You are on page 1of 27

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN:


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH NGUYỄN ÁI QUỐC


CHUẨN BỊ NHỮNG ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP ĐẢNG,
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH
TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA SỰ
KIỆN THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÔNG TÁC PHÒNG
CHỐNG DỊCH BỆNH COVID – 19 HIỆN NAY.

NHÓM: 2

Thành phố Hồ Chí Minh, 22 tháng 12 năm 2021

1
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----

TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH NGUYỄN ÁI QUỐC


CHUẨN BỊ NHỮNG ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP ĐẢNG,
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH
TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA SỰ
KIỆN THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÔNG TÁC PHÒNG
CHỐNG DỊCH BỆNH COVID – 19 HIỆN NAY.

Nhóm: 2 Giảng viên hướng dẫn:


Trưởng nhóm: Bùi Nguyễn Thùy Dương TS.Nguyễn Phước Trọng
Thành viên:
1. Đinh Thành Duy
2. Lê Thúy Duy
3. Trần Thị Mỹ Duyên
4. Nguyễn Hồng An Hạ
5. Ngô Gia Hân
6. Nguyễn Hồ Hồng Hân

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021


Lời cam đoan

Chúng em xin cam đoan đề tài: Phân tích quá trình nguyễn ái quốc chuẩn bị những
điều kiện thành lập đảng, những nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên của
đảng và ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập đảng cộng sản việt nam. Liên hệ thực tiễn
về vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong công tác phòng chống dịch bệnh
covid– 19 hiện nay. do nhóm 2 nghiên cứu và thực hiện.

Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.

Kết quả bài làm của đề tài: Phân tích quá trình nguyễn ái quốc chuẩn bị những điều
kiện thành lập đảng, những nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng và
ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập đảng cộng sản việt nam. Liên hệ thực tiễn về vai trò
lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong công tác phòng chống dịch bệnh covid– 19
hiện nay là trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài tập của nhóm khác.

Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

(Ký và ghi rõ họ tên)


PHẦN MỤC LỤC

PHẦN MỤC LỤC.............................................................................................................4


PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...........................................................2
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................3
1.1. Quá trình Nguyễn Ai Quốc chuẩn bị điều kiện về chính trị tư tưởng tổ chức
cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam...............................................................3
1.1.1 Về tư tưởng....................................................................................................4
1.2.3 Về tổ chức......................................................................................................7
1.3. Nội dung cương lĩnh chính trị...........................................................................12
1.4. Ý nghĩa thành lập Đảng....................................................................................15
1.5. Liên hệ vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng chống dịch bệnh
Covid–19 hiện nay.......................................................................................................16
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................................19
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................20
PHỤ LỤC........................................................................................................................ 22
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Sau khi xâm lược và đặt ách thống trị trên đất nước ta vào năm 1858, thực dân Pháp
đã áp đặt chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo. Đất nước ta là thuộc đia, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Mâu thuẫn giữa nhân
dân Việt Nam với thực dân Pháp và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, khát vọng đấu
tranh giành độc lập dân tộc ngày càng trở nên bức thiết. Hàng loạt phong trào đấu tranh
của nhân dân liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo của các văn thân, sỹ phu yêu nước những
cuối cùng đều rơ vào bế tắc, thất bại mà nguyên nhân đều do chưa có đường lối chính trị
và phương pháp đấu tranh thích hợp, thiếu một tổ chức lãnh đạo, dẫn dắt phong trào.
Cũng vì những thất bại đó dẫn đến cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng và bế tắc về
đường lối cứu nước.

Trước tình hình đó, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước
và Người đã tìm đến chủ nghĩa Mác- Lênin, xác định được con đường cứu nước, con
đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Vào giai đoạn năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái
Quốc ra sức truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trao công nhân và phong
trào yêu nước. Khi điểu kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời đã mở đầu cho một thời đại mới trong lịch sử nước ta, một thời đại mà
giai cấp công nhân và đảng đứng vị trí trung tâm. Cương lĩnh chinh trị được Hội nghị
thành lập Đảng thông qua đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện của
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

Trải qua nhiều năm hoạt động, Đảng ta cũng có những bước đi sai lầm, thiếu sót
nhưng Đảng đem lại được độc lập ấm no cho dân tộc. Thực tiễn hiện nay là hoạt động
phòng chống Covid-19 đã khẳng định được vai trò to lớn của Đảng đối với toan dân, toàn
quân ta.

