You are on page 1of 25

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT

MÃ MÔN HỌC: LLCT120314_22_2_14CLC

TIỂU LUẬN MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN


TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CSVN TRONG CHÍNH
SÁCH VỚI NGƯỜI VIỆT Ở NƯỚC NGOÀI

Giảng viên: Th.S Đỗ Thị Ngọc Lệ


Nhóm thực hiện: Nhóm 19

STT HỌ VÀ TÊN MSSV


1 Đoàn Trường Sinh 22145230
2 Phạm Quán Quân 22145226
3 Trần Nam Kỳ 22145187
4 Võ Hoàng Khang 22145169
5 Đoàn Trọng Phú 22145213

TP.HCM, tháng 04 năm 2023


LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
ĐIỂM

2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................5
5. Bố cục nghiên cứu.............................................................................................................5
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC......6
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc...............................6
1.1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam......................................................................................................................................6
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng...................................................................................................................................6
1.1.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng
Việt Nam và thế giới............................................................................................................7
1.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết........................................7
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng....7
1.2.2. Đại đoàn kết toàn dân là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng...................8
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân..........................................................8
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạng vật chất, có tổ chức là Mặt trận
dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng..................................................................9
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CSVN TRONG CHÍNH SÁCH VỚI
NGƯỜI VIỆT Ở NƯỚC NGOÀI..........................................................................................12
2.1. Chính sách cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài..............................................12
2.1.1. Đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại .............................................12
2.1.2. Điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài ...................................................14
2.2. Chính sách của người nước ngoài tại Việt Nam.........................................................17
2.2.1. Sơ lược quá trình hình thành các quy định của pháp luật điều chỉnh cho phép
người nước ngoài ở tại Việt Nam......................................................................................17
2.2.2. Các quy định về đối tượng và điều kiện để người nước ngoài ở tại Việt Nam........18
2.3. Thực trạng sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong chính sách cho người
Việt Nam ở nước ngoài........................................................................................................19
2.4. Chính sách hoàn thiện pháp luật cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài..........20
KẾT LUẬN..............................................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................24

3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam ta với bốn nghìn năm văn hiến đã có biết bao nhiêu truyền
thống tốt đẹp. Một trong những truyền thống đó đá góp phần tạo nên những chiến
thắng vang dội cho dân tộc – đó chính là tinh thần đoàn kết của nhân dân. Và sau này
chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết thành quan điểm về đại đoàn kết dân tộc trong hệ
thống những quan điểm về vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Bác đã nhìn nhận,
đánh giá tất cả các dân tộc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam dù lớn hay nhỏ đều có
truyền thống đoàn kết, yêu nước và tinh thần cách mạng như nhau Tư tưởng đại đoàn
kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và
xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người luôn luôn nhận thức đại
đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.
Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của riêng
Đảng Cộng Sản. Đảng lãng đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây
dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức
mạng của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói
khá cặn kẽ, theo quan điểm của Người, đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân
tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công” là một chiến lược, sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn,thách thức nhất
là do cuộc khủng hoảng của cuôc tài chính,suy thoái kinh tế toàn cầu,toàn Đảng,toàn
dân ta đang nỗ lực phấn đấu đạt những thành tựu quan trọng thực hiện các mục
tiêu,nhiệm vụ phát triển kinh tế,đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại
hóa.Một trong những chính sách được đề ra qua các kỳ của Đại hội Đảng đó là thu hút
đầu tư,nhân tài các chuyên gia,nhà khoa học,kỹ sư nước ngoài vào Việt Nam làm việc
và sinh sống.Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại Thế giới,Nhà nước ta đã đưa ra các chính sách thông thoáng hơn cho phép người
Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài được phép sở hữu nhà tại Việt
Nam.
Theo thống kê của Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì hiện
nay số lượng người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam là hơn 74.000 người và theo
thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài có khoảng hơn 4
triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại hơn 100
quốc gia trên thế giới và đại đa số đều mong muốn trở về quê hương đóng góp cho sự
phát triển của đất nước. Có thể nói, số lượng người nước ngoài và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài có nhu cầu sở hữu nhà ở tại Việt Nam là rất lớn bởi lẽ nhu cầu
về nhà ở là nhu cầu cấp thiết cho sinh hoạt của mỗi con người, hơn nữa khi người

