You are on page 1of 123

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA THÀNH ỦY HẢI PHÒNG


HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA THÀNH ỦY HẢI PHÒNG


HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. BÙI ĐÌNH PHONG

HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Đình Hoàng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan tới luận án .............................................. 8
1.2. Kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề đặt ra cho luận án ..... 25
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG ............. 29
2.1. Một số khái niệm cơ bản ....................................................................... 29
2.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
tư tưởng..............................................................................................38
Chương 3: CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA THÀNH ỦY HẢI PHÒNG
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ......................................................... 77
3.1. Khái quát những yếu tố ảnh hưởng đến công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng ............................................................................ 77
3.2. Thực trạng công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh .............................................................................. 85
3.3. Những vấn đề đặt ra cho công tác tư tưởng của Thành ủy Hải
Phòng hiện nay .................................................................................. 116
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
CỦA THÀNH ỦY HẢI PHÒNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH HIỆN NAY .................................................................... 124
4.1. Phương hướng công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng ......................... 124
4.2. Giải pháp công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ....................................................................................... 130
KẾT LUẬN.................................................................................................. 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................ 158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 159
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

Bảng 3.1: Số lượng học viên trong chương trình Cao cấp lý luận chính
trị giai đoạn 2016 - 2019 .............................................................. 91
Bảng 3.2: Số lượng lớp, học viên chương trình Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính của Trường Chính trị Tô Hiệu giai
đoạn 2016 - 2019 ......................................................................... 92
DANH MỤC CÁC BIỂU

Trang
Biểu đồ 3.1: Mức độ thường xuyên làm công tác tư tưởng của cán
bộ, đảng viên tại Hải Phòng ................................................. 106
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ người dân quan tâm đến vấn đề chính trị tại Hải Phòng ...... 109
Biểu đồ 3.3: Đánh giá của người dân về nguyên nhân hạn chế của
công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng ......................... 112
Biểu đồ 3.4: Mức độ sử dụng kỹ năng của cán bộ làm công tác tư
tưởng tại Thành ủy Hải Phòng ............................................. 114
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và công tác tư tưởng
của Đảng nói riêng là nội dung lớn, nhất quán trong lý luận và hoạt động thực
tiễn cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác tư tưởng không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi
cán bộ, đảng viên, mà còn là nội dung xuyên suốt trong hoạt động của Đảng
cũng như cả hệ thống chính trị.
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh hết sức chú trọng đến công tác tư tưởng của Đảng. Với Người, công
tác tư tưởng là yếu tố cốt lõi giúp Đảng luôn giữ vững bản chất giai cấp công
nhân, thực hiện vai trò tiên phong, lãnh đạo trong bất kỳ giai đoạn cách mạng
nào. Muốn kiên định, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, thông suốt
đường lối chính trị của Đảng, thống nhất trong Đảng… thì làm tốt công tác tư
tưởng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Theo Người: "Giáo dục tư
tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết
chống cái thói xem nhẹ tư tưởng" [60, tr.279]. Trong Báo cáo Hội nghị lần
thứ Sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ngày 15-7-1954,
Người nhấn mạnh: "Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong
Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư
tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu
trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư
tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công
việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi" [60, tr.554-555].
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt
công tác tư tưởng ở một vị trí đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng và sự
nghiệp lãnh đạo cách mạng đất nước. Quan điểm này luôn nhất quán qua các
kỳ đại hội, theo chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam. Với nhận thức đúng
đắn đó, Đảng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong thực tiễn cách mạng;
2

lãnh đạo đất nước phát triển trên tất cả các phương diện về kinh tế, văn hóa,
xã hội…, thế và lực của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường
quốc tế; nhân dân tin tưởng vào trí tuệ, uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng…
Cùng với những thành tựu đã đạt được, công tác tư tưởng của Đảng
trong những năm qua còn tồn tại một số hạn chế như một bộ phận cấp ủy, cán
bộ, đảng viên còn chưa coi trọng công tác tư tưởng; công tác tư tưởng tại một
số địa phương, cơ quan, còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao… Cùng
với đó là những mặt trái của cơ chế thị trường dẫn đến nhiều vấn đề bất cập,
phức tạp; dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thông tin về mọi
lĩnh vực dễ bị xuyên tạc và lan truyền rộng rãi; một số hạn chế, yếu kém tồn tại
ngay trong nội tại của Đảng Cộng sản Việt Nam như sự tha hóa biến chất của
một bộ phận cán bộ, đảng viên… Mặt khác, tình hình quốc tế, khu vực có
nhiều bất ổn, đặc biệt là tình trạng khủng bố, trạng thái chính trị cực đoan, chủ
nghĩa dân tộc ở nhiều nước. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt
động chống phá dưới các chiêu bài "lòng yêu nước" "bảo vệ chủ quyền biển,
đảo", "bảo vệ môi trường", "bảo vệ dân chủ, nhân quyền”... để kích động, gây
rối. Không những vậy, sự xuyên tạc khoa học, tấn công chủ nghĩa Mác - Lênin,
tạo ra tâm lý khủng hoảng, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình
trong nước và quốc tế nêu trên, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân cả
nước với Đảng dần bị xói mòn. Nếu không làm tốt công tác tư tưởng, không
tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân thì vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng như mục tiêu xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Là một chiến sĩ xuất sắc trên mặt trận công tác tư tưởng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn coi công tác tư tưởng là một vũ khí sắc bén để lãnh đạo Đảng,
dân tộc giành độc lập, thống nhất và xây dựng, phát triển đất nước. Trước bối
cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, công tác tư tưởng là hoạt động quan
trọng nhất mà toàn Đảng phải chú trọng. Để công tác này thực sự hiệu quả thì
3

cần có một lý luận, thực tiễn đã được kiểm chứng qua lịch sử soi đường. Và
không có gì quý giá, ý nghĩa hơn những lý luận và phương thức mà Hồ Chí
Minh đã tôi luyện trong suốt cuộc đời làm cách mạng của Người. Do vậy,
thực hiện công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay là yêu cầu
cấp bách trong mỗi Đảng bộ nói riêng, toàn Đảng nói chung.
Với xu hướng phát triển trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
của thành phố Hải Phòng hiện nay, Thành ủy Hải Phòng luôn coi công tác tư
tưởng là yêu cầu cấp thiết để xây dựng Đảng bộ thành phố vững mạnh, đủ
năng lực lãnh đạo toàn diện, thực hiện thành công mọi nhiệm vụ chính trị.
Thành ủy Hải Phòng luôn đề cao vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư
tưởng, coi đây vừa là cơ sở lý luận, vừa là cơ sở thực tiễn mà Thành ủy Hải
Phòng có thể vận dụng sáng tạo nhằm thực hiện thành công công tác tư tưởng
tại địa phương. Với vị trí địa lý cũng như các tiềm năng về kinh tế, xã hội, Hải
Phòng được coi là đầu mối giao thông quan trọng cả trong nước và quốc tế,
trên đường biển, đường bộ, đường hàng không. Là điểm thu hút, giao lưu
thương mại trong nước và quốc tế nên cùng với quá trình phát triển kinh tế
của thành phố là sự xuất hiện lối sống thực dụng của kinh tế thị trường; những
luồng tư tưởng, văn hóa đối lập với văn hóa truyền thống; những tư tưởng
chống phá Đảng và Nhà nước; những cách nghĩ, nhận thức tiêu cực, mất niềm
tin vào con đường cách mạng Việt Nam... Do vậy, công tác tư tưởng của
thành phố có ý nghĩa quan trọng cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, ổn định chính trị và đặc biệt là
xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.
Những năm qua, cùng với việc đề ra đường lối, chủ trương lãnh đạo,
chỉ đạo đúng đắn trong phát triển các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
Thành ủy Hải Phòng luôn thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng, mà trọng
tâm là công tác tư tưởng. Thành ủy Hải Phòng xác định đây là một nội dung
quan trọng, thiết yếu nhất nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
4

