You are on page 1of 38

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP NHÓM


HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ X


VÀ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Lớp học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam_29


Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Thắm
Sinh viên thực hiện: Lê Thu Trà 11218295
Đỗ Thị Nga 11218282
Vương Ngọc Huyền 11217015
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh 11212114
Ngô Đắc Quí 11218751
Phạm Thị Minh Châu 11218720
Trương Ngọc Trang 11217004
Đào Thị Linh Chi 11200572
Nguyễn Sơn Hùng 11205394

Hà Nội, tháng 9 năm 2021


MỤC LỤC

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam ...................... 4
1.1. Bối cảnh lịch sử ..................................................................................................... 4
1.1.1. Tình hình thế giới ........................................................................................... 4
1.1.2. Tình hình trong nước ..................................................................................... 4
1.2. Nội dung chính đại hội.......................................................................................... 4
1.2.1. Thông tin cơ bản............................................................................................. 4
1.2.2. Văn kiện .......................................................................................................... 5
1.2.3. Nhân sự khóa mới .......................................................................................... 6
1.3. Đánh giá kết quả ................................................................................................... 6
1.3.1. Thành tựu đạt được ....................................................................................... 6
1.3.2. Hạn chế .......................................................................................................... 10
1.3.3. Nguyên nhân ................................................................................................. 13
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam .................. 14
2.1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................................... 14
2.1.1. Tình hình thế giới ......................................................................................... 14
2.1.2. Tình hình trong nước ................................................................................... 14
2.2. Nội dung chính đại hội........................................................................................ 15
2.2.1. Thông tin cơ bản........................................................................................... 15
2.2.2. Văn kiện ........................................................................................................ 15
2.2.3. Nhân sự khóa mới ........................................................................................ 18
2.3. Đánh giá kết quả ................................................................................................. 18
2.3.1. Thành tựu đạt được ..................................................................................... 18
2.3.2. Hạn chế .......................................................................................................... 24
2.3.3. Nguyên nhân ................................................................................................. 30
3. Điểm mới của đại hội XI ........................................................................................... 31
3.1. Cương lĩnh ........................................................................................................... 31
3.1.1. Về đánh giá cách mạng Việt Nam ............................................................... 31

2
3.1.2. Về bối cảnh quốc tế ...................................................................................... 31
3.1.3. Về mô hình, mục tiêu, phương hướng ........................................................ 32
3.1.4. Về mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới ............................. 33
3.1.5. Về các phương hướng cơ bản ...................................................................... 33
3.1.6. Về định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN .... 33
3.1.7. Về số lượng, vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế ............................. 33
3.1.8. Về định hướng phát triển quốc phòng, an ninh ........................................ 34
3.1.9. Về phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân 34
3.1.10. Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với quân đội và công an ... 35
3.1.11. Định hướng về đối ngoại .............................................................................. 35
3.1.12. Về Đảng Cộng sản Việt Nam ....................................................................... 35
3.2. Đường lối đối ngoại ............................................................................................. 36
3.2.1. Về mục tiêu đối ngoại ................................................................................... 36
3.2.2. Về nhiệm vụ của công tác đối ngoại ........................................................... 36
3.2.3. Về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại 36
3.2.4. Về phương châm, đường lối đối ngoại ....................................................... 37
3.2.5. Về định hướng đối ngoại.............................................................................. 37
3.2.6. Về triển khai các hoạt động đối ngoại ........................................................ 37
Tài liệu tham khảo ............................................................................................................ 38

3
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Tình hình thế giới
Trên thế giới, tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, khó lường. Toàn cầu hóa
kinh tế là một xu thế khách quan, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu
tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển. Khoa học - công nghệ tiếp tục có những bước đột phá mới, tác động nhiều mặt đến
tất cả các nước trên thế giới. Chiến tranh khu vực, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn
giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố... diễn ra ở nhiều nơi với tính
chất ngày càng phức tạp.
1.1.2. Tình hình trong nước
Nền kinh tế đất nước vẫn trong tình trạng kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn so
với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại, tốc độ phát triển kinh tế chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ khoa học - công nghệ quốc gia còn lạc
hậu trên nhiều phương diện. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí rất
nghiêm trọng. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế... Đòi
hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc này là phải ra sức tranh thủ thời cơ, vượt qua thách
thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển với tốc độ nhanh và bền
vững, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong thời điểm vô cùng ý nghĩa là sự nghiệp đổi
mới trên đất nước ta đã trải qua 20 năm.
1.2. Nội dung chính đại hội
1.2.1. Thông tin cơ bản

• Thời gian: từ ngày 18 đến 25/4/2006


• Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
• Dự Đại hội có 1.176 đại biểu.
• Chủ đề của Đại hội: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.”

4
1.2.2. Văn kiện
1.2.2.1. Chiến lược phát triển
Đại hội xác định rõ hơn bản chất của Đảng. Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung) được
Đại hội thông qua nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu được Đại hội đặc biệt quan tâm, xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trước
mắt và lâu dài của Đảng. Đại hội xác định phương hướng và mục tiêu tổng quát của công
tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới là: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng
cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng,
có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”. Đại
hội chỉ rõ, trong thời gian tới cần thực hiện một cách kiên quyết và đồng bộ công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai người tham nhũng, bất
kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu sung công tài sản có nguồn gốc từ
tham nhũng.
Đại hội xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010 là:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
1.2.2.2. Nghị quyết

• Thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và Báo cáo về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX trình Đại hội; giao Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X căn cứ vào kết quả biểu quyết và những kết luận của Đại hội để hoàn
chỉnh và chính thức ban hành.