4
nước ngoài hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến, quay trở lại Việt Nam đầu
tư, làm ăn, sinh sống thì họ mang theo cả gia đình, vợ con vì vậy nhà ở luôn là vấn đề
quan tâm hàng đầu của những đối tượng này.
Do vậy, việc thảo luận đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân
tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong chính sách với người Việt
Nam ở nước ngoài” là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay, nhằm tìm hiểu nguyên nhân khó khăn, bất cập trong việc áp dụng các quy
định sinh sống tại Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của
pháp luật, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh sống tại Việt Nam của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài, mặt khác tạo ra sự thông thoáng,
hiệu quả trong công tác quản lý nhà ở của các cơ quan nhà nước
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Phân tích được sự đoàn kết dân tộc ta trong chính sách cho người Việt Nam ở
nước ngoài
Đề xuất một số giải pháp cấp bách hiện nay.
Giúp cho sinh viên có nhận thức, trách nhiệm và cùng đoàn kết với nhau hơn
nữa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài này tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc và sự vận dụng quan điểm đó của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
chính sách với người Việt Nam tại nước ngoài
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu nhập thông tin thứ cấp
Tìm hiểu thông tin về đề án thông qua các cơ sở pháp lí
Nghiên cứu các nội dung nguyên lí từ cơ sở thực tiễn
Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Tổng hợp các tài liệu, thông tin đã tìm được, phân tích đánh gá để có nền tảng
xây dựng bài tiểu luận:
Phân loại và hệ thống hóa lí thuyết: phân loại tài liệu thu thập được thành các
mảng khác nhau nhằm hệ thống lại các lý thuyết để áp dụng vào những mảng khác
nhau của đề tài.
Phân tích và tổng hợp lý thuyết: sau khi phân loại tài liệu cần nghiên cứu phân
tích để áp dụng những tri thức có liên quan đến đối tượng nghiên cứu để lưu lại và
tổng hợp thành một hệ thống lý thuyết chặt chẽ làm nền tảng cho đề tài
5. Bố cục nghiên cứu
Ngoài mở đầu và kết luận thì bài tiểu luận còn có phần nội dung cụ thể:
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Chương 2. Sự vận dụng của Đảng CSVN trong chính sách với người Việt ở nước
ngoài

5
6
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1.1.1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt
Nam đã được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Đối với
mỗi người Việt Nam, yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự
nhiên, in đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt
chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã có rất nhiều
chuyện cổ tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu
nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là
cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo
cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng
to lớn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ
ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho rằng, sự liên
minh giai cấp, trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng vô sản, rằng nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân
dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản
không thể thực hiện được.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong cách
mạng vô sản. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ
sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong
các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư
tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.

7
1.1.3. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí Minh đã
luôn chú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt
Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài
học của cuộc Cách mạng Tháng Mười. Những là bài học về huy động, tập hợp lực
lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của
việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh
đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam
nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách
mạng. Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào dân tộc
dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là cơ sở thực
tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn
kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành
công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành
công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy
tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn
đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách
mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách
mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó
Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh
chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác
nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn
của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công
Đoàn kết là điểm mẹ; điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt; Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm
coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng

8
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân bao
gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do
đó phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc
đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp
với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi
cơ bản của nhân dân lao động, làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
1.2.2. Đại đoàn kết toàn dân là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương
dân thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông
đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rõ
việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục
tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong
mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của
Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố
trước toàn thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ
là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết
dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí
Minh còn cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân
tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ
mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người dùng
các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”, không phân
biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng,
không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có
nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của
Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Với tinh thần đoàn kết
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây
dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp,
dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với
con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ

9
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn
dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại
đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như
vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực
lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc
của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác.
“Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công
nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Về sau, Người nêu thêm: lấy liên
minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền
tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạng vật chất, có tổ chức là Mặt trận
dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách
mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể
chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến
lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải
biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính
là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu không, quần chúng
nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một số đông không có sức
mạnh. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là đi
tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà
Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai
cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo. Đó là các già
làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông hội, đoàn thanh niên, hội
phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu
nước, các nghiệp đoàn, v.v., bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước
Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài,

10
dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ
quốc Việt Nam...
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở
nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng
lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài
nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, theo Hồ
Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.
Hồ Chí Minh cho rằng, Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Sự đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân
tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu.
Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công -
nông - lao động trí óc.
Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt
trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững
chắc.
Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Khi có những lợi ích riêng biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc
nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích
chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt
hoặc dân chủ hình thức. Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác
Mặt trận (tháng 8-1962), Người yêu cầu: Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp
nhân dân... Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa
thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
Thứ tư: Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh
những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải
quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”,
lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: “Đoàn kết

11
phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn
dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình
và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn
kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Trong quá
trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu
tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực
lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn
kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích riêng mà là gắn liền với lợi ích toàn xã hội,
toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không phải chỉ vì lợi ích của giai
cấp mình mà vì “phải trở thành dân tộc” mới có thể giải phóng được dân tộc và giai
cấp.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành
viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Nhưng
Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình, mà
phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa
nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt
động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì
Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng
đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm
hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt
trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ
tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ
thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

