Professional Documents
Culture Documents
GIÁO ÁN
GIÁO ÁN
Bài 13: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
Phần: KIẾN THỨC BỔ TRỢ
Chương trình: TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Bước 5 Hướng dẫn câu hỏi, bài tập, nghiên cứu tài Thuyết trình Micro 6 phút
liệu
B. TÀI LIỆU PHỤC VỤ SOẠN, GIẢNG
* Tài liệu bắt buộc
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Trung
cấp lý luận chính trị: Kiến thức bổ trợ, Nxb. Lý luận chính trị, H,2021.
2. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ
Chính trị khóa VIII về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, HN.
3. Bộ Chính trị (2016), Kết luận số 120-KL/TW ngày 07/01/2016 của Bộ
Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, HN.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H,2021.
* Tài liệu tham khảo
1. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn, HN.
2. Chính phủ (2015), Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của
Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập, HN.
3. Chính phủ (2018), Nghị định số 149/2018/NĐ-CP ngày 7/11/2018 của
Chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc, HN.
C. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
Bước 1: Ổn định lớp
Kiểm tra số lượng học viên tham gia học tập, quán triệt tinh thần, thái độ
học tập nghiêm túc, tham gia xây dựng bài để nắm vững bài tại lớp.
Bước 2: Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi:
Câu 1:
Câu 2:
Bước 3: Giảng bài mới
Đặt vấn đề:
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội năm
1991, Đảng ta chỉ rõ: xây dựng CNXH hướng đến mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển) năm 2011, Đảng ta đưa mục tiêu trở thành đặc trưng đầu tiên và chỉ rõ:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. So với Cương lĩnh 1991,
Cương lĩnh 2011 có sự thay đổi trong xác định mục tiêu đó là đưa cụm từ dân
chủ lên trước công bằng và đây là sự thay đổi rất lớn trong tư duy và nhận thức
của Đảng. Khẳng định thực hiện dân chủ rồi mới có công bằng, bình đẳng. Như
chúng ta đã biết, trong suốt quá trình xây dựng CNXH, Đảng ta luôn nhấn mạnh
đến phát huy dân chủ, xem dân chủ là bản chất của chế độ XHCN muốn vậy
phải không ngừng đổi mới, thực hiện dân chủ rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân
dân, làm sao để dân chủ trở thành thướt đo mức độ ưu việc của chế độ XHCN.
Vậy Thực hiện dân chủ là gì, nội dung, hình thức thực hiện như thế nào? Làm
sao để thực hiện dân chủ ngày càng rộng rãi và có hiệu quả? Chúng ta sẽ được
hiểu rõ hơn trong Bài 13. THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ.
Giới thiệu nội dung bài:
Bài gồm 03 nội dung lớn:
1. Khái niệm, quan điểm và nội dung về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
2. Tình hình thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
3. Giải pháp tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Nội dung bài giảng: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1. KHÁI NIỆM, QUAN ĐIỂM VÀ NỘI DUNG THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm và hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm dân chủ ở cơ sở
Để đi vào tìm hiểu khái niệm Dân chủ cơ sở thì trước tiên chúng ta phải
làm rõ “dân chủ” là gì và “ cơ sở” là gì?
Khi đề cập đến Dân chủ hiểu theo nghĩa đen, đơn thuần cụm từ Dân chủ
cũng đã nói lên được nội hàm của nó: Dân chủ có nghĩa Dân là chủ. Tức là
người dân có quyền làm chủ mọi lĩnh vực liên quan đến cuộc sống của mình.
Xét ở khía cạnh lịch sử, Dân chủ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa
là Demoscratcy, trong đó Demo có nghĩa là Nhân dân, Cracy có nghĩa là chính
quyền hay quyền lực hay sự cai trị. Ghép nghĩa của cụm từ này lại có nghĩa là
chính quyền của Nhân dân, hay quyền lực của Nhân dân hay là sự cai trị của
Nhân dân. Như vậy, theo nguyên nghĩa gốc từ tiếng Hy Lạp, Dân chủ là chính
quyền của Nhân dân, hay quyền lực của Nhân dân hay là sự cai trị của Nhân
dân đều đúng cả.