5
• Thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi.
• Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và các cấp ủy, tổ chức đảng xây
dựng chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối và những chủ trương đã nêu trong các văn kiện Đại hội.
• Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy truyền thống
vẻ vang của toàn Đảng, toàn dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
1.2.3. Nhân sự khóa mới
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 160 ủy viên chính thức, 21 ủy viên dự
khuyết. Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 14
ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
1.3. Đánh giá kết quả
1.3.1. Thành tựu đạt được
1.3.1.1. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản
ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng
lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội
gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001-2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Quy
mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp
3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành,
lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch
tích cực.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành luật
6
pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh
được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển;
nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
1.3.1.2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và các lĩnh vực
xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống
các tầng lớp nhân dân được cải thiện
Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo
dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển.
Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc.
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình
thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên.
Giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia
đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm đã giải quyết
được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%,
tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên. Việt Nam
đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng
bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân. Phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" từng bước đi vào chiều sâu.
Nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên. Việc phòng ngừa, khắc phục suy
thoái, ô nhiễm môi trường được quan tâm và đạt một số kết quả tích cực.
1.3.1.3. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận
an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường. Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế
và lực mới của đất nước. Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và
7
quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc;
đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng ASEAN và Hiến chương ASEAN, đảm
nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước
Đông Nam Á (AIPA). Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn
về tự do, dân chủ, nhân quyền.
Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường
quan hệ hợp tác với các đối tác.
1.3.1.4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố
Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao; quyền
làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng
cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
1.3.1.5. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh,
hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những
vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo
hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lý, điều hành của Chính phủ,
các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn,
quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp
thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi
mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận,
huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc thực hiện
các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan,

8
sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được
nâng lên.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng, chống tham
nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả.
Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng
từng bước được kiềm chế.
1.3.1.6. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết
quả tích cực
Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công
cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào tổng kết và bổ sung, phát triển
Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và các văn kiện
khác trình Đại hội XI của Đảng.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm
vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết quả
bước đầu Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Đa số
cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc
đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo
trong đời sống xã hội.
Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ. Tổ chức bộ
máy các cơ quan đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng
cao hiệu quả.
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố
tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm
vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản
lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp
hằng năm đều tăng.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo;
tiếp tục giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị, đồng thời chú trọng nắm và giải quyết
vấn đề chính trị hiện nay.

9
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu quả được
nâng lên.
Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính
trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại
hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của
các cơ quan lãnh đạo Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu
sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
1.3.2. Hạn chế
1.3.2.1. Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước;
một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài
nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển chậm,
gia công, lắp ráp còn chiếm tỷ trọng lớn. Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển
dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật
hợp lý. Năng suất lao động xã hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Các chỉ
tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đạt kế hoạch do
Đại hội X đề ra.
Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường chưa
được chú ý đúng mức. Chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển
một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản còn yếu, gây
lãng phí, thất thoát lớn. Quản lý thị trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài
chính, có lúc còn lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm giàu bất
chính cho một số người; chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý.
1.3.2.2. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội,
môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội
Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo
nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu
của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất
lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo
dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.

10
Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết chặt
chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn
thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, đổi mới chậm.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên
được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm với công việc. Đời sống của một
bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Xoá đói, giảm
nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn
khá lớn và ngày càng doãng ra. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân
còn thấp.
Văn hoá phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hoá, văn
nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hoá bị xâm hại, lai căng, thiếu
lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của
các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất
đáng lo ngại.
Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn chậm, thực hiện chưa
nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi
đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi
khí hậu; hậu quả của thiên tai còn nặng nề.
1.3.2.3. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế
Nhận thức về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng
viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu "diễn
biến hoà bình" của các thế lực thù địch và "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự phối
hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh
vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa thật đồng bộ.
1.3.2.4. Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy
đầy đủ
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm.
Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia
rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.

11
Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào,
cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
1.3.2.5. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu
cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước
Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu.
Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm;
chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Cải cách hành chính
chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan
liêu, tham nhũng, nhũng nhiễu, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi,
phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
1.3.2.6. Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc
phục
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn
đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc
bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình".
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực
và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với
sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều
cấp, nhiều ngành, ngày càng làm tăng thêm bức xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận
động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" chưa thực sự đi vào chiều
sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.
Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội,
chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Môi
trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát
huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận
tuỵ của cán bộ đối với công việc.

12
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác
quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo
nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ
nhạt.
Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị còn
phiến diện, thiếu chặt chẽ.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra,
giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm
tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố tích cực. Sự đoàn kết, nhất trí ở không
ít cấp uỷ chưa tốt.
Một số tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa quan tâm
đúng mức công tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng vẫn
nặng tính hành chính.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Phong cách, lề lối làm việc đổi
mới chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
1.3.3. Nguyên nhân
1.3.3.1. Thành tựu
Thứ nhất, Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
X, giải quyết kịp thời, có kết quả những vấn đề mới phát sinh.
Thứ hai, có sự đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan
dân cử; sự điều hành năng động của Chính phủ, chính quyền các cấp.
Thứ ba, có sự nỗ lực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của cán bộ,
đảng viên, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các doanh nghiệp.
Thứ tư, bối cảnh hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển đất nước..

13
1.3.3.2. Hạn chế
Nguyên nhân khách quan, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái
kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá
của các thế lực thù địch.
Nguyên nhân chủ quan, do công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới
còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề
lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức còn bất cập.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Tình hình thế giới
Tình hình quốc tế tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Hòa bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố bất trắc, khó lường. Toàn cầu
hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy hình thành xã hội
thông tin và kinh tế tri thức, tác động nhiều mặt đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Kinh
tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn.
Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị
trường, công nghệ, nguồn vốn... giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn
cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... tiếp tục diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á - Thái
Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất
ổn định, nhất là vấn đề tranh chấp lãnh thổ, biển đảo.
2.1.2. Tình hình trong nước
Nền kinh tế đất nước phát triển chưa bền vững, chủ yếu còn tăng trưởng theo chiều
rộng. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những
điểm yếu cản trở sự phát triển. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường chưa được khắc phục có
hiệu quả. Quốc phòng, an ninh còn nhiều hạn chế. Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, quyền tự do, dân chủ của nhân dân còn bị vi phạm.
14
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển
kinh tế và quản lý đất nước. Công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém, chậm được khắc
phục.
2.2. Nội dung chính đại hội
2.2.1. Thông tin cơ bản

• Thời gian: từ ngày 12 đến 19/1/2011


• Địa điểm: Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình, Thủ đô Hà Nội.
• Thành phần tham dự: 1.377 đại biểu.
• Chủ đề: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cảu Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.”
2.2.2. Văn kiện
2.2.2.1. Cương lĩnh
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) được Đại hội thông qua kế thừa và phát triển Cương lĩnh năm 1991
trên nhiều phương diện. Cương lĩnh đánh giá khái quát, cô đọng quá trình cách mạng Việt
Nam, nêu rõ những đặc điểm nổi bật của thời đại trong giai đoạn hiện tại.
Cương lĩnh xác định: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải
ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Để thực hiện mục tiêu to lớn đó, Cương lĩnh vạch rõ phải quán
triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

15
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh chỉ rõ những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, về bản chất và vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương nhất quán, lâu dài của
Đảng.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung nội dung về việc nắm vững
và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển; Giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; Giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; Giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa; Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; …
2.2.2.2. Chiến lược phát triển
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020), Đại hội Đảng lần thứ
XI đã quyết định mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân
chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển
cao hơn trong giai đoạn sau”. Đại hội xác định Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011
- 2020 là Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nhanh,
bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chiến lược đã xác định 5 quan điểm phát triển:

• Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong Chiến lược.