của Đảng bộ thành phố, góp phần quan trọng vào phát triển thành phố giàu
mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, văn hóa - xã hội, vững mạnh về quốc
phòng an ninh, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Bên cạnh thành tựu đã đạt
được, quá trình thực hiện công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng còn một
số hạn chế cần được giải quyết như: một bộ phận cán bộ, đảng viên có những
biểu hiện suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị, quan liêu, xa dân; có
trường hợp còn nhận thức và hành động sai trái, nhận thức về chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn giản đơn. Công tác tư tưởng còn biểu hiện
thiếu sắc bén, chưa linh hoạt, chưa thực sự là công cụ hiệu quả trong ngăn chặn
và đẩy lùi được những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân... Do đó, trong giai đoạn này, Thành ủy
Hải Phòng cần phải làm tốt công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, góp
phần xây dựng niềm tin, xây dựng khối đại đoàn kết trong toàn Đảng, toàn dân
nói chung, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hải Phòng nói riêng.
Với ý nghĩa là một hoạt động quan trọng của Đảng cùng những vấn đề
cấp bách đặt ra cho công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Thành
ủy Hải Phòng, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài "Công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài luận
án tiến sỹ của mình. Đề tài không chỉ hệ thống lý luận về công tác tư tưởng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn làm rõ hoạt động này của Thành ủy Hải
Phòng về thành tựu, hạn chế và cả những vấn đề đặt ra, từ đó đưa ra giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng trong thời
gian tới.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng để vận dụng
vào công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện nay; từ đó, phân tích,
đánh giá thực trạng công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng và đề xuất
5

phương hướng, giải pháp công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án, chỉ ra
những vấn đề đã được nghiên cứu; xác định những vấn đề cần tập trung
nghiên cứu trong luận án
- Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác tư tưởng của Thành ủy
Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt công tác
tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư
tưởng; thực trạng và giải pháp công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, nghiên cứu làm
rõ khái niệm, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng; công tác
tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng và định hướng giải pháp công tác tư tưởng
của Thành ủy Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về không gian: Luận án nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác tư tưởng; công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu công tác tư tưởng của Thành ủy Hải
Phòng trong giai đoạn từ năm 2015 đến nay (năm 2015 là năm diễn ra Đại hội
đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XV).
6

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và các lý
thuyết về khoa học xây dựng Đảng, về công tác tư tưởng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử trong nghiên cứu tư tưởng, lý luận và công tác tư tưởng.
- Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản như phương pháp
thống nhất giữa lịch sử và logic; phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh;
phương pháp văn bản học; phương pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn; phương
pháp điều tra xã hội học; phương pháp phỏng vấn… để tổng hợp, xử lý số liệu,
tạo cơ sở, căn cứ cho nhận định, đánh giá mang tính khách quan, khoa học.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu, phân tích và làm sáng tỏ một cách có hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam.
Thứ hai, đánh giá, hệ thống hóa những thành tựu đạt được và những
hạn chế, yếu kém, nguyên nhân trong việc thực hiện công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng hiện nay.
Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp công tác tư tưởng của Thành
ủy Hải Phòng trong thời gian tới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ giá trị bền vững trong những nội dung cơ bản
của công tác tư tưởng của Đảng dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học,
lấy đó làm cơ sở góp phần xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh chống lại những tư tưởng và nhận thức làm phương hại đến uy tín,
vai trò lãnh đạo của Đảng.
7

Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn giúp Thành ủy Hải
Phòng thực hiện tốt công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt
động xây dựng Đảng trên địa bàn thành phố.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án góp phần cung cấp nội dung, phương hướng, giải pháp với
Thành ủy Hải Phòng trong việc thực hiện công tác tư tưởng tại địa phương.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực tư tưởng,
lý luận của Đảng ở hệ thống trường chính trị, quân sự và các cơ quan, các
ban của Đảng;
Kết quả của luận án góp phần bổ sung cơ sở dữ liệu cho các cơ quan
tham mưu, nghiên cứu khi xây dựng nghị quyết, đề án hay chuyên đề nghiên
cứu chuyên sâu về công tác tư tưởng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Luận án được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.
8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói chung và công tác tư
tưởng nói riêng là nội dung được các nhà khoa học nghiên cứu và phản ánh
giá trị của nó trong thời đại ngày nay. Những nghiên cứu khoa học này được
tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung ở một số hướng nghiên cứu cơ
bản sau:
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng
Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và
công tác tư tưởng vô cùng đồ sộ với ý nghĩa lý luận và thực tiễn phong phú.
Trong số đó, phải kể đến những cuốn sách được các nhà lý luận, học giả đánh
giá cao như:
Cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận (Kỷ yếu Hội
thảo khoa học) của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng thuộc Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [128] tập hợp 25 bài viết của các tác giả
trong và ngoài Học viện đã phân tích, khẳng định những đóng góp to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận; về việc truyền bá lý luận
cách mạng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
và ý nghĩa to lớn của nó trong tình hình hiện nay. Các tác giả bước đầu nghiên
cứu một số quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng, lý luận, làm rõ những
đóng góp về mặt lý luận của Người về cách mạng Việt Nam, góp phần lý giải
những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên phương diện lý luận cách mạng đã
được thực tiễn kiểm nghiệm. Đồng thời, trong nhiều bài viết đã đề cập tới
công tác tư tưởng trong tình hình mới dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Các tác giả đã chỉ ra những kinh nghiệm, chỉ giáo, sáng tạo trong công
tác tư tưởng, lý luận Hồ Chí Minh, để từ đó, đúc rút những bài học quý báu,
9

phục vụ cho quá trình tiến hành công tác tư tưởng, nghiên cứu và truyền bá tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng đến với mọi tầng lớp
nhân dân một cách hiệu quả, thiết thực.
Cuốn Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng do hai tác giả Hồng Vinh và
Đào Duy Quát đồng chủ biên [124] là công trình nghiên cứu chuyên sâu về
công tác tư tưởng với nhiều mảng nội dung lớn được thể hiện ở 6 phần: Phần
thứ nhất, Hồ Chí Minh phát triển chủ nghĩa Mác, Ăngghen, Lênin về lý luận
công tác tư tưởng; Phần thứ hai, Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống của dân tộc, tiếp thư tinh hoa văn hóa nhân loại trong công tác tư
tưởng; Phần thứ ba, Hồ Chí Minh với từng lĩnh vực công tác tư tưởng; Phần
thứ tư, Hồ Chí Minh về phương pháp công tác tư tưởng; Phần thứ năm, Hồ
Chí Minh với công tác tư tưởng; Phần thứ sáu, vận dụng lý luận và phương
pháp công tác tư tưởng của Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. Cuốn sách
xoay quanh sự phát triển về lý luận công tác tư tưởng của Hồ Chí Minh và
những ảnh hưởng to lớn của Hồ Chí Minh với quá trình hình thành, phát triển
tư tưởng cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, công trình này làm rõ hơn các
nội dung của công tác tư tưởng như nghiên cứu lý luận, tuyên truyền, cổ
động, báo chí; Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng trong các tầng lớp xã hội
khác nhau, phương pháp và nghệ thuật làm công tác tư tưởng của Hồ Chí
Minh. Trong Phần thứ sáu, các tác giả đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phát
huy di sản tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác tư tưởng của Đảng ta trong
giai đoạn hiện nay.
Cuốn Một số vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam của hai tác giả Bùi Đình Phong và Phạm Ngọc Anh [77] là một công trình
khoa học được hình thành trên cơ sở tập hợp những tham luận khoa học, bài
nghiên cứu của hai tác giả được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành. Công trình được kết cấu bằng cách sắp xếp có hệ thống nhiều nội dung
lớn nhằm làm nổi bật một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí
10