12
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CSVN TRONG CHÍNH SÁCH VỚI
NGƯỜI VIỆT Ở NƯỚC NGOÀI
2.1. Chính sách cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài
2.1.1. Đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam
Hiện nay, vấn đề sở hữu nhà tại Việt Nam của người Việt Nam định cư tại nước
ngoài chịu sự quy định của Luật quốc tịch năm 2008, Luật nhà ở năm 2014 và Luật đất
đai năm 2013.
Một là, theo khoản 3, điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định:
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt
Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”
Hai là, theo căn cứ theo Khoản 2 Điều 7 luật nhà ở năm 2014 quy định về đối
tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam:
“1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều 159 của Luật này”
Như vậy theo quy định của pháp luật hiện hành thì có tất cả là 5 đối tượng người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam:
Nhóm người có quốc tịch Việt Nam: Đây là những công dân Việt Nam đang
công tác, lao động, học tập ở nước ngoài như du học sinh, nhưng người đi xuất khẩu
lao động,.. Các đối tượng này đang chiếm một số lượng khá lớn trong số người Việt
Nam định cư tại nước ngoài hiện nay. Việc tách bạch đối tượng người Việt Nam định
cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam được sở hữu nhà ở như công dân trong nước
thực sự là một quy định rộng mở để số lượng đông đảo những người này được sở hữu
nhà tại Việt Nam mà không cần đáp ứng điều kiện khắt khe như trước, thu hút kiểu
bảo có trình độ chuyên môn, có kỹ năng, nghiệp vụ, khả năng quản lý, điều hành trở
về quê hương công hiến cho đất nước. Đồng thời những quy định này cũng đảm bảo
sự công bằng trong vấn đề sở hữu nhà ở giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài
với công dân Việt Nam ở trong nước.
Đối tượng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư trực tiếp tại Việt
Nam: Theo Điểm b Khoản 2 Điều 66 NĐ 71/2010/NĐ-CP quy định: “Người về đầu tư
trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư có Giấy chứng nhận đầu tư hoặc Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp”
Đây là những người trực tiếp đầu tư theo quy định của Luật đầu tư được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Những
đối tượng này đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước.
Việc quy định được mua nhà tại Việt Nam là một chính sách hợp lý và cần thiết, một
mặt thể hiện sự quan tâm của nhà nước đôi với đồng bào, một mặt khuyến khích họ
đầu tư, góp phần xây dựng đất nước.
Đối tượng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài có công đóng góp với đất
nước: Theo Điểm b Khoản 2 Điều 66 NĐ 71/2010 NĐ-CP có quy định: “Người có

13
công đóng góp với đất nước, bao gồm: người được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định
của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng có giấy tờ chứng minh được
hưởng chế độ ưu đãi do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp; người có thành
tích đóng góp trong sự nghi giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước được Chủ tịch
nước tặng thưởng Huân chương, Huy chương, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng
khen; người tham gia vào Ban Chấp hành các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam,
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ cấp tỉnh trở lên được các tổ chức này xác nhận;
người được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương hội, người là nòng cốt các phong
trào, tổ chức của kiều bào có quan hệ với trong nước và người có những đóng góp,
giúp đỡ tích cực cho các cơ quan đại diện hoặc các hoạt động đối ngoại của Việt Nam
ở nước ngoài được Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan
đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài xác nhận”
Đây là những đối tượng đóng góp vào mặt chính tri - xã hội cho đất nước. Việc
quy định cho đối tượng được phép mua và sở hữu nhà tại Việt Nam có ý nghĩa to lớn
cho xã hội. Quy định này của pháp luật Việt Nam chính là đến đáp lại những đóng góp
của đối với đất nước trong quá khứ và hiện tại, cụ thể hóa, hiện thực hóa chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với họ, đồng thời khuyến khích các đối tượng này tích cực
đóng góp cho sự phát triển xã hội, sự đoàn kết dân tộc,..
Đối tượng là nhà hoạt động văn hóa,nhà khoa học, người có kỹ năng đặc biệt mà
cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam: Theo Điểm
b Khoản 2 Điều 66 NĐ 71/2010 NĐ-CP có quy định:
“- Nhà văn hoá, nhà khoa học, bao gồm: người được phong học hàm, học vị về
khoa học, giáo dục, văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao của Việt Nam hoặc của
nước ngoài, các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế - xã hội đang làm việc tại Việt Nam.
Các đối tượng này phải được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thủ
trưởng các trường đại học, cao đẳng, học viện, viện nghiên cứu của Việt Nam mời về
làm chuyên gia, cộng tác viên, giảng dạy và có xác nhận của cơ quan, tổ chức mời về
việc đối tượng này đang làm việc tại cơ quan, tổ chức đó;
- Người có chuyên môn, kỹ năng đặc biệt có giấy xác nhận về chuyên môn, kỹ
năng của hiệp hội, hội nghề nghiệp Việt Nam hoặc của cơ quan cấp Bộ phụ trách lĩnh
vực chuyên môn, kỹ năng kèm theo giấy phép hà nh nghề chuyên môn tại Việt Nam do
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (đối với trường hợp pháp luật yêu cầu phải
có giấy phép hành nghề) hoặc Giấy phép lao động do cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam cấp (đối với trường hợp pháp luật không yêu cầu phải có giấy phép hành nghề)”
Việc thu hút nhân tài,chất xám đang là một trong những chính sách hàng đầu của
hầu hết các quốc gia nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế-xã hội.Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là một trong những nguồn lực to lớn trong sự phát triển về
khoa hoc kỹ thuật ,công nghệ và giáo dục.