16
• Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
• Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn
lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
• Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng
cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
• Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng
2.2.2.3. Nghị quyết
Thông qua Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI chỉ đạo Bộ Chính trị, căn cứ Báo cáo giải trình của Đoàn Chủ tịch Đại hội, kết quả biểu
quyết, để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
Thông qua Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Giao Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI chỉ đạo Bộ Chính trị, căn cứ Báo cáo giải trình của
Đoàn Chủ tịch Đại hội, kết quả biểu quyết, để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.
Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội X (2006 - 2010) và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015 nêu trong Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình Đại hội XI
Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X trình Đại hội XI. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tiếp thu ý
kiến của Đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
Thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi.
Thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.
Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI và các cấp uỷ, tổ chức đảng xây
dựng chương trình hành động, các kế hoạch công tác để cụ thể hoá và tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối và những chủ trương đã nêu trong các văn kiện Đại hội XI.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang

17
của dân tộc, của Đảng, nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, năng động và sáng tạo, ra sức thi đua quyết tâm thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
2.2.3. Nhân sự khóa mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XI gồm 175 đồng chí Ủy viên chính thức và 25 đồng chí Ủy viên dự khuyết.
Trong khuôn khổ chương trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Hội
nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã họp để bầu Bộ Chính trị gồm 14
Ủy viên, Ban Bí thư gồm 4 ủy viên; bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương gồm 21 đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được Đại hội bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI. Đồng chí Ngô Văn Dụ được bầu làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Trung ương.
2.3. Đánh giá kết quả
2.3.1. Thành tựu đạt được
2.3.1.1. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm. Mặt bằng lãi suất năm 2015 cũng giảm xuống chỉ
còn 40% so với năm 2011. Tỉ giá và thị trường ngoại hối được ổn định, khắc phục cơ bản
tình trạng sử dụng đồng đô la và vàng trong các giao dịch thanh toán, đồng thời làm tăng
niềm tin vào đồng tiền Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu cũng tăng ở mức khá cao; tỉ
trọng sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu tăng mạnh. Cán cân thương mại được
cải thiện. Cán cân thanh toán quốc tế thăng dư khá cao. Dự trữ ngoại hối tăng, đạt mức cao
nhất từ trước tới nay.
Trong giai đoạn này, thu ngân sách tăng gần 2 lần so với giai đoạn 2006 – 2010. Chi
ngân sách cũng được quản lý chặt chẽ hơn, tiết kiệm và ưu tiên cho bảo đảm an sinh xã hội
và phát triển con người. Nợ công và nợ nước ngoài được cơ cấu lại một bước và trong giới
hạn theo quy định của pháp luật.

18
2.3.1.2. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục
hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên
Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên 5,9%/năm.
Riêng năm 2015, GDP đạt 193,4 tỉ USD, bình quân đầu người đạt khoảng 2.109 USD.
Sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo
trong cơ cấu công nghiệp tăng. Khu vực nông nghiệp cơ bản phát triển ổn định. Giá trị gia
tăng khu vực dịch vụ tăng ở mức khá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng tăng bình quân 14,1%/năm (loại trừ yếu tố giá tăng khoảng 5,6%). Tổng doanh thu từ
khách du lịch tăng bình quân 21%/năm; khách quốc tế đạt 7,9 triệu lượt vào năm 2015.
Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được nâng lên, đóng góp của khoa học, công nghệ
tăng; năng suất lao động tăng bình quân 4,2%/năm, cao hơn giai đoạn trước; vốn đầu tư
được sử dụng hiệu quả hơn; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng
trưởng giai đoạn 2011 – 2015 khoảng 29%.
2.3.1.3. Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực
Thứ nhất, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn
thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh có bước được cải thiện. Các
yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành và vận hành khá đồng bộ, gắn kết
hiệu quả hơn với thị trường ngoài nước. Giá hàng hóa, dịch vụ đã cơ bản theo nguyên tắc
thị trường. Năng lực cạnh tranh có bước được nâng lên. Vai trò kinh tế ngoài nhà nước
(không kể đầu tư nước ngoài) ngày càng được phát huy.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ đạt được những kết quả
tích cực. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện. Mạng lưới giáo
dục, đào tạo phát triển cả về lượng và về chất, có nhiều đổi mới theo hướng hợp lý hơn.
Tiềm lực khoa học, công nghệ được tăng cường.
Thứ ba, huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội đạt kết quả quan trọng. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây dựng;
nhiều công trình quan trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất
nước và đã góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và bảo
đảm quốc phòng, an ninh.