Minh về xây dựng Đảng. Trong đó, hai tác giả đã dành nhiều tâm huyết để luận
giải nhiều nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tư tưởng, lý luận của Đảng.
Những kết quả nghiên cứu này có giá trị đối với hoạt động nghiên cứu chuyên
sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh trên từng lĩnh vực, từng nội dung cụ thể trong
công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác tư tưởng, lý luận.
Năm 2005, cuốn sách Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới do tác giả Nguyễn Văn Sáu chủ biên [87] đã phân tích về công
tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống và toàn
diện. Tác giả làm rõ những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về
nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh và tiến hành khảo sát thực trạng
công tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Từ
những nội dung khảo sát và nghiên cứu, công trình đưa ra phương hướng, giải
pháp giáo dục tư tưởng trong điều kiện mới. Tuy nhiên, những nội dung trên
chủ yếu tập trung đến đối tượng trong học viên, sinh viên ở các trường học,
chưa đề cập nhiều đến các đối tượng khác, do đó, nội dung nghiên cứu, giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ tiếp cận dưới góc độ hẹp, chuyên sâu.
Cuốn sách Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh
do tác giả Hoàng Quốc Bảo biên soạn [10] lại tiếp cận công tác tư tưởng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh qua việc tìm hiểu nguồn gốc và nêu lên những đặc
trưng cơ bản của phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh - một bộ phận cấu
thành trong công tác tư tưởng. Trong "Học tập phương pháp tuyên truyền
cách mạng Hồ Chí Minh", tác giả khẳng định: trong công tác tư tưởng, cán
bộ làm công tác tuyên truyền là nhân tố quyết định, và phương pháp tuyên
truyền cách mạng Hồ Chí Minh là một phương pháp hiệu quả có giá trị trong
cả quá khứ và thời đại mới. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao, đổi mới phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ tư
tưởng theo phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh.
Cuốn Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng thiên tài của tác giả Trần Nhâm [69]
là công trình khoa học nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh một cách công phu,
11

tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh một cách toàn diện. Với 8 nội dung cơ bản, tác
giả đã luận giải và làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận phong phú, sâu
sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, tư duy mới về Đảng cầm quyền của
tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là trung tâm của cuốn sách. Đó là tư duy về
xây dựng Đảng ta thành một đảng trí tuệ, đảng trong sạch, xứng đáng với với
vai trò lãnh đạo cách mạng dân tộc. Công trình khoa học này có ý nghĩa lớn
trong việc tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh, mở ra hướng
tiếp cận mới trong việc nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng.
Cuốn Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả Bùi Đình Phong [74] đã tiếp cận những
vấn đề thực tiễn, cấp bách hiện nay trong xây dựng Đảng trên cơ sở lý luận về
tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ nghiên cứu Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam trong chương 1; Tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong chương 2, và chương 3 đề cập một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, tác
giả đã cho thấy những hiểu biết sâu sắc về một số vấn đề về công tác xây
dựng Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh và hiện nay. Tác giả đi sâu phân tích,
làm rõ những quan điểm của Hồ Chí Minh về sự suy thoái tư tưởng, chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đồng thời, đưa ra
những giải pháp góp phần vào xây dựng, chính đốn Đảng trong điều kiện hiện
nay. Một trong những giải pháp được tác giả chú trọng nhất là cần phải củng
cố, giữ vững lòng tin của nhân dân vào Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của các tác giả là cán bộ nghiên cứu của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của
Đảng [129], nội dung trực tiếp và gián tiếp đề cập đến cách tiếp cận mới về tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác tư
tưởng của Đảng nói riêng. Cuốn sách là tập hợp các công trình nghiên cứu
khoa học, các bài viết được chia thành hai phần. Trong đó, phần thứ nhất làm
12

rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề chung của cách mạng Việt Nam ở
cả lý luận và thực tiễn; phần hai, các tác giả nghiên cứu, làm sáng rõ và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Trong
đó, có bài viết tập trung phân tích quan điểm của Người về vị trí, vai trò và
những vấn đề cốt lõi nhất về công tác xây dựng đội ngũ làm công tác tư tưởng
như xây dựng phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn; đồng thời, đề xuất
một số giải pháp quan trọng về xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư
tưởng theo quan điểm Hồ Chí Minh là phải chú trọng đến đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ làm công tác tư tưởng.
Bên cạnh những cuốn sách với giá trị kể trên, nhiều luận án tiến sĩ đề
cập đến công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh với nhiều góc nhìn
khác nhau đã góp phần khẳng định về sơ sở lý luận và làm phong phú thêm về
cơ sở thực tiễn cho nội dung này, cho chuyên ngành Hồ Chí Minh học và
khoa học chính trị nói chung như:
Luận án tiến sĩ Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của
tác giả Nguyễn Văn Thắng [108] phân tích thực trạng, nguyên nhân và yêu cầu
nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị trên cơ sở lý luận về tư tưởng Hồ
Chí Minh. Luận án tiếp cận nội dung nghiên cứu với đối tượng là cán bộ đơn vị
cơ sở trong quân đội - lực lượng được tôi luyện để có lý tưởng, lý luận chính trị
vững vàng. Với cách tiếp cận trên, tác giả đã khẳng định về vai trò quan trọng
của giáo dục lý luận chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh - bộ phận của công tác
tư tưởng và đề xuất giải pháp đề nâng cao chất lượng hoạt động này cho cán bộ ở
đơn vị cơ sở. Những kết quả nghiên cứu của luận án là định hướng trong nghiên
cứu những thành tố của nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng.
Luận án Tiến sĩ Tâm lý học của tác giả Đinh Thị Mai: Kỹ năng tuyên
truyền bằng lời tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của báo cáo viên cơ sở
[52], tác giả đã đi sâu phân tích lý luận kỹ năng tuyên truyền bằng lời tư
13

tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của báo cáo viên cơ sở; thực trạng mức độ
biểu hiện kỹ năng thiết lập mối quan hệ, kỹ năng quan sát, kỹ năng thuyết
phục, kỹ năng đối thoại của báo cáo viên cơ sở trong công tác tuyên truyền.
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Công tác tư tưởng của tác giả Đỗ Minh
Tuấn (2017): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục lý luận chính trị
cho sinh viên các trường Đại học ở Hà Nội hiện nay [118], tiếp cận dưới góc
độ Chính trị học chuyên ngành Công tác tư tưởng đã tập trung nghiên cứu, làm
rõ triết lý, nguyên tắc, phương châm, nội dung và hiệu quả giáo dục lý luận
chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó là căn cứ để xác lập bộ tiêu chí về
giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên làm cơ sở khảo sát. Luận án đã đánh giá
thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp cho việc tăng cường giáo dục lý
luận chính trị cho sinh viên các trường đại học hiện nay. Mặc dù, luận án chưa
đề cập một cách hệ thống nội dung công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhưng công trình này góp phần làm sáng tỏ giá trị bền vững trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị - một nội dung quan trọng
trong công tác tư tưởng - đặc biệt giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các
trường đại học, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển bền vững đất nước.
Cùng với những công trình nêu trên, có thể kể đến một số bài viết có
giá trị trên các tạp chí liên quan đến công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh như bài viết Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phòng, chống suy
thoái, tự diễn biến, tự chuyển biến trong nội bộ của tác giả Trần Đình Thắng,
[110]; bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản lĩnh chính trị cho thanh niên của
tác giả Trịnh Quốc Việt [133]...
1.1.2. Tình hình nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh về
công tác tư tưởng trong sự nghiệp đổi mới
Một trong những công trình đề cập tương đối toàn diện đến công tác tư
tưởng của Đảng hiện nay là cuốn Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận phục vụ
14