14
Đối tượng là người có vợ chồng là công dân sinh sống trong nước: Theo Điểm b
Khoản 2 Điều 66 NĐ 71/2010 NĐ-CP có quy định: “Người có vợ hoặc chồng là công
dân Việt Nam sinh sống ở trong nước có giấy tờ chứng nhận kết hôn do cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài cấp kèm theo hộ khẩu thường trú và
giấy chứng minh nhân dân của một bên vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam ở trong
nước”
2.1.2. Điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam
Theo Điểm b, Khoản 2, Điều 8 luật nhà ở năm 2014 quy định về điều kiện được
công nhận quyền sở hữu nhà ở:
“1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam; đối với tổ chức, cá nhân nước
ngoài thì phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 160 của Luật này.
2. Có nhà ở hợp pháp thông qua các hình thức sau đây:
a) Đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước thì thông qua hình thức đầu
tư xây dựng, mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận góp vốn, nhận đổi nhà
ở và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì thông qua hình thức mua,
thuê mua nhà ở thương mại của doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản
(sau đây gọi chung là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản); mua, nhận tặng cho,
nhận đổi, nhận thừa kế nhà ở của hộ gia đình, cá nhân; nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ở trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại được phép bán nền để tự tổ
chức xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật;
c) Đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài thì thông qua các hình thức quy định tại
khoản 2 Điều 159 của Luật này.
Điều kiện được công nhận quyền sở hữu nhà ở đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài là phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam và phải có nhà ở hợp pháp
thông qua hình thức mua, thuê mua nhà ở thương mại của doanh nghiệp, hợp tác xã
kinh doanh bất động sản; mua, nhận tặng cho, nhận đổi, nhận thừa kế nhà ở của hộ gia
đình, cá nhân; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở trong dự án đầu tư xây dựng
nhà ở thương mại được phép bán nền để tự tổ chức xây dựng nhà ở theo quy định của
pháp luật.
Theo Khoản 2, Điều 5 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, đối với
người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì phải có giấy tờ sau
đây:
“2.Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì phải có giấy tờ theo quy
định sau đây:
Trường hợp mang hộ chiếu Việt Nam thì phải còn giá trị và có đóng dấu kiểm
chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu.

15
Trường hợp mang hộ chiếu nước ngoài thì phải còn giá trị có đóng dấu kiểm
chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu và kèm
theo giấy tờ chứng minh còn quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ xác nhận là người gốc
Việt Nam do Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan quản lý về người Việt Nam ở nước ngoài cấp hoặc
giấy tờ khác theo quy định của pháp luật Việt Nam”
Mặt khác theo Khoản 1, Điều 6 của Nghị định này quy định:
“Điều 6. Cấp Giấy chứng nhận cho chủ sở hữu nhà ở
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có giấy tờ chứng minh tạo lập nhà ở hợp pháp
(tuân thủ điều kiện và hình thức) theo quy định của Luật Nhà ở, pháp luật kinh doanh
bất động sản và pháp luật có liên quan (bao gồm cả nhà ở được đầu tư xây dựng theo
quy hoạch xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong các dự án quy định
tại Khoản 2 Điều 17 của Luật Nhà ở) và có giấy tờ chứng minh đối tượng được sở hữu
nhà ở theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này thì được Nhà nước cấp Giấy chứng
nhận đối với nhà ở đó.
Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài nếu không được nhập cảnh vào
Việt Nam mà được tặng cho hoặc được thừa kế nhà ở tại Việt Nam thì không được
công nhận quyền sở hữu nhà ở mà phải thực hiện quy định tại các Khoản 2, 3, 4 và 5
Điều 78 của Nghị định này”
Theo Điểm b, Khoản 2, Điều 119 Luật Nhà ở quy định điều kiện của các bên
tham gia giao dịch về nhà ở như sau:
“Nếu là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì phải có đủ
năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao dịch về nhà ở theo quy định của pháp luật
Việt Nam, phải thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của
Luật này và không bắt buộc phải có đăng ký tạm trú hoặc đăng ký thường trú tại nơi
có nhà ở được giao dịch”.
3. Quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài:
Tại Điều 10 Luật nhà ở 2014 quy định vè quyền của chủ sở hữu nhà ở và người
sủ dụng nhà ở:
“1. Đối với chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài thì có các quyền sau đây:
a) Có quyền bất khả xâm phạm về nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của mình;
b) Sử dụng nhà ở vào mục đích để ở và các mục đích khác mà luật không cấm;
c) Được cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
mình theo quy định của Luật này và pháp luật về đất đai;
d) Bán, chuyển nhượng hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho,
đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở;

