You are on page 1of 45

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM


MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI
VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CÔNG
TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
NHÓM 4
LỚP HP: MLM308_232_1_D02
NH: 2023 - 2024
GVHD : THS. HỒ VIỆT HÀ

TP.HCM, NĂM 2024

0
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ

Soạn sườn bài, tìm nội


1 Trần Thị Khánh Linh 030837210138
dung

2 Đoàn Thị Thùy Linh 030737210093 Thuyết trình

3 Nguyễn Công Luật 030837210142 Tìm nội dung, slide

4 Nguyễn Khánh Ly 030337210145 Tìm nội dung

Tìm nội dung, tổng hợp


5 Nguyễn Thị Hải Ly 030337210146
file word

Tìm nội dung, tổng hợp


6 Nguyễn Triệu Tuyết My 030137210295
file word

7 Phạm Thị Du Mỹ 030137210301 Thuyết trình

8 Đặng Thu Ngà 030137210313 Tìm nội dung,làm slide

9 Nguyễn Thị Thanh Ngân 030337210158 Tìm nội dung, làm slide

10 Trần Diệu Ngân 030337210161 Thuyết trình

i
MỞ ĐẦU........................................................................................................................

NỘI DUNG....................................................................................................................

CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


VIỆT NAM.................................................................................................................

1. Lý luận chung về nhà nước pháp quyền..............................................................

2. Chủ trương và chính sách của đảng....................................................................15

3. Thực trạng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay.........17

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở


VIỆT NAM...............................................................................................................22

1. Lý luận chung về tham nhũng............................................................................22

2. Thực trạng tham nhũng và công tác phòng chống tham nhũng ở việt nam
hiện nay..................................................................................................................30

3. Những thách thức đặt ra cho công tác phòng chống tham nhũng ở việt nam
hiện nay..................................................................................................................35

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY..................................................................................36

1. Quan điểm và giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa việt nam hiện nay..................................................................................36

2. Giải pháp phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay...................................38

KẾT LUẬN.................................................................................................................42

TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................44

ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nội dung


NNPQ Nhà Nước Pháp Quyền
XHCN Xã Hội Chủ Nghĩa
PCTN Phòng Chống Tham Nhũng

iii
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vấn đề nhà nước pháp quyền và phòng chống tham nhũng là hai vấn đề quan
trọng đối với sự phát triển và ổn định của một quốc gia. Việc nghiên cứu và hiểu
rõ về cả hai vấn đề này dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng là yếu tố quan trọng giúp định hình hệ thống pháp luật và chính
trị công bằng, minh bạch và hiệu quả. Đồng thời việc nghiên cứu về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa sẽ giúp hiểu rõ hơn về cách mà hệ thống chính trị
và pháp luật của Việt Nam hoạt động, cũng như vai trò của chính phủ trong việc
đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi của người dân. Bởi những tính cấp thiết
như vậy nên hôm nay nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài nghiên
cứu:“Vấn đề nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công tác phòng chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:

Nghiên cứu về nhà nước pháp quyền, xã hội chủ nghĩa và công tác phòng
chống tham nhũng ở Việt Nam, dựa trên hai nguyên lý triết học là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm:

Hiểu rõ hơn về tình hình nhà nước pháp quyền và tình trạng tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay.

Đánh giá vai trò của chính phủ và các cơ quan chính trị trong việc thực hiện
công tác phòng chống tham nhũng.

Xác định những yếu điểm và thách thức trong việc thực hiện nhà nước pháp
quyền và công tác phòng chống tham nhũng.

Đề xuất giải pháp và biện pháp cụ thể để cải thiện tình hình nhà nước pháp
quyền và giảm thiểu tham nhũng ở Việt Nam.
1
Nhiệm vụ

Thu thập và phân tích dữ liệu về tình hình nhà nước pháp quyền và tham
nhũng

Đánh giá hiệu quả của các biện pháp và chính sách hiện đang được triển khai
và đề xuất những cải tiến và điều chỉnh nếu cần thiết.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Nhà nước Việt Nam: Bao gồm các cơ quan chính trị và chính phủ, các tổ chức
và cơ quan quản lý nhà nước.

Các cơ quan thực thi pháp luật: Bao gồm cảnh sát, cơ quan điều tra, tòa án và
các cơ quan liên quan khác.

Các tổ chức xã hội dân sự: Như các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi
nhuận, các nhóm chuyên gia và các tổ chức nghiên cứu xã hội.

Cộng đồng dân cử: Những người dân thông thường có thể bị ảnh hưởng trực
tiếp bởi chính sách và quyết định của nhà nước trong việc thực hiện pháp quyền
và phòng chống tham nhũng.

Phạm vi nghiên cứu

Pháp luật và chính sách: Phạm vi nghiên cứu có thể bao gồm phân tích các
văn bản pháp luật, quyết định chính sách và các biện pháp phòng chống tham
nhũng được thực hiện bởi chính phủ và các cơ quan liên quan.

Thực thi pháp luật: Nghiên cứu có thể tập trung vào hiệu quả của các cơ quan
thực thi pháp luật trong việc điều tra, truy cứu trách nhiệm và xử lý các vụ án
tham nhũng.

Ảnh hưởng xã hội: Nghiên cứu cũng có thể xem xét tác động của tham nhũng
đối với phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam, cũng như những hậu
quả và ảnh hưởng đến các lớp dân chủng tộc và xã hội khác nhau.

2
Quan điểm cộng đồng: Phạm vi cũng có thể bao gồm việc thu thập và phân
tích quan điểm và ý kiến của cộng đồng dân cử và các nhóm liên quan đến vấn đề
nhà nước pháp quyền và phòng chống tham nhũng.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận

Lý thuyết pháp luật và nhà nước pháp quyền: Sử dụng các lý thuyết và khái
niệm trong lĩnh vực pháp luật và nhà nước pháp quyền để hiểu và phân tích cách
thức hệ thống pháp luật và chính trị hoạt động trong việc giữ gìn trật tự và công
bằng xã hội.

Lý thuyết về tham nhũng và công tác phòng chống tham nhũng: Nghiên cứu
các lý thuyết và phương pháp phòng chống tham nhũng để hiểu rõ nguyên nhân,
hậu quả và biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong xã hội.

Lý thuyết xã hội chủ nghĩa: Đánh giá vai trò của nhà nước và các cơ quan
chính phủ trong việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các tầng lớp lao động và
nhân dân, cũng như xem xét cách thức mà xã hội chủ nghĩa có thể giúp cải thiện
tình hình pháp luật và tham nhũng.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu thực địa: Tiến hành phân tích dữ liệu và tài liệu thực địa về tình
hình nhà nước pháp quyền và tham nhũng ở Việt Nam thông qua việc thu thập và
phân tích dữ liệu từ các nguồn tin cậy như báo cáo chính thống, nghiên cứu của
các tổ chức quốc tế và cơ quan chính phủ.

Phân tích định tính và định lượng: Sử dụng các phương pháp phân tích định
tính và định lượng để phân tích và diễn giải dữ liệu thu thập được, từ việc mô tả
đến việc đánh giá tương quan và mô hình hóa.

Phương pháp hệ thống: Kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau và
xây dựng một hệ thống lý luận và phương pháp giúp hiểu sâu vấn đề và đưa ra
các kết luận chính xác và khách quan.

3
5. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của tiểu luận

Cung cấp thông tin và hiểu biết: Tiểu luận sẽ cung cấp thông tin và hiểu biết
mới về tình hình nhà nước pháp quyền và tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Điều
này sẽ giúp cả cộng đồng học thuật và quản lý công việc hiểu rõ hơn về bối cảnh
và nguyên nhân của vấn đề.

Đề xuất giải pháp cụ thể: Tiểu luận sẽ đề xuất các giải pháp cụ thể để cải thiện
tình hình nhà nước pháp quyền và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Những
giải pháp này có thể được sử dụng để định hình chính sách và thực hiện các biện
pháp hành động trong thực tế.