Theo Lênin, "Dân chủ là sự thống trị của đa số", với nghĩa này, xét trong
các chế dộ xã hội trong lịch sử, đa số trong xã hội thuộc về quần chúng nhân
dân. Nên theo quan niệm này, Dân chủ là sự thống trị của quần chúng nhân dân.
Ở Việt Nam, kế thừa nguyên nghĩa gốc của cụm từ Dân chủ từ thời Hy
Lạp cổ đại, hiện nay Dân chủ ở nước ta được hiểu là quyền làm chủ của Nhân
dân, Nhân dân là chủ thể của chính quyền hay quyền lực.
Dân chủ thường được tổ chức dưới hình thái một Nhà nước, trong Nhà
nước đó quy định về quyền lực thuộc về Nhân dân, tuy nhiên tuỳ thuộc vào bản
chất của Nhà nước đó mà họ quy định ai là Nhân dân thì nền dân chủ đó sẽ bộc
lộ ra là nền dân chủ vì ai và cho ai. Ví dụ: Trong Nhà nước chủ nô, quyền lực
Nhà nước thuộc về chủ nô nên nền dân chủ chủ nô bộc lộ ra là vì chủ nô và cho
chủ nô. Trong Nhà nước Tư sản, quyền lực nằm trong tay giai cấp tư sản nên
nền dân chủ bộ lộ ra vì tư sản và cho tư sản. Còn Nhà nước XHCN là Nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân, nhân dân lao động, quyền lực Nhà nước
thuộc về đại đa số quần chúng nhân dân nên nền dân chủ bộc lộ ra là vì Nhân
dân và cho Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Nước ta là nước dân chủ, Bao nhiêu
quyền đều ở nơi dân, Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Vì vậy, nói đến dân chủ là nói đến chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ,
đó là chế độ chính trị mà toàn bộ quyền lực của nhà nước thuộc về nhân
dân.
Theo Từ điển Bác khoa Việt Nam, Dân chủ là “là hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định”.
Cơ sở là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhưng chưa có khái niệm chính
thức.
Theo từ điển tiếng Việt, cơ sở là “cái nền tảng, trong quan hệ với những
cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển” 1, “Đơn vị ở cấp
dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản xuất, công tác… của
một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với bộ phận lãnh đạo cấp trên” 2. Với nghĩa
đó, khái niệm cơ sở có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, cơ sở là các đơn vị xã hội nhỏ nhất mà nhân dân tổ
chức nên. Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội nên có thể coi gia đình
1
Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng-Hà Nội, 2003, tr.215.
2
Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng-Hà Nội, 2003, tr.216.
là một tế bào nhỏ nhất của xã hội; là cơ sở của xã hội. Các cộng đồng dân cư
với số lượng người, số lượng gia đình nhiều ít khác nhau cùng sống trên một
phạm vi lãnh thổ nhất định có các tên gọi khác nhau như: buôn, làng, xóm, ấp,
thôn, bản, tổ dân phố được coi là tổ chức cơ sở của xã hội. Các cấp cuối cùng,
nhỏ nhất của một hệ thống cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội đều được coi là tổ chức cơ sở.
Đề cập đến các đơn vị cơ sở, Đảng xác định đó là: gia đình, làng, bản, xã,
phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, trường học, đơn vị bộ
đội3, v.v..
Theo nghĩa hẹp, cơ sở là cấp tổ chức hành chính cuối cùng trong hệ
thống tổ chức hành chính nhà nước, trong đó chính quyền cơ sở (hội đồng nhân
dân, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn) có vị trí đặc biệt quan trọng trong
hệ thống chính trị ở nước ta; là cơ quan trực tiếp thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện quyền
dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Chính quyền cơ sở là
nền tảng của nền hành chính sát dân, gần dân nhất. Cấp chính quyền này ở ngay
trong lòng dân, là địa chỉ quan trọng nhất của đường lối, chính sách và pháp
luật.
Dân chủ cơ sở không phải là hình thức dân chủ mà là mức độ thực hiện
dân chủ thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Phương
châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"
phải được cụ thể hoá trong từng cơ quan, đơn vị.