1
Chính vì vậy, việc nhóm chúng em chọn đề tài “Phân tích quá trình Nguyễn Ái
Quốc chuẩn bị những điều kiện thành lập Đảng, những nội dung cơ bản của Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng và ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.” là một việc làm có ý nghĩa thiết thực, trọng yếu, làm tiền đề cho thực tiễn về vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác phòng chống dịch bệnh Covid –
19 hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Phân tích rõ quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện cho việc thành
lập Đảng, làm rõ những nội dung cơ bản của Cương kinh chinh trị đầu tiên của Đảng ,
khẳng định được ý nghĩa lịch sử quan trọng của sự kiện thành lập Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Từ đó, liên hệ vai trò thực tiễn của Đảng trong việc phòng chống dịch bệnh Covid-
19. Giúp cho sinh viên nâng cao nhận thức, giác ngộ về vai trò của Đảng.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình chuẩn bị thành lập Đảng của Nguyễn Ái Quốc, nội dung Cương lĩnh
chính trị và ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thực tiễn vai
trò của Đảng trong việc phòng chống Covid-19.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1921-1930
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

5.1.1. Ý nghĩa lý luận:


Tiểu luận góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về vai trò của việc thành lập Đảng
của Nguyễn Ái Quốc và thông qua Cương linh chính trị trước tình hình đất nước lúc bấy
giờ. Đồng thời, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đáp ứng kịp thời các yêu cầu
tình hình đất nước đang đặt ra. Trên cơ sở đó, đưa ra thực tế vai trò của Đảng lãnh đạo
trong phòng chống Covid-19 hiện nay.

2
5.1. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể sử dụng để củng cố, bồi đắp niềm tin, sự tự hào
của thế hệ trẻ đối với Đảng, góp phần tham gia xây dựng Đảng ngày một vững mạnh.

PHẦN NỘI DUNG


1.1. Quá trình Nguyễn Ai Quốc chuẩn bị điều kiện về chính trị tư tưởng tổ chức
cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết
cứu nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu nước
đương thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc. Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng
một cách rạch ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột”, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh
của nhân dân các dân tộc bị áp bức.

Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận
thức của Nguyễn Tất Thành-đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở lại
nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.

Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến
bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến
tranh thế giới thứ nhất họp ở Vécxây (Versailles), Tổng thống Mỹ Uynxơn tuyên bố bảo
đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước nhược tiểu. Nguyễn Tất Thành lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị
bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt
Nam) ngày 18-6-1919. Những yêu sách đó không được Hội nghị đáp ứng, nhưng sự kiện

3
này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn
bản chất của đế quốc, thực dân.

Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số ra ngày
16 và 17-7-1920. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải
đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách
mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng
hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-
1920) tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).

Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản-tức là Đảng Cộng
sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của
Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển
biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Ngày 30-6-
1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tham
gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6
- 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Sau khi xác
định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để
hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.

Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.

1.1.1 Về tư tưởng
Do cách mạng thuộc địa không được quan tâm đúng mức nên Nguyễn Ái Quốc đã
đi sâu nghiên cứu, tham gia vào các diễn đàn, viết báo,... để tuyên truyền về vấn đề thuộc
địa và cách mạng thuộc cuối năm 1917, người lao động vào cuộc đấu tranh của giai cấp

