You are on page 1of 17

BÀI GIẢNG

PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG


1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của nhà nước. Tham nhũng là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực nhà nước.
Hình thức, tính chất, mức độ và phương thức tham nhũng thay đổi tùy thuộc vào
bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
Khái niệm tham nhũng đã được sử dụng từ lâu nhưng cho đến nay vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau, chẳng hạn như:
Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham
nhũng (năm 1969) định nghĩa: Tham những là sử dụng quyền lực nhà nước để trục
lợi riêng.
Ngân hàng Thế giới (World Bank) sử dụng khái niệm: Tham nhũng là sự
lạm dụng chức vụ công để tư lợi.
Ngân hàng phát triển Châu Á định nghĩa: Tham nhũng là lạm dụng chức vụ
công hoặc tư để tư lợi.
Ở Việt Nam, theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “Tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của”1.
Luật phòng, chống tham nhũng quy định: Tham nhũng là hành vi của người
có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi (điều 1).
Cụ thể hóa khái niệm này, Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của luật phòng, chống tham nhũng đã quy định cụ thể 12 hành vi tham nhũng,
bao gồm:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi.
- Lạm dụng quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
1
Viện Ngôn ngữ học: từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2002, tr 910
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước vì vụ
lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
2. Các yếu tố đặc trưng của hành vi tham nhũng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hành vi tham nhũng gồm những yếu
tố đặc trưng như sau:
a. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo,
quản lý doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện
phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp; người được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Người có chức vụ, quyền hạn có những đặc điểm
- Là người được giữ chức vụ thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội. Chức vụ này có thể do bổ nhiệm hoặc bầu cử, hợp đồng hay
hình thức ủy thác (ủy quyền, đại diện).
- Là người thực hiện một trong các chức năng: đại diện quyền lực nhà nước,
tổ chức, điều hành quản lý hành chính; hoặc tổ chức sản xuất kinh doanh theo công
vụ đã được giao cho họ.
- Là những người thực hiện trách nhiệm nhất định theo thẩm quyền chuyên
môm mà họ đảm nhận.
Những đặc điểm này của chủ thể có hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây
khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.
b. Hành vi tham nhũng được thực hiện trên cơ sở lợi dụng chức vụ, quyền hạn
được giao
Khi thực hiện hành vi tham nhũng, người tham nhũng phải sử dụng chức vụ,
quyền hạn của mình như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia
đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham
nhũng. Người có chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vì
vụ lợi nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thì đó không phải là
hành vi tham nhũng.
c. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý, mục đích của hành vi tham nhũng là vụ
lợi. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có
chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham
nhũng. Như vậy, trong hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham nhũng
phải đạt được lợi ích tại thời điểm thực hiện hành vi tham nhũng mà lợi ích này có
thể sẽ có trong tương lai.
Yếu tố vụ lợi cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng, để từ đó quyết định mức độ xử lý tương
ứng. Trên thực tế, việc xác định yếu tố lợi ích là vấn đề không đơn giản, lợi ích vật
chất thường thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau. Trong nhiều trường hợp, lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần đan xen rất khó phân biệt.
3. Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam
a. Cơ chế quản lý và hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện
- Hoạt động quản lý nhà nước chưa hiệu quả, pháp luật chưa hoàn thiện
Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém và bất cập của quá
trình đổi mới đất nước, trong đó có tham nhũng. Ở nước ta, sự quản lý lãnh đạo
điều hành đất nước là sự thống nhất và phối hợp giữa vai trò lãnh đạo của Đảng,
trách nhiệm quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực có hiệu quả của các tổ
chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng. Các yếu tố trong hệ thống chính
trị phải thực hiện đúng vai trò của mình. Tuy nhiên sự chưa rõ ràng trong phân cấp,
phân công vai trò, chức năng hoạt động giữa các yếu tố trong hệ thống chính trị đã
phần nào làm giảm hiệu quả quản lý, lãnh đạo, điều hành xã hội. Một số nơi, tổ
chức Đảng đã ít nhiều can thiệp vào hoạt động quản lý nhà nước, cơ quan nhà
nước còn ỷ lại, thụ động chưa làm hết trách nhiệm của mình. Một số tổ chức chính
trị - xã hội còn lúng túng, không xác định được vai trò của mình, chưa xây dựng
chương trình hoạt động phù hợp. Thực tế còn tồn tại hiện tượng chồng chéo, lẫn
lộn về tổ chức và hoạt động của các yếu tố trong hệ thống chính trị. Đó là những
điều kiện thuận lợi để tham nhũng có thể xảy ra.
