.98&313

32
là các mục tiêu mang tính nguyên tắc của quá trình phát triển hiện nay. Tình
trạng bất công xã hội, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo đều có một nguyên
nhân cơ bản là bỏ qua các nguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền con người trong
thực thi chính sách, pháp luật vì mục tiêu phát triển. Ở Việt Nam, Đảng ta đã
nhấn mạnh: Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân; xây dựng các thể
chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ. Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng,
có khả năng bảo vệ và giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu
thế, dễ bị tổn thương vượt qua khó khăn trong đời sống 182. Chính vì thế thực hiện
tốt nguyên tắc hiến định về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người còn là tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống hằng ngày, phản ánh bản
chất nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, văn minh và công bằng xã hội của chế độ
XHCN ở nước ta.
+ Bảo đảm quyền con người là yêu cầu của phát huy dân chủ và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, dân chủ, pháp
quyền và quyền con người có mối quan hệ biện chứng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra 183. Tiếp tục quan
điểm này, Đại hội lần thứ XII của Đảng ta đã khẳng định: Thể chế hóa và nâng
cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh
thần của Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa
vụ của công dân184.

182
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà
Nội.2011, tr.228
183
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.2011, t.6, tr.232
184
https://nhandan.com.vn/dang-va-cuoc-song/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-
tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-258476/ (truy cập ngày 24/12/2020)

32
1.3. Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người
1.3.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành: Pháp luật quốc tế về quyền con
người có nguồn gốc từ luật nhân đạo quốc tế. Việc thiết lập các chuẩn mực quốc
tế về quyền con người gắn liền với sự ra đời và phát triển của luật quốc tế hiện
đại với những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm chấm dứt hành động
tàn bạo khủng khiếp và các hành động diệt chủng của Chủ nghĩa phát xít trong
cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ II (1945). Các quốc gia nhận thức sâu sắc về hậu
quả của sự không liên kết trong việc bảo vệ hòa bình và nhân phẩm con người,
đã tạo ra một bước ngoặt dẫn tới sự ra đời của Liên hợp quốc - tổ chức quốc tế
lớn nhất hiện nay, với cam kết bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người.
Như vậy, vấn đề tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người từ
đây đã chính thức được đặt trên nền tảng Hiến chương Liên hợp quốc và luật
quốc tế hiện đại, mở đầu cho sự hình thành ngành luật quốc tế về quyền con
người.
1.3.2. Hệ thống các văn bản của Liên hợp quốc về quyền con người. Đến
nay, Liên hợp quốc đã xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật về
quyền con người, bao gồm:
a) Các văn bản có giá trị giàng buộc pháp lý, như Công ước, Nghị định thư.
Chẳng hạn: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR, 1966);
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICSCR, 1966); Công
ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc (ICERD, 1965);
Công ước quốc tế về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW, 1979); Công ước về quyền trẻ em (CRC, 1989); Công ước chống tra
tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn nhẫn vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm (CAT, 1984) v.v…
b) Các văn bản có giá trị chính trị, đạo đức (không có giá trị giàng buộc),
như: Tuyên ngôn, tuyên bố. Chẳng hạn: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
(UDHR, 1948); Tuyên bố Viên và chương trình hành động (1993); Tuyên bố về

32
quyền của các nhóm thiểu số về chủng tộc, dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ (1992);
Tuyên bố về quyền phát triển (1986) v.v…
1.3.2. Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền
con người. Trong thời đại ngày nay, giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
về quyền con người có mối quan hệ tác động, gắn bó và thúc đẩy lẫn nhau, được
thể hiện trên các phương diện sau: i) Luật quốc tế về quyền con người thúc đẩy
sự phát triển của luật quốc gia về quyền con người; ii) Luật quốc gia về quyền
con người thúc đẩy sự hình thành và phát triển luật quốc tế về quyền con người;
iii) Luật quốc gia về quyền con người có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc
thực hiện luật quốc tế về quyền con người.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hệ thống các văn bản pháp luật (quốc gia
và quốc tế về quyền con người) thì Điều ước quốc tế giữ một vị trí quan trọng
đặc biệt. Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng đã khẳng định: tôn trọng và thực
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết185. Phù hợp với
quan điểm trên, Luật Điều ước quốc tế (2016) của Việt Nam quy định: Trường
hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì
áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp (Điều 6, khoản 1). Như
vậy, theo quy định này thứ tự áp dụng các điều ước quốc tế (bao gồm các Điều
ước quốc tế về quyền con người được xếp thứ 2, sau Hiến pháp, tiếp đó mới đến
các luật, bộ luật.
1.3.3. Các quyền con người trong pháp luật quốc tế

185
1. https://nhandan.com.vn/dang-va-cuoc-song/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-
khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-258476/ (truy cập ngày 22/12/2020). Đến
nay Nhà nước Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con
người như: Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD), 1965; Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa năm 1966; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW),
1979; Công ước quốc tế về chống tra tấn và Trừng phạt hoặc Đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất
phẩm giá con người, 1985; Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989; Công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật, năm 2007

32
Pháp luật quốc tế về quyền con người (Tuyên ngôn Thế giới về quyền con
người năm 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công
ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966; và các công ước quốc
tế khác…), thiết lập một loạt các quyền và tự do cơ bản của con người về chính
trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương:
a) Các quyền chính trị, dân sự, như: quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia
công việc quản lý của nhà nước; quyền sống; quyền tự do và an ninh cá nhân;
quyền không bị tra tấn; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền tự do đi lại, cư
trú; quyền tự do lập hội, hội họp hòa bình; quyền tự do ngôn luận, bày tỏ chính
kiến; quyền bí mật đời tư; quyền bình đẳng trước tòa và được xét xử công bằng
v.v…;
b) Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, như: quyền về việc làm; quyền có
mức sống thích đáng; quyền được giáo dục; quyền được chăm sóc sức khỏe;
quyền được thành lập và gia nhập công đoàn; quyền được hưởng an sinh xã hội;
quyền được tham gia vào đời sống văn hóa; quyền được hưởng các lợi ích của
tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó v.v…;
c) Quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như: quyền của phụ nữ, quyền
trẻ em; quyền của người khuyết tật; quyền của người cao tuổi; quyền của các
nhóm thiểu số về dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ; quyền của người sống chung với
HIV/AIDS; quyền của người lao động di trú; quyền của người đồng tính, song
tính và chuyển giới v.v…
2. BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con
người
Dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền
thống dân tộc, chuẩn mực quốc tế và khát vọng chung của nhân loại, cũng như
xuất phát từ thực tiễn đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã hình thành hệ

32
thống quan điểm cơ bản về quyền con người và bảo đảm quyền con người. Quan
điểm của Đảng về quyền con người được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011); trong các Văn kiện của Đảng từ Đại hội toàn quốc lần VII, VIII, IX, X,
XI, XII và XIII; đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Ban bí thư Trung ương Đảng đã
ban hành 02 Chỉ thị chuyên biệt về quyền con người, Chỉ thị số 12-CT/TW ngày
12-7-1992 về Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta;
Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20-7-2010 về Công tác Nhân quyền trong tình hình
mới. Có thể rút ra một số quan điểm cơ bản sau đây:
2.1.1. Quyền con người là giá trị chung của nhân loại và trong xã hội có
phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con người mang tính giai cấp
Tổng kết lịch sử và những thành tựu nghiên cứu lý luận, khoa học, Đảng ta
đã khẳng định, quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại
của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và cũng là thành
quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con
người trở thành giá trị chung của nhân loại. Trong xã hội có phân chia giai cấp,
khái niệm quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc186.
2.1.2. Quyền con người được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật
Phù hợp với nguyên tắc pháp quyền trong bảo vệ, bảo đảm quyền con
người, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991) khẳng định: Nhà nước xây dựng các đạo luật nhằm xác định quyền con
người, quyền công dân. Theo tinh thần này, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy
định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp, pháp luật (Điều 14, khoản 1).

186
Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng thường trực: Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng ta về “Vấn đề quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta”, Nxb Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.2012, tr. 12,13.

32
2.1.3. Quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
Phù hợp với tư tưởng của Lênin về quyền tự quyết dân tộc và các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Đảng ta đã khẳng định:
Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền
quốc gia187. Trong thế giới hiện đại, Bộ luật nhân quyền quốc tế đã ghi nhận, tất
cả các dân tộc đều có quyền tự quyết; bảo đảm quyền con người là trách nhiệm
hàng đầu của các quốc gia.
2.1.4. Quyền con người là bản chất của chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, lịch sử bảo vệ quyền con người
gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp; thực hiện
nguyên tắc: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người. Kiên định quan điểm nêu trên và từ thực tiễn đấu tranh
cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: Đối với chúng ta,
vấn đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội,
từ bản chất của chế độ ta. Chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
thì quyền con người mới được bảo đảm rộng rãi và đầy đủ nhất188.
2.1.5. Quyền con người gắn với lịch sử truyền thống và phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia
Tôn trọng, bảo đảm các quyền phổ biến như đã được công nhận trong pháp
luật quốc tế về quyền con người đòi hỏi phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử
cụ thể, do vậy, Đảng ta đã khẳng định: Quyền con người luôn gắn liền với lịch
sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất
nước. Không thể áp đặt hay sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước
này cho nước khác189
2.1.6. Quyền của cá nhân không tách rời nghĩa vụ của con người, công dân

187
Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng thường trực: Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng ta về “Vấn đề quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta”, Nxb Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.2012, tr.13.
188
N.trên, tr.13,14.
189
N.trên, tr.13.

