You are on page 1of 31

BỘ NỘI VỤ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI ……………………………………………………


……………………………………………………………….
BÀI TẬP LỚN / BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần:…………………………………………..
Mã phách:………………………………….(Để trống)

HÀ NỘI-2O23
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………...1
1. Tính cấp thiết………………………………………………………….…1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………….2
2.1. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………....2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………...2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………..2
3.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………..2
3.2. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………….3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu……………………………….3
5. Kết cấu đề tài……………………………………………………………..3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………….4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG
THAM NHŨNG…………………………………………………………..…4
1.1. Khái niệm tham nhũng………………………………………………….4
1.2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng………………………………………5
1.3. Các yếu tố cấu thành tội tham nhũng……………………………………8
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA………………………………………9
2.1. Cơ sở pháp lý…………………………………………………………….9
2.2. Thực trạng tham nhũng và nguyên nhân ………………………………...9
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM
NHŨNG CỦA NƯỚC TA…………………………………………………….19
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng chống tham
nhũng………………………………………………………………………….19
3.2. Giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay………………………...21
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….27
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………… …………….28
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết
Tham nhũng là quốc nạn không chỉ của tiêng một quốc gia nào. Cuộc chiến
chống than nhũng đang hàng ngày, hàng giờ xảy ra mọi lúc, mọi nơi, ở tất cả
các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, tham nhũng được xác định là “cản trở những nỗ lực dổi mới, tác
động tiêu cực tới sự phát triển của đất nước, bớp méo các giá trị truyền thống
của dân tộc, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Nghiêm trọng hơn, tham
nhũng còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân và lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của nhà nước và đe dọa sự tồn vong của chế độ ta”
Chúng ta đều rõ, tham nhũng được coi là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực,
là một trong những nguy cở đe dọa sự tồn vong của chế độ. Ở thời đại nào, chế
độ nào, quốc gia nào cũng tồn tại tham nhũng, song không thể xóa bỏ nhanh
chóng trong một thời gian ngắn mà cần đấu tranh kiên quyết, kiên trì, bền bỉ,
thường xuyên. Bởi tham nhũng thực sự là một nguy cơ, vấn nạn, nếu không
được ngăn chặn, loại bỏ kịp thời sẽ làm thiệt hại cho nền kinh tế, phá vỡ chiến
lược và kế hoạch phát triển , gây thiệt hại vật chất lớn lao cho Nhà nước và
người dân, làm suy thoái đạo đức, lối sống trong hàng ngũ lãnh đạo, gây ra sự
bất bình, bức xúc trong dư luận xã hội và nghiên trọng hơn là làm xoi mòn, suy
giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, gián tiếp tiếp tay cho
những thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. có thể nói, tham
nhũng như một loại dịch bệnh nguy hiểm có thể phá vỡ bất kỳ thể chế chính trị
nào. Một đảng cầm quyền còn để xảy ra tham nhũng thì nguy cơ đánh mất
quyền lực là hiện hữu. Đay là bài học xương máu đã được lịch sử đúc rút, kể cả
những nước đã từng là thành trì của chủ nghĩa xã hội. Thậm chí, nếu để tham
nhũng tràn lan thì những cán bộ, đảng viên trong sáng, dám nghĩ, dám làm vì lợi
ích chung của quốc gia, dân tộc sẽ không còn động lực để phấn đấu, cống hiến,
hy sinh vì lợi ích chung. Bởi vậy đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một tất
yếu, là vấn đè sinh tử, sống còn, cấp bách của bất kỳ một đảng cầm quyền nào
nếu không muốn từ bỏ vị trí lãnh đạo của mình
Như vậy, nghiên cứu về tham nhũng và phòng chống tham nhũng trong giai
đoạn hiện nay là việc làm thiết thực, cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu và giải
quyết vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra
Xuất phát từ những vấn đè nêu trên tôi quyết định chọn đề tài “phòng chống
tham nhũng trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam” để làm bài tiểu luận kết
thúc học phần.
2.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tình hình tham nhũng ở nước ta hiện nay và nguyên nhân dẫn đến
tham nhũng. Phan tích những bất cập của pháp luật về phòng chống tham nhũng
hiện hành và nêu ra được những vấn đè dặt ra tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
phòng chống tham nhũng.
Góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giúp cải thiện môi
trường kinh doanh, từng bước giúp tạo ra môi trường thể chế công khai, minh
bạch
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về tham nhũng, phòng, chống tham nhũng
từ phương diện giáo dục pháp luật đối với cán bộ, công chức trong bộ máy cơ
quan hành chính nhà nước
Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ công chữ và công tác giáo dục pháp luật về
phòng chống tham nhũng cho cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước ở Việt Nam
Từ thực trạng đó đưa ra những yêu cầu, quan điểm và đề xuất những giải pháp
cơ bản nhằm đổi mới giáo dục pháp luật về phòng chống tham nhũng cho những
cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước giai đoạn hiên nay.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành
chính nhà nước. Những vấn đè lý luận về phòng chống tham nhũng, giáo dục
pháp luật về phòng chống tham nhũng.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng công tác giáo dục pháp luật về phòng chống tham nhũng cho cán bộ,
công chức trong cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay. Yêu cầu,
quan điểm, giải pháp đổi mới công tác giáo dục pháp luật về phòng chống tham
nhũng cho cán bộ, công chữ trong cơ quan hành chính nhà nước.
4.Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật kịch sử
của chủ nghĩa Mac-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham
nhũng, Các phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng trong đề tài là
phương pháp hệ thống, tổng hợp, điều tra xã hội học, phân tích, so sánh đè nhận
diện tham nhũng trong các giai đoạn thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham
nhũng bằng việc khái quát hệ thống hóa hành vi, đưa ra đặc điểm, nhận định
nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng. Trên cở sở đó, gợi ý một số giải pháp
phòng chống dưới góc độ quản lý nhà nước.
5.Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và tài liệu tham khảo phần nội dung tiểu luận bao gồm:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về công tác phòng chống tham nhũng.
Chương 2. Thực trạng công tác phòng chống tham nhũng giai đoạn hiện nay ở
nước ta.
Chương 3. Đề xuất giải pháp phòng chống tham nhũng của nước ta.
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG


CHỐNG THAM NHŨNG

1.1.Khái niệm tham nhũng

Tham nhũng là một hiện tượng tồn tại tất yếu khách quan trong xã hội có phân
chia giai cấp, có nhà nước. Bởi vì tham nhũng luôn luôn gắn liền với quyền lực
nhà nước, một số người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước đã lợi
dụng quyền lực nhà nước để tham nhũng, nhằm thu về những lợi ích cho bản
thân mình, cho gia đình mình, hoặc cho người thân của mình. Tham nhũng là
một hiện tượng xấu cho xã hội, nó gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế của đất
nước. Nó làm suy thoái đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước. Tham nhũng còn làm cho bộ máy nhà nước hoạt động kém
hiệu lực, hiệu quả, thậm chí làm mục rỗng bộ máy nhà nước, đe dọa sự tồn vong
của đất nước, của chế độ.