Góp phần vào quyết định chính sách: Kết quả của tiểu luận có thể góp phần
vào quá trình định hình và thực hiện chính sách liên quan đến nhà nước pháp
quyền và phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Những đề xuất và phân tích từ
tiểu luận có thể được sử dụng làm cơ sở để đưa ra quyết định chính sách.

Hướng dẫn thực tiễn: Các kết luận và khuyến nghị từ tiểu luận có thể cung cấp
hướng dẫn thực tiễn cho các tổ chức và cơ quan liên quan về cách thức triển khai
và thực hiện các biện pháp phòng chống tham nhũng và tăng cường tính minh
bạch và công bằng trong hệ thống pháp luật.

Tạo ra sự nhận thức và tăng cường ý thức xã hội: Tiểu luận có thể tạo ra sự
nhận thức và tăng cường ý thức xã hội về tình hình nhà nước pháp quyền và tham
nhũng, từ đó thúc đẩy sự tham gia và hỗ trợ từ cộng đồng trong việc giải quyết
vấn đề này.

Với ý nghĩa khoa học thực tiễn như vậy, tiểu luận sẽ không chỉ đóng góp vào
sự phát triển của kiến thức học thuật mà còn có tác động tích cực đến xã hội và
chính trị Việt Nam trong việc xử lý và giải quyết vấn đề nhà nước pháp quyền và
tham nhũng.

4
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ


NGHĨA VIỆT NAM

1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.1. Sự hình thành và phát triển tư tưởng của nhà nước pháp quyền
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
quá trình đúc kết, kế thừa, vận dụng tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch
sử tư tưởng nhân loại, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước, pháp luật kiểu mới và thực tiễn xây dựng Nhà nước kiểu mới
ở nước ta, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua.

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xuất hiện rất sớm trong lịch sử tư tưởng
nhân loại, ngay từ khi xuất hiện Nhà nước cổ đại và được tiếp tục phát triển, nhất
là trong thời kỳ cách mạng tư sản, phản ánh khát vọng của nhân dân về một Nhà
nước bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền, đối lập với sự độc đoán, độc tài của
Nhà nước chủ nô và chế độ chuyên chế hà khắc của Nhà nước phong kiến.

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thể hiện trong quan điểm của các nhà tư
tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN),
Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị
và pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 -
1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)…
phát triển như một thế giới quan pháp lý mới.

Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ
đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như
Tômát Jepphecxơn (1743 - 1826 - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm
1776), Tômát Pên (1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826)…
1.2. Khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

5
Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân
loại là Nhà nước bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội,
trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung, lợi ích chung của nhân dân; thực
hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân; chịu trách nhiệm trước công
dân về những hoạt động của mình và yêu cầu công dân thực hiện các nghĩa vụ
đối với Nhà nước và xã hội; có hình thức tổ chức quyền lực Nhà nước thích hợp
bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân, tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp; ngăn chặn được sự tùy tiện, lạm quyền từ phía Nhà
nước, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, kể cả vi phạm pháp luật
của các cơ quan và công chức nhà nước.

Như vậy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn với một
giai cấp mà là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm tổ chức hoạt động
của nhà nước tuân theo quy định của pháp luật, thực hiện được quản lý xã hội
theo pháp luật, bảo đảm chủ quyền và quyền tự do, dân chủ của nhân dân.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước, pháp luật kiểu mới và vận dụng phù hợp với thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trên quan điểm này có thể khái
quát nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước xã hội chủ nghĩa thực
sự của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; bảo
đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi
ích và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiền phong của giai cấp công nhân
lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân
dân.

1.3. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Bản chất của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các cương lĩnh, các văn
kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hóa rõ trong Hiến pháp 2013.
Các đặc trưng cơ bản được trình bày dưới các dạng thức khác nhau bởi các nhà lý
luận, phụ thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan điểm học thuật của
từng người song về bản chất có thể quy về các giá trị có tính tổng quát như sau:

6
1.3.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân

Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất
là dân vì dân là chủ” ; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ” . Với
Hồ Chí Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước.
Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền
cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy
nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là
công bộc của nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua thông
qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà
nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của
chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân.

Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành
một mục tiêu hiến định trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng
hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng
suốt của nhân dân” . Đặc điểm này của Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định
trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992.

1.3.2 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp

Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được
xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính
vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực
pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng,
an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện
quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.

7
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý
quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và
đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay
không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước và
của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.

Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của
nhân dân, cho nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát
hiện, đánh giá và phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp
là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.

1.3.3. Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo
đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội

Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hóa đường
lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ
xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp
luật khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu
đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với
mục đích tự thân của nó.

Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích
của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với
tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta:
công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ
và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.

Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và
đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp
luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn

8
tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất
của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi
công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

1.3.4. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa
Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội

Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách
mạng chân chính, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm
đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của
Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng
con người. Do vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng
quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa
công dân với Nhà nước, … luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Nhiều
Hội nghị của Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn 20 kiện đại hội
Đảng VI, VII, VIII, IX, X và nhiều Nghị quyết trung ương khác. Văn kiện Đại
hội Đảng IX xác định rõ những phương châm cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể để
thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các
chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm
chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện (là cơ quan dân cử và các đoàn
thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng
và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi
mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực
hiện các quyết định.

1.3.5. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước

9
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba
quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà nước
mới được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng
vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khóa VII), (1995) quan
niệm của Đảng về ba quyền đã được sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nghị quyết đại hội
XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước thấp kém quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa
đổi, bổ sung năm 2011) đều có bổ sung quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực
trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Theo đó nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một
bước quan trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một
quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

1.3.6. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất
yếu lịch sử và tất yếu khách quan.

Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
nhà nước, đối với xã hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn
là ở chỗ sự lãnh đạo đó còn có cơ sở đạo lý sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng.

10
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống
xã hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp
quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những đặc trưng cơ bản
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ
chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để
thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của
Đảng bằng các hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…

Với việc xác định rõ các đặc trưng cơ bản trên, là cơ sở quan trọng để chúng ta
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong giai đoạn mới. Đó là sự vận dụng sáng tạo, hợp lý tri thức về Nhà
nước pháp quyền của thế giới vào thực tiễn Việt Nam để xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa mang đầy đủ những giá trị
phổ quát, chuẩn mực của một Nhà nước pháp quyền, vừa mang những đặc thù
chính trị, kinh tế, văn hóa của Việt Nam.

1.4. Vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là những phương diện
hoạt động chủ yếu phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ vai trò của nó. Tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn phát

11
triển của đất nước quyết định và định hướng bởi thực tế khách quan của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

1.4.1. Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ đất nước

Đây là một trong những chức năng chủ yếu của nhà nước, bởi vì tất cả những
chức năng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thực hiện khi
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc. Chức năng này thể hiện ở việc
bảo vệ chủ quyền đất nước; bảo vệ chế độ chính trị mà Hiến pháp đã xác lập;
thực hiện ý chí của nhân dân trong các đạo luật và các quyết định của nhà nước;
đại diện chính thức cho đất nước trên trường quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng khẳng định rõ: "Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc".

1.4.2. Chức năng tổ chức quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa

Nếu phân chia đời sống xã hội thành hai lĩnh vực lớn là chính trị và kinh tế -
xã hội thì có thể thấy rằng chức năng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước nói
chung là một hoạt động của nhà nước, hoạt động này thể hiện vai trò của nhà
nước đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước ban hành và thực thi chính
sách kinh tế vĩ mô; xây dựng kế hoạch để phát triển kinh tế quốc dân, xác định
các trương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,đề ra các biện pháp cụ thể
đạt tới mục tiêu đó trong từng thời kì nhất định; sử dụng các công cụ tài chính,
tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò tạo ra các yếu tố kích thích hay hạn chế sự phát
triển của các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định. Nhà nước quản lý kinh tế vĩ
mô bằng pháp luật, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô của nhà nước ở nền kinh tế thị trường.