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của tập thể các tác giả do tác giả Phạm
Tất Thắng làm chủ biên [109]. Đây là kết quả nghiên cứu của chương trình
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước. Với những phân tích, dẫn liệu cụ thể,
sinh động và thuyết phục, công trình này nghiên cứu toàn diện về vấn đề đổi
mới công tác tư tưởng, lý luận. Các tác giả kết cấu cuốn sách thành 4 chương
được tiếp cận trên nhiều khía cạnh, nhiều tác động khác nhau cả về thực tiễn
và lý luận đối với công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong thời kỳ đổi mới
đất nước. Trên cơ sở chương 1 trình bày những vấn đề chung về công tác tư
tưởng, lý luận, chương 2 các tác giả đi vào phân tích thực trạng công tác tư
tưởng, lý luận trong thời kỳ đổi mới. Với những phân tích, luận giải tình hình
thế giới, trong nước một vài thập kỷ tới tác động đến tư tưởng, lý luận; dự báo
tình hình tư tưởng xã hội và những vấn đề đặt ra đối với công tác tư tưởng, lý
luận viết trong chương 3, cuốn sách trình bày quan điểm, phương hướng, giải
pháp đổi mới công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.
Trong bộ sách Nguyên lý công tác tư tưởng do tác giả Lương Khắc
Hiếu làm chủ biên [32], các tác giả khái quát những vấn đề chung về công tác
tuyên truyền, đặc biệt đề cập đến những quan điểm có tính nguyên tắc trong
đổi mới công tác tuyên truyền và phương hướng cơ bản đổi mới công tác
tuyên truyền hiện nay. Đây là "công cụ'' rất quý định hướng cho tác giả luận
án tìm hiểu, nghiên cứu và xây dựng các khái niệm, các nội hàm cơ bản của
công tác tư tưởng của Đảng ta hiện nay.
Cuốn Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
của tập thể tác giả do tác giả Đào Duy Quát làm chủ biên [83] đã khái quát lại
toàn bộ quá trình hình thành và phát triển công tác tư tưởng của Đảng trên cả
bình diện lý luận và thực tiễn; khẳng định những thành tựu, nêu rõ những bài
học kinh nghiệm về công tác tư tưởng, góp phần tiếp tục nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
Cuốn Công tác tư tưởng - văn hóa, khoa giáo và nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng của tác giả Lê Xuân Tùng [120] là công trình tuyển chọn những
15

bài nói, bài viết chủ yếu của tác giả. Nét nổi bật của cuốn sách là dù ít đề cập tới
học thuật nhưng mang tính chất tổng kết thực tiễn trong công tác tư tưởng của
Đảng và gợi mở những phương hướng phát triển công tác này. Những bài viết
của tác giả cuốn sách mang tính thực tiễn cao định hướng giúp luận án tiếp
cận, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động công tác tư tưởng của Thành
ủy Hải Phòng hiện nay.
Cuốn Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư
tưởng của tác giả Trần Thị Anh Đào [27] đã hệ thống các vấn đề về công tác
tư tưởng như các khái niệm về tư tưởng, về công tác tư tưởng; phân tích sâu
sắc nội dung và phương thức hoạt động của công tác tư tưởng; đồng thời, nêu
rõ một số giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng. Cuốn sách cũng đề cập tới phẩm chất và năng lực, những hạn chế của
đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng.
Trong cuốn Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới (Giáo
trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền) của Cục Cán bộ, Ban Tuyên
huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc [16], với những luận cứ hết sức
chặt chẽ, các tác giả nghiên cứu một số vấn đề quan trọng liên quan đến công
tác tuyên truyền, công tác lý luận, công tác truyền thông báo chí, công tác văn
học nghệ thuật, công tác xuất bản, công tác điều tra, nghiên cứu thông tin,...
Nội dung các bài viết không những cung cấp kinh nghiệm, thao tác, kỹ năng
công tác tuyên truyền tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc mà còn khái
quát được vị trí, vai trò của nhiệm vụ công tác lý luận, tư tưởng, văn hóa
chính trị của Đảng.
Tác giả Vũ Ngọc Am đã làm rõ vai trò của công tác giáo dục chính trị
tư tưởng với việc nâng cao tính tự giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên
trong cuốn Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay [01]. Cuốn sách đã phân tích khái niệm
và mối quan hệ giữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng với các lĩnh vực khác
16

của công tác tư tưởng. Tác giả đã xây dựng được những nguyên tắc, tiêu chí
đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng ở cơ sở; từ đó, đề xuất
những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác này nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, góp phần
đấu tranh làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, nội dung và phạm vi nghiên cứu của công trình mới chỉ dừng lại ở
một trong những nội dung của công tác tư tưởng và thực hiện ở cấp cơ sở.
Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị do tác
giả Phạm Huy Kỳ làm chủ biên [47] là cuốn sách có ý nghĩa lớn góp phần
nâng cao tính khoa học, chất lượng và hiệu quả công tác nghiên cứu và giáo
dục lý luận chính trị của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Tác giả đã trình
bày một số vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính
trị và đi sâu trình bày về các phương pháp giảng dạy lý luận chính trị - một
hoạt động quan trọng và thường xuyên trong công tác giáo dục lý luận chính
trị của Đảng ta.
Cuốn Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ chức của Đảng
trong thời kỳ đổi mới của tác giả Tô Huy Rứa [86] là tập hợp 70 bài viết và
bài nói của tác giả. Các bài viết này đã phản ánh thực tiễn tình hình đất nước
trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nhiều bài viết
khẳng định, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là thành
tựu về lý luận trong từng lĩnh vực nghiên cứu, ứng với các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã hình thành và phát triển
những nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Điều này thể hiện rõ nét ở một số hoạt động như: công tác tư
tưởng đã gắn bó và phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng
lực và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao. Bên cạnh việc
phân tích các thành tựu đã đạt được, một số bài viết trong cuốn sách cũng tiếp
17

cận những hạn chế và các vấn đề đặt ra của công tác lý luận, tư tưởng và tổ
chức của Đảng hiện nay và chỉ ra phương hướng, giải pháp nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng, đẩy mạnh công tác lý luận,
tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh công
tác lý luận, tư tưởng của Đảng phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy, nâng
cao nhận thức, trước hết là nâng cao trình độ tư tưởng, lý luận trong Đảng, tạo
ra sự chuyển biến nhận thức, thống nhất tư tưởng trong Đảng và trong xã hội,
góp phần tiếp tục bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và đưa sự nghiệp
đổi mới tới thắng lợi.
Cuốn Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo trong giai đoạn hiện nay là
tập hợp các bài viết của nhiều nhà khoa học và các giảng viên của Học viện
Báo chí và tuyên truyền [35] đã tập trung đánh giá, phân tích những thuận lợi,
khó khăn và những vấn đề đặt ra cho công tác tuyên giáo, công tác đào tạo, bồi
cán bộ tuyên giáo; đồng thời, phân tích thực trạng, đề xuất quan điểm, phương
hướng và giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ tuyên giáo trong bối cảnh mới hiện nay.
Cuốn Giữ vững nền tảng tư tưởng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong tình hình mới do tác giả Nguyễn Tiến Quốc chủ biên [36] phản ánh tính
cấp thiết của cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay và vấn đề bảo vệ nền tảng
tư tưởng, lý luận. Bằng lý luận sắc bén và thực tiễn cụ thể, tác giả đã vạch trần
bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đang chống phá sự nghiệp
cách mạng Việt Nam, chống phá Đảng ta về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cuốn
sách này cũng thể hiện cách nhìn nhận mới về sự cần thiết và phương thức tiếp
tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận; bảo vệ nền tảng tư tưởng hiện
nay của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cũng liên quan tới việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa
bình" trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch đối với cách
mạng nước ta trong tình hình hiện nay, cuốn Kiên định nền tảng tư tưởng của
18