33
Trong truyền thống văn hóa của nhiều quốc gia, con người, công dân không
chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ với nhà nước, xã hội. Pháp luật quốc tế về
quyền con người trong thế kỷ XX cũng đã khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa
quyền và nghĩa vụ. Đối với Việt Nam, Đảng ta đã nhấn mạnh: Quyền dân chủ, tự
do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ
phải đi đôi với kỷ luật, pháp luật190.
2.2. Khuôn khổ pháp lý về quyền con người trong thời kỳ đổi mới, hội
nhập quốc tế
Trên cơ sở quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã thể
chế hóa thành pháp luật về quyền con người và bảo đảm quyền con người.
2.2.1. Hiến pháp và các luật, bộ luật.
2.2.1.1. Hiến pháp: Quyền con người, quyền công dân là một nội dung cơ
bản cấu thành hiến pháp. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quyền con người,
quyền công dân được quy định tại Chương 2, Hiến pháp năm 1946; Chương 5,
Hiến pháp năm 1959, năm 1980 và năm 1992; Chương 2, Hiến pháp năm 2013.
Tuy nhiên, về mặt thuật ngữ “quyền con người”, lần đầu tiên được công nhận và
quy định tại Điều 50, Hiến pháp năm 1992 như sau: “Ở nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá
và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật”. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã có
nhiều bổ sung quan trọng về quyền con người cho phù hợp với các công ước
quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam là thành viên; phân biệt rõ
hơn khái niệm, chủ thể của quyền con người và quyền công dân; quy định về
nguyên tắc hạn chế quyền; đặt trọng tâm trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước
trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quy định một số quyền
mới: quyền sống; quyền bí mật đời tư; quyền về an sinh xã hội; quyền xác định
dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp…
190
N. trên, tr.13

33
2.2.1.2. Các luật và bộ luật. Phù hợp với Hiến pháp, quyền con người,
quyền công dân ở Việt Nam được bảo đảm trong các luật và bộ luật, như: Bộ
luật Hình sự và Tố tụng hình sự; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Thi
hành án hình sự; Bộ luật dân sự và Tố tụng dân sự; Bộ luật Lao động; Luật Bầu
cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Luật Hành chính; Luật Hôn nhân
và Gia đình; Luật Đất đai; Luật Bình đẳng giới; Luật Báo chí; Luật Tiếp cận
thông tin; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo…
2.3. Kết quả và hạn chế trong bảo đảm quyền con người thời kỳ đổi
mới

2.3.1. Kết quả


* Các quyền chính trị, dân sự đã được bảo đảm một cách chủ động trong
xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Chẳng hạn, việc bảo đảm quyền sống
như đã được quy định tại Điều 19, Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Bên cạnh
việc bảo đảm quyền này trong lĩnh vực tư pháp hình sự như trừng phạt nghiêm
khắc các hành vi tước đoạt mạng sống tùy tiện; nghiêm cấm tra tấn nhục hình;
chỉ áp dụng án tử hình với các loại tội đặc biệt nghiêm trọng nhất; tiếp tục bỏ án
tử hình ở 08 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi,
phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở
lên khi phạm tội...Việc bảo đảm quyền sống còn được quan tâm về khía cạnh
kinh tế, xã hội thông qua việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, các
chương trình xóa đói, giảm nghèo; tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh; thực hiện các biện pháp cứu trợ
khẩn cấp đối với những vùng chịu thiệt hại nặng do thiên tai. Vì vậy, trong thời
kỳ đổi mới tỷ lệ đói nghèo và tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh giảm đáng kể,
chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện rõ rệt. Đến năm 2015 Việt
Nam đã đạt Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về tử vong mẹ, giảm ¾ so với tỷ lệ

33
năm 1990; tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi đã giảm xuống 22,1% 191...Hoặc, đối với
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý vững
chắc về bảo đảm quyền này trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo năm 2016 và Nghị định 162/2017 của Chính phủ. Lần đầu tiên pháp luật
Việt Nam quy định tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại. Pháp luật đã
điều chỉnh nhiều quy định về thời gian, thủ tục để tạo thuận lợi cho các hoạt
động tôn giáo. Đến năm 2018 đã có 42 tổ chức thuộc 15 tôn giáo được công
nhận tư cách pháp nhân. Hiện đang có 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Giáo hội Phật giáo Hòa hảo. Tính đến năm 2017, tổng diện
tích đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng là 14.850 ha, thuộc 7.102 tổ chức, cơ sở
tôn giáo. Tự do tôn giáo của các dân tộc thiểu số được bảo đảm... 192. Ngoài ra,
việc bảo đảm nhiều quyền khác cũng đem lại những kết quả tích cực, như quyền
bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do và an ninh cá
nhân; quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin; quyền tự do kết hôn và
lập gia đình; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền được suy đoán vô tội; quyền được
biết mình bị bắt, khởi tố về tội gì; quyền được bào chữa và trợ giúp pháp lý;
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền được tự trình
bày lời khai, ý kiến; quyền được xét xử công bằng...
* Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đã được bảo đảm một cách tích cực
trong triển khai pháp luật, chính sách, như quyền thoát nghèo; quyền về việc
làm, thu nhập; quyền sở hữu; quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được
học tập, giáo dục; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa…Theo Báo cáo
quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát
định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, tỷ lệ nghèo về thu nhập đã giảm nhanh trong
suốt giai đoạn từ năm 1998-2016. Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% năm 2015
xuống 9,2% năm 2016 và 7,69% năm 2017. Về việc làm, năm 2017 cả nước có

191
Bộ Ngoại giao, Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định
kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, Hà Nội.2018, tr.33.
192
Nt, tr. 24-26

33
khoảng 1.641.000 lao động được tạo việc làm (tăng 1,5% so với năm 2016),
trong đó số lao động được tạo việc làm trong nước khoảng 1.505.000 người, tỷ lệ
thất nghiệp duy trì ở mức thấp (2,1-2,3%). Số người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp tiếp tục tăng (từ 9,219.753 người năm 2014 lên 11.954.740 người năm
2017)…193. So với trước đổi mới, đặc biệt trong khoảng 20 năm trở lại đây, đời
sống của nhiều tầng lớp nhân dân, kể cả ở các vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu,
vùng xa đã được cải thiện đáng kể; nhiều quyền đã được bảo đảm với các chi phí
phù hợp.
* Quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như: phụ nữ, trẻ em, người
nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có
HIV/AIDS…luôn có một vị trí quan trọng trong quá trình thực thi pháp luật,
chính sách của Đảng, nhà nước ta. Trên thực tế quyền của các nhóm này đã đạt
được nhiều kết quả tích cực xét theo các tiêu chí, như: tăng cường mức độ sẵn có
của các dịch vụ; khả năng tiếp cận bình đẳng và chất lượng các dịch vụ, cơ hội;
mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội; chi phí phù hợp…Chẳng hạn, đối
với quyền phụ nữ. Trong tổng số 15.514.300 học sinh ở Việt Nam (năm học
2016-2017) có 7.618.500 em là nữ (49,1%); tỷ lệ trẻ em gái nhập học đúng độ
tuổi tương đương với em trai; tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 43%, nữ tiến sỹ đạt 21%; tỷ lệ
nữ tham gia lực lượng lao động đạt 72,5%; phụ nữ làm chủ doanh nghiệp, chủ sở
hữu kinh doanh đạt trên 27,8% 194... Đối với các dân tộc thiểu số. Về quyền tham
gia quản lý nhà nước: Quốc hội khóa XIV nhiệm kỳ 2016-2021, số lượng đại
biểu người dân tộc thiểu số là 86 người, chiếm 17,3%; tỷ lệ cán bộ, công chức,
viên chức dân tộc thiểu số ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là
14,53%, nữ giới chiếm 49,2%. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc
thiểu số giữ chức lãnh đạo, quản lý chiếm 17,2%. Về quyền tiếp cận giáo dục và
bảo tồn ngôn ngữ. Đến năm 2018 cả nước có 315 trường phổ thông dân tộc nội

193
Nt, tr.31,32.
194
Nt, tr.37,38.

33
trú với 94.000 học sinh; 1.013 trường phổ thông dân tộc bán trú với 159.212 học
sinh và 4 trường dự bị đại học dân tộc với khoảng 4000 học sinh. Năm học 2017-
2018, 22 tỉnh, thành phố tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số (715 trường); 8
ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được đưa thành môn học; 6 bộ sách giáo khoa
được xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số…195
2.3.2. Một số hạn chế
* Một số quyền chưa thực sự được bảo đảm hiệu quả, chẳng hạn, quyền
không bị tra tấn và hạ nhục. Mặc dù Hiến pháp, pháp luật về hình sự, tố tụng
hình sự nghiêm cấm các hành vi tra tấn nhục hình, các hình thức đối xử, trừng
phạt tàn bạo vô nhân tính, song thực tế vấn đề này vẫn tồn tại trong thi hành
pháp luật về tạm giam, tạm giữ ở một số cơ quan, địa phương. Hoặc, quyền được
xét xử công bằng vẫn còn nhiều bất cập; ý kiến của luật sư, bị cáo, bị hại chưa
thực sự được coi trọng; yếu tố tranh tụng tại một số phiên tòa vẫn chỉ coi là hình
thức, hiện tượng án “bỏ túi” vẫn tồn tại. Ngoài ra là sự hạn chế trong bảo đảm
các quyền, như quyền bào chữa trong tố tụng; quyền bày tỏ chính kiến, quan
điểm; quyền có việc làm và được hưởng điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi;
quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, như lao động trẻ em; buôn bán phụ nữ, trẻ
em; bạo hành gia đình; sự an toàn của các nhóm lao động di cư, lao động Việt
Nam ở nước ngoài…
* Tình trạng bình đẳng trong hưởng thụ quyền. Giữa các nhóm xã hội đang
tồn tại một khoảng cách khá lớn về mức độ hưởng thụ bình đẳng các quyền, cả
về dân sự, chính trị cũng như về kinh tế, xã hội, văn hóa; chẳng hạn, tình trạng
đói nghèo chỉ tồn tại ở một số nhóm; khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, giáo dục; khả năng tránh được tử vong do các bệnh tật thông thường có thể
ngăn chặn được… là rất khác nhau giữa các vùng và các nhóm xã hội…Báo cáo
quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam chu kỳ III đã nhận
định: Tầm bao phủ của hệ thống an sinh xã hội hiện nay còn khiêm tốn, nhất là
195
Nt, tr.39,40