1.4.3. Chức năng xã hội

12
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX đã khẳng định: "tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội”. Văn kiện Đại hội X nêu rõ “ chúng ta nhận thức
ngày càng sâu sắc rằng, xã hội, văn hóa, là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất chức
năng của nhà nước nói chung và chức năng xã hội của nhà nước nói riêng luôn
gắn liền với các phạm trù như “bản chất nhà nước” và “vai trò của nhà nước”.

2. CHỦ TRƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, mở cửa và hội nhập
quốc tế, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển mới trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, theo đó, tại Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 11-1991), lần đầu tiên thuật ngữ
“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” chính thức được Đảng ta đề cập và
được khẳng định rõ hơn tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm
1994), đồng thời, tiếp tục được bổ sung, phát triển và hoàn thiện qua các kỳ đại
hội Đảng tiếp theo. Cho đến đại hội XIII (tháng 01/2021) gần đây khẳng định:
Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính,
hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính. Những điểm mới có nd cơ bản như
sau:

Một là, về chủ trương, văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng lãnh đạo là NHIỆM VỤ
TRỌNG TÂM của đổi mới hệ thống chính trị.

Hai là, về Quốc hội, so với văn kiện Đại hội XII của Đảng, lần này nhấn
mạnh: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tăng tính chuyên
nghiệp, hiệu quả và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực
hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và

13
giám sát tối cao. Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất

Ba là, về Chính phủ, văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các bộ, ngành theo hướng tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực;
phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; tăng cường năng lực dự báo và khả năng
thích ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Bốn là, về Tư pháp, nhấn mạnh, yêu cầu tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt
Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Nhà nước cũng nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định
hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp.

Năm là, về chính quyền địa phương, so với văn kiện Đại hội XII của Đảng,
Đại hội XIII bổ sung, làm rõ hơn nội dung: Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính
quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành
chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính
quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô
thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Sáu là, về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, so với Đại hội XII của Đảng,
Đại hội XIII bổ sung: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm
chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước, có cơ chế lựa
chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám
nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Về cơ bản, Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền XHCN từ khi
ra đời cho đến nay, luôn luôn quán triệt chủ chương, tư tưởng xây dựng Nhà

14
nước của dân, do dân và vì dân, coi trọng mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật - phương tiện quan trọng trong quản lý Nhà nước.

3. THỰC TRẠNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ


NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Về tổ chức bộ máy nhà nước

* Thành tựu:

Bộ máy nhà nước đã được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Cụ thể:

Quốc hội
Tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt
động. Hệ thống pháp luật được bổ sung;
Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất
của đất nước, đồng thời việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia đi
vào thực chất hơn.
Chính phủ
Cơ cấu tổ chức được sắp xếp, điều chỉnh tinh giản theo hướng đa ngành, đa
lĩnh vực.
Việc quản lý, điều hành của các Bộ tập trung hơn vào quản lý vĩ mô - những
vấn đề lớn, quan trọng.
Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp
thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí
điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội
đồng nhân dân quận, huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
Các cơ quan tư pháp
Đổi mới trong cơ cấu tổ chức và hoạt động

15
Tăng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa, đề cao hơn vai trò của luật sư.
Hạn chế tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm.
Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng, chống
tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tích cực, đạt
một số kết quả:
Nhiều vụ án tham nhũng lớn được đưa ra xét xử.
Công tác thu hồi tài sản tham nhũng cũng có nhiều chuyển biến tích cực; trong đó
tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế tăng
lên rõ rệt: Nếu như ở năm 2013, tỉ lệ hồi tài sản tham nhũng trong giai đoạn thi hành
án chỉ đạt dưới 10%, thì ở giai đoạn 2012 - 2022, tỉ lệ này lên tới 34,7%.
Công tác kiểm tra, thanh tra, phát hiện, xử lý tham nhũng ở địa phương, cơ sở
cũng được quan tâm hơn, từng bước khắc phục tình trạng "trên nóng, dưới lạnh";
nhiều địa phương, bộ, ngành đã chú ý ngăn chặn, xử lý tệ "tham nhũng vặt".
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Kỷ luật một vài người để cứu muôn
người; và sẽ còn phải tiếp tục làm quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới
theo tinh thần Bác Hồ đã dạy: "Cắt bỏ một vài cành cây sâu mọt để cứu cả cái cây".

* Hạn chế:
Quốc hội còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý
nhà nước các cấp, nhất là ở cấp cơ sở còn yếu kém: Tình trạng nhũng nhiễu cửa
quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, nhất là ở cơ quan trực tiếp giải
quyết công việc của dân và doanh nghiệp tại địa phương chậm được khắc phục.
Việc “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế và quản lý đất nước” :
Công tác thực hiện điều chỉnh tinh giản cán bộ ở nhiều cơ quan chưa hợp lý - nơi
thì thừa, nơi lại thiếu.
Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra: thủ tục hành chính còn gây phiền hà
cho tổ chức và công dân.

16
Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ: Còn nhiều án tồn đọng, án bị hủy,
công tác điều tra, giam giữ, truy tố xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác.
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh
vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.

3.2. Về hệ thống pháp luật

* Thành tựu
Thứ nhất, Hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng hoàn thiện và phát triển
cơ bản cân đối trên mọi lĩnh vực:
Trước năm 2005, hệ thống pháp luật chủ yếu được chú trọng xây dựng trong lĩnh
vực kinh tế, nhưng đến nay, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản
quy phạm pháp luật ở tầm luật điều chỉnh, cơ bản thể chế hóa đầy đủ
Hiến pháp năm 2013 ra đời đã bổ sung, ghi nhận nhiều quyền mới[2] và quy định
rõ ràng, đầy đủ hơn nội hàm của các quyền mà Hiến pháp năm 1992 đã quy định;
đồng thời bổ sung nguyên tắc quyền con người, quyền công dân
Pháp luật về dân sự, kinh tế với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển và phù hợp hơn với luật pháp,
thông lệ quốc tế: Chế độ sở hữu ngày càng hoàn thiện, các thành phần kinh tế và
loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền, nghĩa vụ về tài sản được thể
chế hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng
lên, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với
nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các cam kết quốc tế khác;
môi trường đầu tư- đặc biệt là đầu tư quốc tế thông thoáng hơn, ban hành bổ sung
các Luật mới như Luật Đầu tư nước ngoài, …
Thứ hai, chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản
bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ:
Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả
Trung ương và địa phương; đồng thời tách bạch với quy trình soạn thảo luật, pháp
lệnh, bảo đảm sự công bằng, minh bạch trong xây dựng chính sách, pháp luật.
Các văn bản đều được đánh giá về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất,
đồng bộ trước khi ban hành.

17
Đồng bộ với hệ thống pháp luật quốc tế trên cơ sở phù hợp với lợi ích và quan
điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta.
Thứ ba, nhận thức của các cơ quan nhà nước, cán bộ, Nhân dân về pháp luật và
công tác xây dựng pháp luật đã được nâng lên đáng kể.

* Hạn chế:
Hệ thống pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn cồng kềnh với nhiều hình thức
văn bản quy phạm pháp luật, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành, một số nội
dung còn chồng chéo, mâu thuẫn.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý đất
nước bằng pháp luật, còn một số lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn chưa có luật điều
chỉnh: số lượng văn bản trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là pháp
luật về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân còn chưa được hoàn
thiện (chỉ có 10 luật, pháp lệnh, chiếm 8,6%), pháp luật về đối ngoại (04 luật, pháp
lệnh, chiếm 0,4%).
Tính dự báo, khả thi của hệ thống pháp luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao: Nhiều dự án luật có vòng đời ngắn,do
chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập: Một số văn bản
hành chính lưu hành trong nội bộ các cơ quan nhà nước nhưng lại chứa quy phạm
pháp luật có hiệu lực thi hành chung với nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội,
làm giảm tính minh bạch, công khai của hệ thống pháp luật.