19
2.3.1.4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được
kết quả bước đầu
Triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng chiều sâu, nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh với các điểm chính như sau:
Một là, cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công.
Hiệu quả đầu tư có bước được cải thiện; tổng đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm
mạnh nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu
hút vốn đầu tư ngoài nhà nước. Tỉ trọng đầu tư công giảm dần, đầu tư ngoài nhà nước tăng
lên. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục hồi. Đầu tư tư nhân trong nước tiếp tục tăng, chiếm
khoảng 38,5% tổng đầu tư toàn xã hội.
Hai là, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tài chính, tín dụng.
Các tổ chức tín dụng từng bước áp dụng chuẩn mực quản trị theo thông lệ quốc tế,
hiệu quả hoạt động được nâng lên, chất lượng tín dụng được cải thiện; dư nợ tín dụng đối
với nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 tăng khá cao. Tỉ lệ nợ xấu giảm dần về mức thấp.
Các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm từng bước được cơ cấu lại; công tác kiểm
tra, giám sát được tăng cường; thông tin ngày càng công khai, minh bạch; hiệu quả hoạt
động được cải thiện.
Ba là, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng
công ty.
Doanh nghiệp nhà nước cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, tập trung hơn
vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công
thiết yếu. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nhà nước được hoàn thiện. Năng lực quản
trị, tiềm lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được
nâng lên; vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển; giá trị tài sản tăng; tỉ lệ nợ trên vốn
chủ sở hữu trong giới hạn quy định. Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều đạt hiệu quả
sản xuất kinh doanh tốt hơn.
Bốn là, cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Tập trung tổ chức lại sản xuất, đa dạng hóa theo nhu cầu thị trường và xây dựng các
vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, liên kết sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm
gắn với bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; nhân rộng mô hình sản xuất hiệu quả cao. Tăng
cường ứng dụng khoa học, công nghệ. Chương trình xây dựng nông thôn mới được cả nước
20
đồng tình, ủng hộ trên cơ sở rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với đặc thù từng vùng, thu hút
được nhiều nguồn lực và sự tham gia đông đảo của người dân. Đến hết năm 2015 có 1.566
xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 17,5% tổng số xã.
Năm là, cơ cấu lại công nghiệp, dịch vụ và điều chỉnh quy hoạch phát triển vùng.
Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch tích cực; tỉ trọng công nghiệp khai khoáng giảm; tỉ
trọng công nghiệp chế biến, chế tạo so với toàn ngành công nghiệp. Đóng góp của ngành
dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng. Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển mạnh
trên phạm vi cả nước. Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất
lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm. Quy
hoạch phát triển ngành, vùng, sản phẩm được rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với kinh tế
thị trường. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch 6 vùng kinh tế - xã hội, 4 vùng kinh tế trọng
điểm. Hỗ trợ phát triển vùng khó khăn. Tập trung thực hiện Chiến lược biển. Đầu tư phát
triển các ngành kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
2.3.1.5. Văn hóa, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo
đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện
An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục
được cải thiện. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Tăng
thêm ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực để thực hiện tốt hơn các chính sách
xã hội, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai và đồng bào dân tộc thiểu số. Mở rộng
đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách hỗ trợ đối
với các đối tượng khó khăn.
Thị trường lao động có bước phát triển. Trong 5 năm đã tạo việc làm cho khoảng
7,8 triệu người, trong đó đi lao động ở nước ngoài khoảng 469 nghìn người. Tỉ lệ hộ nghèo
giảm; riêng các huyện nghèo giảm khoảng 6%/năm, từ 58,3% xuống còn 28%. Tỉ lệ thất
nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2015 là 2,3%. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tăng. Diện tích nhà ở bình quân đầu người tăng. Nhà ở xã
hội được quan tâm đầu tư, hỗ trợ.
Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,3 tuổi vào năm 2015. Làm tốt công tác y tế dự
phòng, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, ứng
dụng nhiều thành tựu khoa học - công nghệ kỹ thuật cao. Đã tích cực triển khai nhiều giải
pháp giảm quá tải bệnh viện và đạt kết quả bước đầu. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống
các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến cuối. Đội ngũ cán bộ y tế phát triển cả về

21
số lượng và chất lượng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao y đức và đổi mới cơ chế
tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
Công tác chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em; công tác gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ đạt kết quả tích cực.
Các giá trị văn hóa dân tộc, di tích lịch sử được quan tâm bảo tồn, phát huy. Nhiều di sản
văn hóa vật thể, phi vật thể được công nhận là di sản văn hóa quốc gia và thế giới. Sản
phẩm văn hóa, văn học - nghệ thuật ngày càng phong phú. Các phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa; thể dục, thể thao được đẩy mạnh.
Chính sách dân tộc được quan tâm; tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm. Công
tác dân vận được chú trọng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
được củng cố, phát huy. Các cơ quan báo chí, xuất bản làm tốt hơn nhiệm vụ thông tin,
tuyên truyền.
2.3.1.6. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí
hậu được tăng cường
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện. Công tác kiểm tra,
thanh tra việc thực thi và xử lý vi phạm được chú trọng.
Việc quản lý, sử dụng đất đai, nguồn nước, khoáng sản chặt chẽ và hiệu quả hơn.
Công tác điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, định giá tài nguyên có bước tiến
bộ; khai thác, sử dụng phù hợp hơn theo cơ chế thị trường và được giám sát chặt chẽ hơn.
Quan tâm khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo và vật liệu thay thế,
thân thiện với môi trường.
Các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và xử lý cơ sở gây ô nhiễm nghiêm
trọng được tích cực thực hiện. Tỉ lệ thu gom, xử lý chất thải nguy hại đạt khoảng 75%; chất
thải rắn y tế đạt 80%; tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 90%
vào năm 2015. Quan tâm bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển rừng;
tỉ lệ che phủ rừng tăng, đạt khoảng 40,7% vào năm 2015. Tỉ lệ dân số thành thị sử dụng
nước sạch đạt 82%, tỉ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 86% vào năm
2015.
Phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được chú trọng, đạt nhiều kết quả. Năng lực cảnh
báo, dự báo thiên tai được tăng cường, chất lượng có bước được nâng lên. Nhiều dự án ứng
phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng, chống thiên tai được triển khai, tranh thủ được sự
hợp tác, hỗ trợ của nhiều đối tác.

22
2.3.1.7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành
chính đạt những kết quả tích cực; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
được chú trọng
Cải cách hành chính được đẩy mạnh. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách tiếp tục
được hoàn thiện. Chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có bước được nâng lên. Công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người dân được chú
trọng. Hiệu quả thực thi pháp luật được nâng lên.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ, công
chức. Tập trung cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước đổi
mới hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, công khai, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, rút ngắn thời gian thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian
cho người dân, doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước. Chế tài xử lý vi phạm
được hoàn thiện hơn.
Thể chế, tổ chức bộ máy phòng, chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục được hoàn
thiện. Các vụ án tham nhũng được chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của
pháp luật. Nhiều giải pháp tiết kiệm, chống lãng phí được triển khai thực hiện. Nâng cao
hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hạn chế phát sinh mới các
khiếu nại vượt cấp và tập trung xử lý nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài.
2.3.1.8. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ
vững
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp để bảo vệ chủ quyền quốc
gia và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội. Thế trận quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố và gắn kết chặt chẽ hơn. Sức mạnh tổng
hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được nâng
lên. Công tác nghiên cứu khoa học về lĩnh vực quốc phòng đạt được một số kết quả, đáp
ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kỹ thuật quốc phòng. Kết hợp hiệu quả hơn giữa phát triển
kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chính trị, xã hội ổn định; an ninh quốc gia và trật
tự, an toàn xã hội được bảo đảm, không để bị động, bất ngờ. Ứng phó kịp thời với các mối
đe dọa an ninh phi truyền thống. Công tác phòng, chống tội phạm và bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông, phòng, chống cháy nổ và an toàn lao động được tập trung chỉ đạo, đạt được
một số kết quả tích cực.