16
trường hợp tặng cho, để thừa kế nhà ở cho các đối tượng không thuộc diện được sở
hữu nhà ở tại Việt Nam thì các đối tượng này chỉ được hưởng giá trị của nhà ở đó;
đ) Sử dụng chung các công trình tiện ích công cộng trong khu nhà ở đó theo quy
định của Luật này và pháp luật có liên quan. Trường hợp là chủ sở hữu nhà chung cư
thì có quyền sở hữu, sử dụng chung đối với phần sở hữu chung của nhà chung cư và
các công trình hạ tầng sử dụng chung của khu nhà chung cư đó, trừ các công trình
được xây dựng để kinh doanh hoặc phải bàn giao cho Nhà nước theo quy định của
pháp luật hoặc theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê mua nhà ở;
e) Bảo trì, cải tạo, phá dỡ, xây dựng lại nhà ở theo quy định của Luật này và
pháp luật về xây dựng; g) Được bồi thường theo quy định của luật khi Nhà nước phá
dỡ, trưng mua, trưng dụng nhà ở hoặc được Nhà nước thanh toán theo giá thị trường
khi Nhà nước mua trước nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của mình vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng hoặc trong
tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai;
h) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu hợp
pháp của mình và các hành vi khác vi phạm pháp luật về nhà ở. CÔNG BÁO/Số 1169
+ 1170/Ngày 29-12-2014
2. Trường hợp thuộc diện sở hữu nhà ở có thời hạn theo quy định tại khoản 1
Điều 123 của Luật này thì trong thời hạn sở hữu nhà ở, chủ sở hữu được thực hiện các
quyền quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; khi
hết thời hạn sở hữu nhà ở theo thỏa thuận thì chủ sở hữu đang quản lý, sử dụng nhà ở
phải bàn giao lại nhà ở này cho chủ sở hữu nhà ở lần đầu.
3. Đối với chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài thì có các quyền theo
quy định tại Điều 161 của Luật này.
4. Người sử dụng nhà ở không phải là chủ sở hữu nhà ở được thực hiện các
quyền trong việc quản lý, sử dụng nhà ở theo thỏa thuận với chủ sở hữu nhà ở.”
Về quyền sử dụng đất, Khoản 1 Điều 186 Luật Đất đai năm 2013 quy định,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng có quyền sở hữu nhà ở theo
quy định của pháp luật về nhà ở thì có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam
Điều 186. Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; người nước ngoài hoặc người Việt Nam
định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất ở tại Việt Nam
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng có quyền sở hữu
nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở thì có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với
quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam
Kết luận: Như vậy, theo quy định của pháp luật người Việt Nam định cư ở nước
ngoài thuộc đối tượng được phép sở hữu nhà ở và gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại
Việt Nam.

17
2.2. Chính sách của người nước ngoài tại Việt Nam
2.2.1. Sơ lược quá trình hình thành các quy định của pháp luật điều chỉnh cho phép
người nước ngoài ở tại Việt Nam
Từ năm 1993, sau khi Luật Đất đai được Quốc hội thông qua, Nhà nước Việt
Nam đã cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam làm việc hoặc đầu tư
được quyền thuê đất tại Việt Nam. Tiếp đó, năm 1994, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh về Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại
Việt Nam, trong đó có quy định các tổ chức nước ngoài được thuê đất tại Việt Nam
bao gồm: cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước ngoài, các đại diện
của tổ chức Liên hiệp quốc tại Việt Nam, cơ quan tổ chức liên Chính phủ, tổ chức, cá
nhân nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam theo Luật Đầu tư nước ngoài. Các cơ quan,
tổ chức ngoại giao, tổ chức quốc tế được phép hoạt động tại Việt Nam khi được Nhà
nước cho thuê đất thì có quyền xây dựng và sở hữu công trình trên đất thuê trong thời
hạn thuê đất. Đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam đầu tư theo Luật
Đầu tư nước ngoài thì được quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn với tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình trên đất thuê tại các ngân hàng Việt Nam.
Đến năm 2001, sau khi Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội thông qua, Nhà
nước mới có chính sách cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia đầu tư xây
dựng nhà ở để khắc phục sự thiếu hụt về nhà ở. Để cụ thể hóa quy định này, tại Nghị
định số 71/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001, Chính phủ đã cho phép nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam đầu tư xây dựng như: thành lập doanh nghiệp liên doanh với các
tổ chức kinh tế trong nước, hợp đồng hợp tác liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn nước
ngoài… Quy định này đã góp phần đáp ứng một phần nhu cầu về nhà ở của người dân,
đặc biệt là nhà để phục vụ một số đối tượng có khó khăn về nhà ở. Đến Luật Đất đai
năm 2003, Nhà nước đã mở rộng hơn quyền cho nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
đầu tư xây dựng, kinh doanh nhà ở, nhà đầu tư được quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn
bằng tài sản của mình trên đất thuê tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam, được bán tài sản gắn liền với đất thuê, được chuyển nhượng quyền sử dụng
đất…
Như vậy, đến thời điểm năm 2003, Nhà nước đã có một loạt các quy định về đất
đai liên quan đến người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong đó
có những quy định tạo sự ưu đãi hơn, điều kiện thông thoáng hơn cho người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam, đặc biệt là các tổ chức, cá
nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép đầu tư xây dựng
nhà ở để bán và cho thuê. Những quy định của Luật Đất đai năm 2003 đã góp phần tạo
ra một quỹ nhà ở không nhỏ để đáp ứng nhu cầu về nhà ở của người dân, đồng thời
giúp tạo ra bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại.
Hiến pháp năm 2013 và Luật Đất đai năm 2013 đã tạo nền tảng pháp lý quan
trọng cho quyền có nhà ở được ghi nhận trong Luật Nhà ở năm 2014. Người nước