3.3. Về hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân

* Thành tựu:
Hiến pháp năm 2013 khẳng định, Nhà nước ta là NNPQ XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Thực tiễn
Việt Nam qua các năm đổi mới cho thấy ý chí và quyền lực của nhân dân được thể
hiện trong pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, trong thể chế dân chủ của đất
nước. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua nhà nước, thông qua
các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

18
* Hạn chế:
Quan hệ trong nội bộ Đảng, quan hệ giữa Đảng và nhân dân còn nhiều mặt chưa
được củng cố vững chắc, hiện tượng quan liêu, xa dân còn phổ biến.
Trong nhiều trường hợp, Nhà nước, cơ quan nhà nước lại thiếu hoặc gần như vô
trách nhiệm mà trách nhiệm, nghĩa vụ đó đã được pháp luật quy định. Chẳng hạn,
quá trình giải phóng mặt bằng, thu hồi, đền bù quyền sử dụng đất, vấn đề môi
trường… đang diễn ra rất phức tạp.
Các quyền làm chủ của Nhân dân ở một số nơi, trên một số lĩnh vực còn bị vi
phạm, còn tình trạng “vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ luật”

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở


VIỆT NAM

1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG

1.1. Khái niệm về tham nhũng

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, hiện diện trong tất cả các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Tham nhũng tồn tại ở mọi quốc gia, không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội, không phân biệt trình độ phát triển.

Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 tham nhũng là
hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ
lợi.

Trong đó:

Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng,
do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm:
+ Cán bộ, công chức, viên chức;
+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ

19
quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân.
+ Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+ Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
+ Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn
trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm
đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng.

Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu hình thành Nhà nước kiểu mới, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cảnh báo về tệ nạn tham nhũng, lấy của công dùng vào việc tư,
quên cả thanh liêm, đạo đức và coi trộm tiền bạc của nhân dân, gây tổn hại kinh tế
cho Chính phủ cũng là phản quốc. Lịch sử nước ta cho thấy, đấu tranh chống tệ nạn
tham nhũng luôn gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Việt
Nam.

1.2. Hành vi và phương thức thực hiện một số hành vi tham nhũng

1.2.1. Khái niệm về hành vi tham nhũng

Hành vi tham nhũng là hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cấu thành
tội tham nhũng đã được pháp luật quy định, đó là các hành vi có ý thức, có chủ
đích.

1.2.2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng

Hành vi tham nhũng là hành vi của một cá nhân hoặc một nhóm người trong đó
có kẻ cầm đầu, nó thường tạo thành từ các nhóm người có quan hệ thân quen, họ
hàng và gần đây nhất trên thế giới lại hình thành các hành vi tham nhũng có tính tổ
chức của nhiều người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại hành vi này đang có xu
hướng tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm trọng và có hai đặc trưng nổi
bật: một là xuất hiện dưới phương thức tổ chức, loại này được gọi là tham nhũng
siêu ngạch với những hình thức chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có
tổ chức, làm giả có tổ chức, vơ vét tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu
là xâm chiếm vốn của Nhà nước, hai là sự tham gia của một tổ chức nhất định để
đạt được mục đích thu được lợi ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch.
20
Hiện trạng này biểu hiện từ hành vi thô thiển đến các hành vi tinh xảo nhất, tham
nhũng lan truyền trên những cán bộ cao cấp nhất và xuống tới người lao động trực
tiếp trong xã hội.

1.2.3. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật

So với quy định của Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 về hành vi tham
nhũng thì quy định của Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 có một số điểm
mới như sau:

- Theo Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 quy định chung liệt kê thành
12 hành vi tham nhũng, tuy nhiên trong luật Phòng chống tham nhũng năm 2018
phân chia thành 2 nhóm chính, trong khu vực nhà nước và ngoài khu vực nhà nước,
điểm nổi bật đó là mở rộng phạm vi đấu tranh phòng chống tham nhũng sang khu
vực tư nhân, một khu vực có sự phát triển và tầm quan trọng rất lớn trong sự phát
triển của đất nước và là khu vực “sân sau” được nâng đỡ bởi những người có chức
vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, hai nhóm hành vi tham nhũng xác định
bao gồm:
Nhóm 1: Các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức
vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước, được quy định
bao gồm 12 hành vi:
- Tham ô tài sản;
- Nhận hối lộ;
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn
vị hoặc địa phương vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
- Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ
vì vụ lợi;

21
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Nhóm 2: Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người
có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
thực hiện bao gồm:
Tham ô tài sản;
Nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh
nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công
lập, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và tổ chức, đơn vị khác
do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh
phí hoạt động, do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ
nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội.
Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là doanh nghiệp, tổ chức không
thuộc trường hợp trên

1.3. Nguyên nhân của tham nhũng

1.3.1. Nguyên nhân chung

Những nguyên nhân chung dẫn đến tham nhũng bao gồm:
+ Quản lý nhà nước yếu kém;
+ Khung pháp luật về phòng, chống tham nhũng thiếu đầy đủ hoặc không được
thi hành hiệu quả;
+ Cơ chế và hệ thống cơ quan phòng, chống tham nhũng quốc gia chưa được xây
dựng hoặc hoạt động hình thức;
+ Khủng hoảng chính trị, xã hội, kinh tế ảnh hưởng tới đạo đức của đội ngũ
công chức;
+ Lương của đội ngũ công chức quá thấp, không đủ nuôi bản thân họ và gia
đình;
+ Thể chế chính trị và truyền thống văn hóa hàm chứa những yếu tố ủng hộ hay
khoan dung với hành vi tham nhũng...
22
1.3.2. Nguyên nhân dẫn đến tham nhũng ở Việt Nam

Nguyên nhân chủ quan:


+ Tổ chức, hoạt động, phân hóa chức năng của hệ thống chính trị nói chung còn
nhiều khuyết điểm
+ Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện
+ Người đứng đầu các tổ chức chưa nhận thức đầy đủ về tham nhũng
+ Chưa phân hóa rõ nhiệm vụ của hệ thống cơ quan chuyên trách về phòng,
chống tham nhũng
+ Pháp luật tham nhũng chưa đủ mạnh, hữu hiệu
+ Công tác tuyên truyền mang tính phong trào
Nguyên nhân khách quan:
+ Mức sống thấp, trình độ quản lý nhà nước, pháp luật hạn chế, đang trải qua quá
trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
+ Mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường (cạnh tranh, phân hóa,..)

1.4. Tác hại của tham nhũng

1.4.1. Tham nhũng là kẻ thù của dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm của nhân
dân, của bộ đội và của chính phủ vì nó không mang gươm mang súng mà nó nằm
trong các tổ chức của ta để làm hỏng ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí
khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng ta là cần - kiệm - liêm -
chính”.

Tham nhũng còn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của công dân đối với bộ
máy và công chức, viên chức Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát
triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo: “Nếu có cái gì đó có thể triệt tiêu
được chủ nghĩa xã hội thì đó chính là tham nhũng, quan liêu”. Đây cũng là bài học
hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại đại hội lần thứ 6. Đó là bài học lấy dân làm gốc, dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây cũng là bài học mà ông cha ta đã truyền
lại cho con cháu. Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Người dân vốn không hài lòng, sợ
ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta, để dân ta khinh là mất nước”.