Theo khoản 1 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng 2018 có quy định: “Tham
nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền
hạn đó vì vụ lợi”.

Trong đó:

-Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng,
do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất
định trong khi thực hiện nhiệm vụ, coong vụ đó, bao gồm:

+Cán bộ, công chức, viên chức;

+Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp vụ, sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân;

+Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;

+Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;

+Những người khác được giao thực hiên nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn
trong khi thực hiên nhiệm vụ, công vụ đó;

-Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vất chất không chính đáng.

1.2.Đặc điểm của hành vi tham nhũng

Thứ nhất, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn

Bởi vì chỉ khi “ có chức vụ, quyền hạn” họ mới dễ lợi dụng chức vụ quyền hạn
để nhu cầu lợi ích riêng. Chứ vụ, quyền hạn mà chủ thể của hành vi tham nhũng
có được có thể do được bầu cử, do được bổ nhiệm, do hợp đồng, do tuyển dụng,
hoặc do một hình thức khác , có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được
giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Chức vụ, quyền hạn phải gắn với quyền lực
nhà nước trong các lĩnh vực các cơ quan khác nhau: cơ quan lập pháp, cơ quan
hành pháp, cơ quan tư pháp, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội,
tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế Nhà nước hoặc lực lượng vũ
trang từ Trung ương đến địa phương.

Đay là dấu hiệu giúp ta phân biệt hành vi tham nhũng với những vi pham pháp
luật có yếu tố vụ lợi nhưng không phải là hành vi tham nhũng do người thực
hiện hành vi đó không có chức vụ và quyền hạn ví dụ như trộm cắp tài sản, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc buôn lậu…

Thứ hai, khi thực hiện hành vi tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn, lợi
dụng chức vụ quyền hạn của mình làm trái pháp luật để mưu lợi các nhân.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham nhũng.
Khi thực hiện hành vi tham nhũng phải sử dụng “ chức vụ, quyền hạn của
mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình hoặc cho
người khác. Nếu không có chức vụ quyền hạn đó họ sẽ không thể thực hiện
được hoặc khó có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để đáp ứng nhu cầu
hưởng lợi(trái pháp luật) của bản thân.

Ví dụ: A là thủ quỹ, A lợi dụng công việc của mình lấy quỹ cơ quan để đầu tư
mua bán đất đai riêng, nếu không phải là thủ quỹ thì A không thể hoặc khó có
thể lấy được tài sản trong kho quỹ của cơ quan. Việc lợi dụng chức vụ, quyền
hạn là thủ kho trong trường hợp này đã giúp A đạt được mục đích hưởng lợi ích
vật chất trái pháp luật. Đó chính là tham nhũng. 

Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chức vụ,
quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì không có hành vi
tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. ở
đây,có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần
lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Ví dụ: Trường hợp một công chức có hành vi trộm cắp tài sản của người
khác hoặc của cơ quan, tổ chức khác. Hành vi trộm cắp tài sản và chức vụ của
người đó không có quan hệ gì với nhau trong các trường hợp này. Hành vi trộm
cắp tài sản có thể được thực hiện bởi bất kỳ người nào không có chức vụ, quyền
hạn hoặc có chức vụ, quyền hạn nhưng chức vụ, quyền hạn đó không liên quan
đến việc quản lý, bảo vệ tài sản. Như vậy, dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn
làm trái pháp luật là một dấu hiệu không thể thiếu của hành vi tham nhũng.
Thứ ba, động cơ của người có hành vi tham nhũng là vì vụ lợi
Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình đề mưu
cầu lợi ích riêng, hành vi của họ không phải là vì nhu cầu công việc hoặc trách
nhiệm của các bộ, công chức mà hoàn toàn vì lợi ích riêng và của đơn vị đề
nhằm chiếm đoạt tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của nhà
nước, xã hội và nhân dân như vậy thiếu yếu tố vụ lợi thì hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức không bị coi là tham
nhũng. Như vậy có thể khẳng định rằng một hành vi được coi là tham nhũng khi
thỏa mãn hai diều kiện, điều kiện cần đó là người thực hiện hành vi phải là
người có chức vụ, quyền hạn phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình và
động cơ của hành vi đó là vì vụ lợi.

Liên hệ: Nhiệm kỳ lịch sử khóa XII của Đảng ghi dấu ấn lớn bằng cuộc đấu
tranh quyết liệt, không khoan nhượng trong công tác đấu tranh phòng chống
tham nhũng, tiêu cực, khi không hề có vùng cấm, bất kể người đó là ai, đã và
đang giữ cương vị gì. Cụm từ” hạ cánh an toàn” trước đây vẫn được nhắc tới
để nói về việc một số quan chức sau khi về hưu là hết trách nhiệm với tổ chức
và nhân dân, bất kể lúc đương chức có vi phạm thế nào. Thế nhưng, vài năm
trở lại đây, cụm từ này đã thêm một chữ “ không” ở giữa, tức là “ hạ cánh
không an toàn” khi rất nhiều cán bộ bị xử lý kỷ luật, thậm chí xử lý hình sự
sau khi đã nghỉ công tác, như nguyên Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn
Bắc Sơn phải chịu án tù chung thân về tội “ nhận hối lộ và vi phạm các quy
định về quản lý đầu tư công”. Danh sách các cán bộ cấp cao vi phạm kỷ luật bị
xử lý còn có các đồng chí ủy viên, nguyên ủy viên Bộ chính trị, ủy viên,
nguyên ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng và nhiều đồng chí là anh
hùng lực lượng vũ trang.