Việc phát huy và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân vừa là quyền
tham gia quản lý nhà nước của công dân, vừa là cuộc vận động dân chủ phát
huy tính sáng tạo, trí tuệ của muôn người trong xây dựng đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, việc phát huy và mở
rộng dân chủ còn khắc phục bệnh quan liêu và chống những hiện tượng và hành
vi phản dân chủ phát sinh trong bộ máy nhà nước.
3
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, 1998.
Như vậy có thể hiểu, thực hiện dân chủ ở cơ sở là việc thực hiện các quy
định nhằm bảo đảm quyền của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người
lao động được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực
hiện hoạt động của của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, bảo đảm trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức đối với việc thực hiện các quyền của nhân dân địa
phương, của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn
vị.
1.1.2. Hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở
Hình thức dân chủ là toàn bộ các phương pháp, cách thức thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước và xã
hội. Bản chất của quyền lực là ý chí của nhân dân về những vấn đề cơ bản chính
yếu của tập thể, của cộng đồng của giai cấp và của dân tộc của cả xã hội. Bởi
vậy, thực hiện quyền lực của nhân dân phải thông qua tổ chức bộ máy nhà nước
và các thiết chế chính trị - xã hội và các hình thức pháp lý nhất định. Thông qua
đó, nhân dân được biểu thị ý chí của mình, được nhà nước ghi nhận, cụ thể hoá
thành đường lối, chính sách, pháp luật và có kế hoạch để đưa ý chí đó thực thi
trong cuộc sống.
Trong thực tế, để thực hiện quyền lực của mình, nhân dân có 2 hình thức
thực hiện dân chủ.
Một là, hình thức dân chủ trực tiếp.
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức qua đó nhân dân bằng hành vi
của mình trực tiếp thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Đó là việc thực
hiện các quyền được thông tin về hoạt động của Nhà nước (được biết); được
bàn bạc về các công việc của Nhà nước và của cộng đồng dân cư; được bàn và
quyết định những vấn đề ở cơ sở; nhân dân trực tiếp kiểm tra giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước.
Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí và
nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi,
địa vị xã hội... Có 4 hình thức dân chủ trực tiếp:
- Trưng cầu ý dân là việc các cử tri bỏ phiếu trực tiếp quyết định các vấn
đề chính trị, xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước hay địa phương, hoặc việc
xây dựng, thông qua hiến pháp mới hay hiến pháp sửa đổi.
- Sáng kiến của công dân là việc công dân đề xuất và bỏ phiếu quyết định
về một vấn đề chung của đất nước hay của cộng đồng. Điều kiện để thực hiện
cuộc bỏ phiếu là những người đề xuất phải thu thập đủ một số lượng chữ ký ủng
hộ theo luật định.
- Sáng kiến chương trình nghị sự là việc người dân đề xuất một vấn đề cụ
thể vào chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp (quốc gia hay địa phương).
- Bãi miễn là việc cử tri bỏ phiếu quyết định về việc bãi miễn (chấm dứt
vai trò) một đại biểu dân cử.
Hai là, hình thức dân chủ đại diện.
Hình thức dân chủ đại diện là hình thức mà quyền dân chủ của nhân dân
được thực hiện thông qua các cá nhân và tổ chức do nhân dân bầu ra. Những
cá nhân và tổ chức được bầu là đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân. Đây là hình thức dân chủ phổ biến trên thế giới hiện nay và
được coi là khoa học về tổ chức lao động quyền lực. Hình thức dân chủ đại diện
chủ yếu là việc thực hiện quyền lực của nhân dân thông qua nhà nước. Vì vậy,
dân chủ luôn gắn với một chế độ nhà nước nhất định.
Ở nước ta hiện nay, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua 2 cơ quan
dân cử đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Cho nên, trước mỗi kỳ
họp Hội đồng nhân dân, kỳ họp Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và đại
biểu Quốc hội được tổ chức đi tiếp xúc cử tri, tiếp xúc và lắng nghe ý kiến, tâm
tư, nguyện vọng và mong muốn chính đáng của quần chúng nhân dân để nắm
bắt và đóng góp ý kiến trong các kỳ họp.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là vấn đề quan trọng của các nhà mác-xít trong quá trình hình
thành một quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, là một trong những nội dung cơ
bản để đối lập giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, những tư
tưởng của Mác-Lênin về thực hiện dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Việc nghiên
cứu quan điểm của Mác-Lênin về thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ giúp cho việc
hiểu rõ hơn bản chất của xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, thực hiện dân chủ là việc thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân.