1.4.2. Hậu quả của tham nhũng


23
Tham nhũng hiện nay đang là vấn đề nhức nhối của hầu hết các quốc gia trên
Thế giới, đặc biệt là ở các nước kém phát triển và đang phát triển, tham nhũng đã để
lại những hậu quả nghiêm trọng và trở thành một trong những lực cản nặng nề nhất
của sự phát triển. Tham nhũng không chỉ gây căn bệnh quá xấu đối với sự phát triển
kinh tế mà còn làm mất ổn định chính trị - xã hội. Ở hầu hết các quốc gia có nạn
tham nhũng hoành hành, uy tín của Đảng cầm quyền sẽ bị xói mòn, dân chúng mất
lòng tin, Chính phủ bị vô hiệu hóa, kỷ cương phép nước và trật tự xã hội bị phá vỡ
dẫn đến nguy cơ sụp đổ đất nước. Tham nhũng thường không có nạn nhân trực tiếp,
nhưng hậu quả của nó gây ra cuối cùng toàn bộ xã hội phải gánh chịu.

Về kinh tế:

Đối với kinh tế, tham nhũng gây ra những thiệt hại rất lớn, theo các nhà nghiên
cứu thì tham nhũng là một loại lãng phí nguồn lực. Nó không chỉ có ảnh hưởng xấu
đến kinh tế vĩ mô, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế vi mô, đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tư nhân, gây rối loạn và kiềm hãm sự phát triển
của nền kinh tế, làm mất lòng tin của nhà đầu tư - đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài, giảm năng suất lao động dẫn đến nền kinh tế kém cạnh tranh.

Ví dụ khi có được một giấy phép kinh doanh, các doanh nghiệp phải lo đút lót
cho các quan chức có thẩm quyền trong việc giải quyết các thủ tục giấy tờ, điều này
đã làm nản lòng những người làm ăn chính đáng, triệt tiêu động lực phấn đấu của
họ.

Trong kinh tế tham nhũng còn kích thích kinh tế ngầm tội phạm phát triển, thay
vì hoạt động trong một nền kinh tế lành mạnh, tuân thủ các quy định, quy chế, pháp
luật và đánh thuế nghiêm chỉnh, các doanh nhân lại dựa vào mối quan hệ quen biết,
móc ngoặc để làm ăn phi pháp, trốn thuế, buôn lậu, rửa tiền, tham nhũng làm thiệt
hại cho những khoản kinh phí lẽ ra được đầu tư cho các khu vực công cộng như y
tế, giáo dục, môi trường, nước sạch... ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của xã
hội.

Một số minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối với nền kinh tế: Tại
Việt Nam với mức thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 400 USD/năm nhưng
những vụ tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế vẫn diễn ra hàng năm

24
điểm hình như vụ án Minh Phụng - EPCO đã chiếm đoạt hơn 3.547 tỷ đồng và 25,4
triệu USD của Nhà nước. Ngoài ra tính đến khi vụ án bị khởi tố ngân sách Nhà
nước còn bị thiệt hại 115 tỷ đồng và 596.303 USD là phí bảo lãnh và lãi phát sinh
của các khoản thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó còn là những vụ gây thiệt hại nhiều
đến tiền của Nhà nước và nhân dân như vụ Tamexco đã thiệt hại 500 tỷ đồng, dệt
Nam Định khoảng 900 tỷ đồng... Đặc biệt hiện nay tình trạng tham nhũng ở Việt
Nam gây thiệt hại về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trong đầu tư xây dựng cơ bản,
hoàn thuế giá trị gia tăng, lạm dụng quyền lực để bản thân và gia đình tham nhũng.

Như vậy, về kinh tế, tham nhũng làm thất thoát đáng kể đến công quỹ, ngân sách
nhà nước, đến khoản tích góp từ mồ hôi, nước mắt của nhân dân. Tham nhũng dẫn
đến năng suất lao động xã hội bị giảm sút, giá thành giảm, phát triển xã hội tăng
cao, khả năng cạnh tranh kinh tế yếu kém, nguy hại hơn tham nhũng làm suy giảm,
thậm chí có nơi còn làm triệt tiêu động lực lao động.

Về chính trị:

Tác hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng
ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ làm tẩm
thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không thể giữ vững,
gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân và
là cơ hội để cho kẻ thù pháp hoại, xâm lược. Nếu các nhà hành pháp mà tự mình
phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng
chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp là cho Nhà
nước trở thành đối lập và gánh nặng cho công dân.

Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì những kẻ
tham nhũng sẽ lừa dối và hư hóa cấp trên làm cho bộ máy trở thành quan liêu,
chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chưa
tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống
hành pháp quốc gia Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi sự tin tưởng vào
đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là nguyên nhân căn bản nhất
dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.

25
Tham nhũng chính trị làm cho các nguồn lực của đất nước bị phân bổ méo mó,
thiên vị và kém hiệu quả. Hệ lụy tất yếu là công bằng xã hội khó được bảo đảm.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, tệ tham nhũng, tiêu cực đã và đang trở thành
mối đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thực tế hiện nay ở nước ta, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thoái hóa,
biến chất, lợi dụng những kẽ hở trong cơ chế, chính sách quản lý, luật pháp của nhà
nước để tham ô, hối lộ, trao đổi quyển, tiến và những lợi ích khác, lợi dụng chức
quyền để sách nhiễu dân. Tham nhũng đã làm tổn hại lớn tới các nguồn lực của
nhân dân, của đất nước, làm suy yếu tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước, cản trở lớn
đến sự phát triển, gây mất niềm tin ở nhân dân, là yếu tố có khả năng dẫn đến mất
ổn định chính trị - xã hội cao nhất.

Về xã hội:

Đối với đạo đức xã hội, tham nhũng đã và đang làm băng hoại cả nền đạo đức và
làm cho con người thoái hóa, biến chất khi nó tạo ra một môi trường xấu trong xã
hội. Tham nhũng kích thích tính ích kỷ, tham lam, hám lợi, làm giàu bất chính tạo
ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Những người giàu có và quyền lực thường được
ưu ái, trong khi người dân nghèo khó phải đối mặt với khó khăn và thiệt hại dẫn đến
xảy ra những cuộc xung đột, biểu tình.. Nó làm ảnh hưởng tới tâm lý, tập quán,
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Lòng nhân ái nhân văn ở con người và
niềm tin và công lý bị xói mòn. Tệ nạn cũng ngày một gia tăng ảnh hưởng đến trật
tự và an ninh xã hội.

Chính với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do bệnh tham
nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất nước, là giặc nội
xâm nguy hiểm. Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta khẳng định: Nạn tham
nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều biện pháp khắc phục, song hiệu quả còn
thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham
nhũng trong bộ máy Nhà nước, trong tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương đến
cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược
nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý,
khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và
26
phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham
nhũng. Thủ trưởng cơ quan đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu
trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống
tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập
trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối
lộ, đưa và nhận hối lộ.

2. THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG


THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Sơ lược về thực trạng tham nhũng trên thế giới:

Mức độ tham nhũng:

Theo Chỉ số Nhận thức Tham nhũng (CPI) năm 2023 của Tổ chức Minh bạch
Quốc tế (TI):

Hầu hết các quốc gia không ngăn chặn được tham nhũng: Hơn 80% dân số thế
giới sống ở các quốc gia có chỉ số CPI dưới mức trung bình toàn cầu là 43.k

Top 3 quốc gia tham nhũng nhất: Somalia (11 điểm), Venezuela (13 điểm), Syria
(13 điểm),

Top 4 quốc gia ít tham nhũng nhất: Đan Mạch (90 điểm), Phần Lan (87 điểm),
Thụy Điển (83 điểm), New Zealand (83 điểm),

Điểm qua vụ án tham nhũng lớn trên thế giới để lại hậu quả nghiêm trọng:

Quan tham lớn nhất Trung Quốc lẩn trốn 17 năm ở Mỹ:

Hôm 25/2, tòa án thành phố Giang Môn, tỉnh Quảng Đông đã mở phiên sơ thẩm
xét xử vụ án tham ô, chiếm đoạt công quỹ của Hứa Siêu Phàm, nguyên Giám đốc
Chi nhánh Khai Bình của Ngân hàng Trung Quốc.