33
người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương. Nguy cơ gia tăng bất bình đẳng
trong tiếp cận dịch vụ luôn hiện hữu giữa các khu vực địa lý, các cộng đồng và
các nhóm dân cư.196
* Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn hiện
tượng dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật 197. Quyền làm
chủ của nhân dân được thể hiện cụ thể trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quyền
tham gia công việc quản lý nhà nước: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra;
các quyền khiếu nại, tố cáo; quyền được cung cấp thông tin…Do nhiều nguyên
nhân khác nhau, một số quyền này đã bị vi phạm từ các cơ quan nhà nước. Các
khiếu kiện, tố cáo về quản lý đất đai, môi trường ở nhiều địa phương thường bị
chậm giải quyết, kéo dài, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Khả năng tiếp cận
của người dân với các dịch vụ hành chính công ở nhiều địa phương, cơ sở vẫn
còn gặp những rào cản về tổ chức, cơ chế và thái độ làm việc của đội ngũ cán bộ,
công chức…Tình hình này đang làm gia tăng các chi phí, xói mòn niềm tin của
người dân trong quá trình thực hiện, bảo vệ các quyền hợp pháp của họ.
3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng
Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nắm vững các quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền con người, tiếp tục đẩy
mạnh việc hoàn thiện pháp luật, chính sách và thể chế về bảo đảm quyền con
người ở Việt nam, phù hợp với yêu cầu phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước
pháp quyền và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình bảo đảm cần nắm vững nguyên tắc, bảo đảm toàn diện gắn với bảo đảm có
trọng tâm, trọng điểm đối với một số nhóm xã hội; bảo đảm các quyền truyền

196
Bộ Ngoại giao, Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định
kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, Hà Nội.2018, tr.45.
197
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb.Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội.2021, tr.89.

33
thống gắn với bảo đảm các quyền mới xuất phát từ yêu cầu của xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
3.2.1. Đẩy mạnh công tác giáo dục quyền con người, quyền công dân. Đối
tượng của công tác giáo dục là cho cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ
quan Đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp; các tổ chức tôn
giáo; các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt triển khai và thực hiện
có hiệu quả Quyết định số 1309/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày
05/9/2017 về Phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình
giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; Quyết định số 1252/QĐ-TTg ngày
26/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tăng cường thực thi
hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và các khuyến nghị
của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc và Quyết định số 1975/QĐ-TTg ngày
31/12/2019 về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện các khuyến
nghị Việt Nam chấp thuận theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ III của
Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.
3.2.2. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về quyền con người.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, cụ thể hóa Hiến
pháp năm 2013; đồng thời bám sát với “những điều ước quốc tế và cam kết quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết198”, trong đó có các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam là thành viên. Coi trọng việc bổ sung, hoàn thiện chế độ
trách nhiệm của các chủ thể có nghĩa vụ, và xây dựng các tiêu chí cụ thể trong
bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực chính trị, dân sự,
kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
3.2.3. Củng cố và hoàn thiện các thiết chế nhà nước trong thực thi chính
sách, pháp luật và giám sát việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở

198
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb.Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội.2021, trang 135

33
Việt Nam. Trong khi chưa có cơ quan chuyên trách về quyền con người, cần đặc
biệt coi trọng vai trò của các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, trong đó đặc biệt hoạt
động phòng ngừa vi phạm, phòng, tránh oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự,
thực hiện tốt các quy định pháp luật về bồi thường nhà nước do vi phạm pháp
luật về quyền con người; đồng thời phát huy vai trò của báo chí, truyền thông
trong giám sát, phát hiện các vi phạm về quyền con người ở cả khu vực công và
khu vực tư.
3.2.4. Áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong xây dựng và
triển khai các Chiến lược, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở Trung ương
và địa phương.
Tiếp cận dựa trên quyền con người nhằm mục đích bảo đảm các quyền
con người cụ thể theo hướng cân bằng ở hai yếu tố: Nội dung quyền con người
và cách thức thực thi quyền con người199. Tính nhân văn của việc áp dụng
phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định các chính sách
phát triển chính là tập trung vào quyền lợi của các nhóm người dễ bị tổn thương
trong xã hội và đặc biệt là những nhóm có nguy cơ bị gạt ra ngoài lề. Và vì vậy,
trong hoạch định và thực thi chính sách phát triển, cần nâng cao sự hiểu biết của
các cơ quan nhà nước về các mối quan hệ giữa quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
giữa các bên vì mục tiêu phát triển. Tập trung vào các quyền của con người cũng
có nghĩa là giúp cho các hoạt động của nhà nước trở nên bền vững và lâu dài hơn
vì xét về bản chất của vấn đề, khi các quyền, lợi ích của người dân được thực
hiện thì cũng chính là lúc nhà nước đạt được mục đích trong hoạt động quản lý
của mình, bảo đảm thực hiện trách nhiệm quốc gia đối với các cam kết quốc tế
về quyền con người. Do vậy, cần quan tâm nâng cao năng lực của chủ thể quyền
và năng lực của chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền trên từng lĩnh vực cụ thể; tạo

199
Văn phòng Điều phối thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam, Tài liệu dành cho Cán bộ Liên hợp quốc tại
Việt Nam.

33
chuyển biến căn bản để các cá nhân, các nhóm xã hội được hưởng thụ thành quả
của đổi mới, không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong quá trình xây dựng, thực thi
chính sách, pháp luật về quyền con người, bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng
lấy “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no
của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”200.
3.2.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường đối thoại và đấu tranh trên
lĩnh vực quyền con người. Mục tiêu cơ bản của hợp tác quốc tế là nâng cao năng
lực thực thi pháp luật, chính sách; năng lực giám sát việc bảo đảm quyền con
người của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức chính trị, xã hội,
nghề nghiệp. Tham gia tích cực các cơ chế của Liên hợp quốc, cơ chế khu vực về
quyền con người. Chủ động đối thoại và đấu tranh trong lĩnh vực quyền con
người. Đặc biệt là chủ động đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế về quyền
con người; thực hiện tốt đối thoại trong nước, các cấp ủy Đảng, chính quyền phải
chủ động tiếp công dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của công dân, đối thoại với
công dân về những vấn đề người dân đang bức xúc; đồng thời tăng cường đấu
tranh chống các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về quyền con người của các thế lực
phản động, thù địch; tích cực bảo vệ nên tảng tư tưởng của Đảng về quyền con
người và bảo đảm quyền con người.

C. TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng thường trực: Tài
liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ta về “Vấn đề quyền

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
200

H.2021, tr.28.

33
con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta”, Nxb Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.2012.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, XII, XIII.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Lý luận và pháp luật về quyền
con người, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.2021.
4. Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh: Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Hà Nội.2002, tr.44.

D. CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Anh/chị hãy phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam hiện nay?
2. Anh/chị hãy phân tích mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam về quyền con người?
3. Anh/chị hãy cho biết quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam được
quy định trong các văn bản pháp luật chủ yếu nào? Nêu một số quyền cụ thể?
4. Anh/chị hãy phân tích các biện pháp bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam hiện nay?

E. CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Anh/chị hãy phân tích khái niệm, đặc trưng của quyền con người?
2. Anh/chị hãy phân tích quan điểm của Đảng về quyền con người và bảo
đảm quyền con người ở Việt Nam?
3. Anh/chị hãy phân tích, đánh giá một số kết quả và hạn chế trong bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam thời kỳ đổi mới?
4. Anh/chị hãy phân tích phương hướng và nhiệm vụ bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam hiện nay?

34
34
Bài 12
CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG

A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
Trang bị các vấn đề chung về thi đua, khen thưởng, các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; các phương
pháp tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu quả cao trong giai đoạn hiện nay.
2. Về kỹ năng
Nâng cao năng lực vận dụng những kiến thức đã học để tham gia hoặc chỉ
đạo tổ chức phong trào thi đua, thực hiện công tác khen thưởng ở cơ quan, đơn
vị, địa phương.
3. Về tư tưởng
Củng cố quan điểm đúng đắn, tin tưởng vào hiệu quả phong trào thi đua
và công tác khen thưởng để lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở cơ
quan, đơn vị, địa phương.
B. NỘI DUNG
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thi đua, khen thưởng
Khi nói về thi đua, sinh thời, C.Mác- Ph.Ăngghen, Lênin đều cho rằng, thi
đua là một đặc trưng riêng có trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khác với sự cạnh
tranh dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, vì đó là: "Sự cạnh tranh giữa các cá nhân
riêng lẻ với nhau, sự tranh đua giữa tư bản với tư bản, giữa lao động với lao
động.. .được quy tụ thành sự thi đua dựa trên bản tính con người"201. Đi sâu
nghiên cứu bản chất, nội dung của thi đua xã hội chủ nghĩa, C.Mác-Ph.Ăngghen
nhận định, thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động
chung của con người, làm tăng thêm nghị lực riêng của từng cá nhân và cả cộng
201
C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.773.