Giải thích cho ý thứ nhất:
Theo C.Mác, con người và sự tôn trọng những quyền của con người là
điểm xuất phát cũng là điểm đích để đánh giá bản chất của một chế độ. Và theo
ông, chỉ có trong xã hội dân chủ thì con người mới là chủ thể, là mục tiêu hướng
đến của xã hội tức là chỉ trong xã hội dân chủ thì mới thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, của con người thực sự.
Và dân chủ thực chất là những yêu cầu về thực hiện bình đẳng của mỗi
con người về chính trị - xã hội trong mối quan hệ với nhà nước (là chủ thể quản
lý xã hội đó). C.Mác cho rằng: “Chế độ dân chủ là câu đố đã được giải đáp của
mọi hình thức chế độ nhà nước. Ở đây, chế độ nhà nước - không chỉ tự nó, xét
theo bản chất của nó, mà còn xét theo sự tồn tại của nó, theo tính hiện thực của
nó - ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân
dân hiện thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân. Chế độ
nhà nước ở đây xuất hiện đúng chân tướng của nó, - tức là xuất hiện với tính
cách là sản phẩm tự do của con người”4.
Trong khi đó, Lênin cho rằng một trong những tiêu chí để đánh giá nền
dân chủ chính là mức độ tham gia của quần chúng lao động vào công việc của
nhà nước, các hoạt động của xã hội. Lênin nhấn mạnh: "Dân chủ là tự do, là
bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết
định của đa số nữa"5.
4
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.350.
5
V.I.Lênin (2005): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.38, tr.414.
+ Dân chủ là sự thống trị của đa số. Dân chủ được nhìn nhận như một
quyền lực mà tất cả quyền lực thuộc về đa số người dân chứ không phải một
nhóm người, quyền lực này được nhân dân giao cho nhà nước của mình là
người đại diện cho mình.
+ Dân chủ được nhìn nhận như một hình thức tổ chức nhà nước, một
hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng
nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị đối với thiểu
số những kẻ vi phạm thiểu số của nhân dân.
Thứ hai, thực hiện dân chủ là thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội là không tách rời, có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Thực hiện dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là xã hội thể hiện dân chủ. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm
điều để thực hiện dân chủ triệt để; chỉ có thực hiện dân chủ thì mới bảo đảm bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Có thể đặt câu hỏi: Vì sao chỉ trong CNXH thì mới đảm bảo thực
hiện dân chủ triệt để?
Giải thích: Bởi vì chỉ có cuộc Cách mạng XHCN do Đảng Cộng sản lãnh
đạo cùng với sự tham gia của toàn thể nhân dân lao động mới triệt để xoá bỏ áp
bức, bọc lột, xoá bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất, xoá bỏ giai cấp tư sản để giành
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động và thiết lập một
chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Và trong chế độ xã hội mới đó Đảng Cộng
sản chỉ đại diện cho GCCN và NDLĐ lãnh đạo, Nhà nước đại diện cho Nhân
dân thực thi quyền lực còn quyền lực thực sự là của nhân dân nên đảm bảo thực
hiện dân chủ triệt để còn các chế độ trước đó, các cuộc cách mạng trước đó thực
ra chỉ thay thế tư hữu của giai cấp thống trị này bằng tư hữu của giai cấp thống
trị khác như giai cấp địa chủ, phong kiến thay cho chủ nô, giai cấp tư sản thay
cho địa chủ phong kiến, quyền lực đều chỉ tập trung trong tay thiểu số giai cấp
cầm quyền không thuộc về đại đa số nhân dân lao động nên dân chủ không
được phát huy tối đa và triệt để.