Các công tố viên đã cáo buộc Hứa Siêu Phàm từ năm 1993 đã biển thủ 622 triệu
USD và 129 triệu đô la Hồng Kông (HKD) bằng cách sử dụng các khoản vay giả để
lấy tiền ngân hàng, chiếm dụng các khoản thanh toán khoản vay thông thường của
công ty hoặc chuyển khoản trực tiếp… ; đồng thời chiếm đoạt 356 triệu NDT, 20
triệu HKD và 124 triệu USD công quỹ.
27
Tờ Daily Economic News của Trung Quốc cho biết số tiền liên quan trong vụ án
tham nhũng này lên tới 6,7 tỷ NDT tính theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm xảy ra vụ
việc.

Trong quá trình xét xử, Hứa Siêu Phàm đã được phép phát biểu lần cuối, ông ta
thừa nhận tội lỗi và bày tỏ hối hận. Phiên tòa sơ thẩm kết thúc, nhưng mức án chưa
được tuyên.

Hứa Siêu Phàm sinh năm 1965 trong một gia đình bình thường, làm nhân viên
cho vay ở ngân hàng từ khi 17 tuổi. Đến những năm 1990, khi 30 tuổi đã trở thành
Giám đốc chi nhánh Khai Bình của Ngân hàng Trung Quốc tại tỉnh Quảng Đông.

Bắt đầu từ năm 1993, Hứa Siêu Phàm đã lợi dụng chức vụ của mình để thực hiện
các giao dịch ngoại hối dưới chiêu bài giúp khách hàng mua, bán ngoại hối để tham
nhũng. Cùng với phó giám đốc Dư Chấn Đông và giám đốc công ty con Hứa Quốc
Tuấn, Phàm đã liên tiếp chuyển một lượng lớn tiền từ các tài khoản ngân hàng cho
Tanjiang Industrial Co., Ltd. - công ty riêng của ba người ở Hồng Kông. Cả ba đã
thông đồng với nhau chuyển 485 triệu USD tiền vốn ra nước ngoài trong 10 năm.

Hứa Siêu Phàm rất hào phóng trong việc phung phí tiền công. Theo báo cáo,
Phàm nghiện cờ bạc và đã thua hơn 60 triệu NDT chỉ trong bốn giờ đánh bạc ở Ma
Cao. Lái xe riêng kết hôn, Phàm bận không dự được đã gửi mừng 660.000 NDT.

Năm 2001, Phàm bỏ trốn sang Mỹ và bị Interpol truy nã đỏ. Năm 2003 bị bắt,
năm 2009 bị tòa án Mỹ kết án 25 năm tù. Ngày 11/7/2018, được dẫn độ về Trung
Quốc sau 17 năm lẩn trốn.

2.2. Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam

Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay là rất nghiêm trọng, hiện tượng
tham nhũng không những đặc biệt lan tràn trong số các quan chức làm việc tại các
cơ quan chuyên trách về kinh tế đối nội và đối ngoại mà nó xảy ra phổ biến ở hầu
hết các lĩnh vực như luật pháp, văn hoá, giáo dục,... Tham nhũng đã và đang làm
xói mòn lòng tin của nhân dân, của xã hội vào Đảng và Nhà nước. Sự tha hoá của
một số cán bộ Đảng viên công thêm thế lực thù địch lợi dụng diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới và trong nước ra sức tuyên truyền, kích động, thực hiện diễn biến

28
hoà bình đang trở thành một nguy cơ to lớn uy hiếp đến sự tồn vong của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta

Mức độ tham nhũng

Theo Chỉ số Nhận thức Tham nhũng (CPI) năm 2023 của Tổ chức Minh bạch
Quốc tế (TI):

Việt Nam xếp hạng 87/180 quốc gia, với điểm số 39.

So với năm 2022, Việt Nam tăng 2 bậc và 2 điểm.

Tuy nhiên, điểm số này vẫn thấp hơn điểm trung bình khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương là 43 và nằm trong số 2/3 các quốc gia trên thế giới tham nhũng
nghiêm trọng (dưới 50 điểm)

Các vụ tham nhũng lớn, có tổ chức, nhiều người tham gia, có sự cấu kết của
nhiều doanh nghiệp và cán bộ nhà nước vẫn diễn ra. Ngoài các vụ tham nhũng lớn,
còn tồn tại tình trạng tham nhũng vặt, như việc “lót tay”, “bôi trơn” để giải quyết
các thủ tục hành chính hàng ngày. Điều này gây bức xúc cho mọi người và toàn xã
hội.

Vụ án tham nhũng lớn

• Vụ án hình sự liên quan đến Tập đoàn FLC: Trịnh Văn Quyết, Chủ tịch Tập
đoàn FLC thao túng thị trường chứng khoán thu lợi bất chính 723.322.534.069
đồng. Đề nghị truy tố 51 bị can.

Quá trình điều tra đến nay có đủ căn cứ xác định: từ ngày 26/5/2017 đến ngày
10/01/2022, Trịnh Văn Quyết, Chủ tịch Tập đoàn FLC chỉ đạo Trịnh Thị Minh Huế
(em gái Quyết) cùng đồng phạm thực hiện hành vi thao túng thị trường chứng
khoán đối với 5 mã cổ phiếu AMD, HAI, GAB, FLC, ART thu lợi bất chính
723.322.534.069 đồng.

• Bộ Công an cho biết Việt Á đã kiếm lợi khoảng 4.000 tỷ đồng và chi khoảng
800 tỷ để "bôi trơn". Nhưng trong kết luận điều tra đã ban hành, Bộ Công an xác
định số tiền Việt Á đã thu lợi bất chính là hơn 1.200 tỷ đồng và số tiền chi để đưa
hối lộ là hơn 106 tỷ đồng.

29
Chiều 12/1, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên án phạt 38 bị cáo trong
vụ án Công ty cổ phần công nghệ Việt Á (Công ty Việt Á) về các tội danh: Đưa hối
lộ; Nhận hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Lợi dụng
ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Có các cán bộ chức vụ
lớn như:

+ Bị can Nguyễn Thanh Long, cựu Bộ trưởng Bộ Y tế nhận hối lộ 2,25 triệu USD
(tương đương hơn 51 tỷ đồng).

+ Bị can Phạm Duy Tuyến, cựu Giám đốc CDC Hải Dương nhận hối lộ 27 tỷ
đồng

+ Bị can Nguyễn Minh Tuấn, nguyên Vụ trưởng Vụ Trang thiết bị & Công trình y
tế, Bộ Y tế nhận hối lộ 300.000 USD (tương đương hơn 6,9 tỷ đồng).

2.3. Thực trạng công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều chủ trương, biện
pháp được triển khai.

Cụ thể, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập
“với mong muốn đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng thêm một bước”(1).
Trong nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, có 56.572 đảng viên bị xử lý kỷ luật,
trong đó có 16.259 cấp ủy viên các cấp. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành
kiểm tra 13 tổ chức đảng và 33 đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng,
đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm, trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình
thức khiển trách 3 tổ chức đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh
cáo 6). Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị đã kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và
55.217 đảng viên, trong đó số tổ chức đảng có vi phạm là 10.478, phải thi hành kỷ
luật 791 tổ chức đảng; số đảng viên có vi phạm là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ
luật 20.344 trường hợp(2).

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đến cuối năm 2018, Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45 nghị quyết, chỉ
thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham
nhũng; Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua, ban hành 45 luật, pháp

30
lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 511 nghị định, 413 nghị quyết, 160
quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật
53.306 đảng viên với hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16
Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, trong đó có cả Ủy
viên Bộ Chính trị(3).

