You are on page 1of 40

TỈNH ỦY QUẢNG NAM

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

GIÁO ÁN

Bài 13: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ


Phần: KIẾN THỨC BỔ TRỢ
Chương trình: TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Người soạn: Trần Thị Thiện


Học vị: Thạc sỹ Luật
Chức danh: Giảng viên
Đơn vị: Phòng Quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học

Quảng Nam, tháng 03 năm 2022


TỈNH ỦY QUẢNG NAM
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

GIÁO ÁN
Bài 13: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
Phần: KIẾN THỨC BỔ TRỢ
Chương trình: TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Người soạn: Trần Thị Thiện


Học vị: Thạc sỹ Luật
Chức danh: Giảng viên
Đơn vị: Phòng Quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học
Đối tượng người học: Lớp Trung cấp lý luận chính trị
Số tiết lên lớp: 08 tiết (mỗi tiết 45 phút)

Quảng Nam, tháng 03 năm 2022


A. KẾ HOẠCH BÀI GIẢNG
1. Tên bài giảng: Thực hiện Dân chủ ở cơ sở
2. Thời gian giảng: 08 tiết (360 phút)
3. Đối tượng người học: Lớp Trung cấp lý luận chính trị
4. Mục tiêu:
a. Về kiến thức
Cung cấp cho người học kiến thức lý luận cơ bản về dân chủ và thực hiện
dân chủ ở cơ sở; thực trạng dân chủ ở cơ sở hiện nay và giải pháp tăng cường
dân chủ ở cơ sở.
b. Về kỹ năng
Giúp người học biết vận dụng tri thức, hiểu biết về dân chủ và thực hiện
dân chủ ở cơ sở vào hoạt động thực tiễn ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị.
c. Về thái độ
Củng cố và nâng cao nhận thức cho người học về bản chất dân chủ thực
sự của chế độ xã hội chủ nghĩa; có ý thức trách nhiệm trong thực hiện dân chủ ở
cơ sở.
5. Kế hoạch chi tiết:
Bước Nội dung Phương Phương Thời
lên lớp pháp tiện gian
Bước 1 Ổn định lớp Thuyết trình Micro 5 phút

Bước 2 Kiểm tra bài cũ Thuyết Micro 15 phút


trình, Hỏi-
đáp
Bước 3 1. KHÁI NIỆM, QUAN ĐIỂM VÀ Thuyết Máy tính, 160
(Giảng bài NỘI DUNG THỰC HIỆN DÂN trình, Hỏi- máy chiếu phút
mới) CHỦ Ở CƠ SỞ. đáp, trực project,
1.1. Khái niệm và hình thức thực quan, phỏng bảng,
hiện dân chủ ở cơ sở. vấn nhanh phấn
1.1.1. Khái niệm dân chủ ở cơ sở.
1.1.2. Hình thức thực hiện dân chủ ở
cơ sở.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về thực
hiện dân chủ ở cơ sở.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về thực hiện dân chủ ở cơ
sở.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực
hiện dân chủ ở cơ sở.
1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về thực hiện dân chủ ở
cơ sở.
1.3. Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ
sở.
1.3.1. Nội dung thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn.
1.3.2. Nội dung thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập.
1.3.3. Nội dung thực hiện dân chủ
tại nơi làm việc của doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình có thuê mướn,
sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động.
2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DÂN Thuyết Máy tính, 85 phút
CHỦ Ở CƠ SỞ HIỆN NAY. trình, Hỏi- máy chiếu
2.1. Kết quả đạt được đáp, trực projector,
2.2. Một số hạn chế quan, phỏng bảng,
vấn nhanh, phấn
thảo luận
nhóm.
3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG Thuyết Máy tính, 85 phút
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ. trình, Hỏi- máy chiếu
đáp, trực projector,
3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định quan, phỏng bảng,
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ vấn nhanh. phấn
sở.
3.2. Tăng cường thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn.
3.3. Tăng cường thực hiện dân chủ ở
cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập.
3.4. Tăng cường thực hiện dân chủ ở
nơi làm việc của doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình có thuê mướn, sử
dụng lao động theo hợp đồng lao
động.
3.5. Tăng cường giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội.