18
ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam. So với trước đây, Luật Nhà ở năm
2014 có nhiều ưu điểm hơn:
Về đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, theo Nghị quyết số
19/2008/QH12 ngày 3/6/2008 của Quốc hội về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân
nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam (còn hiệu lực đến hết ngày 30/6/2015)
thì các tổ chức nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Luật Nhà ở năm
2014 đã quy định mở rộng đối tượng tổ chức nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam. Cụ thể, ngoài doanh nghiệp nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại
Việt Nam, Luật còn bổ sung thêm các tổ chức cũng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh
nghiệp nước ngoài (DNNN); quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Về loại nhà ở mà DNNN được quyền sở hữu, cũng theo Nghị quyết số
19/2008/QH12, loại nhà ở mà DNNN được sở hữu chỉ bao gồm các căn hộ chung cư
trong dự án phát triển nhà ở thương mại.Trong khi đó, theo Luật Nhà ở năm 2014 thì
DNNN được quyền mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại
(bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ) trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ
khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ. Đây là một trong
những nội dung quan trọng, mở rộng hơn so với quy định của Nghị quyết số
19/2008/QH12 nhằm góp phần thúc đẩy, khuyến khích hoạt động đầu tư của nước
ngoài vào Việt Nam.
Về số lượng nhà ở mà DNNN được sở hữu, doanh nghiệp nước ngoài không có
chức năng kinh doanh bất động sản (BĐS) được sở hữu không quá 30% số lượng căn
hộ trong một tòa nhà chung cư; nếu là nhà ở riêng lẻ (bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền
kề) thì trên một khu vực có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường chỉ
được sở hữu không quá 250 căn nhà. Trường hợp trong một khu vực có số dân tương
đương một đơn vị hành chính cấp phường mà có nhiều nhà chung cư hoặc đối với nhà
ở riêng lẻ trên một tuyến phố thì số lượng cụ thể căn hộ, nhà ở riêng lẻ mà DNNN
được sở hữu sẽ được Chính phủ quy định. Trường hợp DNNN được tặng cho, được
thừa kế nhà ở vượt quá số lượng nêu trên thì chỉ được hưởng giá trị của nhà ở đó. Đây
là điểm nổi bật trong chính sách về quyền sở hữu nhà ở của DNNN của Nhà nước khi
quy định mở rộng loại hình nhà ở được sở hữu đối với đối tượng này. Tuy nhiên, điểm
mới so với Nghị quyết số 19/2008/QH12 là Luật Nhà ở năm 2014 đã chi tiết hóa việc
xử lý nhà ở khi hết hạn sở hữu ngay tại văn bản luật. Theo đó, trước khi hết hạn sở hữu
nhà ở, chủ sở hữu có thể tặng cho hoặc bán nhà ở này cho các đối tượng thuộc diện
được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Nếu quá thời hạn được sở hữu nhà ở mà chủ sở hữu
không thực hiện bán, tặng cho thì nhà ở đó thuộc sở hữu của Nhà nước Việt Nam.
2.2.2. Các quy định về đối tượng và điều kiện để người nước ngoài ở tại Việt Nam
Theo điều 159 Luật nhà ở 2014 Đối tượng được sở hữu nhà ở và hình thức sở
hữu nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân nước ngoài