Trong năm 2019, công tác PCTN đã có bước tiến mạnh mẽ với nhiều chủ trương,
giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, do đó tham nhũng được kiềm chế, từng bước
ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần quan trọng giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên
trường quốc tế. Nổi bật là đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế trên các lĩnh
vực đời sống: “Cụ thể là Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 30
văn bản về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN. Quốc hội đã thông qua 18
luật, 20 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 100 nghị định,
119 nghị quyết, 37 quyết định, 33 chỉ thị. Như vậy, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội
ĐBTQ lần thứ XII đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung
ương quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng
vũ trang”(4). Những tháng đầu năm 2020, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN yêu
cầu tập trung đưa ra xét xử sơ thẩm 10 vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận
xã hội quan tâm.

Có thể khẳng định rằng, công tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được nâng lên. Có thể khái quát
một số đặc điểm của công tác PCTN ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Không có
vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, không chịu sự tác động không
đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào; Làm từng bước, rõ đến đâu xử lý đến đó;
Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc; Nhân văn, phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội; Lấy phòng ngừa là chính, cơ bản, phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác PCTN ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế
như: công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN hiệu quả chưa cao, hiện tượng phải

31
hối lộ, bôi trơn hoặc tác động bằng hình thức khác để được thuận lợi hơn trong giải
quyết công việc còn phổ biến; một số cơ chế, chính sách còn thiếu chặt chẽ, chưa
phù hợp với thực tiễn; thực thi pháp luật có lúc, có nơi chưa nghiêm. Công tác tổ
chức, cán bộ, kiểm soát tài sản, thu nhập còn nhiều hạn chế, vướng mắc; vấn đề
phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tự phát hiện, xử lý tham
nhũng trong nội bộ...

3. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG


THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Xuất phát từ thực tế tình hình tham nhũng ở nước ta hiện nay, có thể thấy những
thách thức đặt ra trong công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta như sau:

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài,
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận
trước Đảng, trước nhân dân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành,
kể cả cấp Trung ương và địa phương chưa nêu gương về đạo đức, lối sống và chưa
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng.

Tính công khai, minh bạch, dân chủ trong xã hội và trong hoạt động của hệ thống
chính trị còn hạn chế. Một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn mang tính
hình thức, hiệu quả thấp, nhất là việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức, viên chức

Tham nhũng ở Việt Nam mang tính phổ biến, vừa tinh vi, phức tạp, vừa trắng
trợn, lộ liễu; xảy ra ở hầu hết các ngành, các cấp, thậm chí xảy ra ngay trong các cơ
quan có chức năng chống tham nhũng, nên việc đấu tranh, ngăn chặn và xử lý rất
khó khăn.

32
Cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều sơ hở, bất cập, thiếu
công khai, minh bạch và nhất quán, dễ bị lợi dụng để tham nhũng, nhất là trong các
lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; thu - chi ngân sách; đầu
tư, mua sắm công; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quan hệ giữa cơ quan quản lý
nhà nước với người dân, doanh nghiệp. Chế độ tiền lương của công chức, viên chức
chưa hợp lý, thu ▷ nhập của cán bộ, công chức, viên chức còn thấp, không bảo đảm
cho cuộc sống.

Chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân vào cuộc đấu
tranh chống tham nhũng. Thiếu cơ chế giám sát có hiệu lực, hiệu quả của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đối với hoạt động
của bộ máy nhà nước nói chung và hoạt động PCTN nói riêng, thiều quy định cụ thể
để bảo vệ người tố cáo tham nhũng cũng như nghiêm trị hành vì đe dọa, trả thù
người tố cáo.

Tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN chưa thật hợp lý:
điều kiện hoạt động, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị
này còn nhiều bất cập, chưa tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ yên tâm công tác;
công tác quản lý, giáo dục đội ngũ cán bộ, trong đó có việc kiểm tra, giám sát,
PCTN trong nội bộ các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát và
tòa án chưa được chú trọng.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA
NƯỚC TA HIỆN NAY

1. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ


NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Quan điểm

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đây là quá trình
Nhà nước Việt Nam thiết lập và vận hành những nguyên lý, đặc trưng phổ quát, tiến
33
bộ của nhà nước pháp quyền hiện đại, mang định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
do Đảng lãnh đạo, nhằm mục tiêu phát triển đất nước và mang lại hạnh phúc cho
Nhân dân.

Trong 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã xác định: “Xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn
với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công
chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí,
quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”.

Cần lưu ý rằng xây dựng nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội là một quá trình
lâu dài, cần sự kiên trì, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Cần tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của
Nhà nước, khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Bên cạnh đó, cần phát huy
vai trò của nhân dân trong việc giám sát, phản biện xã hội và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội có tầm quan
trọng to lớn, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, nâng cao đời
sống của nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh.

1.2. Nhiệm vụ và các giải pháp

nhiệm vụ:

Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát huy vai trò của Chính phủ trong việc
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm
minh, hiệu quả, đảm bảo yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, tiếp tục
đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương. Xây dựng
nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại,

34
hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao vai trò của Chính phủ trong hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Giải pháp:

Hoàn thiện hệ thống pháp luật: Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế. Tập trung xây dựng, hoàn thiện các luật quan trọng, luật cơ bản như Luật
Hiến pháp, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hình
sự,... Rà soát, sửa đổi, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với
thực tiễn, kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống
xã hội.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước: Tăng cường công tác cải
cách hành chính, hướng đến một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ
nhân dân. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, chú trọng đạo đức, lối
sống. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, bảo đảm sự
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Phát huy vai trò của nhân dân: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Mở rộng các kênh tham
gia của nhân dân vào việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng: Tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng
cán bộ, đảng viên về pháp luật, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Vai trò của các biện pháp phòng chống tham nhũng

Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã
hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân. Đấu tranh phòng, chống tham
35
nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.

Các biện pháp phòng chống tham nhũng có vai trò quan trọng trong việc phòng
ngừa, ngăn chặn và xử lý tham nhũng, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý tham nhũng góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả

Các biện pháp phòng chống tham góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức.

Tham nhũng tạo ra môi trường kinh doanh không lành mạnh, làm giảm niềm tin
của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý tham
nhũng giúp xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, cạnh tranh, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội.

Các biện pháp phòng chống tham góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong việc thực thi công vụ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

2.2. Các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng của ông cha ta ngày xưa

Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban chiếu: “Những người thu quá số thuế quy
định sẽ bị ghép vào tội ăn trộm. Người dân tố cáo việc đó được miễn dịch 3 năm.
Người ở kinh thành mà cáo giác nạn nhũng nhiễu, tham ô thì nhận thưởng bằng
hiện vật thu được". Ngoài hình phạt chính, các quan ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì bị
phạt 50 quan tiền; từ 10 quan đến 19 quan, bị phạt từ 60 đến 100 quan; của hối lộ
một phần trả lại chủ, một phần sung vào kho quỹ triều đình.

36
Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông xây dựng và thực thi có 722 điều,
trong đó có trên 40 điều liên quan việc phòng, chống tham nhũng. Ở Điều 1,
chương “Vi chế", ghi rằng: các chức quan lại có số lượng nhất định, nếu tự ý bổ
dụng hay tuyển chọn quá hạn định thì cứ thừa 1 người, phạt người đứng đầu cho 60
trượng, “biếm" 2 tư (hạ chức 2 bậc), hoặc bãi chức, thừa 2 người thì xử tội “đồ"
(hình phạt lao dịch khổ sai ở nhiều mức độ).

Trong số 400 điều của bộ luật Gia Long (ban hành năm 1815), có 79 điều quy
định về các tội liên quan đến tham nhũng, và có những điều rất hà khắc.