23
2.3.1.9. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và
đạt nhiều kết quả tích cực
Kiên định trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia, dân
tộc. Quản lý và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển với các nước láng
giềng. Làm tốt công tác bảo hộ công dân.
Tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác; nâng cấp quan hệ song
phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện; đưa quan
hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn. Đã chủ động tham
gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc. Kiên trì cùng ASEAN thúc đẩy
thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và tiến tới xây
dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa
thuận thương mại đã có và đàm phán, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy phát triển và nâng cao tính tự chủ của nền
kinh tế. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên.
2.3.2. Hạn chế
2.3.2.1. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc
Việc kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực sự
bền vững. Cân đối ngân sách nhà nước còn khó khăn; chi ngân sách chưa phù hợp. Tuy vẫn
bảo đảm trong giới hạn quy định nhưng nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; sử dụng vốn
vay ở một số dự án kém hiệu quả và còn thất thoát, lãng phí. Đóng góp của khu vực kinh
tế trong nước vào tăng trưởng xuất khẩu thấp. Chất lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu
còn gặp nhiều khó khăn. Thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản phát triển chưa đồng
bộ, thiếu bền vững và còn tiềm ẩn rủi ro. Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn biến
phức tạp.
2.3.2.2. Kinh tế phục hồi còn chậm, tăng trưởng chưa đạt chỉ tiêu đề ra; chất
lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp
Tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,9%/năm, thấp hơn 5 năm trước và chưa đạt chỉ
tiêu đề ra. Khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực còn lớn. Số lượng doanh
nghiệp trong nền kinh tế tăng chậm. Doanh nghiệp quy mô lớn còn ít. Số doanh nghiệp
ngừng hoạt động, giải thể còn lớn. Nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng, hiệu quả

24
hoạt động chưa cao. Chưa huy động được cao nhất các nguồn lực của khu vực tư nhân vào
đầu tư phát triển. Việc sử dụng tài nguyên còn lãng phí, kém hiệu quả.
Chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp, cải thiện còn chậm; năng suất nhiều
ngành, lĩnh vực còn thấp; công nghệ sản xuất phần lớn còn lạc hậu. Đóng góp của năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế, hệ số sử dụng vốn (ICOR)
còn cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh
tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.
2.3.2.3. Thực hiện các đột phá chiến lược và tạo nền tảng để đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt
mục tiêu đề ra
Thứ nhất, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng
mắc, chưa tạo được đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều quy định trong hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách và quản lý, điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của
kinh tế thị trường. Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để bảo đảm
cho doanh nghiệp, người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị
trường còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học, công nghệ còn chậm.
Chất lượng giáo dục, đào tạo chậm cải thiện; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo
dục còn thiếu tính liên thông, chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ. Công tác phân luồng và
hướng nghiệp còn hạn chế. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào
tạo khắc phục còn chậm, đào tạo chưa gắn chặt với nhu cầu xã hội. Khoa học, công nghệ
chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ hiệu quả chưa cao. Năng
lực đội ngũ khoa học, công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học đầu ngành. Số lượng
sáng chế, công trình khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín còn ít.
Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Phát triển
đường cao tốc và đầu tư nâng cấp một số tuyến quốc lộ quan trọng còn chậm; mạng lưới
đường sắt khổ hẹp, lạc hậu; một số cảng biển, sân bay đã quá tải. Hiệu quả hoạt động của
ngành điện còn thấp; chất lượng điện chưa ổn định. Nhiều hệ thống thủy lợi chưa đồng bộ,
xuống cấp nghiêm trọng. Chất lượng hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển. Công tác đảm bảo an ninh, an toàn mạng còn nhiều khó khăn. Quản lý đô thị còn
nhiều mặt yếu kém, hạ tầng chưa đồng bộ, kém chất lượng và quá tải tại các thành phố lớn.
25
Hệ thống cấp, thoát nước còn bất cập; tình trạng ngập úng tại các thành phố lớn chậm được
xử lý. Công nghệ xử lý chất thải rắn còn lạc hậu. Chưa có đột phá trong cơ chế, chính sách
thu hút nguồn lực ngoài nhà nước tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng. Nhiều tiêu chí để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không
đạt.
2.3.2.4. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
còn chậm, chưa đồng bộ
Mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ
thấp. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đầu vào sản xuất của một số ngành còn lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu.
Sản xuất kinh doanh chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất
khẩu thô, xuất khẩu dưới hình thức gia công còn lớn; hàm lượng giá trị quốc gia và giá trị
gia tăng còn thấp.
Đổi mới công nghệ và phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao còn
chậm; tỉ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp. Năng suất
lao động còn thấp. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ đạt khoảng 18% GDP vào
năm 2015, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Chưa phát triển được nhiều sản
phẩm có giá trị công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm và kết quả đạt
được chưa đồng đều, chưa đạt mục tiêu đề ra; nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
chưa đáp ứng yêu cầu. Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, cơ giới hóa, công nghiệp
chế biến nông sản và dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu. Hợp
tác, liên kết trong sản xuất nông nghiệp phát triển còn chậm, kinh tế tập thể hoạt động còn
lúng túng. Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, thiếu bền vững, hiệu quả chưa cao; chất
lượng sản phẩm, năng suất lao động và thu nhập của người nông dân còn thấp. Tỉ trọng lao
động trong nông nghiệp còn lớn.
Nhiều ngành dịch vụ phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống phân phối
còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông suốt, hiệu quả và chưa bảo
đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ. Phát triển du lịch còn chậm,
chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chất lượng dịch vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp
chưa cao.