Cuộc chiến chống tham nhũng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát động
và trực tiếp chỉ đạo mấy năm nay với biết bao kỳ vọng của người dân
không cho phép ai thoát tội. Việc cương quyết xử lý những cán bộ vi
phạm kỷ luật dù đương chức hay đã nghỉ hưu cho thấy quyết tâm chính
trị của Đảng. Nhưng quan trọng hơn cả đó là niềm tin của nhân dân với
Đảng và chính quyền sẽ ngày càng được củng cố vững chắc.
Trong thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, tham nhũng đã
được Đảng ta xác định là một trong những nguy cơ đe dọa đến sự tồn
vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, vì vậy công tác phòng, chống tham
nhũng đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng mà
trực tiếp là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng do
đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban. Do đó, việc tổ
chức triển khai công tác phòng chống tham nhũng được thốn nhất, kết
hợp sự chỉ đạo định hướng của Đảng với việc tổ chức thi hành Luật
phòng chống tham nhũng của toàn bộ hệ thống chính trị, cơ quan nhà
nước.

1.3.Các yếu tố cấu thành tội tham nhũng

Theo quy định tại điều 2 luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì hành vi
tham nhũng được quy định như sau:

1.Các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền
hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vưc nhà nước thực hiện bao gồm

-Tham ô tài sản;

-Nhận hối lộ;

-Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;

-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

-Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;

-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;

-Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;

-Đưa hối lộ, môi giới hối lộ đề giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc địa phương vì vụ lợi;

-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;
-Nhũng nhiễu vì vụ lợi;

-Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ
vì vụ lợi;

-Lợi dụng chức cụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra,
thanh tra, kiểm soát, truy tố, xát xử, thi hành án vì vụ lợi;

2.Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ ,
quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện
bao gồm;

-Tham ô tài sản;

-Nhận hối lộ;

-Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức
mình vì vụ lợi.

CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM


NHŨNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

2.1. Cơ sở pháp lý

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Quốc hội ban hành Luật Phòng chống tham nhũng

2.2 Thực trạng tham nhũng và nguyên nhân

2.2.1. Liên hệ thực tiễn

Tình trạng tham ô, lãng phí, tiêu cực và tham nhũng tại Việt Nam diễn ra trong
nhiều thập niên qua, xảy ra trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội và ở tất cả
các ngành, các cấp. Tham nhũng, lãng phí đã gây ảnh hưởng to lớn đến
sự phát triển kinh tế-xã hội và làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng
và nhà nước. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố xếp hạng CPI
năm 2020, Việt Nam đứng thứ 104/108 quốc gia được xếp hạng với 36
điểm, tăng 5 điểm và 15 bậc so với năm 2014.Tuy nhiên, vẫn thấp hơn
điểm trung bình của khu vực (45 điểm) và nằm trong số 2/3 các quốc gia
trên thế giới tham nhũng nghiêm trọng (dưới 50 điểm).

Tại Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ tại Đại hội
XIII của Đảng đã nêu :”Tham nhũng trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn
còn nghiêm trọng, phức tạp, với biểu hiện ngày càng tinh vi; tình trạng
nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến, gây bức xúc
trong xã hội….Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự
tồn vong của Đảng và chế độ”. Mỗi khi người dân, doanh nghiệp đi xin
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất đi khám bệnh, xin cho con đi học,
hoặc chuyển trường, xin vốn đầu tư, dự án xây dựng…đều phải có “lót
tay”, ”bôi trơn” thì mọi việc mới nhanh chóng. Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng gọi dạng tham nhũng này là “tham nhũng vặt”, gây bức xúc, khó
chịu cho mọi người và toàn xã hội. nhiều vụ tham nhũng lớn, có tổ chức,
có nhiều người tham gia, có sự cấu kết của nhiều người doanh nghiệp và
cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất như: Vụ án Epco-Minh Phụng từ
những năm 80 của thế kỉ trước, với 77 bị can và 2 án tử hình; vụ án tập
đoàn Vinashin, với Phạm Thanh Bình cùng 8 đồng phạm; vụ án tham ô và
cố ý làm trái tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Dương
Chí Dũng và Mai Văn Phúc bị tử hình, 8 bị can khác chịu hình phạt từ 3
đến 22 năm tù.

Trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tham nhũng
chủ yếu diễn ra trong việc quy hoạch; chuyển đổi mục đích sử dụng đất;
thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp,
khu đô thị; giao đất; cho thuê đất; định giá đất khi thu hồi; đền bù; cấp
phép khai thác tài nguyên, khoáng sản…. Một số người đã lợi dụng chức
vụ quyền hạn để giao đất không đúng thẩm quyền; lập hồ sơ khốn hoặc
khai tăng diện tích đất khi đền bù. Điển hình là vụ lợi chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô
thị Bắc Thăng Long-Vân Trì (Hà Nội) thiệt hại ước tính khoảng 14 tỷ
đồng; vụ lợi dụng chức vụ, quyền han trong khi thi hành công vụ xảy ra
tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, gây thiệt hại gần 11 tỷ đồng; vụ
tham nhũng về đất đai tại Đồ Sơn và tại Quảng Nam, thành phố Hải
Phòng…..

Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nổi lên tình trạng tham nhũng, tiêu cực của
một bộ phận cán bộ trong ngành ngân hàng tiếp tay, móc nối với người
bên ngoài thông qua các hoạt động cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính,
đầu tư tài chính, ủy thác đầu tư… để chiếm đoạt tài sản, gây thất thoát
lớn. Ví dụ như vụ Lê Hoài Phương, cán bộ Ngận hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam, chi nhánh Cầu Giấy (Hà Nội) tham ô 24 tỷ đồng; vụ Phan
Văn Tưởng, cán bộ Ngân hàng Techcombank cùng các đồng phạm tham ô
trên 10 tỷ đồng; vụ Đoàn Tiến Dũng, Phó tổng gián đốc Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Việt Nam nhận của khách hàng 5 tỷ đồng là khoản trích
3-10% trong số tiền mà khách hàng này được vay của ngân hàng này….

Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, phần lớn các công trình xây dựng đều
xảy ra thất thoát tài sản, chủ yếu do tham ô và cố ý làm trái. Sai phạm xảy
ra ở hầu hết các khâu, từ việc lập dự án, thiết kế, dự toán, phê duyệt kế
hoạch cấp vốn đến đấu thầu , tư vấn , giám sát, thi công, nghiệm thu,
quyết toán công trình. Thủ đoạn chủ yếu là không chấp hành đúng trình
tự, thủ tục dầu tư cơ bản, gian lận, thiếu minh bạch trong đâu thầu; khai
khống khối lượng và giá trị vật tư, thiết bị, đưa vật liệu kém chất lượng,
sai quy cách vào sử dụng; thi công sai quy trình để giảm chi phí….