4
công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những Người Việt Nam yêu nước
với tờ bảo “Việt Nam hồi kí” để tuyên truyền giáo dục Việt Kiều ở Pháp. Năm 1922,
Người làm chủ nhiệm chủ bút cho bảo “Người cùng khổ" để vạch trần chính sách đàn áp
bọc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần vào việc thức tỉnh các dân tộc bị áp bức
đứng lên tự giải phóng song song đó, viết nhiều bài đăng trên báo Nhân đạo của Đảng
Cộng sản Pháp, báo Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp. Đến năm
1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Matxcova để tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân,
đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng 10 Nga và chủ
nghĩa Mác - Lênin. Người có nhiều bài cho các báo “Sự thật” (là cơ quan ngôn luận của
Đảng Cộng Sản Liên Xô) và tạp chí “Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản”. Qua các bài
báo, tạp chí, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ
nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác -
Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động.
Đây là thời gian Người thu thập tư liệu cho tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô và các đại
hội của Quốc tế công hội, quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên,.. Và nhất là Đại hội lần V,
đã có bản báo cáo rất quan trọng về dân tộc và thuộc địa, làm sáng tỏ và phát triển một số
luận điểm quan trọng của Lênin về bản chất chủ nghĩa thực dân và nhiệm vụ của các
Đảng Cộng Sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh giải
phóng dân tộc các ở thuộc địa. “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925) mặc dù bị nhà
cầm quyền pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách bảo nói trên vẫn được bí
mật truyền về Việt Nam vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, từ đó khơi dậy
tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc để đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược; "Chủ nghĩa
tư bản là một con đỉa có 2 cái vòi một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc gia và
một cái vòi khác bằm vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại sẽ tiếp
tục hút máu của giai cấp vô sản con vật này vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại
mọc ra". Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho sự thành lập Đảng, có ý nghĩa rất

5
quan trọng. Vì giống như Lênin đã nói “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách
mệnh, vận động, … Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm
nỗi trách nhiệm cách mệnh tiền phong"
1.2.2 Về chính trị
Sự chuẩn bị về chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn
Ái Quốc được thể hiện thông qua việc hình thành các quan điểm sau đây, trong đó ảnh
hưởng lớn nhất là cuốn “Đường Cách mệnh”:
1. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế
giới.
2. Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có
quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau Cách mạng
giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy
cách mạng chính quốc.

3. Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế
quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông
dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng, đồng thời tập hợp được
sự tham gia đông đảo các giai tầng khác tham gia.

4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng nắm
vai trò lãnh đạo Đảng muốn vũng phải được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin

5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của một vài
người, “công nông là gốc của cách mệnh, còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu
bạn cách mệnh của công nông”. Cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không
phải là việc của một hai người". Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.

6
Những quan điểm này đã được Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên truyền bá
trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sau này, các quan điểm được phát triển thành
những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng

1.2.3 Về tổ chức

Với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ
cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa năm 1921
nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân. Và cũng thông qua hội này để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê Nin đến các
dân tộc thuộc địa. Đến ngày 11/11/1924, Người tới Quảng Châu tại đây, Người cùng các
nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ,... sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức (9/7/1925) đã nêu bật được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết dân tộc trên thế giới.
Và bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của ĐCSVN chính
là Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên Hội được Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng
6/1925 với cơ quan tuyên truyền của Hội là tờ báo Thanh niên. Sau khi thành lập, Hội đã
mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng dân
tộc cho những người trong tổ chức nhằm thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng
Việt Nam chống lại những đường lối dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản. Hội đã giáo
dục và giác ngộ nhiều người yêu nước chân chính theo con đường Hồ Chí Minh, đào tạo
và rèn luyện họ thành những chiến sĩ cách mạng trung thành, làm nòng cốt trong việc
thành lập Đảng Cộng sản sau này.

Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào trong
phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ chức cơ sở
của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Từ năm 1925 - 1927, Người mở
nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo nên đội ngũ cán bộ cho cách mạng
Việt Nam. Những bài giảng ở đây của Người đã được tập hợp thành cuốn “Đường cách
mệnh”. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy,

7
hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá
Chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của
phong trào cách mạng Việt Nam.

Những ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và các lớp huấn luyện
của Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển các phong trào công nhân, phong
trào yêu nước. Địa lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin và tôn chỉ, mục đích đấu tranh của Hội
vào các phong trào này.

Chứng tỏ: “Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của vô sản đã thắng lập trường
cách mạng giải phóng dân tộc của tư sản"

1.2. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.