26
Một số vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế chưa phát huy được vai trò đầu tàu cho
tăng trưởng kinh tế. Không gian phát triển nhiều mặt còn bị chia cắt theo địa giới hành
chính. Thiếu thể chế tạo liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng để phát
huy cao nhất tiềm năng, lợi thế.
Cơ cấu lại đầu tư công ở một số ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu; đầu tư
dàn trải, hiệu quả thấp, thất thoát, lãng phí ở một số dự án còn lớn; xử lý nợ đọng xây dựng
cơ bản chậm. Cơ chế, chính sách chưa đủ sức hấp dẫn để huy động nguồn lực tư nhân trong
và ngoài nước vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; chậm hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với
hình thức hợp tác công - tư (PPP). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa quan tâm nhiều
đến công nghệ, tỉ lệ nội địa hoá và bảo vệ môi trường.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng mới thực hiện được giai đoạn đầu. Chất lượng tín
dụng và dịch vụ ngân hàng cải thiện còn chậm. Cơ cấu tín dụng chưa thật phù hợp với yêu
cầu phát triển. Năng lực tài chính, quản trị, kiểm tra, giám sát nội bộ của một số tổ chức tín
dụng còn yếu, nợ xấu còn cao. Sở hữu và hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ
phần thiếu minh bạch, có mặt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá, thoái vốn ở một số doanh nghiệp
chưa đạt tiến độ. Tỉ lệ vốn được cổ phần hóa còn thấp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của
nhiều doanh nghiệp nhà nước thấp, chưa tương xứng với tài sản và nguồn lực, thất thoát,
lãng phí còn lớn. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt
của kinh tế nhà nước.
2.3.2.5. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều mặt yếu kém, khắc phục còn
chậm
Xã hội hóa còn chậm và chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy động được
nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội.
Thị trường lao động chưa thật thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó khăn, thông
tin về cung - cầu lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm; tỉ trọng lao
động trong khu vực nông nghiệp còn lớn. Số người thiếu việc làm và việc làm không ổn
định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn; một bộ phận sinh viên sau tốt nghiệp khó tìm
được việc làm; chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền lương của đại bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động còn thấp, lương tối thiểu chưa đảm bảo đủ mức
sống tối thiểu. Tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức còn cao (khoảng 56%), thiếu chế tài
để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động khu vực này. Chưa có cơ chế, chính

27
sách phù hợp để tuyển chọn lao động có năng lực và đưa người không đáp ứng yêu cầu ra
khỏi khu vực nhà nước.
Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Kết quả giảm nghèo chưa
bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân
cư còn lớn. Một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, chưa đồng
bộ, hiệu quả chưa cao và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo. Tỉ lệ bao
phủ và chất lượng dịch vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp. Quỹ bảo hiểm
xã hội chưa bền vững.
Chất lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Y đức của
một bộ phận cán bộ y tế chưa tốt. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm,
nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt còn bất cập. Việc thực hiện lộ trình giá
thị trường đối với dịch vụ y tế và cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp y tế công lập
còn chậm. Quản lý nhà nước về hoạt động y tế tư nhân, thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn
thực phẩm còn nhiều yếu kém. Công nghiệp dược phát triển chậm. Tuổi thọ bình quân tăng
nhưng chất lượng cuộc sống chưa cao.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu. Nhiều
biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong xã hội. Tệ nạn xã hội còn diễn
biến phức tạp. Quản lý văn hóa, nghệ thuật, lễ hội, các di tích lịch sử còn hạn chế. Nhiều
sản phẩm văn hoá, nghệ thuật chất lượng thấp. Đời sống văn hóa còn nhiều hạn chế. Thể
thao thành tích cao phát triển còn chậm. Quản lý thông tin, báo chí, nhất là trên Internet còn
nhiều bất cập. Quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế.
2.3.2.6. Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường
còn hạn chế
Quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; thanh
tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm. Điều tra cơ bản và quy hoạch sử dụng
tài nguyên chưa đáp ứng yêu cầu. Việc giao quyền quản lý, khai thác, sử dụng đất đai,
khoáng sản, rừng, nguồn nước chưa phù hợp với kinh tế thị trường và hiệu quả chưa cao;
vẫn còn tình trạng khai thác trái phép tài nguyên, khoáng sản.
Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô nhiễm môi trường ở nhiều
nơi còn nghiêm trọng; xử lý vi phạm môi trường chưa nghiêm. Việc khắc phục hậu quả về
ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn nhiều khó khăn. Chất lượng dự báo, nguồn
lực và năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu.

28
Tình trạng ngập úng ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục. Sạt lở ven biển, ven
sông và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp. Sử dụng năng lượng tái tạo còn ít.
2.3.2.7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế
Năng lực xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách chưa cao; một số văn
bản pháp luật ban hành còn chậm, chưa phù hợp với thực tiễn; nhiều chính sách còn chồng
chéo, chậm khắc phục. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, chồng chéo và
chưa đủ cụ thể, chưa rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới, chưa phù hợp với đặc điểm đô thị
và hải đảo. Công tác thông tin truyền thông về chính sách, pháp luật, quản lý, điều hành và
trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền còn nhiều hạn chế. Năng lực, phẩm chất, ý
thức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu. Thủ tục
hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, doanh
nghiệp. Giám sát, phản biện xã hội đối với xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách hiệu
quả chưa cao.
Cơ chế phân cấp quản lý kinh tế, xã hội nhiều mặt chưa thật phù hợp; sự phối hợp
giữa các bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ; làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý tập
trung thống nhất của Trung ương và tính năng động, chịu trách nhiệm của địa phương.
Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí
vẫn còn nghiêm trọng. Kê khai tài sản còn hình thức. Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh
tra hiệu quả còn thấp. Ý thức tiết kiệm chưa được đề cao; lãng phí thời gian, nguồn lực xã
hội còn lớn. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiệu quả chưa cao, một số trường hợp còn
kéo dài, gây bức xúc trong dư luận.
2.3.2.8. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng,
an ninh chưa thật chặt chẽ
Tiềm lực quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng được yêu cầu. Bảo vệ chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức. Phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh ở một số nơi gắn kết chưa thật chặt chẽ. Chưa có cơ chế, chính
sách để phát triển mạnh mô hình công nghiệp lưỡng dụng. An ninh, trật tự và an toàn xã
hội trên một số địa bàn còn phức tạp. Bảo vệ bí mật quốc gia còn nhiều yếu kém. Công tác
bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng còn nhiều bất cập. Tình hình trật tự, an
toàn giao thông còn diễn biến phức tạp, tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng.