Bước 4 Chốt kiến thức Thuyết trình Micro 4 phút

Bước 5 Hướng dẫn câu hỏi, bài tập, nghiên cứu tài Thuyết trình Micro 6 phút
liệu
B. TÀI LIỆU PHỤC VỤ SOẠN, GIẢNG
* Tài liệu bắt buộc
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Trung
cấp lý luận chính trị: Kiến thức bổ trợ, Nxb. Lý luận chính trị, H,2021.
2. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ
Chính trị khóa VIII về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, HN.
3. Bộ Chính trị (2016), Kết luận số 120-KL/TW ngày 07/01/2016 của Bộ
Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, HN.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H,2021.
* Tài liệu tham khảo
1. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn, HN.
2. Chính phủ (2015), Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của
Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập, HN.
3. Chính phủ (2018), Nghị định số 149/2018/NĐ-CP ngày 7/11/2018 của
Chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc, HN.
C. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
Bước 1: Ổn định lớp
Kiểm tra số lượng học viên tham gia học tập, quán triệt tinh thần, thái độ
học tập nghiêm túc, tham gia xây dựng bài để nắm vững bài tại lớp.
Bước 2: Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi:
Câu 1:
Câu 2:
Bước 3: Giảng bài mới
Đặt vấn đề:
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội năm
1991, Đảng ta chỉ rõ: xây dựng CNXH hướng đến mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển) năm 2011, Đảng ta đưa mục tiêu trở thành đặc trưng đầu tiên và chỉ rõ:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. So với Cương lĩnh 1991,
Cương lĩnh 2011 có sự thay đổi trong xác định mục tiêu đó là đưa cụm từ dân
chủ lên trước công bằng và đây là sự thay đổi rất lớn trong tư duy và nhận thức
của Đảng. Khẳng định thực hiện dân chủ rồi mới có công bằng, bình đẳng. Như
chúng ta đã biết, trong suốt quá trình xây dựng CNXH, Đảng ta luôn nhấn mạnh
đến phát huy dân chủ, xem dân chủ là bản chất của chế độ XHCN muốn vậy
phải không ngừng đổi mới, thực hiện dân chủ rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân
dân, làm sao để dân chủ trở thành thướt đo mức độ ưu việc của chế độ XHCN.
Vậy Thực hiện dân chủ là gì, nội dung, hình thức thực hiện như thế nào? Làm
sao để thực hiện dân chủ ngày càng rộng rãi và có hiệu quả? Chúng ta sẽ được
hiểu rõ hơn trong Bài 13. THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ.
Giới thiệu nội dung bài:
Bài gồm 03 nội dung lớn:
1. Khái niệm, quan điểm và nội dung về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
2. Tình hình thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
3. Giải pháp tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Nội dung bài giảng: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1. KHÁI NIỆM, QUAN ĐIỂM VÀ NỘI DUNG THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm và hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm dân chủ ở cơ sở
Để đi vào tìm hiểu khái niệm Dân chủ cơ sở thì trước tiên chúng ta phải
làm rõ “dân chủ” là gì và “ cơ sở” là gì?
Khi đề cập đến Dân chủ hiểu theo nghĩa đen, đơn thuần cụm từ Dân chủ
cũng đã nói lên được nội hàm của nó: Dân chủ có nghĩa Dân là chủ. Tức là
người dân có quyền làm chủ mọi lĩnh vực liên quan đến cuộc sống của mình.
Xét ở khía cạnh lịch sử, Dân chủ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa
là Demoscratcy, trong đó Demo có nghĩa là Nhân dân, Cracy có nghĩa là chính
quyền hay quyền lực hay sự cai trị. Ghép nghĩa của cụm từ này lại có nghĩa là
chính quyền của Nhân dân, hay quyền lực của Nhân dân hay là sự cai trị của
Nhân dân. Như vậy, theo nguyên nghĩa gốc từ tiếng Hy Lạp, Dân chủ là chính
quyền của Nhân dân, hay quyền lực của Nhân dân hay là sự cai trị của Nhân
dân đều đúng cả.
Theo Lênin, "Dân chủ là sự thống trị của đa số", với nghĩa này, xét trong
các chế dộ xã hội trong lịch sử, đa số trong xã hội thuộc về quần chúng nhân
dân. Nên theo quan niệm này, Dân chủ là sự thống trị của quần chúng nhân dân.
Ở Việt Nam, kế thừa nguyên nghĩa gốc của cụm từ Dân chủ từ thời Hy
Lạp cổ đại, hiện nay Dân chủ ở nước ta được hiểu là quyền làm chủ của Nhân
dân, Nhân dân là chủ thể của chính quyền hay quyền lực.
Dân chủ thường được tổ chức dưới hình thái một Nhà nước, trong Nhà
nước đó quy định về quyền lực thuộc về Nhân dân, tuy nhiên tuỳ thuộc vào bản
chất của Nhà nước đó mà họ quy định ai là Nhân dân thì nền dân chủ đó sẽ bộc
lộ ra là nền dân chủ vì ai và cho ai. Ví dụ: Trong Nhà nước chủ nô, quyền lực
Nhà nước thuộc về chủ nô nên nền dân chủ chủ nô bộc lộ ra là vì chủ nô và cho
chủ nô. Trong Nhà nước Tư sản, quyền lực nằm trong tay giai cấp tư sản nên
nền dân chủ bộ lộ ra vì tư sản và cho tư sản. Còn Nhà nước XHCN là Nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân, nhân dân lao động, quyền lực Nhà nước
thuộc về đại đa số quần chúng nhân dân nên nền dân chủ bộc lộ ra là vì Nhân
dân và cho Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Nước ta là nước dân chủ, Bao nhiêu
quyền đều ở nơi dân, Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Vì vậy, nói đến dân chủ là nói đến chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ,
đó là chế độ chính trị mà toàn bộ quyền lực của nhà nước thuộc về nhân
dân.
Theo Từ điển Bác khoa Việt Nam, Dân chủ là “là hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định”.
Cơ sở là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhưng chưa có khái niệm chính
thức.
Theo từ điển tiếng Việt, cơ sở là “cái nền tảng, trong quan hệ với những
cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển” 1, “Đơn vị ở cấp
dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản xuất, công tác… của
một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với bộ phận lãnh đạo cấp trên” 2. Với nghĩa
đó, khái niệm cơ sở có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, cơ sở là các đơn vị xã hội nhỏ nhất mà nhân dân tổ
chức nên. Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội nên có thể coi gia đình