Bên cạnh đó, hệ thống chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ,
thiếu cụ thể, có nhiều sơ hở, chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa phản ánh và điều
chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển của xã hội. Việc
phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, phân biệt quản lý nhà nước và
quản lý sản xuất kinh doanh có phần chưa rõ ràng. Quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý
tài sản chung, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước chưa chặt chẽ
dẫn đến tình trạng “vô chủ”, thiếu trách nhiệm. Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh,
cải cách hành chính chậm. Những nhược điểm đó làm nảy sinh tệ quan liêu, tham
nhũng và thiếu kỷ cương, tạo điều kiện cho tệ hối lộ, biển thủ công quỹ, nhũng
nhiễu cấp dưới và Nhân dân phát triển ngày một phổ biến.
- Cải cách hành chính chậm và lúng túng, thủ tục hành chính phiền hà, bất
hợp lý. Cơ chế “xin-cho” được nhìn nhận là một trong những nguy cơ của tệ tham
nhũng, hối lộ chưa có cách khắc phục. Chế độ công vụ của cán bộ, công chức thiếu
cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức
chưa rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối với những sai
phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Chế độ tiền lương đối với đội
ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chậm được cải cách. Lương không đủ đảm
bảo nhu cầu của cuộc sống dẫn đến tình trạng vì cuộc sống của bản thân và gia
đình, cán bộ, công chức thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực khi có điều kiện,
cơ hội.
Thủ tục hành chính trong các lĩnh vực tuy đã được cải thiện song vẫn còn
rườm rà, khó thực hiện, tạo kẽ hở cho cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng để
gây khó dễ, sách nhiễu người dân.
Người dân vẫn còn nhiều e ngại khi phải đến các cơ quan nhà nước để làm
các thủ tục như: xin giấy chứng nhận, xin giấy phép… thời gian chờ đợi kết quả
giải quyết các thủ tục hành chính còn kéo dài, việc giải quyết các thủ tục hành
chính theo cơ chế “một cửa”, một cửa liên thông còn chậm và manh mún. Hiện
tượng cán bộ, công chức lợi dụng để vòi vĩnh nhận tiền từ Nhân dân, doanh nghiệp
trong quá trình giải quyết các thủ tục hành chính vẫn còn tồn tại.
- Thiếu công khai, minh bạch, giải trình trong quản lý: Minh bạch thể hiện
quyền của người dân và cũng là điều kiện cần có để bộ máy nhà nước tiếp thu trí
tuệ của Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ, để người dân giám sát hoạt động của
nhà nước. Sai phạm trong quản lý có thể bắt nguồn và được che đậy bởi tình trạng
thiếu công khai, minh bạch. Quy định của pháp luật hiện nay đã có nhiều tiến bộ
song chưa thực sự tạo ra bước ngoặt để công khai, minh bạch được thực hiện đầy
đủ trên các lĩnh vực quản lý, chưa thực sự tạo điều kiện cho người dân giám sát
hoạt động quản lý.
Cơ chế quản lý tài chính công, mua sắm công, quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản trải qua nhiều khâu, nhiều “cửa”, kiểm soát lỏng lẻo tạo điều kiện nảy sinh tiêu
cực, tham nhũng, lãng phí, thất thoát.
Trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mới chỉ
được quy định trong hệ thống pháp luật, chưa phát huy tác dụng trong thực tế công
tác phòng, chống tham nhũng.
b. Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức bị suy
thoái
Suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ,
công chức, viên chức, công tác quản lý giáo dục cán bộ, công chức, viên chức chưa
theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội là một nguyên nhân chủ yếu của vấn
nạn tham nhũng. Khi đã có chức vụ, quyền hạn, nguy cơ tham nhũng luôn tiềm
tàng trong họ nếu họ không có đủ bản lĩnh, không có đủ phẩm chất để thắng được
những cám dỗ của những lợi ích vật chất và kèm theo đó là sự quản lý lỏng lẻo của
nhà nước thì họ sẽ dễ dàng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giành lấy lợi ích cho
riêng mình.