Điều 31 quy định: quan lại nhận hối lộ phải chịu hình phạt thấp nhất 70 trượng,
cao nhất là treo cổ.

Điều 111 quy định: “Quan lại dùng chức vụ vô cớ bắt trói người và tra khảo họ
nơi tư gia (không kể có thương tích hay không thương tích) thì tăng hơn người
thường hai bậc tội. Nếu nạn nhân chết, người ấy bị xử treo cổ".

Điều 392 quy định: “Người nào dùng các thủ đoạn biển thủ, lấy trộm tiền
lương, vật tư ở kho, cũng như mạo phá vật liệu đem về nhà. Nếu tang vật lên đến 40
lượng thì bị chém".

Người phụ trách việc xây dựng, không được lợi dụng quyền để mượn vật tư,
tiền công dù rất nhỏ, nếu bị phát giác sẽ bị quy tội nặng. Các quan cậy thế hoặc
dùng sức ép để buộc người khác cho mình mượn hàng hóa, vật tư, tiền công thì tuỳ
theo giá trị hiện vật để xử phạt, nhẹ thì mỗi thứ hàng hoá phạt 100 trượng, bị lưu
3.000 dặm, thu hồi hết tang vật, nếu nặng thì tử hình.

2.3. Các giải pháp chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta

* Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành dễ phát sinh tình
trạng tham nhũng, tiêu cực.

Đánh giá pháp luật về phòng, chống tham nhũng hiện nay, chúng ta đã có một
hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, cụ thể và thống nhất để có thể thực hiện có
hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, để phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật chuyên ngành khác dễ
phát sinh tình trạng tham nhũng, tiêu cực hơn nữa.
37
Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung theo hướng:

● Sử dụng công nghệ số vào việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức, viên chức;

● Xử lý, thu hồi tài sản tăng thêm không giải trình được nguồn gốc;
● Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan giám sát, thanh tra, kiểm toán
trong việc áp dụng các biện pháp thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa tài sản của
các cá nhân có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực;
● Quy định linh hoạt thời điểm áp dụng các biện pháp phong tỏa tài khoản, kê biên
tài sản, số lượng, giá trị các loại tài sản bị kê biên.

* Hai là, tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân, các tổ chức chính trị - xã
hội, đoàn thể.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt
phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Việc giám sát hoạt động
của người có chức vụ từ phía nhân dân không chỉ dừng lại ở các biện pháp phòng
ngừa mà còn theo đến cùng khi các vụ án tham nhũng bị phát hiện, điều tra, xử lý.
Bên cạnh đó, cần tăng cường các biện pháp giám sát các nguồn thu nhập và những
biến động về tài sản của người có nhiệm vụ, quyền hạn nhằm phòng ngừa, phát hiện
tham nhũng, có cơ chế khuyến khích người dân cung cấp những thông tin tố giác
tham nhũng và bảo đảm cơ chế bảo vệ người tố giác hành vi tham nhũng.

* Ba là, nâng cao nhận thức về trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
cho cán bộ, công chức, viên chức và đông đảo quần chúng nhân dân.

Để phát huy được vai trò, sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trước hết phải có các giải pháp nâng cao nhận
thức về trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cho cán bộ, công chức, viên
chức và đông đảo quần chúng nhân dân. Cần coi trọng và đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của
mình trong công tác này. Bên cạnh đó, phải liên tục đổi mới công tác thông tin,
tuyên truyền những quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho cán
bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân.

38
* Bốn là, cần đẩy nhanh tiến độ cải cách chế độ tiền lương.

Cán bộ, công chức, viên chức là nhóm đối tượng thuộc hệ thống các cơ quan nhà
nước, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội do vị trí việc làm và tính chất lao động đặc thù. Vì vậy, việc trả lương
cho cán bộ, công chức, viên chức đúng với chức năng nhiệm vụ và yêu cầu công
việc là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng
cao chất lượng lãnh đạo, quản lý, thực thi công vụ, cung cấp dịch vụ công, góp phần
làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Tiền
lương của cán bộ, công chức, viên chức cần được đặt trong mối tương quan với mặt
bằng tiền lương khu vực thị trường, điều này sẽ giúp nâng cao đời sống cán bộ,
công chức, viên chức, tạo động lực, thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực.

KẾT LUẬN

Chúng ta nhận thấy rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam đang diễn ra đồng bộ và có
những tiến triển đáng kể. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, không chỉ cần sự nỗ
lực từ phía chính phủ và các cơ quan quản lý mà còn là sự tham gia tích cực của
toàn bộ xã hội. Sự minh bạch, công khai và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng là
yếu tố cơ bản trong quá trình này.

Nhận thức là một quá trình, nhưng từ nhận thức biến thành hành động thực tiễn
đòi hỏi có quyết tâm chính trị, có hành lang pháp lý, có sự đồng thuận của nhân dân
để “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Điều đó mới bảo đảm sự gắn kết
giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
nhằm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
trong giai đoạn mới.

Ngoài ra, việc xây dựng một hệ thống pháp luật mạnh mẽ và minh bạch, cùng với
việc thúc đẩy tranh luận công cộng và tự do ngôn luận cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc tăng cường lòng tin của nhân dân vào chính quyền. Qua đó, chúng ta có

39
thể xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và phồn thịnh, góp phần vào sự phát
triển bền vững của đất nước. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua sự kiên nhẫn,
quyết tâm và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan. Chúng ta hãy cùng nhau
hướng tới một tương lai tươi sáng và phồn thịnh cho Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Anh, H. (2024). Vụ án hình sự liên quan đến Tập đoàn FLC: Đề nghị truy tố 51 bị
can. https://vneconomy.vn/, https://vneconomy.vn/vu-an-hinh-su-lien-quan-
den-tap-doan-flc-de-nghi-truy-to-51-bi-can.htm.
dân), B. V. (2024). Một số giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tình
hình mới. https://danchuphapluat.vn/, https://danchuphapluat.vn/mot-so-giai-
phap-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-trong-tinh-hinh-moi.
Kết quả điều tra, xử lý vụ án xảy ra tại Tập đoàn FLC. (2023).
https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/,
https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bo-cong-an-thong-bao-ket-qua-dieu-
tra-xu-ly-vu-an-xay-ra-tai-tap-doan-flc-119231028121218137.htm.
ngày), T. T. (2021). Quan tham lớn nhất Trung Quốc lẩn trốn 17 năm ở Mỹ.
https://tienphong.vn/, https://tienphong.vn/quan-tham-lon-nhat-trung-quoc-
lan-tron-17-nam-o-my-post1316260.tpo.
Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. (2023).
https://danchuphapluat.vn/, https://danchuphapluat.vn/phong-chong-tham-
nhung-tieu-cuc-gop-phan-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-
viet-nam-trong-giai-doan-moi.

tư), M. H. (2022). Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. https://www.mpi.gov.vn/
40
Ths. Nguyễn Văn Hùng - Viện Xây dựng Đảng, H. v. (2021). Thực trạng và một số
giải pháp phòng, chống tham nhũng hiện nay.
https://phapluatquanly.vietnamhoinhap.vn/,
https://phapluatquanly.vietnamhoinhap.vn/thuc-trang-va-mot-so-giai-phap-
phong-chong-tham-nhung-hien-nay-3418.htm.
Vụ Việt Á: Vì sao có sự chênh lệch số tiền 'bôi trơn'; quan chức cầm số tiền lớn
nhưng không phải là nhận hối lộ? (2023).
https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/,
https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/vu-viet-a-vi-sao-co-su-chenh-lech-ve-
so-tien-boi-tron-cam-tien-nhung-khong-phai-la-nhan-hoi-lo-
119230909235535861.htm#:~:text=Theo%20%C4%91%C3%B3%2C%20th
%C3%B4ng%20tin%20ban,l%C3%A0%20h%C6%A1n%20106%20t
%E1%BB%B7%20%C4%.

41

You might also like