 Các tổ chức cộng sản ra đời

Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các
cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên cả nước đã có tác dụng
thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao
ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh
của thợ thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày
càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong năm 1928-1929 tăng gấp
2,5 lần so với 2 năm 1926-1927.

Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong
trào. Trước tình hình đó, tháng 3-1929, những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn
Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố Hàm
Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17-6-1929, đại
biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội),

8
quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ
đỏ búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.

Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở
Nam Kỳ theo xu hướng cộng sản, lần lượt tổ chức nững chi bộ cộng sản. Tháng 11-1929,
trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tại
Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvích.

Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có cả
Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên - đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng 9 - 1929, những
người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng Đảng họp bàn việc thành lập Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn và ra Tuyên đạt, khẳng định: “…những người giác ngộ cộng sản
chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng
viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng
tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn… Muốn làm tròn nhiệm vụ thì
trước mắt của Đông Dương Cộng sản liên đoàn là một mặt phải xây dựng cơ sở chi bộ
của Liên đoàn tức là thực hành cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành đoàn thể cách
mạng chân chính…”. Đến cuối tháng 12-1929, tại Đại hội các đại biểu liên tỉnh tại nhà
đồng chí Nguyễn Xuân Thanh- Ủy viên Ban hấp hành liên tỉnh (ga Chợ Thượng, huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), nhất trí quyết định “Bỏ tên gọi Tân Việt. Đặt tên mới là Đông
Dương Cộng sản liên đoàn”. Khi đang Đại hội, sợ bị lộ, các đại biểu di chuyển đến địa
điểm mới thì bị địch bắt vào sáng ngày 1-1-1930. “Có thể coi những ngày cuối tháng 12-
1929 là thời điểm hoàn tất quá trình thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn được khởi
đầu từ sự kiện công bố Tuyên đạt tháng 9-1929”.

Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 đã
khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng

9
sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách
mạng chân chính, không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức
trên cả nước.

Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày
càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực
lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng
trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

 Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung
Quốc) triệu tập đại biểu của Đông Dương ộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến
họp tại Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một chính đảng duy nhất của Việt Nam.

Thời gian Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. (Sau này Đảng quyết nghị lấy
ngày 3 tháng 2 dương lịch làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng). Trong Báo cáo gửi Quốc tế
Cộng sản, ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1.
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề
liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và
họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương
lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu trở về An Nam
ngày 8-2”.

Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh
Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn
Liêm và Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc- đại biểu của Quốc
tế Cộng sản. Chương trình nghị sự của Hội nghị:

1. Đại biểu của Quốc tế Cộng sản nói lý do cuộc hội nghị;

10
2. Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản về: a) Việc hợp nhất tất cả các
nhóm cộng sản thành một tổ chức chung, tổ chức này sẽ là một Đảng Cộng sản chân
chính; b) Kế hoạch thành lập tổ chức đó.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:

“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng
sản Đông Dương;

2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;

3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;

4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;

5. Cử một Ban Trung ương lâm thời...”.

Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn
kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức
ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều kiện vào Đảng: là những người
“tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu
và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóngkinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ
phận đảng”.

Hội nghị chủ trương các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay
khu bộ, tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.

11
Ngoài ra, Hội nghị còn quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức công hội, nông
hội, cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của
Đảng.

Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng
duy nhất được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời chấp ủy Đảng Cộng sản Việt
Nam, chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng. Mở đầu Lời kêu gọi, Người viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế
Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”.

1.3. Nội dung cương lĩnh chính trị.

 Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một xã
hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công
nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong ương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.

 Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”.

Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản
để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành
độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

12
Để tập trung được mũi nhọn của cách mạng đấu tranh chống đế quốc và tay sai của
chúng, Đảng chủ trương “Quốc Hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc
và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho dân cày nghèo”. “Tịch thu tất cả nhà
băng và cơ sở sản xuất của bọn đế quốc trao cho chính phủ công - nông - binh”. Còn
“đối với bọn phú, nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập”. Chủ trương ấy tỏ rõ
Đảng ta ngay từ đầu chẳng nhìn thấy được tầm quan trọng chiến lược của vấn đề
ruộng đất mà còn xác định đúng vị trí của cách mạng ruộng đất trong từng giai đoạn
cách mạng. Sự chỉ đạo chiến lược vô cùng đúng đắn ấy đã mở ra con đường rộng rãi
để phát huy cao độ truyền thống yêu nước của dân tộc, đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh công - nông và trí thức nhằm đánh đổ kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm trước
mắt.