Công tác tuyển dụng, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ của chúng ta trong
nhiều trường hợp không đúng với năng lực, phẩm chất và chưa đi đôi với bồi
dưỡng, đào tạo, nên không ít cán bộ yếu kém cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
và phẩm chất chính trị. Công tác giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, công chức,
viên chức đôi khi buông lỏng. Cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tích cực cũng
bộc lộ những điểm tiêu cực mà nếu công tác giáo dục chính trị, tư tưởng không tốt,
quản lý không chặt, nếu cán bộ, công chức, viên chức không tự giác rèn luyện, tu
dưỡng mà chạy theo lợi ích vật chất thì dễ ràng bị cám dỗ, dẫn đến vi phạm pháp
luật, tham nhũng.
Chế độ tiền lương đã bước đầu được cải cách nhưng vẫn chưa đảm bảo nhu
cầu cuộc sống của nhiều cán bộ, công chức, làm cho họ dễ phát sinh tiêu cực, tham
nhũng khi có điều kiện, cơ hội. Tiền lương thấp cộng với áp lực của các nhu cầu
sinh hoạt của bản thân, gia đình trong nền kinh tế thị trường khiến cho một bộ phận
cán bộ, công chức không giữ vững được phẩm chất đạo đức nên đã có hành vi
tham nhũng.
c. Ảnh hưởng của tập quán văn hóa
Từ ngàn đời xưa, hiện tượng tham nhũng của quan lại thời phong kiến đã bị
lên án nhưng trong tâm lý xã hội của người Á Đông nói chung và người Việt Nam
nói riêng vẫn có rất nhiều khía cạnh khiến cho tệ tham nhũng mà biểu hiện tập
trung nhất là nạn quà cáp hối lộ có cơ sở tồn tại và phát triển. Chuyện biếu quà cáp
được coi là một nét văn hóa của người Việt. Mỗi khi gặp gỡ để nhờ vả trong dân
gian cũng như trong hoạt động quan trường thì quà cáp dường như là điều đương
nhiên và được chấp nhận dễ dàng. Tập quán “miếng trầu là đầu câu chuyện” cho
đến nay vẫn tồn tại và bị lợi dụng thành việc mua bán, hối lộ; đạo lý “ăn quả nhớ
người trồng cây” và chuyện “ơn nghĩa”, không chỉ ‘biết ơn”, “nhớ ơn” mà phải
“đền ơn”, “đáp nghĩa” bị bóp méo ý nghĩa truyền thống tốt đẹp và trở thành nội
dung mang ý nghĩa “đổi chác” về mặt lợi ích. Những yếu tố này khiến cho tham
nhũng khó phát hiện và xử lý hơn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, hiệu lực
của công tác phòng, chống tham nhũng.
d. Công tác phòng, chống tham nhũng chưa hiệu quả
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong một
số trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; nhiều cấp ủy đảng, cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập chưa đề cao trách nhiệm của người đứng đầu,
chưa có kế hoạch, giải pháp để đấu tranh phòng, chống tham nhũng; nhiều vụ án
tham nhũng xử lý chậm, xử lý chưa nghiêm làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu
quả, hiệu lực của cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
- Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng: Hiện nay các vụ việc
tham nhũng được phát hiện chủ yếu qua hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm toán,
giám sát và giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp của các cơ quan trên còn
có những hạn chế; nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan chưa phát huy hết vai trò
trong phát hiện và xử lý tham nhũng.
Về pháp luật, chúng ta chưa có những quy định cho phép các cơ quan chức
năng áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt để có thể phát hiện các hành vi tham
nhũng; bên cạnh đó việc thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi tham nhũng là
rất khó khăn, nhất là đối với hành vi nhận hối lộ.
Chế định kê biên tài sản của cán bộ, công chức, viên chức còn mang tính
hình thức, một phần do chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua ngân hàng chưa
hiệu quả; mặt khác, việc quản lý tài sản là nhà, đất ở nước ta rất khó thực hiện vì
nhiều lý do khách quan mang tính lịch sử để lại, thiếu cơ quan chủ trì, tổng hợp,
kiểm tra, xử lý việc thực hiện không nghiêm chế định kê khai tài sản.
- Các tổ chức xã hội chưa thực sự tham gia tích cực vào công tác phòng,
chống tham nhũng. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên chưa phát huy hết
vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp
chưa thực sự quan tâm xây dựng môi trường kinh doanh không có tham nhũng.