29
2.3.2.9. Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có mặt chưa thật chủ
động và hiệu quả chưa cao
Chưa tạo được nhiều sự đan xen lợi ích kinh tế với các đối tác. Ngoại giao đa phương
chưa phát huy hết các lợi thế. Khai thác những thuận lợi trong hội nhập hiệu quả chưa cao.
Chưa chuẩn bị tốt các điều kiện để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức trong hội nhập.
Cơ chế phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế còn bất cập. Thông
tin về hội nhập quốc tế chưa được phổ biến rộng rãi đến cộng đồng doanh nghiệp và người
dân. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng kịp yêu cầu.
Sự gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội, ngoại
giao nhân dân có mặt còn hạn chế.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ,
chưa thống nhất, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính
sách và trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội nhiều mặt còn lúng túng, thiếu
nhất quán, chưa thật phù hợp với kinh tế thị trường nên hiệu quả chưa cao, chưa tạo được
động lực mạnh mẽ để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Thứ hai, tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước nhiều mặt
còn hạn chế. Việc thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách trong nhiều trường hợp
còn chậm, chất lượng thấp, tính khả thi chưa cao. Chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát,
đôn đốc thực hiện và sơ kết, tổng kết thực tiễn. Chưa thay thế được kịp thời những cán bộ
không đủ phẩm chất, năng lực, thiếu trách nhiệm, thực thi kém hiệu quả trong triển khai
thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội chưa thật phù hợp, hiệu lực,
hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển trong kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế. Khả năng phân tích, dự báo còn bất cập. Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức và việc đào tạo, sử dụng cán bộ còn nhiều mặt hạn chế.
Tính thượng tôn pháp luật, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu;
thiên tai, dịch bệnh. Những biến động đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới các nước thế giới
30
nói chung và nước ta nói riêng, chỉ rõ những bất cập trong cơ chế chính sách đã à đang
được thực hiện.
Thứ hai, do những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới và khu
vực, tình hình căng thẳng do vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, các thế lực thù
địch không ngừng chống phá nhằm gây mất ổn định chính trị, kinh tế, xã hội nước ta, sử
dụng mọi phương tiện xuyên tạc, chia rẽ nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, chia rẽ nội bộ Đảng nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành tựu
công cuộc đổi mới đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá trình thực
hiện kinh tế thị trường chúng ta chưa lường hết được những tác động mặt trái của nó. Việc
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện, những việc bồi dưỡng, nâng cao cảnh giác,
sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên trước những tác động xấu còn hạn chế.
Thứ ba, Nhiệm kỳ này có sự thay đổi trong thể chế chính sách và hệ thống pháp luật
nên một số quy định ban hành chậm, việc tổ chức thực hiện và các quy định, hướng dẫn
của Trung ương có những khó khăn, lúng túng.
3. Điểm mới của đại hội XI
3.1. Cương lĩnh
3.1.1. Về đánh giá cách mạng Việt Nam
Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã đánh giá khái quát quá trình cách mạng Việt Nam
trong hơn 80 năm qua; vừa khẳng định những dấu mốc lịch sử quan trọng của cách mạng
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, vừa khơi dậy được lòng tự hào dân tộc, không làm ảnh
hưởng đến quan hệ đối ngoại hiện nay.
3.1.2. Về bối cảnh quốc tế
Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 kế thừa những nội dung còn giá trị trong Cương lĩnh
năm 1991, những dự báo trong các văn kiện Đại hội Đảng trước đây và viết gọn hơn theo
hướng không đi sâu vào những vấn đề không liên quan trực tiếp đến nước ta, nhất là những
vấn đề còn có ý kiến khác nhau, như về nguyên nhân sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô
(trước đây) và Đông Âu; cân nhắc, đánh giá, đúng mức hơn về CNTB. Điểm mới nhất là
nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại "các nước với chế độ
xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách,