34
đồng, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trên ý nghĩa đó, thì việc tổ chức thi
đua lẫn nhau giữa những người lao động trong quá trình sản xuất của chế độ xã
hội mới, là một tất yếu của sự phát triển.
Chính vì thế, V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, phải đưa những cán bộ ưu tú vào
tổ chức, lãnh đạo phong trào thi đua. Chính trong quá trình tổ chức, phát động
phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô - viết sẽ
phát hiện ra những nhân tài thực sự để đề bạt vào những chức vụ cao trong bộ
máy quản lý của Nhà nước. Xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước tư bản chủ
nghĩa có trình độ phát triển trung bình, để phát triển kinh tế - xã hội, V.I.Lênin
cho rằng: Tổ chức thi đua phải chiếm một địa vị quan trọng trong số những
nhiệm vụ kinh tế của chính quyền Xô-viết. Tổ chức thi đua có nghĩa là có thể tìm
ra con đường đúng đắn nhất, tiết kiệm nhất để cải tổ chế độ kinh tế của nước
Nga. Đi theo phương hướng của V.I.Lênin đã chỉ ra, Đảng Cộng sản Liên Xô và
Nhà nước Xô-viết hết sức chú trọng tổ chức các phong trào thi đua gọi là Thi đua
xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng nên một siêu cường trên thế giới là
Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết.
Khái niệm Thi đua xã hội chủ nghĩa trong quan điểm của V.I.Lênin là một
hình thức hợp tác giữa người với người, góp phần phát triển năng lực của con
người, phát triển của tính chủ động sáng tạo của nhân dân lao động và của chế độ
dân chủ trong xã hội mới. Thi đua xã hội chủ nghĩa, ra đời trên cơ sở lao động
tập thể, trên cơ sở những quan hệ tương trợ và hợp tác, đoàn kết theo tinh thần
đồng chí, nhằm giúp đỡ những người lạc hậu dần dần tiến lên ngang những
người tiên tiến, nâng cao trình độ văn hóa và trình độ sinh hoạt tinh thần của mọi
người. V.I.Lênin coi thi đua là đòn bẩy mạnh mẽ của tiến bộ kinh tế - xã hội, là
trường học giáo dục chính trị lao động và đạo đức cho nhân dân lao động..
Nhìn lại lịch sử, mặc dù chủ nghĩa xã hội đã tan rã (với tư cách là một hệ
thống), nhưng cần khẳng định mặt tích cực của các phong trào thi đua xã hội chủ
nghĩa mà mô hình của Liên Xô trước đây được xem là một thí dụ điển hình trong

34
việc tổ chức các phong trào thi đua khen thưởng. Thi đua xã hội chủ nghĩa đã
thực sự là một động lực thúc đẩy Liên Xô phát triển thành một siêu cường trên
thế giới.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng
1.2.1. Thi đua yêu nước là phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi,
nhằm huy động và phát huy tiềm năng sức mạnh của mọi tầng lớp trong xã hội
tham gia.
Hồ Chí Minh cho rằng, thi đua yêu nước là nhằm tạo ra nguồn lực mạnh
mẽ, để phục vụ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, phong trào thi đua yêu
nước phải tập hợp lực lượng một cách rộng rãi, động viên, khuyến khích, lôi
cuốn được mọi người cùng tự nguyện tham gia, đồng sức, đồng lòng hăng say
phấn đấu hoàn thành mục tiêu cách mạng.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, thi đua không chỉ là hoạt động tích cực
và sáng tạo trong công việc hàng ngày, trong lao động sản xuất vật chất, mà còn
là hoạt động tư tưởng và tinh thần, là biểu hiện của lòng yêu nước, của tình cảm
đối với tổ quốc, quê hương, đất nước. Nói một cách khác, thi đua không chỉ là
lao động sáng tạo nên sự gia tăng về số lượng và chất lượng trong việc làm của
con người để thêm nhiều của cải vật chất và làm giàu cho đất nước, mà còn là
tấm lòng, là trái tim và khối óc đối với đất nước, phấn đấu cho đất nước được tự
do, độc lập, thống nhất, phát triển, tăng tiến về kinh tế và văn hóa, mạnh mẽ về
quốc phòng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Quan niệm "thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua" của Hồ Chí
Minh làm cho phong trào thi đua của nhân dân ta có sức mạnh tinh thần vô cùng
mạnh mẽ, tồn tại lâu dài, gắn liền với sự phát triển của dân tộc. Trên ý nghĩa đó,
Hồ Chí Minh chỉ đạo, phải xác định rõ việc phát động thi đua nhằm phát huy
lòng yêu nước và qua phong trào thi đua bồi dưỡng nâng cao lòng yêu nước, làm
cho lòng yêu nước thể hiện bằng hành động thực tế trong lao động sản xuất và

34
chiến đấu và ngược lại, lấy lòng yêu nước thúc đẩy thi đua, nâng cao hiệu quả thi
đua.
1.2.2. Thi đua yêu nước có tính toàn diện, thường xuyên, liên tục, lâu dài
và thiết thực "Công việc hàng ngày là nền tảng của thi đua".
Hồ Chí Minh cho rằng, một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người
là ý chí không ngừng vươn lên hoàn thiện mình. Do đó, đặt mục tiêu thi đua yêu
nước, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể, kết hợp mục tiêu, lợi ích trước
mắt và mục tiêu, lợi ích lâu dài. Người nêu rõ: "Công việc hàng ngày là nền tảng
của thi đua", thi đua không nhất thiết phải đưa ra những mục tiêu to lớn, cao
siêu, không phải là việc cao hứng nhất thời, nghĩa là thi đua không phải chỉ cốt
lấy thành tích, mang tính hình thức, mà phải tiến hành liên tục, lâu dài, hướng tới
lợi ích thiết thực. Đó là bản chất tốt đẹp và cũng là yêu cầu của thi đua yêu nước.
Nói đến công việc hàng ngày, tức là nói đến hoạt động lao động sản xuất của con
người. Nhờ có hoạt động này mà con người và xã hội loài người tồn tại và phát
triển.
Nêu lên công việc hàng ngày là nền tảng của thi đua, có thể nói đó là một
sự khám phá tài tình, một sự hiểu biết thực tiễn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về hoạt động thi đua của con người trong cuộc sống. Tuy Người không nói
nhiều, phân tích nhiều theo lối "kinh viện" về tầm quan trọng và sự cần thiết
khách quan của thi đua yêu nước, nhưng từ những bài viết, những lời dạy của Hồ
Chí Minh đều toát lên tư tưởng - làm việc gì cũng cần phải có thi đua, thi đua
gắn liền với mỗi con người, gắn liền với công việc hàng ngày.
1.2.3. Nguyên tắc, phương pháp và nội dung tổ chức phong trào thi đua
yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là người luôn theo sát các phong trào thi đua, Người đã kịp thời uốn nắn
những lệch lạc khi phát động, tổ chức thi đua. Trong lời kêu gọi phát động thi
đua yêu nước ngày 1-8-1949, sau khi khen ngợi, biểu dương kết quả thi đua của
đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người chỉ rõ: "Còn nhiều nơi nhân dân, trước hết

34
là cán bộ, chưa hiểu thật rõ ràng ý nghĩa của phong trào thi đua yêu nước. Do đó
mà có những khuyết điểm. Hồ Chí Minh phân tích, muốn phát động phong trào
thi đua có hiệu quả, đạt mục đích, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, theo
dõi... phải sâu sát, thường xuyên và kịp thời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: "Thi đua" không phải là "ganh
đua", cho nên, về nguyên tắc không được bất chấp mọi mánh khóe để chạy theo
thành tích, đạt được thành tích bằng mọi giá; mà tổ chức "Thi đua" là để thu hút,
lôi kéo quần chúng tham gia và cùng nhau tiến bộ. Bởi vậy, người lãnh đạo tổ
chức phong trào thi đua phải hiểu rõ từng đối tượng, phải biết tổ chức nội dung
thi đua sao cho phù hợp, không câu nệ phô trương hình thức. Ví như đối với
thiếu niên nhi đồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Các cháu phải thi đua tùy
theo sức khỏe của các cháu làm được việc gì có ích cho kháng chiến thì thi đua
làm việc ấy"202.
Thi đua phải có sự lãnh đạo đúng, là một tất yến, là đòi hỏi, yêu cầu
của phong trào.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, lãnh đạo đúng phong trào thi đua không chỉ là
trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, mà còn là lợi ích của bản thân người lãnh đạo.
Nói là lợi ích của lãnh đạo vì khi phong trào thi đua phát triển động viên mọi
người hăng hái thi đua đạt hiệu quả cao trong mọi nhiệm vụ, thì người lãnh đạo
hoàn thành được nhiệm vụ của mình, hơn nữa hoàn thành với mức cao.
Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phong trào thi đua phải được coi là một
nhiệm vụ công tác quan trọng của cán bộ lãnh đạo, cơ quan lãnh đạo các cấp.
Nhấn mạnh sự lãnh đạo thi đua của các cấp ủy Đảng, Bác nói: Dưới sự lãnh đạo
chung của Đảng, các đồng chí thủ trưởng các Bộ, các ngành, các địa phương
cùng công đoàn, đoàn thanh niên lao động phải bảo đảm lãnh đạo phong trào thi
đua thật tốt. Người chỉ rõ, cần phải có tổ chức lãnh đạo, tổ chức bộ máy công tác
thi đua, khen thưởng như vậy thì mới lãnh đạo được phong trào thi đua, mới bảo
202 Thư gửi các cháu nhi đồng, Báo Nhân dân, số 25 ngày 13-9-1951.