Báo chí mới chỉ đấu tranh phòng, chống tham nhũng bằng việc phê phán những
hành vi tiêu cực mà chưa coi trọng việc truyền đạt kịp thời những chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước, những gương người
tốt, việc tốt, sáng kiến hay, những hoạt động lành mạnh, những thông tin tích cực,
biểu dương cổ vũ, động viên đến toàn xã hội.
Về phía người dân, mặc dù đã có những cá nhân điển hình trong tố cáo
chống tham nhũng nhưng trên thực tế còn không ít người lo ngại, chưa dám lên án
mạnh mẽ hành vi tham nhũng.
4. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Ngày nay, tác hại của tham nhũng đã trở thành mối lo
ngại có tính toàn cầu. Ở Việt Nam, tác hại của tham nhũng được coi là một nguy
cơ gây mất ổn định về chính trị, thiệt hại lớn cho sự phát triển kinh tế và làm xói
mòn niềm tin của nhân dân, đạo đức xã hội bị xuống cấp, làm đảo lộn trật tự quản
lý nhà nước, cụ thể:
a. Tác hại về chính trị
Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn gây mất ổn định chính trị, đe
dọa sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng đang làm xói mòn lòng tin của Nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý của nhà nước và cản trở
sự nghiệp xây dựng đất nước. Tác hại về chính trị của tham nhũng được Đảng và
Nhà nước nhiều lần đề cập trong nhiều hội nghị cấp cao và văn bản quan trọng liên
quan đến công tác xây dựng Đảng và nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Chiến
lược Quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 chỉ rõ: tham nhũng đang
gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút long tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của nhà nước, tiềm ẩn các xung đột về lợi ích, phản kháng
về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giầu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản
lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự
tồn vong của chế độ.
b. Tác hại về kinh tế
Ở nước ta, nhiều vụ tham nhũng lớn được phát hiện trong thời gian qua chủ
yếu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và gây thiệt hại
về kinh tế với giá trị rất lớn (vụ Lã Thị Kim Oanh, nguyên giám đốc công ty Tiếp
thị và thương mại nông nghiệp thuộc bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; vụ
tham nhũng tại Tổng công ty hàng hải Việt Nam- Vinalines; vụ tham nhũng tại tập
đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam – Vinasihin…). Những thiệt hại về kinh tế
của tham nhũng không chỉ lớn bởi số tiền và tài sản mà còn lớn hơn: gây thiệt hại
cho cả một ngành kinh tế, thậm chí cả một nền kinh tế, tác động tiêu cực đến môi
trường kinh doanh, làm thất thoát, lãng phí tiền, tài sản của nhà nước, kìm hãm sự
phát triển kinh tế.
c. Tác hại về xã hội
- Tham nhũng làm suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên.
- Tham nhũng làm sói mòn các giá trị đạo đức xã hội: sự hiện diện của tham
nhũng làm cho nhiều truyền thống, phong tục tốt đẹp của dân tộc như: “ tôn sư
trọng đạo”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, ‘lương y như từ mẫu”… bị lợi dụng để
thực hiện hành vi tham nhũng, làm phai nhạt những chuẩn mực đạo đức, những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Tham nhũng gây ra các xung đột về lợi ích, phản kháng xã hội, làm tăng
khoảng cách giầu, nghèo và bất công trong xã hội.
II. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng
a. Công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhằm tạo
điều kiện để người dân và toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, qua đó người dân dễ dàng nhận biết và chủ động thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình và đòi hỏi cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước thực
hiện các quy định theo pháp luật; đồng thời cán bộ, công chức có ý thức trách
nhiệm hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo đúng trình tự,
thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định.
- Nội dung công khai minh bạch trong một số lĩnh vực cụ thể:
+ Công khai minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản; quản lý dự
án đầu tư xây dựng; tài chính và ngân sách nhà nước
+ Công khai minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của
nhân dân; việc quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ
+Công khai minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước
+ Công khai minh bạch trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của
nhà nước
+ Công khai minh bạch trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường; đất đai; quản
lý, sử dụng nhà ở
+ Công khai minh bạch trong lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học công nghệ,
thể dục thể thao, văn hóa thông tin truyền thông, nông nghiệp và phát triển nông
thôn; thực hiện chính sách an sinh xã hội; thực hiện chính sách dân tộc
+ Công khai minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiểm toán nhà nước, tư pháp
+ Công khai minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ
- Hình thức công khai
+ Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức, đơn vị
+ Niêm yết công khai tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
+ Phát hành ấn phẩm
+ Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
+ Đưa lên trang thông tin điện tử;
+ Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức.
b. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: khi có yêu cầu, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
lợi ích hợp phápbị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó.