Vì vậy, trong xã hội có đối kháng giai cấp, không thể thực hiện dân chủ
thực sự, chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì nhân dân mới thực sự có quyền
làm chủ. Chính vì thế thực hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội là thống nhất với
nhau. C.Mác khẳng định: "Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ trở nên
hoàn toàn vô ích nếu nó không được dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi
hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự
tồn tại của giai cấp vô sản”6.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa
thực hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể nước Nga, Lênin đã
hoàn chỉnh thêm một bước: "Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc
về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức
bất cứ lúc nào và các đại biểu đó hợp thành một quốc hội duy nhất, một nghị
viện duy nhất”7.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, theo Hồ Chí Minh, dân chủ là thứ quý báu nhất của nhân dân, thực hiện
dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết vấn đề của nhà nước.
Trích câu nói của Bác Hồ:
"Dễ trăn lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu vẫn xong"
Hay như "Đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân"
Cho nên, theo Bác có sức dân là có tất cả.
Thứ nhất, thực hiện dân chủ là phát huy quyền làm chủ của dân.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là mọi quyền lực đều ở nơi dân, dân là
chủ của đất nước, mọi công việc của nhà nước đều do dân quyết định.
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
6
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995): Toàn Tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.470.
7
V.I.Lênin (2005): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.32, tr.180.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”8.
Hồ Chí Minh cho rằng dân là chủ và dân làm chủ thì Đảng, Chính phủ,
cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đầy tớ cho dân và là công bộc của nhân dân.
Và Bác nhấn mạnh: "Cán bộ của dân thì việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh".
Dân chủ trong xã hội Việt Nam đó là nhân dân là chủ thể của quyền lực
và nhân dân làm chủ quyền lực của mình được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
Thứ hai, thực hiện dân chủ là động lực của tiến bộ xã hội.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trước khi làm bất cứ việc gì, Đảng và chính
quyền cũng phải bàn bạc với nhân dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của họ, cùng
với họ đặt kế hoạch cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ
chức họ thi hành. Trong lúc thi hành lại phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến
khích nhân dân; thi hành xong phải cùng với họ kiểm thảo lại công việc, rút
kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.
Ví dụ:
Nền dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ của tuyệt
đại đa số nhân dân, gắn với công bằng và tiến bộ xã hội. Theo Hồ Chí Minh,
lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh
phúc con người cũng là mất dân chủ.
Làm chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân, không ai có thể xâm phạm.
Người cũng nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy
8
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.6, tr.232.
quyền làm chủ của nhân dân là làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng,
dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm.
Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải “trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “không học hỏi dân thì
không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học
dân”9.
1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện dân chủ ở
cơ sở
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát
triển của xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng
được mở rộng về nội dung, dân chủ cả trong chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
và ở các cấp từ trung ương đến cơ sở; đến từng người dân bằng các hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đang ngày càng được thể hiện trong tất cả các mối quan hệ xã
hội. Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở cửa hội nhập với thế giới và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng là nhằm xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII (1997) nhấn mạnh: Lúc này để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp
của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham
gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình
trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng10.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) được Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
9
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.6,tr.432.
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
12
16
Điều 4, 5, 6, 7 Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
- Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan
đến công việc của cơ quan, đơn vị.
- Kế hoạch công tác hàng năm, hàng quý, hàng tháng của cơ quan, đơn vị.
- Kinh phí hoạt động hàng năm, bao gồm các nguồn kinh phí do ngân
sách nhà nước cấp và các nguồn tài chính khác; quyết toán kinh phí hàng năm
của cơ quan, đơn vị; tài sản, trang thiết bị của cơ quan, đơn vị; kết quả kiểm
toán.
- Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt
phái, từ chức, miễn nhiệm; hợp đồng làm việc, thay đổi chức danh nghề nghiệp,
thay đổi vị trí làm việc, chấm dứt hợp đồng làm việc của viên chức; đi công tác
nước ngoài, giải quyết chế độ, nâng bậc lương, nâng ngạch, đánh giá, xếp loại
công chức, viên chức; khen thưởng, kỷ luật, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ,
công chức, viên chức; các đề án, dự án và việc xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan, đơn vị.
- Các vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan, đơn vị đã được kết
luận; bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ phải kê khai theo quy
định của pháp luật.
- Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ
quan, đơn vị.