1
Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng-Hà Nội, 2003, tr.215.
2
Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng-Hà Nội, 2003, tr.216.
là một tế bào nhỏ nhất của xã hội; là cơ sở của xã hội. Các cộng đồng dân cư
với số lượng người, số lượng gia đình nhiều ít khác nhau cùng sống trên một
phạm vi lãnh thổ nhất định có các tên gọi khác nhau như: buôn, làng, xóm, ấp,
thôn, bản, tổ dân phố được coi là tổ chức cơ sở của xã hội. Các cấp cuối cùng,
nhỏ nhất của một hệ thống cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội đều được coi là tổ chức cơ sở.
Đề cập đến các đơn vị cơ sở, Đảng xác định đó là: gia đình, làng, bản, xã,
phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, trường học, đơn vị bộ
đội3, v.v..
Theo nghĩa hẹp, cơ sở là cấp tổ chức hành chính cuối cùng trong hệ
thống tổ chức hành chính nhà nước, trong đó chính quyền cơ sở (hội đồng nhân
dân, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn) có vị trí đặc biệt quan trọng trong
hệ thống chính trị ở nước ta; là cơ quan trực tiếp thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện quyền
dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Chính quyền cơ sở là
nền tảng của nền hành chính sát dân, gần dân nhất. Cấp chính quyền này ở ngay
trong lòng dân, là địa chỉ quan trọng nhất của đường lối, chính sách và pháp
luật.
Dân chủ cơ sở không phải là hình thức dân chủ mà là mức độ thực hiện
dân chủ thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Phương
châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"
phải được cụ thể hoá trong từng cơ quan, đơn vị.
Việc phát huy và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân vừa là quyền
tham gia quản lý nhà nước của công dân, vừa là cuộc vận động dân chủ phát
huy tính sáng tạo, trí tuệ của muôn người trong xây dựng đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, việc phát huy và mở
rộng dân chủ còn khắc phục bệnh quan liêu và chống những hiện tượng và hành
vi phản dân chủ phát sinh trong bộ máy nhà nước.
3
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, 1998.
Như vậy có thể hiểu, thực hiện dân chủ ở cơ sở là việc thực hiện các quy
định nhằm bảo đảm quyền của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người
lao động được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực
hiện hoạt động của của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, bảo đảm trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức đối với việc thực hiện các quyền của nhân dân địa
phương, của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn
vị.
1.1.2. Hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở
Hình thức dân chủ là toàn bộ các phương pháp, cách thức thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước và xã
hội. Bản chất của quyền lực là ý chí của nhân dân về những vấn đề cơ bản chính
yếu của tập thể, của cộng đồng của giai cấp và của dân tộc của cả xã hội. Bởi
vậy, thực hiện quyền lực của nhân dân phải thông qua tổ chức bộ máy nhà nước
và các thiết chế chính trị - xã hội và các hình thức pháp lý nhất định. Thông qua
đó, nhân dân được biểu thị ý chí của mình, được nhà nước ghi nhận, cụ thể hoá
thành đường lối, chính sách, pháp luật và có kế hoạch để đưa ý chí đó thực thi
trong cuộc sống.
Trong thực tế, để thực hiện quyền lực của mình, nhân dân có 2 hình thức
thực hiện dân chủ.
Một là, hình thức dân chủ trực tiếp.
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức qua đó nhân dân bằng hành vi
của mình trực tiếp thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Đó là việc thực
hiện các quyền được thông tin về hoạt động của Nhà nước (được biết); được
bàn bạc về các công việc của Nhà nước và của cộng đồng dân cư; được bàn và
quyết định những vấn đề ở cơ sở; nhân dân trực tiếp kiểm tra giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước.
Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí và
nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi,
địa vị xã hội... Có 4 hình thức dân chủ trực tiếp:
- Trưng cầu ý dân là việc các cử tri bỏ phiếu trực tiếp quyết định các vấn
đề chính trị, xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước hay địa phương, hoặc việc
xây dựng, thông qua hiến pháp mới hay hiến pháp sửa đổi.
- Sáng kiến của công dân là việc công dân đề xuất và bỏ phiếu quyết định
về một vấn đề chung của đất nước hay của cộng đồng. Điều kiện để thực hiện
cuộc bỏ phiếu là những người đề xuất phải thu thập đủ một số lượng chữ ký ủng
hộ theo luật định.
- Sáng kiến chương trình nghị sự là việc người dân đề xuất một vấn đề cụ
thể vào chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp (quốc gia hay địa phương).
- Bãi miễn là việc cử tri bỏ phiếu quyết định về việc bãi miễn (chấm dứt
vai trò) một đại biểu dân cử.
Hai là, hình thức dân chủ đại diện.
Hình thức dân chủ đại diện là hình thức mà quyền dân chủ của nhân dân
được thực hiện thông qua các cá nhân và tổ chức do nhân dân bầu ra. Những
cá nhân và tổ chức được bầu là đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân. Đây là hình thức dân chủ phổ biến trên thế giới hiện nay và
được coi là khoa học về tổ chức lao động quyền lực. Hình thức dân chủ đại diện
chủ yếu là việc thực hiện quyền lực của nhân dân thông qua nhà nước. Vì vậy,
dân chủ luôn gắn với một chế độ nhà nước nhất định.
Ở nước ta hiện nay, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua 2 cơ quan
dân cử đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Cho nên, trước mỗi kỳ
họp Hội đồng nhân dân, kỳ họp Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và đại
biểu Quốc hội được tổ chức đi tiếp xúc cử tri, tiếp xúc và lắng nghe ý kiến, tâm
tư, nguyện vọng và mong muốn chính đáng của quần chúng nhân dân để nắm
bắt và đóng góp ý kiến trong các kỳ họp.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là vấn đề quan trọng của các nhà mác-xít trong quá trình hình
thành một quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, là một trong những nội dung cơ
bản để đối lập giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, những tư
tưởng của Mác-Lênin về thực hiện dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Việc nghiên
cứu quan điểm của Mác-Lênin về thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ giúp cho việc
hiểu rõ hơn bản chất của xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, thực hiện dân chủ là việc thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân.
Giải thích cho ý thứ nhất:
Theo C.Mác, con người và sự tôn trọng những quyền của con người là
điểm xuất phát cũng là điểm đích để đánh giá bản chất của một chế độ. Và theo
ông, chỉ có trong xã hội dân chủ thì con người mới là chủ thể, là mục tiêu hướng
đến của xã hội tức là chỉ trong xã hội dân chủ thì mới thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, của con người thực sự.
Và dân chủ thực chất là những yêu cầu về thực hiện bình đẳng của mỗi
con người về chính trị - xã hội trong mối quan hệ với nhà nước (là chủ thể quản
lý xã hội đó). C.Mác cho rằng: “Chế độ dân chủ là câu đố đã được giải đáp của
mọi hình thức chế độ nhà nước. Ở đây, chế độ nhà nước - không chỉ tự nó, xét
theo bản chất của nó, mà còn xét theo sự tồn tại của nó, theo tính hiện thực của
nó - ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân
dân hiện thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân. Chế độ
nhà nước ở đây xuất hiện đúng chân tướng của nó, - tức là xuất hiện với tính
cách là sản phẩm tự do của con người”4.
Trong khi đó, Lênin cho rằng một trong những tiêu chí để đánh giá nền
dân chủ chính là mức độ tham gia của quần chúng lao động vào công việc của
nhà nước, các hoạt động của xã hội. Lênin nhấn mạnh: "Dân chủ là tự do, là
bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết
định của đa số nữa"5.
4
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.350.
5
V.I.Lênin (2005): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.38, tr.414.
+ Dân chủ là sự thống trị của đa số. Dân chủ được nhìn nhận như một
quyền lực mà tất cả quyền lực thuộc về đa số người dân chứ không phải một
nhóm người, quyền lực này được nhân dân giao cho nhà nước của mình là
người đại diện cho mình.
+ Dân chủ được nhìn nhận như một hình thức tổ chức nhà nước, một
hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng
nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị đối với thiểu
số những kẻ vi phạm thiểu số của nhân dân.
Thứ hai, thực hiện dân chủ là thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội là không tách rời, có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Thực hiện dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là xã hội thể hiện dân chủ. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm
điều để thực hiện dân chủ triệt để; chỉ có thực hiện dân chủ thì mới bảo đảm bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Có thể đặt câu hỏi: Vì sao chỉ trong CNXH thì mới đảm bảo thực
hiện dân chủ triệt để?
Giải thích: Bởi vì chỉ có cuộc Cách mạng XHCN do Đảng Cộng sản lãnh
đạo cùng với sự tham gia của toàn thể nhân dân lao động mới triệt để xoá bỏ áp
bức, bọc lột, xoá bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất, xoá bỏ giai cấp tư sản để giành
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động và thiết lập một
chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Và trong chế độ xã hội mới đó Đảng Cộng
sản chỉ đại diện cho GCCN và NDLĐ lãnh đạo, Nhà nước đại diện cho Nhân
dân thực thi quyền lực còn quyền lực thực sự là của nhân dân nên đảm bảo thực
hiện dân chủ triệt để còn các chế độ trước đó, các cuộc cách mạng trước đó thực
ra chỉ thay thế tư hữu của giai cấp thống trị này bằng tư hữu của giai cấp thống
trị khác như giai cấp địa chủ, phong kiến thay cho chủ nô, giai cấp tư sản thay
cho địa chủ phong kiến, quyền lực đều chỉ tập trung trong tay thiểu số giai cấp
cầm quyền không thuộc về đại đa số nhân dân lao động nên dân chủ không
được phát huy tối đa và triệt để.
Vì vậy, trong xã hội có đối kháng giai cấp, không thể thực hiện dân chủ
thực sự, chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì nhân dân mới thực sự có quyền
làm chủ. Chính vì thế thực hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội là thống nhất với
nhau. C.Mác khẳng định: "Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ trở nên
hoàn toàn vô ích nếu nó không được dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi
hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự
tồn tại của giai cấp vô sản”6.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa
thực hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể nước Nga, Lênin đã
hoàn chỉnh thêm một bước: "Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc
về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức
bất cứ lúc nào và các đại biểu đó hợp thành một quốc hội duy nhất, một nghị
viện duy nhất”7.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, theo Hồ Chí Minh, dân chủ là thứ quý báu nhất của nhân dân, thực hiện
dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết vấn đề của nhà nước.
Trích câu nói của Bác Hồ:
"Dễ trăn lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu vẫn xong"
Hay như "Đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân"
Cho nên, theo Bác có sức dân là có tất cả.
Thứ nhất, thực hiện dân chủ là phát huy quyền làm chủ của dân.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là mọi quyền lực đều ở nơi dân, dân là
chủ của đất nước, mọi công việc của nhà nước đều do dân quyết định.
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
6
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn Tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.470.
7
V.I.Lênin (2005): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.32, tr.180.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”8.
Hồ Chí Minh cho rằng dân là chủ và dân làm chủ thì Đảng, Chính phủ,
cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đầy tớ cho dân và là công bộc của nhân dân.
Và Bác nhấn mạnh: "Cán bộ của dân thì việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh".
Dân chủ trong xã hội Việt Nam đó là nhân dân là chủ thể của quyền lực
và nhân dân làm chủ quyền lực của mình được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
Thứ hai, thực hiện dân chủ là động lực của tiến bộ xã hội.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trước khi làm bất cứ việc gì, Đảng và chính
quyền cũng phải bàn bạc với nhân dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của họ, cùng
với họ đặt kế hoạch cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ
chức họ thi hành. Trong lúc thi hành lại phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến
khích nhân dân; thi hành xong phải cùng với họ kiểm thảo lại công việc, rút
kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. 
Ví dụ:
Nền dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ của tuyệt
đại đa số nhân dân, gắn với công bằng và tiến bộ xã hội. Theo Hồ Chí Minh,
lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh
phúc con người cũng là mất dân chủ.
Làm chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân, không ai có thể xâm phạm.
Người cũng nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy

8
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.6, tr.232.
quyền làm chủ của nhân dân là làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng,
dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm.
Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải “trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “không học hỏi dân thì
không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học
dân”9.
1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện dân chủ ở
cơ sở
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát
triển của xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng
được mở rộng về nội dung, dân chủ cả trong chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
và ở các cấp từ trung ương đến cơ sở; đến từng người dân bằng các hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đang ngày càng được thể hiện trong tất cả các mối quan hệ xã
hội. Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở cửa hội nhập với thế giới và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng là nhằm xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII (1997) nhấn mạnh: Lúc này để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp
của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham
gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình
trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng10.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) được Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là

9
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.6,tr.432.
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb.
10

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 19977, tr.43-105.


bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng
pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân;
chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công
dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời
nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện11.
Trong việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thể hiện rõ quan điểm trong Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ
Chính trị như sau:
Một là, đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ
chế tổng thể của hệ thống chính trị với phương châm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ". Coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn mạnh
mặt này mà coi nhẹ, hạ thấp các mặt khác.
Hai là, vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và
hiệu lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các cấp vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân
dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn
liền với lợi ích của mình.
Ba là, phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và
nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.
Bốn là, nội dung và các quy chế dân chủ cơ sở phải phù hợp với Hiến
pháp, pháp luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự, quyền
hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh
11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011).
lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp
luật.
Năm là, gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với công
tác cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính
không phù hợp.
Trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ
đạo làm rõ 07 nội dung:
Một là, quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về
pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên
quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích hàng ngày của nhân dân tại cơ sở; có chế
độ và hình thức báo cáo công khai trước dân công việc của chính quyền, cơ
quan, đơn vị về sản xuất và phân phối, về việc sử dụng công quỹ, tài sản công,
về thu, chi tài chính, các khoản đóng góp của nhân dân, quyết toán các công
trình xây dựng cơ bản, chế độ thu và sử dụng học phí, viện phí.
Hai là, có quy chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ
sở được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ
công tác chuyên môn, công tác cán bộ… của chính quyền, cơ quan, đơn vị; kết
quả ý kiến đóng góp phải được xem xét, cân nhắc khi chính quyền hoặc thủ
trưởng ra quyết định.
Ba là, có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với
những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn (như
chủ trương huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình
phúc lợi, các khoản đóng góp và lập các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật);
chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện theo ý kiến của đa số
nhân dân, có sự giám sát, kiểm tra của nhân dân.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế để nhân dân, công dân, cán bộ, công chức ở cơ
sở trực tiếp và thông qua Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm
tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị; kết quả
thanh tra, kiểm tra giám sát của nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc.
Năm là, mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân,
cán bộ, công chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những
việc mang tính xã hội hoá, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như
việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hoá, xây dựng tổ hoà giải, tổ an
ninh, phong trào vệ sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người
nghèo…).
Sáu là, xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và trả lời thắc mắc của nhân dân, công nhân, công chức ở cơ
sở, chính quyền cơ quan đơn vị mình. Nghiên cấm mọi hành vi trù dập người
khiếu nại, tố cáo.
Bảy là, xác định trách nhiệm của tổ chức chính quyền, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị cơ sở định kỳ (03 tháng, 06 tháng, 01 năm) báo cáo công việc
trước dân, phải tự phê bình và tổ chức để nhân dân, công nhân, cán bộ, công
chức góp ý kiến, đánh giá phê bình; nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp
đó.
Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998,
Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 120-KL/TW ngày 7/1/2016 của Bộ Chính
trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dưng
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, theo đó, yêu cầu tiếp tục quán triệt, thực
hiện Chỉ thị một cách đồng bộ, đi vào chiều sâu ở tất cả các loại hình cơ sở, trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của người dân; xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên, lâu dài. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn
2021 - 2030, Đảng đã nhấn mạnh: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã
hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng
cường đồng thuận xã hộ”12.Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng cũng khẳng định: “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp,

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
12

Hà Nội, 2021, t.1, tr.118.


dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” 13.
Việc bổ sung nội dung “dân giám sát, dân thủ hưởng” trong Nghị quyết lần này
thể hiện nền dân chủ xã hội ngày càng được mở rộng; trong đó “dân thụ hưởng”
là đích cuối cùng, là mục tiêu cao đẹp của Nhà nước vì dân.
Một điểm mới nữa trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng là bổ sung mối quan hệ lớn thứ 10, đó là quan hệ giữa “thực
hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”14. Đặt thực
hành dân chủ trong mối quan hệ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã
hội chính là nhằm thực hành đầy đủ chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời
không tách rời việc thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật.
1.3. Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.3.1. Nội dung thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
ở cơ sở là một quá trình hoàn thiện và thể chế hoá thành pháp luật. Để cho việc
thực hiện dân chủ cơ sở trở thành phương thức, nguyên tắc tổ chức xã hội và để
quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội trở thành hiện thực, dân chủ cơ sở cần phải được triển khai. Thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn có 05 nội dung sau đây15:
Một là, nội dung công khai để nhân dân biết, gồm có:
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.
- Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án
đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình
trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t.1, tr.173.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t.1, tr.109.
15
Điều 5, 10, 13, 19, 23 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (năm 2007).
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết
các công việc của nhân dân.
- Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương
trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
- Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá
đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát
triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
- Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
- Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín
nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý
kiến nhân dân.
- Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
- Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
- Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Hai là, nội dung nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp. Đó là chủ
trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công
cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ
hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư
phù hợp với quy định của pháp luật.
Ba là, nội dung nhân dân được bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền
quyết định. Đó là hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố; bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố; bầu, bãi nhiệm thành viên ban
thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Bốn là, nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định. Đó là:
- Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh
tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.
- Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.
- Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã;
chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ
tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
- Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh
địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.
- Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của
pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền
cấp xã thấy cần thiết.
Năm là, nội dung nhân dân giám sát. Những nội dung mà dân được biết,
được bàn, được tham gia ý kiến thì nhân dân được giám sát thực hiện.
1.3.2. Nội dung thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập
Thực hiện dân chủ ở trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
và đơn vị sự nghiệp công lập có 03 nội dung sau đây16:
Một là, nội dung phải công khai để cán bộ, công chức, viên chức biết. Đó
là:

16
Điều 4, 5, 6, 7 Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
- Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan
đến công việc của cơ quan, đơn vị.
- Kế hoạch công tác hàng năm, hàng quý, hàng tháng của cơ quan, đơn vị.
- Kinh phí hoạt động hàng năm, bao gồm các nguồn kinh phí do ngân
sách nhà nước cấp và các nguồn tài chính khác; quyết toán kinh phí hàng năm
của cơ quan, đơn vị; tài sản, trang thiết bị của cơ quan, đơn vị; kết quả kiểm
toán.
- Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt
phái, từ chức, miễn nhiệm; hợp đồng làm việc, thay đổi chức danh nghề nghiệp,
thay đổi vị trí làm việc, chấm dứt hợp đồng làm việc của viên chức; đi công tác
nước ngoài, giải quyết chế độ, nâng bậc lương, nâng ngạch, đánh giá, xếp loại
công chức, viên chức; khen thưởng, kỷ luật, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ,
công chức, viên chức; các đề án, dự án và việc xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan, đơn vị.
- Các vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan, đơn vị đã được kết
luận; bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ phải kê khai theo quy
định của pháp luật.
- Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ
quan, đơn vị.
- Các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
- Kết quả tiếp thu ý kiến của cán bộ, công chức, viên chức về những vấn
đề thuộc thẩm quyền quyết định của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đưa ra lấy
ý kiến cán bộ, công chức, viên chức.
- Văn bản chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý cấp trên liên quan đến
công việc của cơ quan, đơn vị.
Hai là, nội dung cán bộ, công chức, viên chức được tham gia ý kiến. Đó
là:
- Chủ trương, giải pháp thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước liên quan đến công việc của cơ quan, đơn vị.
- Kế hoạch công tác hàng năm của cơ quan, đơn vị.
- Tổ chức phong trào thi đua của cơ quan, đơn vị.
- Báo cáo sơ kết, tổng kết của cơ quan, đơn vị.
- Các biện pháp cải tiến tổ chức, hoạt động và lề lối làm việc; phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống quan liêu, phiền
hà, sách nhiễu nhân dân.
- Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức;
bầu cử, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức.
- Thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của cán
bộ, công chức, viên chức.
- Các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
Ba là, quy định những việc cán bộ, công chức, viên chức được giám sát,
kiểm tra. Đó là:
-Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
kế hoạch công tác hàng năm của cơ quan, đơn vị.
- Sử dụng kinh phí hoạt động, chấp hành chính sách, chế độ quản lý và sử
dụng tài sản của cơ quan, đơn vị.
- Thực hiện các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
- Thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước về quyền và lợi ích của
cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ quan, đơn vị.
1.3.3. Nội dung thực hiện dân chủ tại nơi làm việc của doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động
Nghị định số 149/2018/NĐ-CP ngày 7/11/2018 của Chính phủ quy định
chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở tại nơi làm việc quy định 4 nội dung:
Một là, nội dung người sử dụng lao động phải công khai cho người lao
động biết, gồm:
- Tình hình thực hiện nhiệm vụ, sản xuất, kinh doanh.
- Nội quy, quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp liên
quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
- Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể
ngành, thỏa ước lao động tập thể khác mà doanh nghiệp tham gia.
- Nghị quyết Hội nghị người lao động.
- Việc trích lập, sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và các quỹ do
người lao động đóng góp (nếu có).
- Việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp.
- Tình hình thực hiện thi đua, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại,
tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Hai là, nội dung người lao động được tham gia ý kiến. Đó là:
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung nội quy, quy chế và các văn bản quy định
khác của doanh nghiệp liên quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động.
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung thang lương, bảng lương, định mức lao
động; đề xuất nội dung thương lượng tập thể.
- Đề xuất, thực hiện giải pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao
động, cải thiện điều kiện làm việc, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ.
- Các nội dung khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động
theo quy định của pháp luật.
Ba là, nội dung người lao động được quyết định. Đó là:
- Giao kết, thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động theo
quy định của pháp luật.
- Gia nhập hoặc không gia nhập tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ
sở.
- Tham gia hoặc không tham gia đình công theo đúng quy định của pháp
luật.
- Biểu quyết nội dung thương lượng tập thể đã đạt được theo quy định
của pháp luật; biểu quyết nội dung nghị quyết Hội nghị người lao động.
- Các nội dung khác theo quy định của pháp luật.
Bốn là, nội dung người lao động được kiểm tra, giám sát. Đó là:
- Việc thực hiện hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể.
- Việc thực hiện nội quy lao động, các quy chế và các văn bản quy định
khác của doanh nghiệp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động.
- Việc sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, các quỹ do người lao động
đóng góp.
- Việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động.
- Việc thực hiện thi đua, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
- Việc thực hiện nghị quyết Hội nghị người lao động.
2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ HIỆN NAY
2.1. Kết quả đạt được
Đánh giá cơ đồ đất nước sau quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng
tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và
hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa
vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Chú trọng thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp
xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân”17.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích
cực, giải quyết thỏa đáng nhiều vấn đề vướng mắc, dư luận quan tâm. Từ đó,
củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển chung của đất nước.
- Về nâng cao nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ.
Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng lên nên
việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được coi trọng, nhất là ở các cơ quan hành
chính nhà nước cấp cơ sở, đơn vị sự nghiệp công lập và trong các doanh nghiệp.
Nhờ vậy, thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính có
nhiều chuyển biến. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, đạo đức công vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tiến bộ. Qua đó, tác động tích cực đến
hiệu quả, chất lượng công việc trong bộ máy nhà nước, việc xây dựng mối quan
hệ lao động hài hòa tại các doanh nghiệp trên địa bàn địa phương.
- Về công tác tuyên truyền, dân vận
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân chủ luôn được các địa
phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chú trọng thực hiện thường xuyên và có
hiệu quả đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân
với nhiều hình thức đa dạng.
Công tác dân vận được đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng vận động
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân thực hiện tốt chủ