Theo các quy định trên các chủ thể thực hiện giải trình là:
+ Các cơ quan có trách nhiệm giải trình gồm: các cơ quan hành chính nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp công lập và người có thẩm quyền trong việc thực hiện
trách nhiệm giải trình.
+ Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu giải trình gồm: cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế, các tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt
Nam, công dân Việt Nam, người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
c. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn
Chế độ, định mức tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý luôn liên quan đến
việc sử dụng tài sản, vốn và ngân sách nhà nước. Việc thực hiện một cách tùy tiện
và trái phép các tiêu chuẩn, chế độ định mức dẫn đến tài sản của nhà nước bị thất
thoát, tiền bạc, lợi ích vật chất rơi vào một số ít người, thực chất đó là sự hưởng lợi
bất chính của những người có chức vụ, quyền hạn. Đây chính là hành vi tham
nhũng cần phải ngăn chặn.
Thông thường có hai loại tiêu chuẩn, chế độ, định mức:
Một là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn về lợi ích, nhất là các chế độ đối
với người có chức vụ lãnh đạo, quản lý như: chế độ phục vụ, chế độ dùng xe công,
tiêu chuẩn dùng điện thoại…
Hai là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có tính chất chuyên môn – kỹ thuật.
Đó là những quy định để bảo đảm chất lượng các công trình hoặc công việc nào
đó, với những yêu cầu chính xác cao về kỹ thuật về quy trình thực hiện, về thời
gian, về nguyên vật liệu.
- Nguyên tắc xây dựng, ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn được quy định tại điều 34 luật phòng, chống tham nhũng 2012: Các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, các đơn vị sự nghiệp có sử
dụng ngân sách nhà nước, trong phạm vi quyền hạn của mình có trách nhiệm xây
dựng, ban hành công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn về quyền lợi đối với
từng loại chức danh trong cơ quan mình; chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về
chế độ, định mức, tiêu chuẩn; nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, đơn vị ban hành
các chế độ, tiêu chuẩn, định mức trái pháp luật.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và xử
lý kịp thời hành vi vi phạm pháp luật
d. Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công tác
của cán bộ, công chức, viên chức
- Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức
trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc
phải làm, hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán
bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ, nhằm đảm bảo sự
liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức. Quy tắc ứng xử phải
được công khai để Nhân dân giám sát việc chấp hành.
- Quy tắc đạo đức nghề nghiệp là chuẩn mực xử sự phù hợp với đặc thù của
từng nghề bảo đảm sự liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong việc hành nghề.
Luật phòng, chống tham nhũng quy định: tổ chức xã hội - nghề nghiệp phối
hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp
đối với hội viên của mình theo quy định của pháp luật.
- Vấn đề chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức quy định: Cơ
quan, tổ chức, đơn vị theo thẩm quyền quản lý có trách nhiệm thực hiện việc định
kỳ chuyển đổi cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại một số vị trí liên quan đến
việc quản lý ngân sách, tài sản của nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các
công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhằm chủ động phòng ngừa tham
nhũng.
Cụ thể hóa quy định phải định kỳ chuyển đổi 21 vị trí công tác trong các lĩnh
vực: Hoạt động quản lý tài chính, ngân sách, tài sản của nhà nước; quản lý xuất
nhập khẩu hàng hóa; hoạt động hải quan, thuế, kho bạc; hoạt động ngân hàng,
ngoại hối, thanh tra; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà…
đ. Minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
Theo quy định Luật phòng, chống tham nhũng 2018, không phải mọi cán bộ,
công chức đều phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, mà chỉ cán bộ, công chức có chức
vụ từ phó trưởng phòng của cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên
hoặc tương đương trong các cơ quan, tổ chức đơn vị và cán bộ, công chức làm tại
một số vị trí nhất định theo quy định của Chính phủ.
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản có trách nhiệm:
+ Kê khai trung thực, đầy đủ, rõ ràng, đúng thời hạn các thông tin về số
lượng, giá trị tài sản, thu nhập và những biến động về tài sản;
+ Giải trình trung thực, đầy đủ, kịp thời về các nội dung liên quan đến việc
kê khai tài sản, thu nhập, nguồn gốc tài sản tăng thêm khi có yêu cầu của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
+ Thực hiện đầy đủ, kịp thời các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền phục vụ cho việc xác minh tài sản, thu nhập.