19
“1.Đối tượng tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao
gồm:
a) Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam
theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan;
b) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của
doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài
đang hoạt động tại Việt Nam (sau đây gọi chung là tổ chức nước ngoài);
c) Cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam.
2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua các
hình thức sau đây:
a) Đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam theo quy định của Luật này và
pháp luật có liên quan;
b) Mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm căn
hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ khu vực bảo
đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ.”
Theo Điều 160 Luật nhà ở năm 2014 về điều kiện tổ chức, cá nhân nước ngoài
được sở hữu nhà ở tại Việt Nam quy định :
“1. Đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại điểm a khoản 1 Điều 159
của Luật này thì phải có Giấy chứng nhận đầu tư và có nhà ở được xây dựng trong dự
án theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
2. Đối với tổ chức nước ngoài quy định tại điểm b khoản 1 Điều 159 của Luật
này thì phải có Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ liên quan đến việc được phép
hoạt động tại Việt Nam (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận đầu tư) do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp.
3. Đối với cá nhân nước ngoài quy định tại điểm c khoản 1 Điều 159 của Luật
này thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam và không thuộc diện được hưởng
quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật.
4. Chính phủ quy định chi tiết giấy tờ chứng minh đối tượng, điều kiện tổ chức,
cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”
2.3. Thực trạng sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong chính sách cho
người Việt Nam ở nước ngoài
Cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận của dân tộc
Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có được những ưu đãi đối với vấn
đề nhà ở. Tuy vậy, nhưng các chính sách, pháp luật về nhà ở vẫn có những yếu kém
trong quá trình thực hiện, đặc biệt là việc thực thi các quy định về sở hữu nhà ở cho
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Số lượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép sở hữu nhà ở còn ở
mức rất thấp so với nhu cầu thực tế.

20
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận các thông tin liên quan đến các điều kiện thủ tục, các chính sách pháp luật về nhà
ở liên quan đến họ.
Để được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mất
thời gian và chi phí làm thủ tục. Do đó mà đa số những người Việt Nam định cư ở
nước ngoài lựa chọn các hình thức cũ như là nhờ người thân, bạn bè tại Việt Nam
đứng tên mua nhà, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà ở của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Nguyên nhân
Thứ nhất, về việc xác định các loại giấy tờ chứng minh đối tượng người Việt
Nam định cư ở nước ngoài: Những người Việt Nam định cư ở nước ngoài cần xác
nhận nguồn gốc Việt Nam để có thể áp dụng các chính sách về nhà ở tại Việt Nam.
Thứ hai, về quy định hạn chế đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam: các đối
tượng thuộc diện quy định của pháp luật trở về Việt Nam thực hiện mua và sở hữu nhà
ở là không nhiều. Chủ yếu họ là những đối tượng đã sở hữu nhà ở thông qua việc nhờ
người thân quen ở trong nước đứng tên mua nhà hộ. Còn một số Việt kiều thực sự có
nhu cầu về nhà ở lại không thuộc nhóm đối tượng được phép sở hữu nhà ở theo quy
định của pháp luật.
Thứ ba, một số thủ tục hành chính còn phức tạp, gây khó khăn cho người Việt
Nam định cư ở nước ngoài trong việc đi lại, tiếp xúc giải quyết công việc với các cơ
quan có thẩm quyền.
2.4. Chính sách hoàn thiện pháp luật cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Thứ nhất, đối với vấn đề quản lý việc sở hữu nhà ở của người nước ngoài, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cần tăng cường quản lý đối với các tổ chức, cá nhân
nước ngoài mua nhà tại Việt Nam. Cần xác minh các điều kiện được phép mua nhà ở –
như các loại giấy tờ chứng minh -một cách chặt chẽ. Các cơ quan quản lý nhà nước
cần chứng thực một cách rõ ràng các loại giấy tờ, giấy phép chứng thực đủ điều kiện
mua nhà của người nước ngoài tại Việt Nam. Các cơ quan có thẩm quyền cần coi trọng
đến khả năng phát sinh các vấn đề lớn khi vốn nước ngoài đầu tư vào thị trường BĐS.
Bộ Xây dựng và các cơ quan có liên quan cần tăng cường trách nhiệm quản lý, giám
sát hoạt động này. Các địa phương không được tự ý đề ra những chính sách ưu đãi đối
với DNNN. Cần tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp vi
phạm pháp luật về nhà ở.
Thứ hai, đánh thuế cao đối với các giao dịch BĐS nhằm tránh hiện tượng đầu cơ
kiếm lời, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường BĐS. Hiện nay, nhu cầu nhà
ở của người dân là rất lớn, còn nhiều đối tượng không có đủ điều kiện để sở hữu nhà ở
phục vụ đời sống của bản thân và gia đình. Việc ban hành các quy định về thuế nhằm
kiểm soát sự đầu cơ trên thị trường BĐS là một biện pháp hữu hiệu để chặn đứng các
giao dịch làm nhũng nhiễu thị trường và gây cản trở cho việc thực hiện chính sách của
Đảng và Nhà nước.