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
17

Hà Nội, 2021, t.1, tr.71.


trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; triển khai thực hiện có
hiệu quả các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội. Chú trọng
thực hiện công tác dân vận trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước, đặc
biệt coi trọng việc phát huy quyền làm chủ và những lợi ích, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân.
- Việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tiếp tục được đẩy mạnh,
đạt chất lượng. Chính quyền các xã, phường, thị trấn đã thực hiện tốt việc công
khai cho nhân dân biết những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước
có liên quan trực tiếp với nhân dân và địa phương. Các cấp ủy đảng, chính
quyền cơ sở tạo điều kiện để nhân dân tham gia bàn bạc và tự quyết định trực
tiếp về các chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình
phúc lợi công cộng cho địa phương, giúp dân thực hiện việc giám sát thông qua
hoạt động của ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng đối với
các công trình xây dựng do nhân dân đóng góp và các công việc trong nội bộ
cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
Công tác đối thoại, tiếp công dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và
những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của người dân, doanh
nghiệp được quan tâm hơn trước. Tổ hòa giải ở cơ sở nhiều nơi hoạt động khá
hiệu quả, không để xảy ra “điểm nóng”, hạn chế tình trạng khiếu kiện đông
người, vượt cấp lên cấp trên; góp phần ổn định an ninh trật tự, an toàn xã hội,
phát huy được dân chủ trực tiếp của nhân dân tại địa bàn dân cư.
Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đạt nhiều kết quả, một số
nơi đã tổ chức được các hoạt động phản biện xã hội ở cơ sở. Nhân dân tham gia
tích cực hơn vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền.
Quyền làm chủ của nhân dân, các hình thức dân chủ đại diện được phát huy;
dân chủ trực tiếp được mở rộng; phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Việc thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự
nghiệp công lập ngày càng được quan tâm. Nhận thức, năng lực thực hành dân
chủ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tương đối cao nên việc thực hiện
dân chủ trong các cơ quan, đơn vị là tương đối tốt.
Cán bộ, công chức, viên chức được tạo điều kiện để được trình bày ý
kiến, đề xuất việc giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình,
đóng góp ý kiến để xây dựng nội bộ cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị đã chú trọng triển khai thực hiện các nội
dung dân chủ ở cơ quan, đơn vị. Điều này thể hiện qua việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ hàng năm của các cơ quan, đơn vị được phản ánh trong việc chủ
động xây dựng và thực hiện kế hoạch công tác, sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí
sử dụng biên chế hợp lý, tiết kiệm, nâng cao chất lượng, năng suất lao động,
thực hành tiết kiệm, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức.
Các tổ chức đoàn thể quần chúng thuộc các cơ quan, đơn vị ngày càng
tham gia vào việc kiểm tra, giám sát trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ
sở.
- Việc thực hiện dân chủ ở nơi làm việc ngày càng chú trọng, nhất là
công tác đối thoại giữa người sử dụng lao động với người lao động, tổ chức hội
nghị người lao động và ký kết các thỏa ước lao động tập thể. Nhiều thỏa ước
lao động tập thể đã chú trọng vào thực chất, đảm bảo nâng cao điều kiện lao
động tốt hơn cho người lao động.
Ở nhiều doanh nghiệp, ban chấp hành công đoàn cơ sở đã xây dựng quy
chế phối hợp với ban giám đốc doanh nghiệp, nhằm động viên, phát huy sáng
kiến cải tiến kỹ thuật, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động. Một số doanh nghiệp
đã có quy định đối thoại định kỳ, đối thoại đột xuất tại doanh nghiệp. Thông qua
đối thoại, quyền dân chủ của đoàn viên và người lao động được phát huy; xây
dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, góp phần tháo gỡ những khó khăn
trong sản xuất, kinh doanh, ổn định sản xuất, đảm bảo việc làm, từng bước nâng
cao thu nhập cho người lao động...
Như vậy, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy được vai
trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của
địa phương, đất nước, cơ quan, đơn vị; góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp
luật, hương ước, quy ước, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám
sát hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên ở khu dân cư. Bầu
không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội được mở rộng hơn. Nhiều khó khăn
trong quá trình phát triển được nhân dân bàn bạc, tháo gỡ, giải quyết có hiệu
quả như: Vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi triển khai thu hồi đất để thực
hiện các công trình, dự án; hiến đất xây dựng các công trình; giữ gìn vệ sinh
môi trường, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; xây dựng các tập thể
đoàn kết, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn trong các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp; cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động trong
các doanh nghiệp… tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân đẩy
mạnh các phong trào thi đua, góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn, giành
được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng
cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng, chính
quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo sự đồng thuận trong xã
hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân; nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
2.2. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thẳng
thắn thừa nhận hạn chế, khuyết điểm trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở:
“Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu
sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát,
phản biện xã hội chưa đều. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và
giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của
người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn
biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”18.
Một số hạn chế trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đó là:

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
18

Hà Nội, 2021, t.1, tr.89.