34
đảm được hiệu quả lớn và thiết thực.
Tổ chức phong trào thi đua, phải kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích
chung để khuyến khích thi đua, nhất là khi nền kinh tế cho phép. Đối với người
thi đua thì trước hết thi đua phải mang lại hiệu quả thiết thực, không yêu nước
xuông; gắn liền tư tưởng, tinh thần với hành động thực tiễn, nói với làm là một.
Yêu nước không phải là điều trừu tượng, mà phải được thể hiện một cách cụ thể
bằng hoạt động thi đua hăng hái tích cực trong lao động sản xuất, công tác, chiến
đấu, phục vụ đắc lực Tổ quốc, nhân dân. Người Việt Nam không nói yêu nước
suông, mà với lòng yêu nước, ra sức thi đua làm việc giúp ích cho đất nước, tích
cực tham gia phong trào thi đua kháng chiến cứu nước, xây dựng đất nước giành
độc lập tự do, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Thi đua yêu nước làm cho phong trào thi đua phát triển, động viên thu hút
mọi tầng lớp nhân dân thuộc mọi giới ở mọi lứa tuổi, mọi tôn giáo tích cực tham
gia phong trào thi đua vì mọi người dân Việt Nam đều có lòng yêu nước, có tinh
thần tự trọng, tự hào dân tộc, mong muốn đất nước thoát khỏi cảnh nô lệ lầm
than, bước lên đài tự do vinh quang. Sau khi xác định mục đích thi đua, một vấn
đề vô cùng quan trọng của bất cứ cuộc thi đua nào là đề ra mục tiêu, có kế hoạch
phấn đấu một cách cụ thể, khoa học gắn liền với nhiệm vụ sản xuất, công tác,
chiến đấu, đời sống, với nguyện vọng của quần chúng. Kế hoạch đề ra phải căn
cứ vào điều kiện thực tế, khả năng có thể đạt được, với mức trung bình tiên tiến
nhằm động viên mọi người phấn đấu vươn lên.
Hồ Chí Minh luôn luôn gắn thi đua sản xuất với thi đua thực hành tiết
kiệm, Người đề cao việc thực hành tiết kiệm, coi đó là một chính sách của Đảng
và Nhà nước, là đạó đức của người dân Việt Nam. Thi đua tiết kiệm là biện pháp
thiết thực để cải thiện đời sống, bằng cách sử dụng hợp lý thu nhập, tránh lãng
phí xa hoa, vừa bảo đảm đời sống, vừa tích lũy được tiền để dần dần nâng cao
mức sống và mở mang sản xuất và tiết kiệm, chúng ta phải gây một phong trào
quần chúng rộng rãi và bền bỉ. Phải tuyên truyền, vận động, tổ chức, lãnh đạo

34
nhân dân hăng hái tham gia công việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Phải
đặt phong trào sản xuất và tiết kiệm làm trung tâm của phong trào thi đua yêu
nước.
Theo Hồ Chí Minh, muốn thi đua phát triển rộng rãi phải dựa vào lực
lượng và tinh thần của nhân dân, phải giáo dục bồi dưỡng, lấy thi đua làm
trường học xây dựng con người mới. Chính những con người được tôi luyện,
trưởng thành trong các phong trào thi đua yêu nước là hạt nhân thúc đẩy phong
trào thi đua phát triển. Để phong trào thi đua đạt được hiệu quả cao cần đẩy
mạnh việc phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất chất
lượng, hạ giá thành, làm cho sản xuất đạt hiệu quả, kinh tế - xã hội phát triển
toàn diện và vững chắc. Bác rất coi trọng sáng kiến kinh nghiệm. Tại Đại hội các
chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc (tháng 5/1952), Bác nói: "Sáng
kiến và kinh nghiệm là của quý cho cả dân tộc. Chúng ta phải ra sức làm cho nó
dồi dào thêm và lan rộng mãi. Đầu thì lan khắp một đơn vị, một nhà máy, một
làng,... Dần dần lan khắp cả quân đội, cả ngành công nghệ, cả nước. Sáng kiến
và kinh nghiệm cũng như những con suối nhỏ chảy vào sông to, những con sông
to chảy vào biển cả. Không biết quý trọng sáng kiến và phổ biến kinh nghiệm là
lãng phí của dân tộc".
1.3. Vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Đảng ta khẳng định rõ trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, trước
những thời cơ và thách thức to lớn, công tác thi đua, khen thưởng càng có vị trí,
vai trò hết sức quan trọng, cần tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh coi "Thi
đua, khen thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng
con người mới, thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục
hàng ngày".
Bác Hồ từng dạy: "Trong mỗi con người đều có những mặt thiện và mặt
ác, nhiệm vụ của chúng ta là làm cho mặt thiện sinh sôi nảy nở, mặt ác phải đẩy
lùi". Suy cho cùng, mọi công việc được lãnh đạo đề ra đều do các công dân và tổ

34
chức cơ sở thực hiện, vậy ai làm tốt, tập thể nào làm tốt phải biết và khen ngợi,
phải tuyên dương để mọi người học tập. Có như vậy mới tạo nên động lực để
thực hiện công việc. Vì vậy thi đua, khen thưởng không những là động lực mà
còn là công cụ để quản lý của Nhà nước.
Trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thi
đua yêu nước vẫn còn tính tất yếu khách quan. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
chỉ rõ: "Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ
mà nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi đua. Phong
trào thi đua yêu nước ở ta càng ngày càng phát triển vì nhân dân ta đã làm chủ
nước nhà".
Thi đua và khen thưởng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là 2 mặt của
một vấn đề, là 2 nhân tố hữu cơ của một quá trình đem lại một kết quả. Theo Hồ
Chí Minh "Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch", Người phân tích:
Có tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng mới cao. Khen thưởng
kịp thời, chính xác có tác dụng động viên cho mùa thi đua sau được kết quả cao
hơn. Do vậy, không được xem nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại không
có thi đua thì không có căn cứ đánh giá thành tích để khen thưởng.
Như vậy, thi đua và khen thưởng bổ sung, hỗ trợ nhau. Thi đua là động
lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, nỗ lực vươn lên
hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Từ việc tổng kết thi đua, lựa chọn ra
tập thể và cá nhân tiêu biểu để khen thưởng. Khen thưởng do đó trở thành một
khâu trong việc đánh giá kết quả của phong trào thi đua. Khen thưởng chính xác,
kịp thời, có tác dụng động viên, giáo dục và nêu gương tốt trong xã hội, đồng
thời cổ vũ phong trào thi đua phát triển lên tầm cao mới. Ngược lại, nếu khen
thưởng không đúng, sẽ làm mất tác dụng và giảm ý nghĩa của thi đua.
2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
2.1. Khái niệm, vai trò quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
2.1.1. Khái niệm

34
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là quá trình tổ chức, điều hành
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với công tác thi đua, khen
thưởng nhằm nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân,
tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Như vậy có thể thấy quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là sự tác
động, điều chỉnh thường xuyên của Nhà nước bằng quyền lực nhà nước đối với
hoạt động thi đua, khen thưởng, để các hoạt động đó diễn ra theo quy định của
pháp luật, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.1.2. Vai trò
Vai trò của quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng thể hiện:
- Định hướng cho công tác thi đua, khen thưởng: Các chủ thể quản lý nhà
nước cần phải định hướng vĩ mô đối với các đơn vị, tổ chức, cá nhân. Thông qua
sự tác động của các công cụ quản lý như chính sách, kế hoạch thi đua, khen
thưởng từ đó sẽ cuốn hút được các chủ thể trong xã hội tham gia phong trào thi
đua trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
- Tạo động lực cho các chủ thể tham gia phong trào thi đua, khen thưởng:
Thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về thi đua,
khen thưởng, mọi cá nhân, tổ chức tham gia thi đua đều được xem xét, tặng
thưởng các danh hiệu thi đua nếu đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định. Cá
nhân, tập thể lập được thành tích xuất sắc, có công trong xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc sẽ được ghi nhận biểu dương, khen thưởng.
- Tạo môi trường phát triển cho công tác thi đua, khen thưởng: Quản lý
nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng nhằm bảo đảm bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, nâng cao tiêu
chuẩn danh hiệu thi đua và các hình thức khen thưởng để tránh khen thưởng theo
tích lũy thành tích, trùng lắp, tràn lan, dồn khen thưởng lên cấp trên và để nâng

35
cao giá trị tôn vinh của các hình thức khen thưởng.
- Kiểm soát và xử lý kịp thời hành vi vi phạm trong công tác thi đua, khen
thưởng góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương.
2.2. Nội dung quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng
2.2.1. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng
Đời sống xã hội phát triển rất sinh động phong phú, phong trào thi đua,
khen thưởng cũng không ngừng phát triển phong phú đa dạng nhất là ở các
ngành, các địa phương cho đến cơ sở. Do vậy vấn đề đặt ra trong quản lý nhà
nước về công tác thi đua, khen thưởng là xây dựng chính sách về thi đua, khen
thưởng, chính sách này phải đáp ứng kịp thời sự phát triển cuộc sống xã hội
thậm chí của mỗi ngành, mỗi cấp đặc biệt của địa phương và cơ sở.
Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản quy phạm pháp luật, thông tư
hướng dẫn thi hành luật đề cập một cách toàn diện các mặt của công tác thi đua,
khen thưởng đây chính là chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về
thi đua, khen thưởng.
2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy
định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
Đối với cấp Trung ương, nhà nước có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến,
hướng dẫn để các ngành, các địa phương quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung
của các quy định pháp luật đồng thời có sự hướng dẫn các ngành, các địa phương
tổ chức thực hiện các quy định pháp luật ấy. Trên cơ sở đó, các ngành, các cấp
trong cả nước thống nhất về nhận thức và hành động.
Đối với địa phương sau khi được quán triệt và hướng dẫn tổ chức thực
hiện, chính quyền cấp tỉnh vận dụng vào đặc điểm cụ thể của địa phương từ đó
có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật về thi đua khen thưởng đối với các cấp và các Ban ngành, đoàn thể ở
địa phương.
Nội dung này, vấn đề hướng dẫn và tổ chức thực hiện có ý nghĩa rất đặc