Đảng trong tình hình mới của tác giả Nguyễn Bá Dương và các cộng sự [22]
đã tập trung chỉ rõ, phê phán bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các quan điểm
thù địch, sai trái trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Công trình này góp phần
khẳng định bản chất khoa học, cách mạng, bảo vệ và phát triển nền tảng tư
tưởng của Đảng trong tình hình mới và gợi mở nhiều vấn đề cho luận án trong
quá trình tiếp cận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và phê phán các
luồng tư tưởng sai lệch, phản động.
Đề tài khoa học mã số KHBĐ - 37: "Đổi mới và nâng cao chất lượng
công tác tư tưởng ở cơ sở xã, phường (khu vực đồng bằng)" do tác giả Trần
Thị Tâm làm chủ nhiệm [90] đi từ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung
đến nghiên cứu từng loại hình, lĩnh vực của công tác tư tưởng ở từng địa bàn
và đối tượng cụ thể. Đề tài đề cập đến chất lượng các mặt hoạt động công tác
tư tưởng mà chủ thể là tổ chức đảng, cấp ủy và đội ngũ đảng viên cấp cơ sở
xã, phường với những đặc thù các tỉnh đồng bằng Bắc bộ; trong đó, xác định
nhân tố tác động lớn nhất đến công tác tư tưởng ở cơ sở là nhận thức của cấp
ủy cơ sở về vai trò của công tác tư tưởng, là tâm huyết, tích cực và năng lực
của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng ở cơ sở.
Cuốn Nghiên cứu lý luận phục vụ công tác tuyên giáo của tác giả Đỗ
Khánh Tặng [89] đề cập tới công tác tuyên giáo - một trong những nội
dung trọng yếu của công tác tư tưởng. Cuốn sách là tập hợp những bài viết
của tác giả chú trọng vào hai nội dung: một là, tư tưởng Hồ Chí Minh với
nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục và báo chí; hai là, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn chính trị - xã hội theo định hướng công tác
tuyên giáo thời kỳ đổi mới.
Tác giả Phạm Quang Nghị chủ biên cuốn Một số vấn đề lý luận và
nghiệp vụ công tác tư tưởng [70] đã làm rõ các nội dung cơ bản của công tác
tư tưởng của Đảng trong 11 chương. Những nội dung đó gồm: vai trò của lý
luận, của nghiên cứu dư luận xã hội, của văn hóa, văn nghệ trong công tác tư
tưởng; vấn đề đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; công
19

tác tuyên truyền, cổ động... Theo tác giả, công tác tư tưởng chiếm vị trí quan
trọng xuyên suốt toàn bộ hoạt động của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tác giả nhấn mạnh quan điểm: trong
quá trình đổi mới và phát triển đất nước cần chú trọng vào việc tăng cường sự
thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị, tinh
thần trong nhân dân.
Năm 2015, các tác giả Viện Khoa học xã hội nhân văn thuộc Bộ Quốc
phòng đã phân tích và phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch,
góp phần vào cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng
trong cuốn Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh [130]. Đây là công trình nghiên cứu cung cấp cho tác giả những giá trị
khoa học và cách mạng, tính đúng đắn và sáng tạo, sức sống trường tồn của
của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; cung cấp cách thức tiếp cận, lý giải các luận điệu phản động, xuyên tạc
của các thế lực phản động; đồng thời, cung cấp hệ thống dữ liệu và thông tin
quan trọng định hướng tác giả tiếp cận và khai thác trong phân tích làm rõ
những thủ đoạn thâm độc của kẻ địch trong hoạt động của công tác tư tưởng.
Cuốn Công tác tư tưởng trong điều kiện hiện nay: Thực trạng, vấn đề
đặt ra và giải pháp do Hội đồng Lý luận Trung ương biên soạn [41] là tập
hợp những bài viết, bài tham luận trong khuôn khổ chương trình hợp tác
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đổi mới giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Các bài viết đề cập tới những vẫn đế
cốt yếu nhất, quan trọng của công tác tư tưởng trong điều kiện hiện nay.
Trong cuốn sách này, các tác giả làm sáng tỏ 4 vấn đề lý luận cấp thiết: Một là,
tăng cường đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong điều kiện hiện nay; hai là,
nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; ba là,
tăng cường bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý;
20

bốn là, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị trong Đảng.
Đồng thời, các bài viết cũng tập trung phân tích, nhấn mạnh vai trò then chốt
của Đảng trong lãnh đạo đất nước và nêu bật tính tiền phong của Đảng trong
lãnh đạo công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ mã số CD.XH.2012.610:
"Nghiên cứu luận cứ phục vụ đề xuất một số giải pháp đổi mới nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng ở Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố
đến năm 2015, định hướng đến năm 2020" do tác giả Nguyễn Thành Tô làm
Chủ nhiệm đề tài [113] không chỉ nghiên cứu làm sáng rõ lý luận về công tác
tư tưởng mà còn gắn với thực tiễn tại cơ sở. Khi đánh giá về đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong Khối các cơ quan thành phố Hải Phòng tác giả đã nêu những
ưu điểm và chỉ ra một số hạn chế. Về ưu điểm: có lập trường tư tưởng chính trị
vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc; chủ động, năng
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, chấp hành tốt các nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt Đảng, thể hiện rõ vai trò tiền phong, gương mẫu của người cán bộ đảng
viên… Về hạn chế: một số cán bộ, đảng viên dao động, thiếu niềm tin hoặc
nhận thức chưa đầy đủ về những mục tiêu lớn, lâu dài của Đảng, của đất
nước… Từ đó, tác giả phân tích thực trạng công tác tư tưởng ở Đảng bộ Khối
các cơ quan thành phố Hải Phòng và đề xuất các giải pháp đổi mới và nâng cao
chất lượng công tác tư tưởng ở đơn vị này trong những năm tới. Những phân
tích, đánh giá trên của đề tài đã giúp nghiên cứu sinh tiếp cận được cơ sở luận
cứ, cơ sở thực tiễn của Hải Phòng, và xác định bước đầu hệ thống giải pháp
công tác tư tưởng trong điều kiện thực tiễn thành phố Hải Phòng.
Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ mã số ĐT.XH.2016.739:
"Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao kỹ năng công tác tuyên giáo
cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo tại thành phố Hải Phòng trong
tình hình hiện nay" do tác giả Nguyễn Quốc Khánh làm Chủ nhiệm đề tài
[45]; trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm có liên quan, đề
21

tài đánh giá thực trạng kỹ năng công tác tuyên giáo của đội ngũ cán bộ làm
công tác tuyên giáo tại thành phố Hải Phòng. Đề tài phân tích những yêu cầu
đặt ra và đề xuất một giải pháp chung với 05 nhóm giải pháp cụ thể, bao gồm
kỹ năng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất; kỹ năng sư phạm; kỹ năng thuyết
trình, diễn thuyết, đối thoại; kỹ năng phân tích, tổng hợp và kỹ năng nắm bắt
dư luận xã hội nhằm nâng cao kỹ năng công tác tuyên giáo cho đội ngũ cán
bộ làm công tác tuyên giáo tại thành phố Hải Phòng. Đây là đề tài tập trung
đánh giá, phản ánh tương đối đầy đủ và khách quan về số lượng, chất lượng
và những vấn đề liên quan trực tiếp đến trình độ, năng lực, tính chuyên nghiệp
đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo, đội quân chủ lực làm công tác tư
tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện nay.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu nêu trên, liên quan tới công tác
tư tưởng của Đảng, còn có các đề tài luận án tiến sĩ với nhiều các tiếp cận
khác nhau. Nhưng tựu chung lại đều đã góp phần làm rõ, làm phong phú về
cơ sở lý luận và thực tiễn công tác tư tưởng của Đảng hiện nay, cụ thể:
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng: "Chất lượng công tác
tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng (cấp xã) vùng đồng bào dân tộc ít người ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay", tác giả Cao Văn Định [28]
đã nghiên cứu công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng cấp xã (đảng bộ xã)
vùng có đông đồng bào dân tộc ít người ở 6 tỉnh Bắc Trung Bộ từ Đại hội lần
thứ VI đến năm 2001. Đề tài luận chứng các yếu tố cấu thành chất lượng công
tác tư tưởng và những nhân tố chi phối trực tiếp đến công tác tư tưởng của tổ
chức cơ sở Đảng (cấp xã) vùng đồng bào dân tộc ít người ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ. Chương 1 của luận án, tác giả phân tích đa diện và luận giải trên cơ
sở lý luận của các nhà kinh điển để đi đến khẳng định rằng công tác tư tưởng
là bộ phận cấu thành quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Tiến hành
công tác tư tưởng là đòi hỏi khách quan đảm bảo vai trò lãnh đạo Đảng đối
với xã hội, nhất là đối với tổ chức cơ sở Đảng cấp xã với những yêu cầu rất
22