Điển hình như vụ tham ô, cố ý làm trái và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ xảy ra tại ban quản lý dự án di tích lịch sử chiến
thắng Điện Biên Phủ; vụ Huỳnh Ngọc Sĩ, Giám đốc Ban quản lý dự án
đại lộ Đông-Tây, TP HCM nhận hối lộ 260 nghìn tỷ USD để xét thầu,
nghiệm thu có lợi cho người đưa hối lộ; vụ thâm ô xảy ra tại dự án xây
dựng cầu Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh….

Trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại các doanh nghiệp, thủ
đoạn tham nhũng chủ yếu là giấu bớt và định giá trị tài sản đất đai thấp
hơn giá trị thực thi cổ phần hóa hoặc bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp;
lập các hợp đồng mua bán, vận chuyển hoặc hóa đơn khống để chiếm
đoạt; nâng cao khống giá hoặc gửi giá khi mua bán tài sản công để trục
lợi. Ví dụ như Nguyễn Bi, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng Giám
đốc và Nguyễn Thanh Huyền, Phó Tổng Giám đốc, kế toán trưởng của
công ty Vifon-TP HCM, đã lập chứng từ khống chiếm đoạt hơn 20 tỷ
đồng và khống thu về cho công ty 59,9 tỷ đồng nhằm chiếm đoạt khi cổ
phần hóa công ty này; vụ Trần Văn Khánh, Tổng công ty Vật tư nông
nghiệp tham ô, cố ý làm trái, gây thiệt hại nhiều tỷ đồng; vụ công ty xăng
dầu Hàng không khai khống tỷ lệ dầu hao hụt nhằm chiếm đoạt hàn chục
tỷ đồng; vụ công ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn nâng khống giá thiết bị lăn từ 100 triệu lên 130 tỷ
đồng.

Trong công tác cán bộ, dư luận về tình trạng” chạy chức, chạy quyền, chạy công
chức” vẫn còn nặng nề, nhưng trong thực tế chưa phát hiện, xử lý được
trường hợp nào. Dư luận nói nhiều đến hiện tượng một số cán bộ tiến
thân bắng con đường chạy chọt, nịnh bợ cấp trên(tìm hiểu sở thích, nhu
cầu các nhân của cấp trên và gia đình học để tìm cách đáp ứng, sẵn sàng
biếu cấp trên những món quà có giá trị lớn như nhà ở, đát ở, cổ phần
trong dự án,công ty…)

Trong lĩnh vực tư pháp, hành vi tham nhũng chủ yếu là cán bộ tư pháp lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ nhằm bỏ lọt hoặc giảm nhẹ tội phạm
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ví dụ như vụ Vũ
Văn Lương, thẩm phán quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) nhận hối lộ 70 triệu
đồng trong vụ tranh chấp 2,7m2 công trình phụ; Hà Công Tuấn thẩm
phán TAND tỉnh Quảng Ninh bị bắt quả tang nhận hối lộ 200 triệu đồng
nhằm xử nhẹ tội cho bị cáo….

Ngoài lĩnh vực trên, tình trạng nhũng nhiễu còn khá phổ biến trong quan hệ
giữa cơ quan nhà nước và công chức nhà nước với người dân và doanh
nghiệp, giữa các nhân viên các cơ sở dịch vụ công với khách hàng như:
cảnh sát giao thông, cán bộ thuế, các cơ quan cấp phép, cơ sở khám, chữa
bệnh, các trường học.. gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Không phải đến bây giờ mới có tham nhũng. Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, vụ án của Trần Dụ Châu, nguyên giám đốc Nha Quân nhu-Bộ quốc
phòng bị xử ngày 5-9-1950 tại thị xã Thái Nguyên, cán bộ “biển thủ công
quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến”, bị nguyên án tử hình,
tịch thu ¾ tài sản, tịch thu tang vật hối lộ. Tham nhũng không được ngăn
chặn và đẩy lùi, mà còn phát triển tinh vi hơn, không chỉ các ngành kinh
tế mà còn có cả các ngành bảo vệ pháp luật, không chỉ cán bộ cấp thấp
mà còn cả cán bộ cấp cao. Nghị quyết Trung ương 4( khóa XI) đánh giá.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cấp cao, suy thoái về
chính trị, đạo đức, lối sống…, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
nhũng, lãng phí, tùy tiên, vô nguyên tắc. Do đó, Đảng và Nhà nước chỉ
đạo nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra
và truy tố xét hỏi, xử lý nghiêm những người vi phạm về tham nhũng,
lãng phí. Đặc biệt là từ năm 2016, sau Đại hội XII của Đảng, Tổng bí thư
Nguyên Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng
(PCTN) Trung ương đã phất động một chiến dịch PCTN rộng rãi, toàn
diện, quyết liệt với phương châm: Bất kể người đó là ai, ở cương vị nào,
không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong đấu tranh và xử lý tham
nhũng. Từ đó công tác PCTN đã đạt được những kết quả rất tích cực,
nhiều vụ án tham nhũng từ Trung ương đến địa phương đều được xét xử
nghiêm minh, kể cả các Ủy viên BCH Trung ương và Ủy viên Bộ chính
trị.

2.2.2. Những nguyên nhân trong vấn đề tham nhũng

Thứ nhất, chủ nghĩa các nhân ích kỷ, tự lợi phát triển

Do không lường tước được hết mặt trái và những mảng tối của nền kinh tế thị
trường đã làm cho một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, nhân dân
đánh mất tinh thần dĩ công vi thượng, sa vào vũng lầy vun vén cá nhân,
tự tư tự lợi, đam mê quyền lực, tiền tài, danh vọng, dẫn đến phạm tội
tham nhũng.

Thứ hai, quan điểm, nhận thức về tham nhũng lệch lạc, không thống nhất.

Chỉ rõ tham nhũng là “giặc nội xâm”, Bác Hồ khẳng định:” nó là kẻ thù khá
nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong tổ
chức chúng ta, để làm hỏng công việc của ta. Tội tham ô, lãng phí cũng
nặng như lỗi Việt gian, mật thám. Chống tham nhũng cũng quan trọng,
cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”… Bác dạy:” Chống tham ô,
lãng phí, quan liêu là cách mạng. Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là
dân chủ” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6,Nxb Sự thật, 1986).