- Các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
- Kết quả tiếp thu ý kiến của cán bộ, công chức, viên chức về những vấn
đề thuộc thẩm quyền quyết định của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đưa ra lấy
ý kiến cán bộ, công chức, viên chức.
- Văn bản chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý cấp trên liên quan đến
công việc của cơ quan, đơn vị.
Hai là, nội dung cán bộ, công chức, viên chức được tham gia ý kiến. Đó
là:
- Chủ trương, giải pháp thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước liên quan đến công việc của cơ quan, đơn vị.
- Kế hoạch công tác hàng năm của cơ quan, đơn vị.
- Tổ chức phong trào thi đua của cơ quan, đơn vị.
- Báo cáo sơ kết, tổng kết của cơ quan, đơn vị.
- Các biện pháp cải tiến tổ chức, hoạt động và lề lối làm việc; phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống quan liêu, phiền
hà, sách nhiễu nhân dân.
- Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức;
bầu cử, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức.
- Thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của cán
bộ, công chức, viên chức.
- Các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
Ba là, quy định những việc cán bộ, công chức, viên chức được giám sát,
kiểm tra. Đó là:
-Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
kế hoạch công tác hàng năm của cơ quan, đơn vị.
- Sử dụng kinh phí hoạt động, chấp hành chính sách, chế độ quản lý và sử
dụng tài sản của cơ quan, đơn vị.
- Thực hiện các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
- Thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước về quyền và lợi ích của
cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ quan, đơn vị.
1.3.3. Nội dung thực hiện dân chủ tại nơi làm việc của doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động
Nghị định số 149/2018/NĐ-CP ngày 7/11/2018 của Chính phủ quy định
chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở tại nơi làm việc quy định 4 nội dung:
Một là, nội dung người sử dụng lao động phải công khai cho người lao
động biết, gồm:
- Tình hình thực hiện nhiệm vụ, sản xuất, kinh doanh.
- Nội quy, quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp liên
quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
- Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể
ngành, thỏa ước lao động tập thể khác mà doanh nghiệp tham gia.
- Nghị quyết Hội nghị người lao động.
- Việc trích lập, sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và các quỹ do
người lao động đóng góp (nếu có).
- Việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp.
- Tình hình thực hiện thi đua, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại,
tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Hai là, nội dung người lao động được tham gia ý kiến. Đó là:
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung nội quy, quy chế và các văn bản quy định
khác của doanh nghiệp liên quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động.
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung thang lương, bảng lương, định mức lao
động; đề xuất nội dung thương lượng tập thể.
- Đề xuất, thực hiện giải pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao
động, cải thiện điều kiện làm việc, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ.
- Các nội dung khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động
theo quy định của pháp luật.
Ba là, nội dung người lao động được quyết định. Đó là:
- Giao kết, thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động theo
quy định của pháp luật.
- Gia nhập hoặc không gia nhập tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ
sở.
- Tham gia hoặc không tham gia đình công theo đúng quy định của pháp
luật.
- Biểu quyết nội dung thương lượng tập thể đã đạt được theo quy định
của pháp luật; biểu quyết nội dung nghị quyết Hội nghị người lao động.
- Các nội dung khác theo quy định của pháp luật.
Bốn là, nội dung người lao động được kiểm tra, giám sát. Đó là:
- Việc thực hiện hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể.
- Việc thực hiện nội quy lao động, các quy chế và các văn bản quy định
khác của doanh nghiệp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động.
- Việc sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, các quỹ do người lao động
đóng góp.
- Việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động.
- Việc thực hiện thi đua, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
- Việc thực hiện nghị quyết Hội nghị người lao động.
2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ HIỆN NAY
2.1. Kết quả đạt được
Đánh giá cơ đồ đất nước sau quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng
tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và
hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa
vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Chú trọng thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp
xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân”17.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích
cực, giải quyết thỏa đáng nhiều vấn đề vướng mắc, dư luận quan tâm. Từ đó,
củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển chung của đất nước.
- Về nâng cao nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ.
Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng lên nên
việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được coi trọng, nhất là ở các cơ quan hành
chính nhà nước cấp cơ sở, đơn vị sự nghiệp công lập và trong các doanh nghiệp.