đặc trưng. Luận án cũng chỉ rõ 5 yêu cầu và 4 tiêu chí đánh giá chất lượng
công tác tư tưởng của Đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng. Trong Chương
2, luận án phân tích thực trạng, tìm ra nguyên nhân làm cho chất lượng công
tác tư tưởng ở các địa phương này thấp, từ đó, chỉ ra 03 mâu thuẫn lớn trong
công tác tư tưởng của các tổ chức cơ sở đảng xã là mâu thuẫn giữa yêu cầu
cao và khả năng của công tác tư tưởng còn hạn chế; giữa truyền thống tốt đẹp
với sự sa sút về phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; giữa xây dựng
nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết, đây cũng vấn đề bức xúc đặt ra
với công tác này. Chương 3 là trọng tâm của luận án với 4 phương hướng cơ
bản và 5 giải pháp tương đối hợp ý, đáp ứng được yêu cầu đặt ra từ thực trạng
công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) ở vùng đồng bào ít người
các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, luận án chưa đưa ra những dự báo cả về cơ
hội và thách thức về tình hình công tác tư tưởng của địa phương này trong
thời gian tới.
Dưới góc độ triết học, Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Cần:
"Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng trong quân đội trước yêu
cầu của cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay" [14] đã làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng
trong quân đội trước yêu cầu của cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay;
trong đó, làm rõ chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng; tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng; bước đầu khái quát những đặc trưng cơ bản của cuộc đấu tranh tư
tưởng ở nước ta và những yêu cầu đặt ra đối với chất lượng giáo dục chính trị
- tư tưởng trong quân đội hiện nay. Đề tài phân tích, làm rõ chất lượng giáo
dục chính trị - tư tưởng trong quân đội; từ đó, đề xuất 02 nhóm giải pháp: 1)
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục chính trị -tư
tưởng trong quân đội. 2) Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính
trị-tư tưởng. Đây là nhóm giải pháp cơ bản, có tính khả thi, góp phần củng cố
vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.
23

Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng: "Công tác tư tưởng của
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào hiện nay" của tác giả Xắc Xa Vắt Xuân Thép
Phim Ma Son [88] là một công trình nghiên cứu độc lập, sáng tạo với kết cấu
3 chương, 7 tiết và 4 bảng biểu phụ lục. Luận án tiếp cận và nghiên cứu làm
rõ khái niệm, vị trí, vai trò của công tác tư tưởng của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào và luận giải 5 yêu cầu đổi mới của công tác tư tưởng trong giai
đoạn hiện nay. Luận án đánh giá thực trạng tư tưởng của cán bộ, đảng viên,
nhân dân các bộ tộc Lào, thực trạng công tác tư tưởng của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào và khái quát 5 kinh nghiệm trong công tác tư tưởng. Phương
hướng và 10 giải pháp mà luận án nêu ra nhằm tăng cường công tác tư tưởng
của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay mang tính hệ
thống, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn đất nước Lào.
Luận án Tiến sĩ Khoa học chính trị của tác giả Lương Ngọc Vĩnh với
đề tài "Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học
viện quân sự ở nước ta hiện nay" [126] đã luận giải làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận cơ bản về hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên
các học viện quân sự. Trên cơ sở khảo sát thực trạng sử dụng nguồn lực và
đánh giá kết quả đạt được trong công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong các
học viện, tác giả đã khái quát được các mâu thuẫn cần giải quyết để nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Từ đó, đề xuất 4 nhóm giải
pháp theo hướng huy động tối đa tiềm năng của các học viện quân sự một cách
hợp lý, tiết kiệm để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng.
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Công tác tư tưởng của tác giả Nguyễn
Văn Út: "Chất lượng công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay" [123] tiếp cận và luận giải có hệ
thống các tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng ta về chất lượng công tác giáo dục chính trị -
tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Tác giả phân tích, đánh giá đúng thực trạng,
24

xác định rõ nguyên nhân và tổng kết những bài học, kinh nghiệm góp phần
làm sáng tỏ yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất phương hướng và một số
giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư
tưởng cho cán bộ, đảng viên cán bộ, đảng viên ở đồng bằng sông Cửu Long
hiện nay.
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học:“Đổi mới công tác tuyên
truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay"
[114] của tác giả Lê Mai Trang, trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề
lý luận cần thiết, có liên quan về đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng
trước yêu cầu của hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, luận án đã phân tích
thực trạng và đề ra những phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới công tác
tuyên truyền của Đảng trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Luận án tiếp cận công tác tuyên truyền với tính cách là một hình thức hoạt
động quan trọng và cần thiết của một chính đảng chính trị nhằm giành, giữ và
thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; đồng thời, là một bộ phận
cấu thành quan trọng của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và
đường lối cách mạng trong quần chúng, xây dựng thế giới quan, niềm tin
chính trị, tập hợp và cổ vũ quần chúng hoạt động cách mạng, góp phần làm
cho tư tưởng, lý luận thâm nhập vào quần chúng, tạo nên sự thống nhất giữa
tư tưởng và hành động thực tiễn trong Đảng và trong xã hội. Với 03 nhóm
giải pháp, luận án tập trung vào đổi mới nâng cao nhận thức, thể chế và nguồn
lực nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền của Đảng
trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài những công trình nghiên cứu nêu trên, nghiên cứu về công tác tư
tưởng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới còn được thể hiện qua các bài viết như
bài viết Nâng cao tính thuyết phục của công tác tư tưởng của tác giả Lương
Ngọc Vĩnh [127], bài viết Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt
25

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế của tác giả Tạ Ngọc Tấn [93], bài viết
Phát triển lực lượng công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay của tác giả
Lương Khắc Hiếu - Lê Tuấn Ngọc [33], bài viết Tỉnh Bình Phước tiếp tục
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước
yêu cầu mới của tác giả Trần Tuệ Hiền [31], bài viết Đổi mới công tác tư
tưởng ở Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay của tác giả Hoàng
Trung Dũng [20]...
1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA CHO LUẬN ÁN
1.2.1. Tổng quan kết quả các công trình nghiên cứu đã đề cập
Với lượng tri thức phong phú, các công trình nghiên cứu trên đã cung
cấp cho nghiên cứu sinh một cái nhìn tổng quan tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác tư tưởng và sự vận dụng của Đảng trong công tác xây dựng Đảng nói
chung và công tác tư tưởng nói riêng.
Thứ nhất, về lý luận, các công trình nghiên cứu trên đã phân tích một
cách hệ thống, sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về công
tác tư tưởng trong xây dựng Đảng; đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới của đất
nước. Các công trình góp phần làm sáng tỏ nhiều khái niệm như: tư tưởng,
công tác tư tưởng, lý luận, về lý luận công tác tư tưởng… Trong những công
trình trên, các tác giả đã trực tiếp, gián tiếp khẳng định rằng: theo suốt chiều
dài lịch sử cách mạng Việt Nam, công tác tư tưởng luôn có vai trò to lớn và là
một trong những thành tố quan trọng quyết định thắng lợi của Đảng.
Thứ hai, về thực tiễn, trên nền tảng hệ thống cơ sở lý luận, các công
trình nghiên cứu quá trình hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư
tưởng của Đảng và một số địa phương vào thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội đất nước, ở nhiều đơn vị, địa phương khác nhau. Với
những góc độ tiếp cận từ tổng quan đến chi tiết, từ tình hình chung của đất
nước đến đặc thù mỗi địa phương, đơn vị, các công trình nghiên cứu đã xoay
quanh thực trạng công tác tư tưởng, đánh giá những thành tựu đã đạt được và
26

chỉ ra những hạn chế của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư
tưởng trong thực tiễn đất nước và ở nhiều cấp, nhiều địa phương. Các tác giả
đã dày công nghiên cứu và chỉ rõ trách nhiệm của các tổ chức, của đội ngũ
cán bộ làm công tác tư tưởng trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác tư tưởng vào thực tiễn đất nước hiện nay.
Thứ ba, luận giải của các công trình nghiên cứu trên đều hướng tới khẳng
định tính tất yếu khách quan của việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
vào tăng cường, nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng nói chung và công
tác tư tưởng nói riêng. Không dừng ở đó, các công trình còn đề cập nhiều đến
nhiều nội dung giải pháp để vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác tư tưởng vào thực tiễn xã hội. Các nhóm giải pháp trong mỗi công trình
nghiên cứu, luận án, bài viết hợp thành một hệ thống giải pháp trong việc nâng
cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, những công trình khoa học nghiên cứu về công tác tư tưởng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng nội dung đó vào thực tiễn đất nước đã
được các tác giả tiếp cận, nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng do mục
đích nghiên cứu, phạm vi và quy mô nghiên cứu khác nhau nên chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác
tư tưởng ở thành phố Hải Phòng. Các công trình nghiên cứu tập trung vào những
quan điểm, tư tưởng mang tính kinh điển, nền tảng chỉ đạo hoạt động thực tiễn
xây dựng Đảng mà chưa nghiên cứu một cách hệ thống các quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng.
Hơn nữa, việc nghiên cứu di sản tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dừng
lại ở lý luận mà phải được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn đất nước. Một số
công trình đã đề cập đến nội dung này nhưng chưa thật chuyên sâu hoặc dừng lại
ở những nghiên cứu bước đầu. Tuy vậy, đây là những giá trị lý luận, thực tiễn và
các quan điểm đã luận giải khoa học để tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài "Công
tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.
27