 Về chính trị: Ðánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, làm
cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công - nông - binh, tổ
chức ra quân đội công – nông.
 Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ:
a) Dân chúng được tự do tổ chức.
b) Nam nữ bình quyền, v.v...
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”.
 Về phương diện kinh tế: cương lĩnh xác định thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết
sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của
đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ…

Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và phương diện
kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội, cần được giải quyết ở Việt
Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc

13
lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân.

 Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực
lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết
tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và
tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, “phải
thu phục cho được đại bộ phận dân cày, … hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Việc tập hợp lực lượng rộng rãi cũng
như xác định được độnglực chủ yếu, cơ bản của sự nghiệp cách mạng phản ánh sự
mềm dẻo và linh hoạttrong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta. Đây là cơ
sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết
rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,
cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm
xã hội Việt Nam.
 Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng, trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng không được thoả hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì
của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng
thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhưng
kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải
đánh đổ”
 Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế: cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị
áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh nêu rõ
cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế

14
giới: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời
tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ
nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.

Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, Cương lĩnh đã khẳng định vai trò quyết
định của Đảng: Đảng là đội tiên phong quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
Đảng phải: Thu phục cho được đại bộ phận giai cấp của mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng. Cương lĩnh khẳng định bản chất giai cấp của Đảng, vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân và chiến lược đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công –
nông là những vấn đề then chốt bảo đảm cho Đảng ta trở thành nhân tố duy nhất lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh cũng nêu lên sự gắn bó Đảng với công nhân, dân cày,
tiểu tư sản, tri thức. Đây chính là những điều kiện tạo cho Đảng có nguồn sức mạnh vĩ
đại và trở thành lãnh tụ chính trị cho cả dân tộc

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận
điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt
Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của
dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng
xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối
chiến lược và sách của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng,
nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và
sách lược đã đề ra.

Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các
tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính
trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp
nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù

15
“vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng
Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.

1.4. Ý nghĩa thành lập Đảng

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời
kì mới cho cách mạng Việt Nam – thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ
bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của
lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực
lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, vì:

  + Đối với giai cấp công nhân: Chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
  + Đối với dân tộc: Chấm dứt thời kì khủng hoảng về mặt đường lối, và giai cấp
lãnh đạo, từ đây khẳng định quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ
đây cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.

- Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng
trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn
kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. 

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của

16
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những
thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

1.5. Liên hệ vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng chống dịch bệnh
Covid–19 hiện nay.

- Ban hành Nghị quyết đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng: tập trung kiểm
soát đại dịch Covid-19; tiêm trủng đại trà vác-xin phòng chống Covid-19 cho cộng đồng;
phục hồi và phát triển nền kinh tế- xã hội. Đây là những nhiệm vụ trọng tâm trong nghị
quyết đại biểu XVIII nêu ra. Để triển khai và đưa những nhiệm vụ này vào cuộc sống, thì
tại hội thảo khoa học 16/06/2021 ở Hà Nội, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ
Chính trị, Chủ tịch hội đồng lý luận trung ương, Giám đốc Học viện quốc gia Hồ Chí
Minh khẳng định: các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là các cấp lãnh đạo nêu cao
trách nhiệm chủ động, tự giác và phải tự xây dựng được các chương trình hoạt động cụ
thể.... Từ đó, việc phòng chống sự lây lan của dịch bệnh và nắm bắt tình hình dịch bệnh là
nhiệm vụ được trú tâm hàng đâu của Đảng và Nhà nước hiện nay.