+ Thực hiện quyết định xử lý vi phạm quy định về minh bạch tài sản, thu
nhập của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
- Tài sản phải kê khai bao gồm:
+ Nhà, quyền sử dụng đất;
+ Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại tài sản khác có giá
trị từ 50 triệu đồng trở lên;
+ Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
+ Thu nhập phải chịu thuế theo quy định của pháp luật.
- Bản kê khai tài sản phải được công khai tại tại nơi thường xuyên làm việc
của người có nghĩa vụ kê khai trong khoảng thời gian từ 01 tháng 01 đến 31 tháng
3 hàng năm dưới hình thức công bố tại cuộc họp hoặc niêm yết tại trụ sở làm việc
của người có nghĩa vụ kê khai.
e. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy
ra tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định: Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng
trong cơ quan tổ chức do mình phụ trách.
Tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của vụ việc mà
xác định mức độ trách nhiệm của người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu
có trường hợp họ phải chịu trách nhiệm trực tiếp (xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự), có trường hợp thì liên đới chịu trách nhiệm (xử lý kỷ luật).
Người lãnh đạo, quản lý được loại trừ trách nhiệm trong trường hợp bất khả
kháng, những hành vi tham nhũng vượt ra ngoài khả năng kiểm soát, họ không thể
biết được hoặc đã áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa ngăn chặn nhưng
hành vi tham nhũng vẫn xảy ra.
Người lãnh đạo, quản lý được miễn, giảm trách nhiệm pháp lý trong trường
hợp đã thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu quả,
xử lý nghiêm minh, báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về hành
vi tham nhũng.

f. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán
nhằm phòng ngừa tham nhũng
Để góp phần phòng ngừa tham nhũng, luật Phòng, chống tham nhũng quy
định: Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng cường tính độc lập và tự
chịu trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà
nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; phân
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước; công khai, đơn giản hóa
và hoàn thiện thủ tục hành chính; quy định cụ thể trách nhiệm của từng chức danh
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Tăng cường, cải tiến công tác áp dụng khoa học - công nghệ trong hoạt
động cải cách hành chính, hướng dẫn trình tự, thủ tục giải quyết công việc để công
dân, cơ quan, tổ chức chủ động thực hiện mà không phải trực tiếp tiếp xúc với cán
bộ, công chức, viên chức.
- Áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện việc thanh toán thông qua tài
khoản tại kho bạc, ngân hàng nhà nước; tiến tới thực hiện mọi khoản chi đối với
người có chức vụ, quyền hạn… và các giao dịch khác có sử dụng ngân sách nhà
nước phải thông qua tài khoản.
2. Các giải pháp phát hiện tham nhũng
a. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà
nước
Kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu trong quản lý nhà nước. Các hành
vi tham nhũng có thể diễn ra trong mọi hoạt động quản lý. Vì vậy, công tác kiểm
tra của các cơ quan quản lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện các
vụ việc tham nhũng.
Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định: thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước có trách nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình;
người đứng đầu các đơn vị, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chủ động kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình quản
lý. Tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của vụ việc mà có thể
xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho các cơ quan chức năng xử lý
b. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm toán, điều tra, xét
xử, giám sát
Hoạt động kiểm tra, kiểm toán, điều tra, xét xử, giám sát là những hoạt động
chính trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng. Các cơ quan thanh tra, điều tra,
kiểm toán, xét xử có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý
theo thẩm quyền hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định của pháp luật và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
c. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng
Công dân có quyền tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền bằng các hình thức: tố cáo trực tiếp, tố cáo qua điện thoại, gửi đơn
tố cáo,tố cáo qua mạng thông tin điện tử.
Cơ quan, tổ chức và những người có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết tố
cáo; giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của
người tố cáo; áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu
hiện đe dọa, trả thù, trù dập người tố cáo, thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho
người tố cáo biết.
III. XỬ LÝ NGƯỜI CÓ HÀNH VI THAM NHŨNG, CÁC HÀNH
VI THAM NHŨNG VÀ TÀI SẢN THAM NHŨNG
1. Xử lý các hành vi tham nhũng
- Đối tượng bị xử lý
+ Người có hành vi tham nhũng;
+ Người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng;
+ Người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo hành vi tham nhũng;
+ Người có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập người phát hiện, tố cáo, cung cấp
thông tin;
+ Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để sảy ra hành vi tham nhũng;
- Hình thức xử lý: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức,
buộc thôi việc. Nếu hành vi vi phạm đến mức độ nguy hiểm cao, gây thiệt hại lớn
về tiền và tài sản của Nhà nước thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.