1.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Nhìn chung, tổng quan tình hình nghiên cứu của các công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài cho thấy, do cách tiếp cận ở các góc độ, cấp độ nghiên
cứu khác nhau nên kết quả nghiên cứu của các công trình, tài liệu nói trên còn
một số vấn đề chưa rõ hoặc chưa thống nhất. Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ
của luận án, tác giả cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu, làm rõ những vấn đề cơ bản về vị trí, vai
trò, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và đặc biệt là xây dựng khái niệm công tác tư tưởng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh; những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Thành
ủy Hải Phòng, góp phần làm phong phú hơn về đối tượng, phạm vi của công
tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, trên cơ sở làm rõ những nội dung lý luận trên về công tác tư
tưởng của Thành ủy Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, luận án nghiên
cứu, khảo sát, tổng hợp và phân tích, đánh giá thực trạng của hoạt động đó với
những thành tựu và hạn chế một cách khách quan. Đồng thời, chỉ ra những
nguyên nhân cơ bản của thực trạng; nghiên cứu những vấn đề đặt ra cần tập
trung giải quyết trong quá trình thực hiện công tác tư tưởng của Thành ủy Hải
Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, luận án đề xuất phương hướng và hệ thống giải pháp công tác
tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần đẩy
mạnh công tác xây dựng Đảng, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chính trị của
thành phố Hải Phòng trong những năm tiếp theo.
Như vậy, với những vấn đề đặt ra nêu trên, đề tài "Công tác tư tưởng
của Thành ủy Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh" không trùng
lặp với các công trình được nghiên cứu trước đó. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác tư tưởng vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng của Thành
ủy Hải Phòng - Cơ quan lãnh đạo của đảng bộ cấp địa phương trong hệ thống
tổ chức của Đảng là một nghiên cứu mang ý nghĩa thực tiễn cao mà chưa có
28

một công trình khoa học nào tiếp cận trực tiếp. Đây là nội dung nghiên cứu
mới, cần làm sáng tỏ nhằm làm tốt công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh tại Thành ủy Hải Phòng, góp phần ổn định tình hình chính trị - kinh tế
và xã hội ở địa phương, nâng cao vị thế và vai trò lãnh đạo của Đảng bộ thành
phố Hải Phòng trong thời gian tới.

Tiểu kết chương 1

Công tác tư tưởng là một trong những hoạt động quan trọng, cốt lõi
trong công tác xây dựng Đảng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Trong thời
gian qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng; công tác tư tưởng của
Đảng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đúc kết trong các công trình có
giá trị cả về lý luận và thực tiễn.
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá, phân tích nội dung của các công trình
khoa học liên quan trực tiếp đến luận án, nghiên cứu sinh đã tổng hợp những
vấn đề cơ bản của những công trình này. Mỗi công trình nghiên cứu trên đều
đã góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng; làm sáng tỏ
nhiều nội dung quan trọng về lý luận công tác tư tưởng… Đặc biệt, các công
trình nghiên cứu đề cập đến sự vận dụng phong phú, sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác tư tưởng vào thực tiễn đất nước hiện nay. Cách tiếp cận
với những góc độ khác nhau, ở những địa phương, đơn vị khác nhau nhưng
các tác giả cùng hướng tới một kết quả chung là khẳng định giá trị khoa học
to lớn của tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng. Tuy vậy, khái
niệm công tác tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng còn ít được các tác
giả đề cập và chưa có sự thống nhất; chưa có công trình nghiên cứu chuyên
sâu về công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh của thành ủy Hải Phòng.
Đó là những khoảng trống trong nghiên cứu, giúp cho nghiên cứu sinh có
những định hướng quan trọng để tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn
đề mà mục tiêu, nhiệm vụ mà luận án đã đề ra.
29

Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG

2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN


2.1.1. Khái niệm "Tư tưởng"
Theo cách hiểu thông thường, tư tưởng là sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ của
con người về một vấn đề nào đó. Thuật ngữ "tư tưởng" có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp là "idea", có nghĩa là nhận thức. Đến nay, có nhiều cách định
nghĩa về "tư tưởng" khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt, tư tưởng là "những
quan điểm, ý nghĩ phản ánh thế giới vật chất trong nhận thức của con người
và thể hiện mặt này hay mặt khác của thế giới khách quan" [130, tr.542].
Theo tác giả Nguyễn Văn Hòa trong cuốn Nâng tầm tư tưởng và trí tuệ của
Đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong giai đoạn mới thì: "Tư tưởng là sự
suy nghĩ, ý nghĩ của con người về một sự vật, hiện tượng, quá trình nào đó
trong thế giới khách quan, được thể hiện dưới các hình thức như khái niệm,
phạm trù, quy luật, là kết quả của tư duy. Tư duy đúng sẽ có tư tưởng đúng
và ngược lại" [34, tr.12].
Lý luận Mác - Lênin chỉ ra rằng, đời sống xã hội có hai nhu cầu cơ bản
là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Do đó, có hai lĩnh vực sản xuất để
sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần nhằm đáp ứng hai nhu cầu ấy. Vật chất
quyết định tinh thần, nhưng mặt khác, tinh thần có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại vật chất. Vì vậy, tư tưởng với tư cách là một bộ phận của lĩnh
vực tinh thần có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống con người.
Cũng theo các nhà kinh điển mácxít, tư tưởng là do chế độ xã hội, điều
kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết định. Tư tưởng là sự phản ánh
hiện thực thông qua lăng kính của các nhà tư tưởng. Tuy nhiên, các nhà tư
tưởng thường bảo vệ lợi ích giai cấp mình dưới hình thức lý tưởng hóa như
gắn cho giai cấp mình một sứ mệnh đại diện chân chính. Do vậy, trong xã hội
30

có giai cấp, tư tưởng cũng mang tính giai cấp. Xã hội có giai cấp luôn có sự
đấu tranh tư tưởng để truyền bá, thu phục lòng người, lôi kéo quần chúng
nhân dân theo quan điểm của giai cấp mình để giành thắng lợi trong đấu tranh
giai cấp. Cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân nhằm giành vị trí
lãnh đạo xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đấu tranh tư tưởng của
giai cấp công nhân đã góp phần quan trọng giúp giai cấp công nhân thực hiện
cách mạng thành công. Khi đã giành được chính quyền, để ý thức xã hội chủ
nghĩa chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của xã hội, và để chống
lại tư tưởng tàn dư của xã hội cũ, chống những khuynh hướng tư tưởng lệch
lạc, phản động thì đấu tranh tư tưởng càng phải cần được chú trọng.
Vậy có thể hiểu, tư tưởng là một hình thái của ý thức xã hội dưới dạng
khái quát, trừu tượng, thể hiện quan điểm, ý thức và qua đó, phản ánh mục
tiêu, lợi ích của một tập đoàn, giai cấp, dân tộc, thời đại nhất định. Trong xã
hội có giai cấp, luôn có sự đấu tranh tư tưởng giữa các giai cấp.
Đảng Cộng sản với mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - một xã
hội mới tốt đẹp trong tương lai. Do đó, tư tưởng của Đảng Cộng sản được thể
hiện trong quan điểm, cương lĩnh, đường lối, chính sách và phản ánh sứ mệnh
lịch sử của Đảng Cộng sản: bảo vệ lợi ích giai cấp công nhân, bảo vệ nền độc
lập dân tộc. Nói đến tư tưởng của Đảng Cộng sản là nói đến tư tưởng chính trị.
2.1.2. Khái niệm "Công tác tư tưởng"
Có nhiều cách tiếp cận với những góc độ và khía cạnh khác nhau về
công tác tư tưởng. Trong Giáo trình Công tác tư tưởng, do tác giả Lương
Khắc Hiếu chủ biên, công tác tư tưởng được hiểu là "hoạt động có mục đích
của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành, phát triển hệ tư tưởng,
truyền bá hệ tư tưởng vào ý thức quần chúng, thúc đẩy họ đi tới hành động"
[32, tr.11-12]. Khái niệm này cho thấy, công tác tư tưởng gắn với hoạt động
của một giai cấp, một chính đảng và được hình thành, phát triển, truyền bá
nhằm đạt được mục tiêu là thúc đẩy quần chúng hành động. Tuy nhiên, khái
31