Nguyên Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, khi viết” Những việc cần làm ngay”,
nói về chống tham nhũng, đã dùng hình ảnh: ”Muốn lúa đồng xanh tốt,
phải trừ diệt sạch cỏ dại và sâu bọ”.

Thế hưng không ít lãnh đạo chủ chốt các cấp lại cho rằng :” giặc nội xâm” từng
là đồng chí thâm thiết, có công với cách mạng, do vậy xử lý kỷ luật cần
chiếu cố, nhẹ tay. Thầm chí, có cán bộ lãnh đạo còn cho rằng xử lý nặng
tay sẽ không còn cán bộ để làm việc! Nếu công khai minh bạch sẽ gây
mất uy tín cho sự lãnh đạo, không lợi cho an ninh, chính trị, xã hội…

Chính từ những nhận thức lệch lạc, không thống nhất này, đã dẫn đến tình trạng
phe nhóm “em ngã chị nâng”, dĩ hòa vi quý, nước chảy bèo trôi.

Thứ ba, lãnh đạo chủ chốt thiếu quyết tâm, thiếu gương mẫu.

“Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức, suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ chủ chốt các cấp,
các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong
việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, chưa đi đầu trong cuộc đấu trạnh chống
tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm..”

Thứ tư, những khâu then chốt chưa được đột phá.

Từ những hạn chế còn tồn tại đã nêu trên cho thấy khoảng thời gian dài trước
các Đại hội của Đảng, cách đặt vấn đề chống tham nhũng chưa hoàn thiện
trúng để tạo đột phá.

Thái độ lơ là, không đấu tranh quyết liệt chống chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, tự tư tự
lợi, đã phải trả giá quá đắt cho quốc nạn tham nhũng. Vấn đề xây dựng
Đảng là then chốt, cán bộ quyết định hết thảy, các nguyên tắc cơ bản: tôn
trọng sự thật, công khai minh bạch các cơ chế chống tham nhũng…. Đều
không được quan tâm đúng mức. Đặc biệt, Đảng ta là Đảng hành động.
Lời nói phải đi đôi với việc làm, coi trọng việc làm hơn lời nói, nhưng
Đảng, Chính phủ chưa mạnh tay hành động vô tình hay hữu ý đã dung
dưỡng cho “ giặc nội xâm” hoành thành

2.3. Đánh giá thực trạng công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện
nay

2.3.1 Kết quả đạt được


Kể từ khi thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng đến
nay, nhất là sau gần 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng,
mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với ý chí
và tinh thần trách nhiệm cao, với sự nỗ lực phấn đấu, chung sức, đòng
lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công tác đấu tranh phòng chống
tham nhũng tiêu cực của nước ta đã thu được nhiều kết quả quan trọng,
góp phần củng cố, nâng cao ý ch, niềm tin của nhân dân vào công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho đát nước ta ngày càng
giàu mạnh, ngày càng phát triển, có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế.
Nhờ làm tốt công tác xây dựng , chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh đấu tranh
phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế- xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng
an ninh và đối ngoại, đặc biệt là góp phần lấy lại và củng cố niềm tin củ
Nhân dan, bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống
đói cho rằng đấu tranh phòng chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên
sai phạm là “ đấu đá nội bộ”, “phe cánh”. Đẩy mạnh đấu tranh phòng
chống tham nhũng và xây dựng, làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà
nước làm” chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót”
nhúng chàm” và nhũng người không nắm vững chủ trương , đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức
và kinh nghiệm.

2.3.2 Những hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được công tác phòng chống tham nhũng, vẫn còn
tồn tại một số bất cập, hạn chế.

-Hệ thống pháp luật về phòng chống tham nhũng còn có một số quy định chưa
phù hợp, tính khả thi thấp, hoặc còn có “lỗ hỏng”, nhưng chưa được sửa
đổi bổ sung, hoàn thiện kịp thời để làm cơ sở pháp lý cho việc phòng
chống tham nhũng.
-Một số người đứng đầu chưa nêu cao vai trò của mình trong phòng chống tham
nhũng , số người bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng ở các cở
quan, đơn vị còn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện.

-Việc xử lý tham nhũng trong nhiều trường hợp còn chưa kinh nghiệm, chưa kịp
thời. Hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, vì vậy việc phát
hiện và xử lý tham nhũng gặp nhiều khó khăn . Hành vi “ tham nhũng
vặt” của một số cán bộ, công chức chưa bị xử lý một cách triệt để.

-Việc xử lý và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó
khăn do một số nguyên nhân như: bị can, bị cáo trốn ra nước ngoài, hoặc
bị can, bị cáo chết, hoặc chưa kiểm soát được tài sản, thu thập của xã hội
nên tài sản có nguồn gốc tham nhũng dễ dàng bị tẩu tán. Do đó, một số
vụ án tiền, tài sản tham nhũng thu hồi được nhỏ hơn nhiều so với tổng số
thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt.

Trước thực trạng và những hạn chế, bất cập về phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay, trong thời gian tới, cần phải có nhũng giải pháp để tiếp tục
thực hiện các chủ trương quan điểm của đảng về phòng chống tham
nhũng.

2.3.3.Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế

Một số cơ quan, đơn vị, người đứng đầu chưa quyết liệt trong chỉ đạo, tổ chức
thực hiện công tác PCTN. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và
phê bình ở nơi bị luồng lỏng. Tình trạng suy thoái đọa dức của một số bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên, trong đo có cả
các cán bộ, đảng viên công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Một số quy định của pháp luật liên quan tới việc phát hiện, xử lý tham nhũng
còn khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiên. Các văn bản quy phạm
pháp luật về PCTN có nhiều quy định mang tính hình thức, thiếu tính
khả thi, thiếu những giải pháp có tính đột phá, mô hình, tổ chức cở quan
chuyên trách chóng tham nhũng chưa hợp lý, chưa đủ mạnh.

Thể chế, chính sách về quản lý kinh tế-xã hội trên nhiều lĩnh vực còn sơ hở,
chưa giảm được các thủ tực không cần thiết có thể làm nảy sinh tham
nhũng, tiêu cực, nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng
sản, đầu tư xây dựng, tín dụng, ngân hàng, quản lí vốn tài sản nhà nước
tại doanh nghiệp.

CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM


NHŨNG CỦA NƯỚC TA

3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác phòng chống tham
nhũng

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta ngày càng đẩy mạnh công tác phòng chống
tham nhũng. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng chống tham
nhũng được thể hiện cụ thể qua từng Nghị quyết, Đại hội. Cụ thể như sau:

- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng phải gắn liền
và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng và bảo vệ đất nước. Theo đó, Nghị quyết số 14-NQ/TW của
Bộ Chính trị ngày 15-5-1996 nêu rõ: Đấu tranh chống tham nhũng là một
bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay. Nó góp phần giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng
Đảng và bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân… 

- Đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh với những biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về
sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, chạy
theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tùy tiện, vô nguyên tắc của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đây là nhiệm vụ trực tiếp,
thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội và cần thành lập
các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng ở Trung ương và địa phương
đủ mạnh, có thực quyền, hoạt động có hiệu quả.

- Đảng và Nhà nước nêu rõ, hoạt động chống tham nhũng là việc ngăn chặn,
từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, phải
củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch,
vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính. 

- Công tác chống tham nhũng mà Đảng và Nhà nước đề ra được thực hiện dưới
các giải pháp cụ thể như: tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao
nhận thức và ý thức trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và
nhân dân về công tác phòng, chống tham nhũng; nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử
hành vi tham nhũng; thực hiện tốt công tác truyền thông về phòng, chống
tham nhũng; xây dựng, kiện toàn các cơ quan, đơn vị chuyên trách về
phòng, chống tham nhũng được thành lập theo Luật phòng, chống tham
nhũng; tăng cường giám sát của nhân dân và cơ quan dân cử; tăng cường
hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, Đảng và Nhà
nước cũng chỉ ra rõ là các cơ quan ban ngành phải tập trung rà soát, bổ
sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện nghiêm các quy định của
Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. 

Thực tế hiện nay, để cụ thể hóa quan điểm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đã ban
hành hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng. Cơ sở pháp luật này được xem là thước đo, định hướng hoạt
động trong công tác xử lý hành vi tham nhũng. Các tổ chức Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và cả hệ thống chính trị, công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí đã và đang thực hiện theo chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về phòng chống tham nhũng. Những hoạt động
này đã giúp quá trình phòng chống tham nhũng có những chuyển biến
tích cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả bước đầu,
nhất là trong phòng ngừa, công khai, minh bạch hóa, cải cách thủ tục
hành chính, quản lý tài sản công. 

Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng chống tham nhũng có vai
trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác xử lý tham nhũng, bảo
vệ quyền lợi của người dân và phát triển kinh tế đất nước, phát triển xã
hội. Những quan điểm trên mang tính định hướng cho công tác quản lý
hoạt động phòng chống tham nhũng ở nước ta. Đồng thời, nó cũng mang
tính răn đe cao cho những cá nhân, tổ chức đã và đang thực hiện tham
nhũng.

Các nguồn tiền từ ngân sách quốc gia đều nhằm mục đích xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển kinh tế đất nước, phục vụ đời sống nhân dân. Do đó, hành
vi tham nhũng xâm phạm trực tiếp đến những lợi ích chung của cộng
đồng này. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước là cơ sở cho hoạt
động đấu tranh phòng chống tham nhũng. Đây được xem là kim chỉ nam
định hướng hành động, giúp cơ quan chức năng có thẩm quyền định rõ
hướng đi trong công tác phòng chống tham nhũng.

Xã hội chỉ có thể phát triển, đời sống của người dân chỉ có thể được bảo đảm
khi những hành vi tham nhũng được đẩy lùi.

3.2 Giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Qua kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng trên thế giới và thực tiễn tại Việt
Nam, ngoài những giải pháp phòng, chống tham nhũng hiện nay Đảng,
Nhà nước ta đang chỉ đạo thực hiện, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
sau:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự có đức, có tài; người Việt Nam phát
triển toàn diện chân, thiện, mỹ

Bác Hồ từng khẳng định: “Cán bộ bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đội ngũ cán bộ của
Đảng là nhân tố quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Song vẫn còn tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá
nhân, lợi ích nhóm, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
thật sự có đức, có tài là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống
chính trị, cả trước mắt và lâu dài, phải được tiến hành thường xuyên, thận
trọng, khoa học và hiệu quả. Không chỉ là công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, mà chúng ta phải phát hiện, lựa chọn, đào tạo và sử dụng những
người có đủ tiêu chuẩn đức và tài từ trong các nhà trường và xã hội để
xây dựng thành đội cán bộ có đức - tài, có tâm - tầm.

Bác Hồ kính yêu chỉ rõ, cốt lõi của đạo đức cách mạng là: Cần, kiệm, liêm,
chính. Người còn khẳng định: Thiếu một trong bốn đức tính đó thì không
thành người. Người có Đức là: Tuyệt đối trung thành với lợi ích của
Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; có tinh thần yêu nước nồng
nàn, sâu sắc; luôn đặt lợi ích của Đảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân lên
trên lợi ích cá nhân; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, không
tham vọng quyền lực, không tham nhũng, lãng phí, vụ lợi. Người có Tài
là người: Có quan điểm khách quan, toàn diện, tư duy đổi mới và tầm
nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị;
năng lực cụ thể hoá và tổng kết thực tiễn. Đức luôn là cái gốc, đức và tài
gắn kết với nhau để tạo thành nhân cách con người cách mạng. Chính từ
nguồn lực của đội ngũ cán bộ đức - tài này mà tạo bước phát triển mới
của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị,  xây dựng Đảng thực sự là đạo
đức, là văn minh như Bác Hồ từng khẳng định; xây dựng Chính phủ kiến
tạo, liêm chính; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh, đoàn kết.

Đội ngũ cán bộ có đức, có tài là hạt nhân, là động lực để: Khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị văn
hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Xây dựng con người Việt Nam luôn tự hào về truyền thống yêu
nước, anh hùng của dân tộc trong lao động và trong chiến đấu. Truyền
thống đoàn kết dân tộc: Ba cây chụm lại nên hòn núi cao, thương người
như thể thương thân. Phát triển con người về nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
có trách nhiệm với gia đình và xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật; Biết
trọng danh dự và liêm sỉ, đấu tranh với cái sai, cái xấu, cùng nhau xây
dựng cuộc sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, không
sống quá mức thu nhập.