35
biệt, vì có tổ chức thực hiện luật, các văn bản quy định của pháp luật mới ừở
thành hiện thực trong cuộc sống, nhà nước mới thực sự quản lý được công tác thi
đua, khen thưởng. Từ đó công tác thi đua, khen thưởng tạo sự quản lý thống nhất
từ Trung ương đến cơ sở. Mới trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.
2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng
Để có đội ngũ cán bộ tốt thì phải đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng cán bộ cả về phẩm chất lẫn chuyên môn nghiệp vụ.
Bồi dưỡng về chính trị là để nâng cao sự hiểu biết, về đường lối chính
sách của Đảng và nhà nước về quan điểm chỉ đạo phong trào thi đua, tư tưởng
Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng, trên cơ sở đó nâng cao về năng lực tổ
chức phong trào thi đua yêu nước và có phẩm chất đạo đức trung thực khách
quan để làm tốt công tác này.
Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhất là đối với cán bộ làm công tác
thi đua, khen thưởng ở cơ sở là rất cần thiết. Nếu cán bộ ở cơ sở không thông
thạo về chuyên môn nghiệp vụ thì không thể tham mưu đề xuất với cấp ủy, chính
quyền về tổ chức phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, và đề xuất xét duyệt những hình thức
khen thưởng được chính xác, kịp thời...
Đối với cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng cũng phải tiêu chuẩn
hóa, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, phải có kiến thức xã hội, am hiểu
lịch sử và có nhận thức tốt tiếp cận thông tin mới, nhanh nhậy nắm bắt chủ
trương chính sách mới của Đảng và nhà nước thì mới đáp ứng được yêu cầu về
tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp về các chủ trương giải pháp
trong chỉ đạo và tổ chức phong trào thi đua.
2.2.4. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh
giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng
Mục đích, yêu cầu của sơ kết, tổng kết là nhằm đánh giá được kết quả của
công tác thi đua, khen thưởng những mặt đã làm được và những mặt chưa làm

35
được. Chỉ rõ những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy Đảng và chính quyền, đoàn thể, đơn vị đối với công tác thi đua, khen
thưởng. Từ thực tế tổ chức phong trào thi đua, và công tác khen thưởng trong
từng đợt thi đua, hay hàng năm, hoặc tùng giai đoạn qua sơ kết, tổng kết rút ra
bài học kình nghiệm và đề xuất các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn tiếp theo góp phần phát triển kinh tế xã
hội, an ninh quốc phòng của địa phương, của đất nước.
Nội dung tổng kết phải đánh giá được công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tổ chức các phong trào thi đua
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
2.2.5. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng
Trong điều kiện đất nước đổi mới, mở cửa, hội nhập tạo điều kiện cho các
lĩnh vực công tác giao lưu, học hỏi, tiếp nhận sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức
nước ngoài. Do vậy đây là nội dung nhà nước cần quản lý đối với công tác thi
đua, khen thưởng gồm:
Trao đổi học tập kinh nghiệm quản lý của các nước bạn về khen thưởng và
về các chính sách khuyến khích người dân tham gia vào công việc của xã hội.
Giới thiệu hình thức thi đua, khen thưởng của Việt Nam với các nước bạn.
Theo dõi phát hiện những cá nhân, tổ chức nước ngoài có đóng góp đối
với Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực và các địa phương.
Đề xuất những hình thức khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức nước
ngoài đã có những đóng góp hiệu quả trong việc giúp Việt Nam xây dựng, phát
triển kinh tế hoặc giúp các ngành, các địa phương giải quyết được những vấn đề
cần ghi công và khen thưởng.
Với điều kiện nước ta hiện nay nội dung này càng cần được quan tâm hơn
cùng với sự phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, kêu gọi sự hợp tác đầu tư của
các cá nhân, tổ chức nước ngoài.

35
2.2.6. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi
đua, khen thưởng
Nội dung thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm
việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đụa, khen thưởng được quy định
trong Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành trong những nội dung: Việc
thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng, các văn bản hướng dẫn thi hành luật, các
quy định, chính sách của nhà nước về thi đua, khen thưởng không đúng tiêu
chuẩn, không đúng đối tượng ...
Công tác thanh tra, kiểm tra theo định kỳ hàng quý, hàng năm hoặc theo
đợt phát động phong trào thi đua, kết thúc phong trào thi đua, hoặc thanh tra đột
xuất khi thấy có vấn đề về công tác thi đua, khen thưởng.
2.2.7. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Công tác quản lý nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra giải quyết các
khiếu nại tố cáo và đặc biệt là xử lý những vi phạm pháp luật về thi đua, khen
thưởng phải được quan tâm thường xuyên để Luật Thi đua, khen thưởng thực sự
đi vào cuộc sống, đảm bảo được nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự giấc,
nguyên tắc của khen thưởng là chính xác, công khai, công bằng và kịp thời. Có
được như vậy thi đua, khen thưởng mới thực sự là động lực cho mỗi cá nhân, tập
thể trong lao động, sản xuất, công tác, học tập tốt hơn và mới có tác dụng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
3. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC PHONG TRÀO THI ĐUA ĐẠT
HIỆU QUẢ CAO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
3.1.1. Nâng cao vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua

35
Công tác thi đua, khen thưởng phải được sự quan tâm, lãnh đạo cụ thể, sâu
sát, kịp thời và thường xuyên của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, nhất là của
người đứng đầu. Công tác lãnh, đạo, chỉ đạo phong trào thi đua yêu nước "'phải
cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng điểm và nắm điển hình", chống bệnh quan
liêu, hình thức, ngại khó khăn trong tổ chức phong trào thi đua.
Phải tuyên truyền, giải thích, động viên cho mọi người tự nguyện, tự giác
tham gia phong trào thi đua, trên cơ sở kế hoạch, mục tiêu cụ thể, rõ ràng. Cán
bộ, đảng viên phải tích cực vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua
và phải gương mẫu đi đầu tham gia phong trào.
Cần chú trọng phát hiện điển hình, nêu gương khen thưởng cá nhân, tập
thể có thành tích, phổ biến những kinh nghiệm trong phong trào thi đua đồng
thời phải có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, tổng kết phong trào thi đua.
Phải kết hợp chặt chẽ thi đua với khen thưởng, trên quan điểm "Thi đua là gieo
trồng, khen thưởng là thu hoạch". Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời
sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục. Cần kịp
thời biểu dương những tấm gương "Người tốt, việc tốt"; khen thưởng bằng vật
chất hoặc tinh thần nhằm động viên, khuyến khích phát triển cái tốt để lấn át cái
xấu, nhằm xây dụng con người mới.
Tích cực quan tâm đến việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ
cán bộ làm công tác thi đua có chuyên môn thông thạo, năng động nhạy bén
trong tham mưu đề xuất; đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập quốc tế. Đây là yếu tố quan
trọng, quyết định chất lượng công tác tham mưu và kết quả triển khai tổ chức
thực hiện phong trào thi đua và công tác khen thưởng trong phạm vi cả nước.
3.1.2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong tổ chức các phong trào thi đua yêu nước
Các cơ quan, tổ chức, đơn vị tích cực, chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cùng cấp để phát huy sức mạnh tổng

35
hợp trong tổ chức triển khai các phong trào thi đua yêu nước; đặc biệt là phát
huy khả năng, tính sáng tạo, nhiệt huyết của đông đảo đoàn viên, hội viên với
phong trào thi đua, để các phong trào thi đua được nâng chất lượng, đi vào chiều
sâu. Trong đó, cần chú trọng đề ra các phong trào thi đua phù hợp với từng đối
tượng cụ thể, là thành, viên của Mặt trận Tổ quốc để có được sự hậu thuẫn và kết
quả cao nhất trong tổ chức phong trào thi đua.
Trong tổ chức phong trào thi đua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân các cấp cần coi trọng công tác bồi dưỡng, phát hiện, nhân điển hình tiên tiến
để nâng cao chất lượng, giá trị, tác dụng của phong trào thi đua. Nghiên cứu xây
dựng, tổ chức hoạt động các mô hình câu lạc bộ điển hình tiên tiến, làm nòng cốt
và tạo nguồn báo cáo viên, tuyên truyền viên từ những điển hình tiên tiến.
Nâng cao trách nhiệm và vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc tổ chức các phong trào thi
đua và chất lượng, hiệu quả các phong trào thi đua; nhất là với các phong trào thi
đua của các cơ quan, tổ chức, đơn vị tổ cùng cấp tổ chức triển khai hoặc kể cả
các phong trào thi đua do Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phối hợp
với các cơ quan, tổ chức, đơn vị cùng cấp tổ chức triển khai; với mục tiêu chung
là nâng cao chất lượng các phong trào thi đua.
3.2. Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức phong trào thi đua
3.2.1. Đổi mới nội dung tổ chức phong trào thi đua
Đổi mới nội dung tổ chức phong trào thi đua Chỉ thị số 34-CT/TW ngày
07/4/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về tiếp
tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng đã chỉ rõ: "Đổi mới nội dung, hình
thức, phương pháp tổ chức các phong trào thi đua yêu nước theo hướng: Tập
trung về cơ sở, bám sát nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tổ
chức phát động với các hình thức thi đua phong phú, hấp dẫn, có chủ đề, tên gọi
dễ nhớ, có tiêu chí cụ thể, nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả, chống hình
thức. Thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong

35
trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiên biểu để biểu dương,
tôn vinh, khen thưởng kịp thời".
Cấp có thẩm quyền phát động các phong trào thi đua chỉ phát động, triển
khai phong trào thi đua khi đã xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu, đối tượng, nội
dung, biện pháp, phạm vi tổ chức phong trào. Trong đó nội dung quan trọng nhất
để tổ chức phong trào thi đua hiện nay là phải bám sát nhiệm vụ chính trị của Bộ,
ngành, địa phương, đơn vị để đề ra các phong trào thi đua hoàn thành toàn diện,
vượt mức các nhiệm vụ, chỉ tiêu trong chương trình, kế hoạch đề ra hàng năm
hoặc từng thời điểm cụ thể. Nội dung và phương thức tổ chức phong trào thi đua
phải được gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, mục tiêu, chỉ
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của từng bộ, ngành, địa phương,
từng đơn vị cơ sở.
Khi xây dựng kế hoạch thực hiện các phong trào thi đua, bên cạnh xác
định mục tiêu, nội dung, đối tượng, phạm vi biện pháp thực hiện, cần có nội
dung kiểm tra, giám sát và phân công trách nhiệm, tiến độ trong quá trình thực
hiện. Kế hoạch phải cụ thể và chỉ rõ: cơ quan, đơn vị khởi xướng, chủ trì; cơ
quan, đơn vị phối hợp; lực lượng và điều kiện thực thi; công tác kiểm tra, giám
sát, đánh giá sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và đề xuất khen thưởng. Phong
trào thi đua cần hướng về cơ sở và người trực tiếp công tác, học tập, lao động,
sản xuất và chiến đấu, là lực lượng đông đảo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Với các phong trào lớn, phong trào mới, nhiệm vụ đề ra
nhiều cần nghiên cứu, xem xét việc chọn, chỉ đạo điểm trong thời gian nhất
định,, để rút kinh nghiệm từ chỉ đạo điểm trước khi nhân rộng phong trào.
Gắn kết các phong trào thi đua với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW
ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (Khóa XII) về đẩy mạnh Học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" để tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh luôn được biểu hiện và có giá trị trường tồn qua các phong trào thi
đua yêu nước, qua đó nâng cao chất lượng các phong trào thi đua.

35
Chú trọng phát động các phong trào thi đua thực hiện các nhiệm vụ đột
xuất, cấp bách hoặc đột phá vào những nhiệm vụ, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm
để giải quyết những khó khăn, những mặt yếu kém của từng đơn vị, địa phương.
3.2.2. Đổi mới hình thức tổ chức phong trào thi đua
Hình thức tổ chức phong trào thi đua cũng phải phù hợp với đặc điểm,
nhiệm vụ từng địa phương, đơn vị và khả năng tham gia của từng đối tượng cụ
thể. Cơ quan, tổ chức, đơn vị triển khai phong trào thi đua cần nghiên cứu khả
năng, điều kiện, chức năng, nhiệm vụ và nhất là đối tượng sẽ hưởng ứng, tham
gia phong trào để thiết kế hình thức tổ chức phù hợp nhất với từng loại hình, đối
tượng. Người trẻ thường thích tham gia các phong trào sôi nổi, mạnh mẽ, mang
tính hành động để thể hiện khả năng của mình. Người lao động trí óc phù hợp
với những phong trào mang tính nghiên cứu, có chiều sâu. Người lao động chân
tay phù hợp với những phong trào thi đua thiết thực, mang lại sản phẩm cụ thể.
Khu vực các nhà trường có thế mạnh là lực lượng sinh viên, học sinh đông đảo,
nhiệt tình; lực lượng vũ trang mạnh về kỷ luật, tác phong; cán bộ, viên chức
nhiệt tình trong các phong trào gắn với nhiệm vụ chuyên môn cụ thể... Căn cứ
vào thế mạnh, đặc thù của đối tượng hướng tới để có hình thức phù hợp trong
thiết kế, tổ chức sẽ tạo nên hiệu quả cao của phong trào thi đua.
3.3. Tăng cường phát hiện, bồi dưỡng, nhân điển hình tiên tiến
3.3.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác phát
hiện, bồi dưỡng điển hình tiên tiến
Các cấp ủy Đảng, chính quyền và người đúng đầu cấp ủy, chính quyền các
cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận
thức cho cán bộ, công chức và người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác về vị
trí, vai trò quan trọng của công tác phát hiện, bồi dưỡng điển hình tiên tiến. Xác
định làm tốt công tác phát hiện, bồi dưỡng điển hình tiên tiến sẽ tạo động lực
thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước phát triển, từ đó góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chỉnh trị của mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị.

35
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị xây dựng các
chương trình, kế hoạch, đề ra các nội dung, mục tiêu, tiêu chí cụ thể cho công tác
phát hiện, bồi dưỡng điển hình tiên tiến và tuyên truyền, triển khai sâu rộng tới
từng đối tượng thông qua hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp tích cực, chủ động
phối hợp với các đoàn thể nhân dân làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho các tầng lớp nhân dân về vai trò, ý nghĩa của các phong trào thi đua yêu
nước. Định kỳ giới thiệu, cung cấp thông tin về các điển hình tiên tiến trên mọi
lĩnh vực của đời sống.
3.3.2. Đổi mới công tác phát hiện, xây dựng và bồi dưỡng điển hình tiên
tiến trong các lĩnh vực của cuộc sống
Trên cơ sở xác định các nhân tố cần xây dựng, các cơ quan, tổ chức, đơn
vị tạo mọi điều kiện hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các nhân tố sớm trở thành
điển hình; hoặc có biện pháp cụ thể hướng dẫn, động viên để các nhân tố tích
cực đăng ký trở thành điển hình. Với các điển hình tiên tiến đã được công nhận,
các cơ quan, tổ chức, đơn vị cần tiếp tục theo dõi, tạo môi trường thuận lợi, trực
tiếp hỗ trợ bằng các quỹ, giải thưởng cho điển hình tiếp tục phát huy khả năng và
sức sáng tạo trong công việc và trong cuộc sống. Bên cạnh đó, đối với cơ quan
làm công tác thi đua, khen thưởng cần chú trọng việc phát hiện các điển hình,
thông qua các cơ quan truyền thông báo chí, phát thanh, truyền hình trong đưa
tin, tuyên truyền đời sống, công tác, học tập, lao động, sản xuất và đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến phải
được coi là nhiệm vụ thường xuyên, là trọng tâm trong đổi mới phương thức tổ
chức chỉ đạo các phong trào thi đua hiện nay. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị có kế
hoạch cụ thể để bồi dưỡng, xây dựng các mô hình mới, nhân tố mới trong từng
năm và trong từng giai đoạn; phấn đấu mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương lựa chọn
được các điển hình tiêu biểu, xuất sắc toàn diện để nêu gương học tập.

35
3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong trào thi đua
Tuyên truyền, cổ vũ các phong trào thi đua là một nhiệm vụ quan trọng
trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước. Các cấp ủy, chính quyền ở
từng cơ quan, tổ chức, đơn vị cần có kế hoạch cụ thể để tiếp tục tập trung tuyên
truyền, quán triệt sâu sắc, đầy đủ Kết luận số 83/KL-TW của Ban Bí thư (Khóa
X) về "Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi
dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến", Chỉ thị 34-CT/TW ngày 07 tháng 4
năm 2014 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về "Tiếp tục đổi mới công tác thi đua,
khen thưởng" và các văn bản qui phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng nhằm
không ngừng nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng. Làm cho mỗi
cán bộ, đảng viên, người lao động trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải coi
công tác thi đua, khen thưởng là động lực cách mạng to lớn để thực hiện nhiệm
vụ chính trị.
Đổi mới hoạt động của các cơ quan truyền thông, định hướng dư luận, tôn
vinh, tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến, hạn chế đẩy lùi các mặt tiêu cực
trong xã hội là những việc làm cụ thể và hết sức quan trọng góp phần tích cực
trong đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước.
3.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng các cấp
Đổi mới nội dung hoạt động và nâng cao trách nhiệm của các thành viên
Hội đồng cần tập trung thực hiện tốt việc xây dựng và ban hành quy chế hoạt
động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp; phân công trách nhiệm cụ
thể của từng thành viên Hội đồng trong chỉ đạo phong trào thi đua và trong việc
kiểm tra, giám sát các hoạt động về thi đua, khen thưởng. Đổi mới nội dung hoạt
động và nâng cao trách nhiệm của các thành viên Hội đồng cần được cụ thể hóa
trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động về thi đua, khen thưởng và đảm bảo
tính khách quan, chính xác trong việc xét khen thưởng.

