Professional Documents
Culture Documents
f. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán
nhằm phòng ngừa tham nhũng
Để góp phần phòng ngừa tham nhũng, luật Phòng, chống tham nhũng quy
định: Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng cường tính độc lập và tự
chịu trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà
nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; phân
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước; công khai, đơn giản hóa
và hoàn thiện thủ tục hành chính; quy định cụ thể trách nhiệm của từng chức danh
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Tăng cường, cải tiến công tác áp dụng khoa học - công nghệ trong hoạt
động cải cách hành chính, hướng dẫn trình tự, thủ tục giải quyết công việc để công
dân, cơ quan, tổ chức chủ động thực hiện mà không phải trực tiếp tiếp xúc với cán
bộ, công chức, viên chức.
- Áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện việc thanh toán thông qua tài
khoản tại kho bạc, ngân hàng nhà nước; tiến tới thực hiện mọi khoản chi đối với
người có chức vụ, quyền hạn… và các giao dịch khác có sử dụng ngân sách nhà
nước phải thông qua tài khoản.
2. Các giải pháp phát hiện tham nhũng
a. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà
nước
Kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu trong quản lý nhà nước. Các hành
vi tham nhũng có thể diễn ra trong mọi hoạt động quản lý. Vì vậy, công tác kiểm
tra của các cơ quan quản lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện các
vụ việc tham nhũng.
Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định: thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước có trách nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình;
người đứng đầu các đơn vị, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chủ động kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình quản
lý. Tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của vụ việc mà có thể
xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho các cơ quan chức năng xử lý
b. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm toán, điều tra, xét
xử, giám sát
Hoạt động kiểm tra, kiểm toán, điều tra, xét xử, giám sát là những hoạt động
chính trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng. Các cơ quan thanh tra, điều tra,
kiểm toán, xét xử có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý
theo thẩm quyền hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định của pháp luật và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
c. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng
Công dân có quyền tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền bằng các hình thức: tố cáo trực tiếp, tố cáo qua điện thoại, gửi đơn
tố cáo,tố cáo qua mạng thông tin điện tử.
Cơ quan, tổ chức và những người có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết tố
cáo; giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của
người tố cáo; áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu
hiện đe dọa, trả thù, trù dập người tố cáo, thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho
người tố cáo biết.
III. XỬ LÝ NGƯỜI CÓ HÀNH VI THAM NHŨNG, CÁC HÀNH
VI THAM NHŨNG VÀ TÀI SẢN THAM NHŨNG
1. Xử lý các hành vi tham nhũng
- Đối tượng bị xử lý
+ Người có hành vi tham nhũng;
+ Người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng;
+ Người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo hành vi tham nhũng;
+ Người có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập người phát hiện, tố cáo, cung cấp
thông tin;
+ Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để sảy ra hành vi tham nhũng;
- Hình thức xử lý: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức,
buộc thôi việc. Nếu hành vi vi phạm đến mức độ nguy hiểm cao, gây thiệt hại lớn
về tiền và tài sản của Nhà nước thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.
2. Xử lý tài sản tham nhũng
Pháp luật hiện hành quy định: tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch
thu, trả lại cho chủ sở hữu, quản lý hợp pháp hoặc sung công quỹ nhà nước. Người
đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi hành vi đưa hối lộ bị phát hiện thì được
trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Đối với những tài sản tham nhũng có yếu tố nước
ngoài thì trên cơ sở điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Chính phủ Việt
Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam
hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp.
IV. VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG
Tham nhũng là căn bệnh của bộ máy nhà nước, đồng thời đó cũng là một tệ
nạn xã hội cần bài trừ, lên án. Chống tham nhũng không chỉ là nhiệm vụ của Đảng,
Nhà nước mà là của toàn xã hội. Vai trò của xã hội trong công tác này xuất phát từ
chức năng giám sát, phản biện của xã hội đối với mọi hoạt động của cơ quan nhà
nước, xuất phát từ bản chất nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Hoạt động của bộ
máy nhà nước và của từng cán bộ, công chức được đảm bảo từ ngân sách nhà
nước, hình thành nên từ sự đóng góp thuế của các thành viên trong xã hội. Vì vậy,
xã hội cần giám sát, phản ánh, đòi hỏi phải xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham
nhũng.
Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành đề cao
vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, báo
chí, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, ban thanh tra nhân dân và công dân…
những quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm, nâng cao vai
trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Cụ thể:
1. Vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên trong phòng, chống tham nhũng
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm phối
hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền truyên truyền, giáo dục Nhân dân và
các thành viên trong tổ chức của mình thực hiện các quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng; kiến nghị các biện pháp nhằm phát hiện và phòng ngừa
tham nhũng.
- Động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, tố cáo hành vi
tham nhũng.
- Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc phát hiện, xác minh, xử lý vụ việc tham nhũng.
- Giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa, xác minh,
xử lý vụ việc tham nhũng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét
trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp phức tạp
thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
2. Vai trò và trách nhiệm của báo chí trong phòng, chống tham nhũng
- Nhà nước khuyến khích cơ quan báo chí, phóng viên đưa tin phản ánh về
vụ việc tham nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng.
- Cơ quan báo chí có trách nhiệm hợp tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong công tác phòng, chống tham nhũng; khi đưa tin phải đảm bảo
trung thực, chính xác, khách quan và phải chịu trách nhiệm về nội dung của thông
tin đã đưa.
- Cơ quan báo chí có trách nhiệm biểu dương tinh thần và những việc làm
tích cực trong công tác phòng, chống tham nhũng; lên án đấu tranh với những
người có hành vi tham nhũng; tham gia phổ biến tuyên truyền pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.
3. Vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong phòng,
chống tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng 2018 quy định
- Doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo về hành vi tham nhũng và phối
hợp với cơ quan, tổ chức, các nhân có thẩm quyền trong việc xác minh, kết luận về
hành vi tham nhũng.
- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động
viên, khuyến khích hội viên của mình xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, phi
tham nhũng.
- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và hội viên có trách nhiệm
kiến nghị với nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhằm phòng, chống
tham nhũng.
- Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, có cơ chế
kiểm soát nội bộ ngăn chặn hành vi tham ô, đưa hối lộ.
4. Trách nhiệm của công dân và ban thanh tra nhân dân
Công dân có trách nhiệm:
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
- Lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng;
- Phản ánh với ban Thanh tra nhân dân, với tổ chức mà mình là thành viên
về hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng để ban Thanh tra nhân dân và tổ chức
đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy
định của pháp luật;
- Cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh
vụ việc tham nhũng khi được yêu cầu;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống tham nhũng; góp ý kiến với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng các văn bản pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.
Ban Thanh tra nhân dân có quyền
- Đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát.
- Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, người có hành vi
tham nhũng thì ban Thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, xã phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét, giải quyết.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức,
cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho ban
thanh tra nhân dân. Trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết hoặc
thực hiện không đầy đủ thì ban Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh hoặc
kiến nghị cấp trên trực tiếp của người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
khác xem xét, giải quyết.