Để xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, cần “Xây dựng Chiến lược quốc gia
về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biêt đảng viên
hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài”.
Thực tế có rất nhiều nhân viên trong cơ quan, các doanh nghiệp, học sinh,
sinh viên chưa là đảng viên, nhưng họ rất có trách nhiệm với công việc,
có phẩm chất đạo đức tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Nhân
dân và rất giỏi nhiều lĩnh vực chuyên môn. Nếu chúng ta biết thu hút và
trọng dụng họ vào các vị trí lãnh đạo phù hợp sẽ tăng thêm sức mạnh đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và chuyên môn trong cơ quan đảng, nhà nước. Điều
này Bác Hồ đã làm rất thành công. Mặt khác nếu làm được điều đó, còn
hạn chế được những phần tử thoái hóa, biến chất, tham danh vọng, tham
quyền lực, chui vào Đảng với mục đích được đề bạt, bổ nhiệm.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tâm với công việc, còn cần phải đột phá
chế độ tiền lương. Nhằm đảm bảo cán bộ phải sống và sống tốt bằng
lương để họ không cần phải tham nhũng. Đây chính là điều kiện quan
trọng của công chức Xin-ga-po không muốn tham nhũng. Nước ta đã qua
bốn lần cải cách chế độ tiền lương. Nhưng thực tế không đạt được mục
tiêu đề ra. Vì vậy, đột phá trong cải cách tiền lương là yêu cầu bức thiết
cả trước mắt và lâu dài để phòng, chống tham nhũng. Nếu chúng ta không
làm được điều này, thì nhiều giải pháp chống tham nhũng đề ra cũng chỉ
là hình thức. Tuy nhiên, hiện nay không ít kẻ tham nhũng để làm giàu và
rất giàu, nên cùng với đột phá về tiền lương còn phải nghiêm trị những tổ
chức, cá nhân sai phạm, tham nhũng.

Đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực tập trung

Kiểm soát quyền lực là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước pháp quyền. Vấn đề
cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy Nhà nước
vừa có khả năng kiểm soát xã hội, vừa buộc Nhà nước phải tự kiểm soát
chính mình. Đảng, Nhà nước đã có nhiều văn bản pháp luật để kiểm soát
quyền lực. Tuy nhiên, vẫn chưa bao quát hết mọi lĩnh vực và vẫn còn kẽ
hở trong văn bản pháp luật.

Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng mà theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là phải
xây dựng: Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước có hệ thống pháp
luật hiện đại, chặt chẽ, và thực hiện nghiêm minh. Hiện nay Chủ tịch
nước Nguyễn Xuân Phúc đang chỉ đạo xây dựng Đề án Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Quốc hội cần chỉ đạo
việc rà soát, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, mà trước mắt tập
trung các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng: Quản lý tài chính ngân sách, tài
sản công, đất đai, xây dựng, hải quan, thuế, quản lý cán bộ… Để mọi
quyền lực đều được kiểm soát bằng cơ chế, như Tổng Bí thư thường nói:
“Phải nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. Cần tách hoàn toàn các bộ,
ngành, sở, khỏi các đơn vị kinh doanh. Các bộ, ngành là cơ quan quản lý
nhà nước, có nhiệm vụ tham mưu cho Đảng, Nhà nước về các chủ
trương, chính sách, quy hoạch ngành và kiểm tra việc thực hiện các chủ
trương đó.

Các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh theo pháp luật: Các luật về đất đai, môi
trường, doanh nghiệp, ngân sách, tài chính kế toán, thuế, vệ sinh thực
phẩm… Chấm dứt tình trạng các đơn vị kinh doanh thuộc bộ, ngành. Đây
chính là các doanh nghiệp sân sau của các bộ, ngành và là nguyên nhân
của các vụ tham nhũng tập thể. Các ngành kinh doanh cùng mặt hàng
phải có nhiều doanh nghiệp cùng cạnh tranh bình đẳng chống độc quyền.
Vừa qua có Ngành Viễn thông, Hàng không đã làm khá tốt, dẫn đến thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, hạ giá thành. Kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ càng quan trọng và cần thiết, nhằm kiên quyết xóa bỏ tệ chạy
chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển… theo nguyên tắc
mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế.

Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, cần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính,
xóa bỏ các thủ tục rườm rà. Xóa bỏ tối đa cơ chế “xin - cho”. Đây là điều
kiện nảy sinh tham nhũng. Hạn chế tối đa việc chỉ định thầu trong các dự
án đầu tư xây có nguồn vốn nhà nước. Tăng cường ứng dụng khoa học -
công nghệ vào mọi lĩnh vực điều hành Nhà nước, quản trị doanh nghiệp,
quản lý cán bộ. Thực hiện tối đa chính phủ điện tử, chính phủ số. Ứng
dụng tối đa công nghệ số vào các kỳ thi tuyển dụng, bổ nhiệm, chuyển
ngạch cán bộ của các cơ quan đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã
hội và các cuộc đấu thầu dự án thuộc ngân sách nhà nước, nhằm tránh sự
áp đặt chủ quan của con người vào kết quả thi tuyển. Vừa qua Ngành
Giao thông vận tải ứng dụng công nghệ trong thi bằng lái xe, khai báo
thuế, hải quan bằng tờ khai điện tử đã hạn chế nhiều tiêu cực, tham
nhũng. Đẩy mạnh sử dụng thẻ ngân hàng, hạn chế tối đa việc sử dụng tiền
mặt trong giao dịch xã hội, nhằm kiểm soát dòng tiền lưu thông vừa hạn
chế tham nhũng vừa chống rửa tiền…

Tăng cường tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của Nhà nước và xã
hội

Công khai, minh bạch là yếu tố quan trọng của một nền quản trị quốc gia hiệu
quả và bảo đảm dân chủ của Nhà nước pháp quyền. Là một trong bốn giải
pháp quan trọng nhằm hạn chế tiêu cực tham nhũng. Đảng, Nhà nước ta
đã có nhiều nghị quyết, chính sách nhằm tăng cường tính công khai, minh
bạch. Song, vẫn còn nhiều kẽ hở, mang nặng tính hình thức. Vì vậy, trong
thời gian tới cần tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch mà trước
hết tập trung vào công tác quản lý nhà nước ở những lĩnh vực dễ xảy ra
tiêu cực, tham nhũng: Tài chính ngân sách, các dự án đầu tư công và tài
sản công.