2. Xử lý tài sản tham nhũng
Pháp luật hiện hành quy định: tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch
thu, trả lại cho chủ sở hữu, quản lý hợp pháp hoặc sung công quỹ nhà nước. Người
đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi hành vi đưa hối lộ bị phát hiện thì được
trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Đối với những tài sản tham nhũng có yếu tố nước
ngoài thì trên cơ sở điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Chính phủ Việt
Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam
hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp.
IV. VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG
Tham nhũng là căn bệnh của bộ máy nhà nước, đồng thời đó cũng là một tệ
nạn xã hội cần bài trừ, lên án. Chống tham nhũng không chỉ là nhiệm vụ của Đảng,
Nhà nước mà là của toàn xã hội. Vai trò của xã hội trong công tác này xuất phát từ
chức năng giám sát, phản biện của xã hội đối với mọi hoạt động của cơ quan nhà
nước, xuất phát từ bản chất nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Hoạt động của bộ
máy nhà nước và của từng cán bộ, công chức được đảm bảo từ ngân sách nhà
nước, hình thành nên từ sự đóng góp thuế của các thành viên trong xã hội. Vì vậy,
xã hội cần giám sát, phản ánh, đòi hỏi phải xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham
nhũng.
Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành đề cao
vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, báo
chí, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, ban thanh tra nhân dân và công dân…
những quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm, nâng cao vai
trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Cụ thể:
1. Vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên trong phòng, chống tham nhũng
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm phối
hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền truyên truyền, giáo dục Nhân dân và
các thành viên trong tổ chức của mình thực hiện các quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng; kiến nghị các biện pháp nhằm phát hiện và phòng ngừa
tham nhũng.
- Động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, tố cáo hành vi
tham nhũng.
- Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc phát hiện, xác minh, xử lý vụ việc tham nhũng.
- Giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa, xác minh,
xử lý vụ việc tham nhũng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét
trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp phức tạp
thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
2. Vai trò và trách nhiệm của báo chí trong phòng, chống tham nhũng
- Nhà nước khuyến khích cơ quan báo chí, phóng viên đưa tin phản ánh về
vụ việc tham nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng.
- Cơ quan báo chí có trách nhiệm hợp tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong công tác phòng, chống tham nhũng; khi đưa tin phải đảm bảo
trung thực, chính xác, khách quan và phải chịu trách nhiệm về nội dung của thông
tin đã đưa.
- Cơ quan báo chí có trách nhiệm biểu dương tinh thần và những việc làm
tích cực trong công tác phòng, chống tham nhũng; lên án đấu tranh với những
người có hành vi tham nhũng; tham gia phổ biến tuyên truyền pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.
3. Vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong phòng,
chống tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng 2018 quy định
- Doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo về hành vi tham nhũng và phối
hợp với cơ quan, tổ chức, các nhân có thẩm quyền trong việc xác minh, kết luận về
hành vi tham nhũng.
- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động
viên, khuyến khích hội viên của mình xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, phi
tham nhũng.
- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và hội viên có trách nhiệm
kiến nghị với nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhằm phòng, chống
tham nhũng.
- Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, có cơ chế
kiểm soát nội bộ ngăn chặn hành vi tham ô, đưa hối lộ.
4. Trách nhiệm của công dân và ban thanh tra nhân dân
Công dân có trách nhiệm:
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
- Lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng;
- Phản ánh với ban Thanh tra nhân dân, với tổ chức mà mình là thành viên
về hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng để ban Thanh tra nhân dân và tổ chức
đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy
định của pháp luật;
- Cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh
vụ việc tham nhũng khi được yêu cầu;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống tham nhũng; góp ý kiến với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng các văn bản pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.
Ban Thanh tra nhân dân có quyền
- Đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát.
- Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, người có hành vi
tham nhũng thì ban Thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, xã phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét, giải quyết.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức,
cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho ban
thanh tra nhân dân. Trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết hoặc
thực hiện không đầy đủ thì ban Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh hoặc
kiến nghị cấp trên trực tiếp của người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
khác xem xét, giải quyết.

You might also like