- Những thành công bước đầu trong phòng, chống dịch Covid-19: Nhờ vào sự lãnh
đạo tài tình của Đảng, đã giúp cho đất nước ta có số ca nhiễm ở mức thấp và được dư luận
quốc tế đánh giá cao về công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 tại đất nước Việt Nam
của chúng ta, thậm trí các chuyên gia, học giả và truyền thông quốc tế rất tin tưởng về vai
trò lãnh đạo của Đảng ta và họ tin rằng, Việt Nam chúng ta sẽ tiếp tục vượt qua được đại
dịch, gặt hái thành công trong trang thái “ bình thường mới”. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt,
nhanh tróng kịp thời, của Đảng và chính phủ bằng việc ban hành chỉ thị số 15 và 16 về
giãn cách , cách ly xã hội cùng với sức mạnh đoàn kết, đồng lòng của toàn dân, các bộ,
ban, ngành từ trung ương đến địa phương, với súc mạnh to lớn này đã giúp chúng ta kiểm
soát tình hình các vùng dịch sau ba làn sóng dịch bệnh Covid-19 diễn ra từ đầu năm 2020
đến nay giúp ta giảm thiểu được sự lây lan của biến thể vi- rút mới đe dọa đến tính mạng
của cộng đồng. Bằng việc phòng chống tốt dịch bệnh Đảng ta đã được nhiều lời khen ngợi

17
điển hình là bài trả lời phỏng vấn với VOV vào đầu năm 2021 của Đại sứ Ấn Độ tại Việt
Nam, ngài Pranay Verma, ông đánh giá cao sự thành công Đại hội Đảng lần thứ XIII và
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam trong lịch sử và giai đoạn hiện nay. Đặc
biệt, trong bối cảnh một năm đầy thách thức với nhiều hoạt động bị gián đoạn trên toàn
cầu do Covid-19, Việt Nam đã thành công trong việc ứng phó với đại dịch phức tạp, đưa
kinh tế ổn định và tăng trưởng tích cực. Về tương lai, Đại hội đã xác định những cơ hội và
thách thức mà Việt Nam phải đối mặt và đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong
5-10 năm tới, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm
2045.

Thông qua những thành công trên ta có thể thấy được sự đúng đắn, giải quyết các vấn
đề một cách nhanh chóng và chính xác của các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa
phương, sự quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành hiệu quả của các cấp ủy đảng, chính quyền
và sự đoàn kết, tương trợ giữa ngành y tế tới các bộ, ban, ngành khác và giữa các địa
phương trong cả nước. Mô hình thể chế chính trị này giúp chúng ta phản ứng nhanh
chóng trước sự lây lan và biến đổi một cách nhanh tróng của dịch bệnh. Tóm lại, trong
thời điểm này vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến với Covi-19 có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc, tính mạng con người, vì tốc độ lay lan
quá nhanh và khó kiểm soát của dịch bệnh.

18
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, từ năm 1921 đến năm 1929 bằng nhiều hình thức hoạt động phong phú,
Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh kiên trì, gian khổ nhằm truyền bá những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam. Đặc biệt, Người tiếp tục đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ từ việc
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 6-1925) - tổ chức tiền thân của
Đảng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Đó là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong quá
trình chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức để dẫn tới thành lập chính Đảng Cộng sản
trong hoàn cảnh một nước thuộc địa, nửa phong kiến.

Mùa Xuân năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, ngày 03/02/1930 Người đã
chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông dương thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Người trực tiếp soạn thảo như:
Chánh cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đây là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, đường
lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng ta. Đó là “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”. Đường lối ấy gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính, gắn cách mạng Việt Nam với trào lưu
cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường
cứu nước của Việt Nam đã được Người vạch ra, sự đúng đắn ngay từ đầu của Nguyễn Ái
Quốc đã được quá trình cách mạng khảo nghiệm và khẳng định. Từ đó, cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mở ra thời đại mới, thời đại rực rỡ nhất trong
lịch sử của dân tộc Việt Nam.

19
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS Nguyễn Thị Tú Trinh, TS Mai Quốc Dũng, ThS Nguyễn Phước Trọng, ThS
Nguyễn Thị Tươi, ThS Nguyễn Thị Lợi, ThS Hoàng Ngọc Kiên, ThS Nguyễn Văn
Đương. Năm xuất bản 2020. Góp phần tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà
xuất bản Khoa học xã hội.