36
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp có trách nhiệm xây dựng các kế
hoạch cụ thể và thưởng xuyên tham mưu giúp các cấp ủy đảng và chính quyền,
ban hành các quy định cụ thể để hướng dẫn về nội dung, hình thức tổ chức, phát
động các phong trào thi đua trong phạm vi trách nhiệm của cấp mình.
Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng các cấp là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng nhằm thực hiện có
hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước. Đổi mới nội dung hoạt động và nâng
cao trách nhiệm của các thành viên Hội đồng trong việc kiểm tra, giám sát các
hoạt động về thi đua, khen thưởng, đảm bảo tính khách quan, chính xác trong
việc xét khen thưởng là những việc làm cụ thể để công tác tham mưu, tư vấn của
Hội đồng cho cấp ủy Đảng, chính quyền ngày càng được hiệu quả đồng thời đảm
bảo tính khách quan, chính xác trong việc xét khen thưởng.
3.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen
thưởng
Việc củng cố, kiện toàn tổ chức, đi đôi với việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác thi đua, khen thưởng theo phương châm tổ chức bộ máy
gọn nhẹ, có hiệu lực, hiệu quả, số lượng cán bộ đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
phải là công việc và nhiệm vụ thường xuyên trong hệ thống thi đua, khen thưởng
để có thể xây dựng đội ngũ cán bộ thi đua, khen thưởng có phẩm chất chính trị
tốt, có năng lực tham mưu, nghiên cứu cụ thể hóa các chủ trương, chính sách,
pháp luật về thi đua, khen thưởng và có khả năng tổ chức vận động quần chúng
tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước.
Tổ chức bộ máy thi đua, khen thưởng các cấp cần được các cấp ủy Đảng,
chính quyển tăng cường bố trí đội ngũ cán bộ bảo đảm chất lượng và số lượng,
để thực hiện tốt vai trò tham mưu tổ chức các phong trào thi đua và công tác
khen thưởng; tăng cường các nguồn lực để bộ máy làm thi đua, khen thưởng các
cấp đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Xây dựng bộ máy và cán bộ làm công tác thi đua phải bảo đảm cơ cấu về

36
biên chế tổ chức và tính chuyên nghiệp. Đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua,
khen thưởng phải có đủ năng lực thực tiễn, trình độ chuyên môn vững, có bản
lĩnh và bề dày kinh nghiệm, từng bước chuyên nghiệp hóa trên cơ sở đổi mới
công tác tổ chức cán bộ, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ năng,
tăng cường rèn luyện thông qua trải nghiệm thực tiễn công tác; đồng thời cán bộ
làm công tác thi đua, khen thưởng cần phải có phẩm chất, đạo đức tốt, có tâm
huyết, biết vận động quần chúng và tổ chức phong trào thi đua.
3.7. Đổi mới nội dung, hình thức khen thưởng nhằm tạo động lực làm
việc cho cán bộ, công chức, người lao động
Trước tiên cần nâng cao chất lượng và sự công bằng trong xét khen
thưởng. Khen thưởng phải đúng người, đúng việc, công khai, công bằng, khách
quan, kịp thời. Khen thưởng phải cân xứng giữa giá trị vật chất và tinh thần.
Nâng cao giá trị tôn vinh của các hình thức khen thưởng.
Ngoài việc khen thưởng từng mặt công tác cần chú ý và tăng cường số
lượng khen thưởng thành tích đột xuất trên các lĩnh vực. Bên cạnh đó nên hạn
chế việc khen thưởng cho các tập thể theo niên hạn, theo ngày kỷ niệm thành lập
đơn vị, thành lập ngành mang tính chất truyền thống như trước đây.
Đổi mới và cải tiến thủ tục xét khen thưởng, đối tượng khen thưởng cần
được mở rộng hơn (chú ý đến đối tượng là các đơn vị nhỏ tại cơ sở, các cán bộ,
công chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ), khen thưởng dựa vào kết quả thực hiện
công việc chứ không phải dựa vào vị trí.
Công tác trao thưởng phải được tổ chức trang nghiêm, long trọng, tiết
kiệm và thiết thực, người trao thưởng đúng thẩm quyền, bảo đảm khen thưởng
thực sự tôn vinh người có thành tích. Đa dạng hóa các hình thức trao thưởng,
nhất là tổ chức trao thưởng tại cơ sở nhằm động viên, nêu gương kịp thời các cán
bộ, công chức có thành tích xuất sắc, qua đó khen thưởng sẽ có tính lan tỏa cao.
Từ đó mới tạo được hiệu ứng tâm lý mạnh mẽ của khen thưởng, tạo được động
lực làm việc tốt cho các bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ.

36
3.8. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ gắn với
bình xét khen thưởng
Đánh giá cán bộ, công chức là công việc rất khó và nhạy cảm, có ý nghĩa
quyết định trong xét khen thưởng. Công tác đánh giá nếu được thực hiện một
cách chính xác, khách quan, công bằng sẽ là tiền đề để tạo được sự công bằng
trong khen thưởng, đảm bảo khen đúng người, đúng việc, đồng thời giúp người
cán bộ, công chức phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, tiến bộ không
ngừng trong việc nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực, hiệu quả công tác của
cán bộ, công chức. Từ đó mới tạo được động lực.
Để công tác đánh giá cán bộ, công chức trong xét khen thưởng thực sự tạo
được động lực thúc đẩy cán bộ, công chức hăng say, nỗ lực hoàn thành tốt nhất
nhiệm vụ được giao, trong thời gian tới cần thực hiện tốt các giải pháp về đánh
giá cán bộ, công chức như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống đánh giá thực hiện công việc của cán bộ,
công chức mà cụ thể là biểu chấm điểm - đánh giá kết quả thi đua hàng năm đối
với cá nhân theo hướng bổ sung các tiêu chuẩn đánh giá thực hiện công việc
được giao, hệ thống đo lường cụ thể việc thực hiện công việc theo các tiêu chuẩn
đã xác định và hệ thống thông tin phản hồi với cán bộ, công chức được đánh giá.
Thứ hai, gắn hiệu quả công tác thực tế làm thước đo chủ yếu trong đánh
giá. Để đánh giá cán bộ, công chức khách quan hơn, trong phương thức đánh giá
cần bổ sung những yếu tố định lượng về công việc, thời gian hoàn thành công
việc, tỷ lệ xử lý công việc tốt, chưa tốt, những giải pháp sáng tạo, sáng kiến
trong công việc...
Thứ ba, xây dựng cách thức đánh giá khoa học, hiệu quả, áp dụng phương
pháp đánh giá linh hoạt. Đó là thực hiện nghiêm túc và thực chất phương pháp
đánh giá theo ý kiến, nhận xét như hiện nay đồng thời học hỏi và vận dụng một
số kỹ thuật đánh giá tiên tiến.
Thứ tư, khi đánh giá cán bộ, công chức không chỉ xem xét ở một lúc, một

36
thời điểm, một thời gian ngắn hoặc chỉ nhìn thấy hiện tại mà cần có thời gian
dài, một quá trình để việc đánh giá được khách quan, toàn diện, đầy đủ, tránh
phiến diện, cần kết hợp theo dõi đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ, kết
hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau nhằm phản ánh kết quả đánh giá một cách
khách quan, công bằng, chính xác.
Thứ năm, kết quả đánh giá cán bộ, công chức phải gắn với khen thưởng để
họ thấy được kết quả đánh giá có tác động tới quyền lợi mà họ được hưởng chứ
không phải là chỉ đánh giá cho xong, làm cho có hình thức, có như vậy mới thực
sự tác động đến động lực làm việc của cán bộ, công chức.
3.9. Đổi mới công tác sơ kết, tổng kết, khen thưởng phong trào thi đua
Sơ kết, tổng kết phong trào thi đua là một nhiệm vụ quan trọng trong thực
hiện phong trào thi đua. Các phong trào cần được kiểm tra, sơ, tổng kết, đánh giá
đúng những kết quả đã đạt được, chỉ ra những mặt còn tồn tại, hạn chế và hướng
khắc phục. Qua đó, rút ra cách làm hay, kinh nghiệm tốt để bồi dưỡng, nhân ra
diện rộng các điển hình tiên tiến đồng thời phát hiện gương người tốt, việc tốt để
đề xuất khen thưởng kịp thời. Thực tế cho thấy, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị
chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, sơ, tổng kết; chưa đầu tư
đúng mức cho phong trào thi đua; chưa tạo được sự phối hợp, liên kết của các
bộ, ngành, địa phương và cơ quan chức năng có liên quan, từ đó hạn chế tính
động lực và hiệu quả của các phong trào thi đua.
Bên cạnh những kết quả đạt được từ phong trào thi đua cần phải mạnh dạn
đề cập những vấn đề tồn tại, yếu kém trong công tác thi đua, khen thưởng để rút
kinh nghiệm và khắc phục kịp thời những thiếu sót. Việc đánh giá không sát,
không đúng, né tránh sự thật sẽ là trở ngại rất lớn trong quá trình tổ chức phong
trào thi đua; hậu quả của việc chạy theo thành tích là rất khó lường.
Khi tiến hành đánh giá sơ, tổng kết phong trào thi đua, cần coi trọng việc
phát hiện, lựa chọn những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, những gương
người tốt, việc tốt hoặc các tập thể, cá nhân lập được thành tích xuất sắc, thành

36
tích đột xuất trong các phong trào thi đua để động viên khen thưởng kịp thời
đồng thời nêu gương, giáo dục và tạo sự lan tỏa trong cộng đồng. Quan tâm khen
thưởng cho đối tượng là các tập thể nhỏ, công nhân, nông dân, người trực tiếp
sản xuất, công tác, lao động và học tập. Quan tâm công việc của cán bộ, công
chức và có mức khen thưởng tương xứng là một trong những yếu tố tạo động lực
mạnh mẽ cho cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Các cán bộ,
công chức sẽ làm việc hăng say, nỗ lực hết sức trong công việc khi họ thấy được
những thành tích, kết quả làm việc của mình được đánh giá đúng, được ghi nhận
và khen thưởng xứng đáng.
C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP
1. Đánh giá thực trạng về công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn
hiện nay.
2. Đề xuất các giải pháp để công tác thi đua, khen thưởng thực sự trở
thành phương thức lãnh đạo của Đảng, công cụ quản lý của Nhà nước và là động
lực thúc đẩy các cá nhân hoàn thành nhiệm vụ chính trị.
D. TÀI LIỆU HỌC TẬP
1. Bộ Chính trị (2004), Chỉ thị 39/CT-TW ngày 21/9/2004 về việc tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết
và nhân điển hình tiên tiến, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị 34/CT-TW ngày 07/4/2014 về tiếp tục đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng, Hà Nội.
3. Luật Thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thi đua, Khen thưởng.

36

You might also like