Nhờ vậy, thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính có
nhiều chuyển biến. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, đạo đức công vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tiến bộ. Qua đó, tác động tích cực đến
hiệu quả, chất lượng công việc trong bộ máy nhà nước, việc xây dựng mối quan
hệ lao động hài hòa tại các doanh nghiệp trên địa bàn địa phương.
- Về công tác tuyên truyền, dân vận
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân chủ luôn được các địa
phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chú trọng thực hiện thường xuyên và có
hiệu quả đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân
với nhiều hình thức đa dạng.
Công tác dân vận được đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng vận động
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân thực hiện tốt chủ
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
17
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
18
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
19
20
Hiến pháp năm 2013, Khoản 2 Điều 2.
21
Hiến pháp năm 2013, Điều 3.
Đề cao vai trò, trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm
phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đối với mỗi đảng viên, phải thực hiện
nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Bộ Chính trị “về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Trong nhiều nội
dung về nêu gương phải coi trọng nêu gương về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Định hướng và thực hiện tốt vai trò giữ vững ổn định chính trị và khối đại
đoàn kết toàn dân, đặc biệt là giữ vững đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ quan, đơn vị, địa phương được phân
công phụ trách. Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện các chương trình phối
hợp giữa các ngành chức năng liên quan đến công tác dân vận.
Ba là, thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động
của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, ban thanh tra nhân dân, ban
giám sát đầu tư của cộng đồng. Các ban này phải xây dựng kế hoạch hoạt động
hàng năm cụ thể và họp theo định kỳ; xác định được nội dung hạn chế cấp mình
để tập trung chỉ đạo thực hiện. Kịp thời củng cố, kiện toàn ban khi có thay đổi
về nhân sự, đảm bảo các ban hoạt động hiệu quả, nền nếp. Thường xuyên tổ
chức các lớp bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở cơ sở cho các thành viên ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, ban
thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao.
3.3. Tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập
Một là, phát huy vai trò của các tổ chức Đảng ở cơ sở, các tổ chức đoàn
thể quần chúng trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị.
Tổ chức Đảng ở cơ sở phải giáo dục cho đảng viên ý thức rõ trách nhiệm
chính trị và nghĩa vụ đạo đức của mình, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê
bình. Nếu trong Đảng thực hành được dân chủ sẽ thúc đẩy dân chủ trong cơ
quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên phải gương mẫu
trong đạo đức, lối sống, đề cao kỷ luật và trách nhiệm, tôn trọng và tận tụy phục
vụ nhân dân.
Các tổ chức đoàn thể quần chúng đề xuất, tham mưu cho cấp ủy, lãnh đạo
cơ quan, đơn vị tăng cường kiểm tra, theo dõi, đánh giá việc triển khai thực hiện
dân chủ tại cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý để đảm bảo thực hiện đúng
pháp luật, đồng thời báo cáo, đề xuất lên cấp trên có thẩm quyền để xử lý đối
với những trường hợp vi phạm về dân chủ.
Hai là, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Thực hiện dân chủ cơ sở tốt sẽ là công cụ giám sát có hiệu quả chính bản
thân cơ quan, đơn vị, bảo đảm thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nội
quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, cảnh báo sớm những sai phạm có thể xảy đến
với các quyết định của người đứng đầu hoặc trong quá trình tổ chức triển khai
công tác của cơ quan, đơn vị. Chính vì vậy, người đứng đầu cần tạo điều kiện để
cán bộ, công chức, viên chức và các tổ chức đại diện cho quyền lợi của họ như
công đoàn, ban thanh tra nhân dân hoạt động hiệu quả.
Đồng thời, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải đảm bảo đúng trách
nhiệm của mình trong thực hiện dân chủ trong quản lý và điều hành hoạt động
của cơ quan, đơn vị.
Ba là, tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức một cách thực chất.
Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức là diễn đàn để cán bộ, công chức,
viên chức trình bày ý kiến của mình một cách trực tiếp, công khai về hoạt động
của cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều hội nghị được tổ chức
mang tính hình thức. Chính vì vậy, để tăng cường thực hành dân chủ ở cơ quan,
đơn vị thì hội nghị cán bộ, công chức, viên chức cần được tổ chức thực chất, có
chất lượng. Muốn vậy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần tạo được bầu không
khí thực sự thoải mái để cán bộ, công chức, viên chức có cơ hội bày bỏ tâm tư,
nguyện vọng của mình. Điều quan trọng hơn, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình; phải giải đáp thỏa đáng những
thắc mắc, kiến nghị của cán bộ, công chức, viên chức.
Sau hội nghị cần tăng cường giám sát việc thực hiện nghị quyết hội nghị
cán bộ, công chức, viên chức; phải có đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết hội
nghị cán bộ, công chức, viên chức; đặc biệt không trù dập những người có ý
kiến trái chiều.
Bốn là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và đấu tranh phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhưng luôn phải gắn với bảo đảm tăng cường
kỷ luật, kỷ cương hành chính, cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, điều hành của
cấp trên. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện đúng chức trách,
nhiệm được giao. Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, gây nhũng
nhiễu, phiền hà trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, xử lý
nghiêm việc chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
3.4. Tăng cường thực hiện dân chủ ở nơi làm việc của doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động
Tăng cường thực hiện dân chủ ở nơi làm việc chủ yếu thông qua hình
thức tuyên truyền, vận động chủ doanh nghiệp thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở và thông qua vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở.
Trước hết, cần tăng cường đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước về
lao động với chủ doanh nghiệp; đồng thời vận động, tuyên truyền, nâng cao
nhận thức của chủ sử dụng lao động về vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng, thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở cần phải có chế tài nghiêm khắc xử lý. Đây cũng là cơ sở
để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng lao động vì sự
phát triển của doanh nghiệp và quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao
động.
Hai là, để việc thực hiện dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc đạt hiệu quả,
thực chất, ngoài sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, cần phát huy vai trò
chức công đoàn cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở bảo đảm hoạt
động chất lượng, hiệu quả. Trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở nơi làm
việc, công đoàn cơ sở có vai trò then chốt, mang tính quyết định. Công đoàn
không mạnh thì quyền lợi của người lao động khó được bảo đảm. Công đoàn cơ
sở có thể xây dựng quy chế phối hợp với ban giám đốc doanh nghiệp, nhằm
động viên, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm an toàn vệ sinh lao
động. Định kỳ, ban giám đốc và ban chấp hành công đoàn tổ chức đối thoại trực
tiếp, trả lời chất vấn và giải đáp kiến nghị của người lao động, cùng nhau tháo
gỡ khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, tổ chức công đoàn cần
xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
3.5. Tăng cường giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn
hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai
sót, hạn chế, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp;
phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Để giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội có hiệu quả, cần đổi mới nội dung, phương thức giám sát, phản
biện. Theo đó, nội dung giám sát, phản biện xã hội cần tập trung vào những vấn
đề nhân dân quan tâm, bức xúc. Tăng cường phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên với chính quyền và các cá nhân tiêu biểu là các già làng,
trưởng bản, các nhân sĩ tri thức, các nhà khoa học, phát huy vai trò của báo chí,
truyền thông để phản ánh kịp thời, công khai, minh bạch đối với những vấn đề
cần giám sát, phản biện xã hội. Đặc biệt, thực hiện tốt bước cuối cùng trong quy
trình giám sát đó là theo dõi việc thực hiện các kiến nghị giám sát. Trường hợp
kiến nghị không được giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định của pháp
luật thì cần đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân đó.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc cấp xã. Kiện toàn tổ chức bộ máy
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc theo hướng đủ về số lượng, bảo đảm về chất
lượng; nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội cấp xã. Thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn
theo từng chuyên đề về công tác giám sát, phản biện xã hội. Tổ chức các hội
nghị chuyên đề để trao đổi thông tin hoạt động, phổ biến kinh nghiệm, mô hình
mới, cách làm hay của các địa phương trong công tác giám sát, để các địa
phương khác học tập, làm theo. Chính quyền cấp xã cần quan tâm tạo điều kiện
về chế độ, chính sách, kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.