[2]. Nguyễn Thu Trang (2021). “Vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng, chống
dịch Covid-19” truy cập ngày 16/12/2021 https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-
cua-dang/Vai-tro-lanh-dao-cua-Dang-trong-cong-tac-phong-chong-dich-Covid-19-39

[3]. TS. Đồng Quang Thái (2021) “Con đường sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh”. Truy cập ngày 16/12/2021 https://tuyengiao.vn/nghien-
cuu/con-duong-sang-lap-dang-cong-san-viet-nam-cua-nguyen-ai-quoc-ho-chi-minh-
133686

[4] Đường lối Đảng Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản. Truy cập ngày 13/12/2021, Từ:
https://khotrithucso.com/doc/p/duong-loi-dang-nguyen-ai-quoc-chuan-bi-nhung-dieu-
kien-ve-1526681

[5] Phân tích quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị điều kện về chính trị tư tưởng tổ chức
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập ngày 13/12/2021, Từ:
https://123docz.net/document/6678771-phan-tich-qua-trinh-nguyen-ai-quoc-chuan-bi-
dieu-kien-ve-chinh-tri-tu-tuong-to-chuc-cho-viec-thanh-lap-dang-cong-san-viet-nam.htm

[6] Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Truy cập ngày 13/12/2021, Từ:
https://123docz.net/document/3762069-noi-dung-cuong-linh-chinh-tri-dau-tien-cua
dang.htm

20
[7] Hoàng Thị Nga. (2016). Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Truy cập
ngày 13/12/2021, Từ: https://khotrithucso.com/doc/p/noi-dung-cuong-linh-chinh-tri-dau-
tien-cua-dang-cong-san-89240

[8] Nguyễn Nam. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập: 16/12/2021,
từ: https://luathoangphi.vn/y-nghia-su-ra-doi-cua-dang-cong-san-viet-nam/

[9] Tài liệu tham khảo Nguyễn Thu Trang. Vai trò của Đảng trong công tác phòng chống
dịch. Truy cập ngày 12/12/2021, từ https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-
dang/Vai-tro-lanh-dao-cua-Dang-trong-cong-tac-phong-chong-dich-Covid-19-39

(Trích hỏi đáp môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam NXB Đại
học Quốc gia 2010).

21
PHỤ LỤC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM


1. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự.
1.1. Thời gian: 17g00, 15/12/2021
1.2. Địa điểm: Phòng Zoom
1.3. Thành phần tham dự:
+ Chủ trì: Bùi Nguyễn Thùy Dương
+ Tham dự: 6
+ Vắng: 0
2. Nội dung cuộc họp
2.1. Nhóm trưởng phân công công việc cho các thành viên như sau:
Họ tên STT Nhiệm vụ Ghi
chú

Bùi Nguyễn Thùy 1 Soạn phần 1.1 và 1.3 Hoàn


Dương thành
100%
Đinh Thành Duy 2 Soạn phần 1.5 Hoàn
thành
100%
Lê Thúy Duy 3 Soạn phần 1.2 Hoàn
thành

22
100%
Trần Thị Mỹ Duyên 4 Soạn phần 1.1 và 1.3 Hoàn
thành
100%
Nguyễn Hồng An 5 Soạn phần mở đầu, tổng hợp Hoàn
Hạ Word thành
100%
Ngô Gia Hân 6 Soạn phần Kết luận, tổng Hoàn
hợp Word thành
100%
Nguyễn Hồ Hồng 7 Soạn phần 1.4 Hoàn
Hân thành
100%

2.2. Ý kiến của các thành viên: Tất cả các thành viên đều đồng ý với bảng phân công
cũng như đánh giá.
2.3. Kết luận cuộc họp
Tất cả đều đồng ý với mục đánh giá.
Cuộc họp đi đến thống nhất và kết thúc lúc 18 giờ 10 phút cùng ngày.
Thư ký Chủ trì

Trần Thị Mỹ Duyên Bùi Nguyễn Thùy Dương

23

You might also like