- Nhận thức của một số cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và
người dân về thực hiện dân chủ ở sở chưa đầy đủ. Các chủ trương, đường lối
của Đảng về dân chủ ở cơ sở đã được thể chế hóa thành pháp luật và trở thành
hành lang pháp lý buộc các tổ chức, cá nhân tuân theo nhưng ở một bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động và người dân vẫn còn sự nhận thức
tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương. Chính vì thế, công tác
tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật về dân
chủ ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chưa kịp thời; nhiều
nơi thực hiện còn mang tính hình thức, đối phó. Việc công khai các nội dung
liên quan ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị cơ sở chưa đầy đủ, chưa tạo
thuận lợi cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người dân tiếp
cận thông tin.
- Một số địa phương chưa phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân
dân tham gia bàn và quyết định các vấn đề của địa phương, giám sát, góp ý xây
dựng Đảng, chính quyền ở một số nơi còn hạn chế. Việc công khai và tạo điều
kiện cho nhân dân giám sát việc quản lý, sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài
trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã còn nhiều hạn chế. Vẫn còn tình
trạng một bộ phận người dân lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính
đáng, không đúng pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, thậm chí bị các
thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người,
làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm pháp luật...
- Công tác nắm bắt tình hình và trách nhiệm giải quyết những vấn đề bức
xúc, đơn, thư khiếu nại, tố cáo ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị còn chậm.
Việc nắm tình hình của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, nhân dân
và xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm quyền làm chủ của nhân dân chưa kịp
thời. Việc tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
với nhân dân ở cấp xã hiệu quả chưa cao. Có lúc, có nơi còn tình trạng vi phạm
dân chủ, gây bức xúc, khiếu kiện đông người, vượt cấp, nhưng giải quyết chưa
triệt để, nhất là trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai, đền bù, tái định
cư khi thu hồi đất. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
đã chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn
biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”19
- Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong
tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của
quần chúng còn bất cập. Hiệu quả hoạt động của ban thanh tra nhân dân, ban
giám sát đầu tư cộng đồng chưa cao, chưa phát huy vai trò, trách nhiệm trong
thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Một số thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa thật sự quan tâm chỉ đạo, tổ
chức triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở, có biểu hiện phó mặc cho bộ phận
thường trực, giúp việc. Một số người có phong cách gia trưởng, mượn danh
hoặc nhân danh tập thể để hợp thức hóa những quyết định, ý chí chủ quan của
cá nhân. Thậm chí có trường hợp trù dập cấp dưới, nhân viên dưới quyền. Xây
dựng và thực hiện dân chủ tại nhiều cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp chưa
thật gắn với việc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố tổ chức, bộ máy
nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội và gắn với công tác cải cách hành
chính.
- Ở nhiều doanh nghiệp, nhất là loại hình doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện không đầy đủ nội dung dân chủ,
chưa tổ chức đối thoại tại nơi làm việc, thậm chí vi phạm các quy định của
pháp luật lao động, nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội…
3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ
ở cơ sở
Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở được tiến hành trong khuôn khổ nhất
định, vì vậy, cần hoàn thiện thể chế về dân chủ để bảo đảm khuôn khổ pháp lý
cho việc thực hiện dân chủ nói chung, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng.
Đồng thời cần nâng cao nhận thức về vấn đề dân chủ cho cán bộ, công chức,

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
19

Hà Nội, 2021, t.1, tr.102-103.


viên chức, người lao động, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007), Nghị định số
04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị
định số 149/2018/NĐ-CP ngày 7/11/2018 của Chính phủ về thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm quyền dân chủ và
phát huy dân chủ ở cơ sở; bảo đảm sự phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội được chủ động và thường
xuyên hơn; mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân ngày được gắn
kết chặt chẽ hơn, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương cơ sở; mối quan hệ giữa thủ trưởng cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Đã phát huy hiệu quả dân chủ trong nhân dân, góp phần xây dựng chính quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; ổn định tình hình, phát triển kinh tế -
xã hội, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân
dân. Tuy nhiên, hiện nay các văn bản này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập và
không còn phù hợp với xu hướng đất nước đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội
và hội nhập quốc tế. Chính vì thế, trên cơ sở các văn bản pháp luật liên quan về
thực hiện dân chủ ở cơ sở cần ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở để thay
thế cho các văn bản pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành
chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và nơi làm việc.
Rà soát, so sánh, đối chiếu nội dung của các văn bản về thực hiện dân chủ
ở cơ sở với các luật liên quan như Luật Tiếp cận thông tin, Luật Trưng cầu ý
dân, Luật An ninh mạng… để quy định rõ những vấn đề, nội dung cấm công
khai, cấm cung cấp thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật quốc gia, liên quan
đến an toàn, an ninh, chủ quyền quốc gia; các vấn đề liên quan đến quyền, lợi
ích của người dân cần được công khai, cung cấp thông tin kịp thời bằng các
phương thức khác nhau để người dân được biết, được bàn, được kiểm tra.
Xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật về lấy ý kiến nhân dân và phản
biện xã hội. Phản biện có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm và mở rộng
dân chủ. Năm 2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tuy
nhiên, cần thể chế hóa thành quy định của pháp luật để tạo cơ sở pháp lý đồng
bộ cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền làm chủ thực sự
của người dân.
Bên cạnh đó, cần xây dựng quy định pháp luật về chế độ tự quản của
người dân. Tự quản sẽ cho phép huy động mạnh mẽ quyền chủ động, sáng tạo
của chính người dân trong việc giải quyết công việc chung của cộng đồng và
giảm gánh nặng cho Nhà nước… Các văn bản quy định về dân chủ cơ sở cần
được bổ sung thêm các chế tài về việc thực hiện quy chế đối với người đứng
đầu cơ quan, đơn vị cũng như cán bộ, công chức, viên chức khi không thực hiện
đúng các nội dung về dân chủ nhằm đảm bảo việc thực hiện dân chủ ở cơ sở
được nghiêm minh. Ngoài ra cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về các quyền của công dân đã được quy định trong Hiến pháp như
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình… Điều quan trọng là cần có cơ chế để bảo đảm các quyền này được thực
hiện trên thực tế.
3.2. Tăng cường thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Một là, xây dựng chính quyền thực sự thân thiện, gần dân, trọng dân và
vì dân.
Chính quyền thân thiện là chính quyền gần gũi với nhân dân, luôn lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân để phục vụ nhân dân tốt hơn. Chính
quyền thân thiện bắt nguồn từ bản chất, sứ mệnh của chính quyền đối với nhân
dân. Đó là chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân”20; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện”21.
Để xây dựng chính quyền thật sự thân thiện, gần dân, trọng dân và vì dân,
cần đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ
tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành
chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp; thực hiện tiếp công dân và giải
quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng văn hóa công vụ, hình thành
phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức,
góp phần nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công
vụ của cán bộ, công chức.
Hai là, thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” trong lãnh đạo, quản lý.
Cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thật sự phát huy dân
chủ trong Đảng, công khai, minh bạch trong điều hành của chính quyền. Người
đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa các
quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ; đồng thời, đẩy mạnh công
tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về phát huy quyền làm chủ; giải
quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”; tạo điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu quả. Tiếp
tục bổ sung các quy chế, quy định về dân chủ để thực hiện thống nhất trong toàn
Đảng. Trước hết, quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Bổ
sung quy định về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ đi đôi với kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ.