21
Bên cạnh đó, giảm mức thuế đánh vào các tổ chức, đặc biệt là các cá nhân, hộ gia
đình có nhà riêng lẻ cho thuê để khuyến khích họ công khai tình hình cho thuê nhà,
nhằm tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền quản lý tốt vấn đề nhà ở. Thực tế hiện
nay, Nhà nước đang gặp phải khó khăn trong việc quản lý tình hình thuê nhà ở của
người nước ngoài. Các hộ gia đình, các cá nhân có nhà cho thuê thường không khai
báo hoặc xin xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hoạt động kinh doanh
– cho thuê nhà ở. Điều này không những gây cản trở đến việc truy thu thuế của Nhà
nước, mà còn dẫn đến những khó khăn trong công tác quản lý cư trú.
Thứ ba, đơn giản hóa các thủ tục xác minh, cũng như cần ban hành các văn bản
hướng dẫn quy trình, thủ tục sở hữu nhà của các kiều bào; tổ chức, tuyên truyền và
phổ biến rộng rãi nhằm triển khai một cách đồng bộ. Trên thực tế, các thủ tục hành
chính còn khá phức tạp, gây khó khăn khi chuẩn bị các thủ tục để mua nhà hoặc căn
hộ, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến việc chứng minh đáp ứng đủ các tiêu chí đề ra.
Người nước ngoài muốn mua nhà hoặc căn hộ phải nộp hồ sơ và chờ được thẩm định
tại các cơ quan có liên quan hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường. Trong khi đó, phần
lớn những người bán nhà lại không sẵn lòng chờ đợi một quá trình thẩm định kéo dài.
Thứ tư, cần nghiên cứu để tạo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa tổ chức,
cá nhân nước ngoài trong việc tham gia đầu tư kinh doanh BĐS trên thị trường BĐS
Việt Nam giống như các tổ chức, cá nhân trong nước. Chẳng hạn như sửa đổi quy định
chỉ cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở cho bản thân và gia
đình sinh sống bằng quy định cho phép họ sở hữu nhà ở không hạn chế về số lượng và
mục đích sử dụng. Tuy nhiên, đây là một trong những nhiệm vụ cần có thời gian lâu
dài để tiến hành thực hiện. Điều quan trọng để đạt được sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa tổ chức, cá nhân trong nước với người nước ngoài đó là chính sách quản
lý của Nhà nước ta. Nhà nước chỉ nên quản lý vĩ mô thị trường BĐS, đưa ra những
chính sách khung, định hướng để thị trường phát triển, đảm bảo tính minh bạch.
Thứ năm, Chính phủ cần khuyến khích các ngân hàng đưa ra những chính sách
ưu đãi cũng như tạo điều kiện cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được vay tiền để sử dụng vào mục đích mua nhà ở tại Việt Nam. Nhìn chung,
khi vào Việt Nam đầu tư, vấn đề vốn lưu động luôn là vấn đề lớn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài. Để đầu tư vào các dự án, họ phải thu xếp một lượng vốn rất lớn, nên
thường lựa chọn giải pháp thuê nhà ở để tập trung vốn đầu tư hơn là bỏ tiền ra mua và
sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Chính vì vậy, để khuyến khích việc sở hữu nhà ở, Chính phủ cần xem xét, đề ra
các chính sách ưu đãi hơn về thuế, lãi suất… đối với các ngân hàng trong trường hợp
họ cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể vay tiền để mua nhà sinh sống, làm ăn
tại Việt Nam. Hơn nữa, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Nhà ở năm
2014, Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 và các văn bản pháp luật liên quan thì đã có
quy định cho phép thế chấp tài sản là nhà ở hình thành trong tương lai để vay tiền. Vì
vậy, các ngân hàng có thể yên tâm và tránh các rủi ro khi cho người nước ngoài vay

22
tiền mua nhà ở tại Việt Nam bằng cách sử dụng chính nhà ở sẽ mua của các tổ chức cá
nhân nước ngoài và Việt kiều để làm tài sản bảo đảm.
Ngoài ra, những đối tượng vào Việt Nam đầu tư còn đem theo cả gia đình, vợ
con và có nhu cầu về chỗ ở để yên tâm công tác. Vì thế, chính sách về nhà ở sẽ có vai
trò quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế, thu hút các tổ chức cá nhân nước
ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài có trình độ, bằng cấp vào Việt Nam,
trở về Việt Nam sinh sống, làm việc và đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

23
KẾT LUẬN
“Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”
Đây là lời trích dẫn trong bản di trúc của Bác. Đó la điều mong muốn cuối cùng
của Hồ Chí Minh trước khi qua đời. Đoàn kết gắn liền với độc lập dân tộc, nhân dân
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc đó là chân lý của cuộc sống.
Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức
mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng
bên ngoài. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc
biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền
thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc và của Đảng.
Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc trong sự
kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa cách mạng Việt Nam từng bước đi tới những
thắng lợi như ngày nay và góp phần tích cực, xứng đáng vào sự nghiệp chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Phùng Hữu Phú (1995), Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội
3. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/quyen-dan-su/Nghi-quyet-36-NQ-TW-cong-
tac-nguoi-Viet-Nam-o-nuoc-ngoai-66727.aspx
4. https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-
sach-moi/-17/mot-so-chinh-sach-moi-doi-voi-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai

25

You might also like