Trong dự án đầu tư công, cần minh bạch ngay từ khi xét và phê duyệt dự án,
hạn chế tối đa việc điều chỉnh nội dung và vốn đầu tư dự án. Hiện nay
nhiều dự án vừa phê duyệt đã xin điều chỉnh nội dung dự án, từ đó đẩy
tổng vốn đầu tư tăng gấp 2 - 3 lần. Việc chuyển đổi, cho thuê tài sản công
đang gây lãng phí rất lớn, chỉ nói riêng về trụ sở của các bộ, ngành, các
UBND khi di chuyển thì việc quản lý đã rất lãng phí. Đây đang là mảnh
đất màu mỡ của một số quan chức thoái hóa biến chất và nhóm lơi ích
nhằm biến tài sản công thành của tư. Công khai quy hoạch các khu đô thị,
quy hoạch sử dụng đất. Công khai quy trình thủ tục cấp phép đăng ký
kinh doanh, cấp quyền sử dụng đất….

Về công tác cán bộ: Cần công khai số lượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển dụng,
đề bạt, bổ nhiệm, đi học, đi nước ngoài… điều này đã được quy định
song vẫn chưa thực sự dân chủ, còn mang nặng tính hình thức mà cần
phải thay đổi. đặc biệt công khai việc kê khai tài sản của cán bộ phải
được cải tiến, hiệu quả hơn, chịu trách nhiêm về việc kê khai, cần công
khai rộng rãi hơn để cán bộ và nhân dân giám sát. Sau 5 năm phải được tổ
chức kiểm tra, khắc phục tình trạng kê khai chỉ có thủ trưởng cơ quan và
cơ quan tổ chức cán bộ biết rồi cất tủ.

Mở rộng các hình thức, quy mô công khai: Nhiều hoạt động còn mang tính hình
thức như việc công khai trong quy hoạch sử dụng đất, nhiều người dân
trong vùng quy hoạch cũng không hề biết, hoặc ngược lại quy hoạch chưa
được công khai đã bị lộ lọt, nhiều người dân tranh thủ xây nhà tạm, trồng
cây để được đền bù.

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả tính pháp chế trong thực thi pháp luật

Hiện nay, nhiều quy định pháp luật không được thi hành nghiêm túc. Trong báo
cáo nhiều kỳ đại hội của Đảng đều đánh giá: “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực… chưa tập
trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức
thực hiện vẫn là khâu yếu”. Đại hội XIII của Đảng cũng nêu: “Chỉ đạo và
tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục,… làm cho pháp
luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp”. Điều này chúng
ta dễ dàng nhận thấy ở rất nhiều khâu và nhiều lĩnh vực. Có thể dẫn
chứng như: Luật Đất đai quy định rõ thẩm quyền cấp đất, chuyển đổi mục
đích sử dụng…nhưng hiện nay hầu hết các tỉnh, thành phố đều có tình
trạng chia lô, bán nền, xây nhà trái phép trên đất nông nghiệp, kéo dài mà
không mấy ai bị xử lý. Nhiều khu đô thị xây dựng trái phép vẫn tồn tại
nhiều năm ngay tại các trung tâm tỉnh, thành phố, huyện mà không ai
chịu trách nhiệm. Nhiều tỉnh có hàng chục hec-ta rừng nguyên sinh bị
chặt phá mà chưa có lãnh đạo cấp tỉnh, cấp bộ nào bị kỷ luật. Hoặc trong
công tác cán bộ, có nhiều cán bộ được bổ nhiệm thần tốc; nhiều gia đình
“cả nhà làm quan”, bổ nhiệm cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn… gây bức xúc
trong xã hội và giảm niềm tin của nhân dân.
Tuy nhiên với sự triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công
tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước
theo Kết luận 21 của BCH Trung ương và Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng. Chúng ta tin tưởng công cuộc phòng, chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, phòng, chống tham nhũng, lãng phí sẽ thu
được kết quả tốt đẹp.

KẾT LUẬN

Hiện nay ở nước ta tham nhũng diễn ra trên nhiều lĩnh vực ngân hàng, quản lý,
sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, trong lĩnh vực lâm nghiệp, xuất
nhập khẩu, trong đầu tư, xây dựng cơ bản, trong cổ phần hóa, trong cấp
phép, trong các chương trình định canh, định cư, viện trợ nhân đạo, y tế,
giáo dục, trong lĩnh vực tư pháp, cơ quan thông tấn, báo chí… thậm chí
ngay cả trong chính sách chăm lo chế độ người có công, mồ mã liệt sĩ
cũng xảy ra tham nhũng. Tham nhũng cũng đã xảy ra ở hầu hết các cấp,
các ngành thậm chí len lỏi vào mọi mặt của đời sống, đụng chạm đến lợi
ích của nhiều người.

Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng không chỉ có mục đích đơn thuần
là giảm tình hình vi phạm pháp luật mà phải làm so cho những người
thực thi công vụ không những không thể tham nhũng, không dám tham
nhũng mà còn không muốn tham nhũng nữa. Điều này đòi hỏi việc phòng
chống tham nhũng phải song song gắn liền với định hướng của Đảng và
pháp luật về phòng chống tham nhũng. Với quyết tâm chính trị cao của
Đảng và hệ thống chính trị và sự đoàn kết đồng lòng của nhân dân, cuộc
đấu tranh phòng chống tham nhũng dù còn nhiều khó khăn, phức tạp song
tất cả chúng ta tin tưởng rằng sự nghiệp ấy nhất định sẽ thành công như
lời của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu: “Cái
lò nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy, Củi khô, củi vừa cháy
vừa trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng
ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm
cũng không thể được, thế mới là thành công”.

Vì vậy chúng ta cần ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần các
cơ hội, điều hiên phát sinh tham nhũng, góp phần xậy dựng bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả, đội ngũ cán bộ công
chức liêm chính, lành mạnh các quan hệ xã hội thông qua việc thực hiện
đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, củng
cố lòng tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế, thúc đẩy kinh tế-xã hội
phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.Hiến pháp 2013;
2.Luật phòng chống tham nhũng
3. Nguyễn Phú Trọng (2021): “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng
sản điện tử;
4. Nguyễn Phú Trọng (2022): “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày
càng trong sạch, vững mạnh”, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật;
5. Tạp chí Cộng sản./.

You might also like