20
Hiến pháp năm 2013, Khoản 2 Điều 2.
21
Hiến pháp năm 2013, Điều 3.
Đề cao vai trò, trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm
phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đối với mỗi đảng viên, phải thực hiện
nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Bộ Chính trị “về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Trong nhiều nội
dung về nêu gương phải coi trọng nêu gương về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Định hướng và thực hiện tốt vai trò giữ vững ổn định chính trị và khối đại
đoàn kết toàn dân, đặc biệt là giữ vững đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ quan, đơn vị, địa phương được phân
công phụ trách. Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện các chương trình phối
hợp giữa các ngành chức năng liên quan đến công tác dân vận.
Ba là, thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động
của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, ban thanh tra nhân dân, ban
giám sát đầu tư của cộng đồng. Các ban này phải xây dựng kế hoạch hoạt động
hàng năm cụ thể và họp theo định kỳ; xác định được nội dung hạn chế cấp mình
để tập trung chỉ đạo thực hiện. Kịp thời củng cố, kiện toàn ban khi có thay đổi
về nhân sự, đảm bảo các ban hoạt động hiệu quả, nền nếp. Thường xuyên tổ
chức các lớp bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở cơ sở cho các thành viên ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, ban
thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao.
3.3. Tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập
Một là, phát huy vai trò của các tổ chức Đảng ở cơ sở, các tổ chức đoàn
thể quần chúng trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị.
Tổ chức Đảng ở cơ sở phải giáo dục cho đảng viên ý thức rõ trách nhiệm
chính trị và nghĩa vụ đạo đức của mình, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê
bình. Nếu trong Đảng thực hành được dân chủ sẽ thúc đẩy dân chủ trong cơ
quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên phải gương mẫu
trong đạo đức, lối sống, đề cao kỷ luật và trách nhiệm, tôn trọng và tận tụy phục
vụ nhân dân.
Các tổ chức đoàn thể quần chúng đề xuất, tham mưu cho cấp ủy, lãnh đạo
cơ quan, đơn vị tăng cường kiểm tra, theo dõi, đánh giá việc triển khai thực hiện
dân chủ tại cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý để đảm bảo thực hiện đúng
pháp luật, đồng thời báo cáo, đề xuất lên cấp trên có thẩm quyền để xử lý đối
với những trường hợp vi phạm về dân chủ.
Hai là, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Thực hiện dân chủ cơ sở tốt sẽ là công cụ giám sát có hiệu quả chính bản
thân cơ quan, đơn vị, bảo đảm thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nội
quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, cảnh báo sớm những sai phạm có thể xảy đến
với các quyết định của người đứng đầu hoặc trong quá trình tổ chức triển khai
công tác của cơ quan, đơn vị. Chính vì vậy, người đứng đầu cần tạo điều kiện để
cán bộ, công chức, viên chức và các tổ chức đại diện cho quyền lợi của họ như
công đoàn, ban thanh tra nhân dân hoạt động hiệu quả.
Đồng thời, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải đảm bảo đúng trách
nhiệm của mình trong thực hiện dân chủ trong quản lý và điều hành hoạt động
của cơ quan, đơn vị.
Ba là, tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức một cách thực chất.
Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức là diễn đàn để cán bộ, công chức,
viên chức trình bày ý kiến của mình một cách trực tiếp, công khai về hoạt động
của cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều hội nghị được tổ chức
mang tính hình thức. Chính vì vậy, để tăng cường thực hành dân chủ ở cơ quan,
đơn vị thì hội nghị cán bộ, công chức, viên chức cần được tổ chức thực chất, có
chất lượng. Muốn vậy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần tạo được bầu không
khí thực sự thoải mái để cán bộ, công chức, viên chức có cơ hội bày bỏ tâm tư,
nguyện vọng của mình. Điều quan trọng hơn, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình; phải giải đáp thỏa đáng những
thắc mắc, kiến nghị của cán bộ, công chức, viên chức.
Sau hội nghị cần tăng cường giám sát việc thực hiện nghị quyết hội nghị
cán bộ, công chức, viên chức; phải có đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết hội
nghị cán bộ, công chức, viên chức; đặc biệt không trù dập những người có ý
kiến trái chiều.
Bốn là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và đấu tranh phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhưng luôn phải gắn với bảo đảm tăng cường
kỷ luật, kỷ cương hành chính, cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, điều hành của
cấp trên. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện đúng chức trách,
nhiệm được giao. Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, gây nhũng
nhiễu, phiền hà trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, xử lý
nghiêm việc chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
3.4. Tăng cường thực hiện dân chủ ở nơi làm việc của doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động
Tăng cường thực hiện dân chủ ở nơi làm việc chủ yếu thông qua hình
thức tuyên truyền, vận động chủ doanh nghiệp thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở và thông qua vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở.
Trước hết, cần tăng cường đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước về
lao động với chủ doanh nghiệp; đồng thời vận động, tuyên truyền, nâng cao
nhận thức của chủ sử dụng lao động về vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng, thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở cần phải có chế tài nghiêm khắc xử lý. Đây cũng là cơ sở
để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng lao động vì sự
phát triển của doanh nghiệp và quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao
động.
Hai là, để việc thực hiện dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc đạt hiệu quả,
thực chất, ngoài sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, cần phát huy vai trò
chức công đoàn cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở bảo đảm hoạt
động chất lượng, hiệu quả. Trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở nơi làm
việc, công đoàn cơ sở có vai trò then chốt, mang tính quyết định. Công đoàn
không mạnh thì quyền lợi của người lao động khó được bảo đảm. Công đoàn cơ
sở có thể xây dựng quy chế phối hợp với ban giám đốc doanh nghiệp, nhằm
động viên, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm an toàn vệ sinh lao
động. Định kỳ, ban giám đốc và ban chấp hành công đoàn tổ chức đối thoại trực
tiếp, trả lời chất vấn và giải đáp kiến nghị của người lao động, cùng nhau tháo
gỡ khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, tổ chức công đoàn cần
xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
3.5. Tăng cường giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn
hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai
sót, hạn chế, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp;
phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Để giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội có hiệu quả, cần đổi mới nội dung, phương thức giám sát, phản
biện. Theo đó, nội dung giám sát, phản biện xã hội cần tập trung vào những vấn
đề nhân dân quan tâm, bức xúc. Tăng cường phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên với chính quyền và các cá nhân tiêu biểu là các già làng,
trưởng bản, các nhân sĩ tri thức, các nhà khoa học, phát huy vai trò của báo chí,
truyền thông để phản ánh kịp thời, công khai, minh bạch đối với những vấn đề
cần giám sát, phản biện xã hội. Đặc biệt, thực hiện tốt bước cuối cùng trong quy
trình giám sát đó là theo dõi việc thực hiện các kiến nghị giám sát. Trường hợp
kiến nghị không được giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định của pháp
luật thì cần đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân đó.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc cấp xã. Kiện toàn tổ chức bộ máy
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc theo hướng đủ về số lượng, bảo đảm về chất
lượng; nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội cấp xã. Thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn
theo từng chuyên đề về công tác giám sát, phản biện xã hội. Tổ chức các hội
nghị chuyên đề để trao đổi thông tin hoạt động, phổ biến kinh nghiệm, mô hình
mới, cách làm hay của các địa phương trong công tác giám sát, để các địa
phương khác học tập, làm theo. Chính quyền cấp xã cần quan tâm tạo điều kiện
về chế độ, chính sách, kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.

C. CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN


1. Đánh giá thực trạng dân chủ ở cơ sở hiện nay. Liên hệ tại cơ quan, đơn
vị đồng chí công tác.
2. Những giải pháp chủ yếuphát huy dân chủ ở cơ sở hiện nay.
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy trình bày quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
và thực hiện dân chủ ở cơ sở?
2. Thực hiện dân chủ ở cơ sở gồm có những nội dung và hình thức nào?

You might also like