31
nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến tới CNXH”.
3.1.3. Về mô hình, mục tiêu, phương hướng
Thứ nhất, bổ sung thêm hai đặc trưng.
Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” và “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai đặc trưng này đã được Đại hội X bổ sung, nhưng điểm
mới so với Đại hội X là chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng”. Bởi vì, cả về lý luận
và thực tiễn đều khẳng định: có dân chủ thì mới có công bằng, văn minh; đồng thời, để
nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, tiếp tục bổ sung, phát triển nội dung một số đặc trưng.
Đặc trưng về con người: Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Dự thảo Cương lĩnh năm
2011 kế thừa Văn kiện Đại hội X (đã bỏ cụm từ "bóc lột"), bỏ các cụm từ “được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, bất công”, viết: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện”. Xác định như thế là chính xác, vì Cương lĩnh nói tới mục
tiêu đã xây dựng xong CNXH.
Đặc trưng về dân tộc. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đại hội X thêm từ “tương trợ” sau “đoàn
kết”. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 thay từ “tương trợ” bằng “tôn trọng” và thay từ “tiến
bộ” bằng “phát triển”. Vì vấn đề đặt ra là, các dân tộc tôn trọng nhau và không chỉ giúp
nhau cùng tiến bộ mà còn giúp nhau cùng phát triển.
Thứ ba, kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội X về đặc trưng “Do nhân dân
làm chủ" (bỏ từ “lao động” sau từ "nhân dân"), bởi vì, xã hội này là xã hội của nhân dân
và đặc trưng Cương lĩnh nói tới là mục tiêu đã xây dựng xong CNXH, nên lúc đó, không ai
là người không lao động.
Thứ tư, về đặc trưng kinh tế.
Cương lĩnh năm 1991 xác định “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đại hội X thể
hiện có "mềm" hơn, nhưng không mâu thuẫn với Cương lĩnh 1991: “Có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
32
phát triển của lực lượng sản xuất”. Để khẳng định rõ mục tiêu khi đã xây dựng xong
CNXH, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết tương tự như Cương lĩnh năm 1991. Viết như
vậy để Đảng ta chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, kiên trì phấn đấu thực hiện từng bước trong
suốt thời kỳ quá độ.
3.1.4. Về mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới
Cương lĩnh chỉ nêu mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ và mục tiêu đến
khoảng giữa thế kỷ XXI. Theo đó, “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước
ta là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước
XHCN ngày càng phồn vinh”. So với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương lĩnh năm
2011 có điều chỉnh một vài từ; dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ sở kinh
tế". Viết như vậy vừa thể hiện rõ quá trình phát triển, vừa có ý nghĩa động viên toàn Đảng,
toàn dân ta phấn đấu vì một xã hội tương lai tốt đẹp. Về mục tiêu của chặng đường sắp tới,
Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 chỉ nêu mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ XXI: toàn Đảng,
toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại, theo định hướng XHCN.
3.1.5. Về các phương hướng cơ bản
Cương lĩnh năm 1991 xác định 7 phương hướng, với nội dung có nhiều trùng lắp.
Để khắc phục điểm này, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 nêu 8 phương hướng cơ bản như
đã đề cập ở phần trên
Để thực hiện đúng các phương hướng cơ bản trên, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011
còn bổ sung một nội dung về việc nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn. Đây là kinh
nghiệm của 20 năm qua và có giá trị chỉ đạo trong những thập kỷ tới.
3.1.6. Về định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Cương lĩnh năm 1991 chưa sử dụng thuật ngữ kinh tế thị trường. Kế thừa sự bổ sung,
phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng VIII, IX, X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối".
3.1.7. Về số lượng, vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế
Cương lĩnh năm 2011 xác định 3 thành phần kinh tế chính là: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân; đồng thời, khẳng định: "Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan
kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển...” Trong quá
33
trình xây dựng dự thảo, có ý kiến cho rằng, không nên xác định thành phần kinh tế nào là
chủ đạo, là nền tảng; có ý kiến đề nghị chỉ cần nêu “kinh tế nhà nước là chủ đạo”. Tại Hội
nghị Trung ương 12, trong Bản giải trình, Bộ Chính trị đề nghị: việc xác định vai trò, vị trí
của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là vấn đề rất hệ trọng, liên quan đến đặc trưng của xã
hội XHCN; vấn đề này đã được thảo luận nhiều và được đa số đại biểu tán thành. Là Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, những định hướng lớn về thành
phần kinh tế và vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Vì vậy, Cương lĩnh cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò nền tảng
của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
3.1.8. Về định hướng phát triển quốc phòng, an ninh
Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh
là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta”. So với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương lĩnh lần này đã xác định đầy đủ hơn,
chính xác hơn mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Sự phát triển này đã được xác định
ở Văn kiện Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) và Văn kiện Đại hội X.
Cương lĩnh năm 1991 mới đề cập đến “Phát triển đường lối và nghệ thuật quân sự
chiến tranh nhân dân”, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung thêm “lý luận, khoa học
an ninh”. Cương lĩnh năm 1991 mới đề cập đến sự kết hợp kinh tế với quốc phòng - an
ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển KT-XH. Dự thảo
Cương lĩnh năm 2011 xác định sự kết hợp này phải “trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội”. Cương lĩnh năm 1991 xác định “từng bước
xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang, trong đó có
công an nhân dân được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại”. Dự thảo Cương lĩnh năm
2011 đã bổ sung, phát triển thành “Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo
đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại”.
3.1.9. Về phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
Cách thể hiện như Cương lĩnh năm 1991 chưa thật chính xác và còn trùng lặp. Dự
thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”.
34
3.1.10. Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với quân đội và công an
Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập đến vai trò quản lý của Nhà nước. Vì thế, Dự thảo
Cương lĩnh năm 2011 viết: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân
và sự nghiệp quốc phòng - an ninh”.
3.1.11. Định hướng về đối ngoại
Cương lĩnh năm 1991 mới xác định mục tiêu của chính sách đối ngoại. Kế thừa sự
phát triển của các đại hội, nhất là Đại hội X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã thể hiện đầy
đủ hơn: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN
giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Về hợp tác trong khu vực và quốc tế, Cương lĩnh năm 1991 mới chỉ ra sự hợp tác
dựa trên những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Trên thực tế, sự hợp tác cần phải trên cơ
sở những nguyên tắc được quốc tế thừa nhận. Do đó, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết
“Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị-xã
hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật
pháp quốc tế”. Cương lĩnh năm 1991 mới chỉ ra phát triển quan hệ với các nước Đông Nam
Á, nhằm góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hoà bình và hợp tác. Trên thực tế,
mục tiêu lớn hơn của sự hợp tác là ổn định, phát triển và phồn vinh. Vì thế, Dự thảo Cương
lĩnh năm 2011 viết: “Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu
vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh”…
3.1.12. Về Đảng Cộng sản Việt Nam
Kế thừa cách diễn đạt bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Đại hội X, Dự thảo
Cương lĩnh năm 2011 viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Về nền
tảng tư tưởng của Đảng, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 kế thừa Văn kiện Đại hội IX của
Đảng, bổ sung làm rõ khái niệm, nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với cách mạng nước ta. Về phương thức lãnh đạo của Đảng , Dự thảo bổ sung
thêm: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ”, “Đảng lãnh

35
đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính
trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”…
3.2. Đường lối đối ngoại
Từ Báo cáo chính trị đến Chiến lược và Cương lĩnh, đường lối đối ngoại của Đảng
được đề cập phù hợp với nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn, nhưng thống nhất về mục tiêu, nguyên tắc, phương châm và những định hướng
lớn, lâu dài. Nội dung của phần đối ngoại trong các văn kiện đó hợp thành Đường lối đối
ngoại Đại hội XI.
3.2.1. Về mục tiêu đối ngoại
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong
phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Khẳng định rõ hơn
định hướng: Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc
gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và
lợi ích của dân tộc.
3.2.2. Về nhiệm vụ của công tác đối ngoại
Văn kiện Đại hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi
trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới”.
Điểm mới trong phần đối ngoại của văn kiện Đại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh
an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ”. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát
triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
3.2.3. Về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại
Tái khẳng định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới,
Đại hội XI nêu: “bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến
chương Liên hợp quốc”. Bên cạnh những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Đại hội XI,
phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới trên biển

36
và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn đề tồn tại
trên cơ sở các “nguyên tắc ứng xử của khu vực”...
3.2.4. Về phương châm, đường lối đối ngoại
Các văn kiện của Đại hội khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội XI là “hội nhập quốc
tế” và “thành viên có trách nhiệm”.
3.2.5. Về định hướng đối ngoại
Bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp
tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, Đại hội XI nêu định hướng về: giải quyết
các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ; ưu tiên đối tác và định hướng quan hệ ASEAN; đối
ngoại Đảng; ngoại giao nhân dân và; định hướng tổ chức thực hiện. Về đối ngoại quốc
phòng, an ninh, Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh”, “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, song phương và đa
phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến
chương Liên hợp quốc”.
Với định hướng này, đối ngoại quốc phòng, an ninh sẽ tiếp tục phát triển và có vai
trò ngày càng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế
giới.
3.2.6. Về triển khai các hoạt động đối ngoại
Đại hội XI nêu rõ: “Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại”. Khi hội
nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh vực thì việc triển khai đối ngoại tất yếu phải toàn diện và
để các hoạt động này không chồng chéo, không triệt tiêu lẫn nhau thì việc triển khai phải
được thực hiện đồng bộ.
Tính toàn diện của đối ngoại Việt Nam được quy định bởi sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối ngoại; tính
toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối ngoại và; sự đa dạng của các mối quan hệ đối
ngoại trong quá trình hội nhập.

37
Tài liệu tham khảo

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. (2006). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. (2006). Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX về Công tác xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. (2006). Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm 2006 -
2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. (2006). Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. (2011). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. (2011). Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. (2011). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
(2006). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam.
(2011). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam.

38

You might also like