niệm chưa thể hiện rõ hành động của quần chúng là vì lợi ích của giai cấp,
chính đảng hay một chủ thể hệ tư tưởng nào mà chỉ tiếp cận một cách chung
chung là "thúc đẩy họ đi tới hành động".
Trong cuốn Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tác giả Phạm Tất Thắng lại cho rằng "Công tác tư
tưởng là hoạt động có mục đích của giai cấp, một chính đảng nhằm xây dựng,
xác lập, phát triển và hoàn thiện hệ tư tưởng, là quá trình phổ biến, truyền bá hệ
tư tưởng trong quần chúng, định hướng các giá trị, tạo niềm tin để thúc đẩy quần
chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng" [109, tr.27]. Các hoạt động
của công tác tư tưởng được đề cập đến bao gồm: xây dựng, xác lập; phát triển và
hoàn thiện; truyền bá hệ tư tưởng vào quần chúng. Những hoạt động này được
nêu chi tiết, đặc biệt, phát triển hệ tư tưởng phải song hành cùng hoàn thiện hệ tư
tưởng đó. Công tác tư tưởng được đề cập không chỉ dừng ở việc thúc đẩy quần
chúng đi tới hành động mà còn là việc định hướng các giá trị, tạo dựng niềm tin
trong quần chúng. Có nhận thức đúng đắn, có niềm tin của quần chúng thì những
người hình thành, phát triển hệ tư tưởng - chủ thể hệ tư tưởng mới đạt được
những lợi ích cả về vật chất và tinh thần. Nói cách khác, hành động của quần
chúng được xác định rõ là "vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng". Tuy nhiên, tùy
theo hoàn cảnh và cách tiếp cận mà chủ thể của hệ tư tưởng có thể được xác định
khác nhau. Do vậy, với cách xác định trên, trong một số trường hợp, chủ thể của
hệ tư tưởng có thể không phải là những người hình thành, phát triển, truyền bá
hệ tư tưởng này, không phải là chính đảng hoặc giai cấp thống trị.
Từ những khái niệm về công tác tư tưởng được hiểu theo nghĩa rộng
nêu trên, có thể khái quát như sau: Công tác tư tưởng là một hoạt động có
mục đích, có tổ chức trên lĩnh vực tư tưởng của con người (cá nhân, giai cấp,
chính đảng...) nhằm hình thành, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng của mình
đến các đối tượng khác (quần chúng nhân dân, cá nhân, tập thể trong tổ
chức) để thực hiện mục tiêu nhất định.

6465969
32

2.1.3. Khái niệm "Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam"
Công tác tư tưởng của Đảng là khái niệm được một số công trình khoa
học nghiên cứu và tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau.
Trong cuốn Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ công tác tư tưởng, tác
giả Phạm Quang Nghị có nêu: công tác tư tưởng "là hoạt động đa dạng và
quan trọng vào bậc nhất của Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa
nhằm xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành
niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa
học cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo để
thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" [70, tr.22].
Khái niệm trên cho thấy, hệ tư tưởng được Đảng Cộng sản được xây dựng,
xác lập, phát triển là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu thúc đẩy con
người hành động tích cực, sáng tạo v́ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Đề cập khái niệm này, trong Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị: Xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
thì công tác tư tưởng của Đảng được hiểu là "những hoạt động của Đảng
trong việc xác lập, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng; đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm tạo sự thống nhất tư
tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội; cổ vũ, động viên tinh thần sáng tạo
cách mạng của nhân dân; đấu tranh chống các thế lực thù địch trên mặt trận tư
tưởng, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người mới xã hội chủ nghĩa;
quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất nước, con người Việt Nam ra cộng đồng
quốc tế" [37, tr.78]. Đây là một khái niệm có tính khái quát cao về công tác tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam khi chỉ ra việc xác lập và phát triển,
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng và
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước là
hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng. Đồng thời, khái niệm cũng
thể hiện rõ nét những mục tiêu quan trọng của công tác này: hình thành thế
33

giới quan, phương pháp nhận thức khoa học, tính tích cực chính trị cho cán
bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân; tạo sự thống nhất trong Đảng; thực hiện
thắng lợi mục tiêu của Đảng.
Trong cuốn Một số vấn đề về công tác tư tưởng của tác giả Đào Duy
Tùng, công tác tư tưởng còn được hiểu "là một bộ phận cấu thành rất quan
trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng… Nó có nhiệm vụ giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng, nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động, sáng tạo của họ
trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra; góp phần
quan trọng vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, vào việc hình
thành thượng tầng kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức" [119, tr.5-6]. Ở đây,
công tác tư tưởng còn được xác định là có nhiệm vụ giáo dục hệ tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhằm đạt
được mục tiêu: nâng cao tính tự giác, chủ động, sáng tạo của họ; xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa; hình thành thượng tầng kiến trúc. Nhiệm vụ giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng là một trong
những nội dung cụ thể của công tác tư tưởng sẽ được đề cập trong phần sau
của luận án. Tuy vậy, cách tiếp cận này chưa thực sự khái quát về nội hàm
khái niệm công tác tư tưởng mà mới chỉ thể hiện một hoạt động cụ thể của
công tác tư tưởng của Đảng.
Như vậy, từ những cách tiếp cận về công tác tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam nêu trên, có thể thấy, điểm chung công tác tư tưởng của Đảng ở
một số nội dung sau:
Thứ nhất, công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định
là hoạt động có mục đích quan trọng hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, hệ tư tưởng được Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển, truyền
bá là chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
Nhà nước.
34

Thứ ba, mục tiêu của những hoạt động trên là động viên, thúc đẩy quần
chúng tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giành độc lập dân tộc và
đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, những nội dung trên trong công tác tư tưởng mới đề cập đến
việc bảo vệ, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của Đảng mà chưa nêu về việc
xác lập, hoàn thiện hệ tư tưởng này.
Vận dụng những quan điểm, lý luận được phân tích nêu trên của các
công trình khoa học về khái niệm công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, có thể khẳng định: Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là
hoạt động quan trọng nhất của Đảng trong việc xác lập, phát triển và truyền
bá hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước nhằm tạo nền tảng, động lực tinh thần thúc đẩy cán bộ, đảng viên,
quần chúng nhân dân có nhận thức, hành động đúng đắn, đảm bảo mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước.
Với cách hiểu trên, khái niệm công tác tư tưởng của Đảng là một bộ
phận cấu thành rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và trong toàn bộ
hoạt động lãnh đạo của Đảng với mục tiêu là xác lập hệ tư tưởng của xã hội
chủ nghĩa, xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, nâng cao nhận thức chính
trị và bản lĩnh chính trị cho toàn Đảng, toàn dân, biến nhận thức đó thành
hành động cách mạng sáng tạo không ngừng, để Đảng luôn vững mạnh về tư
tưởng, chính trị và tổ chức, đủ sức lãnh đạo cách mạng, làm tròn vai trò,
nhiệm vụ của mình với dân tộc, đất nước.
2.1.4. Khái niệm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng"
Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể hiểu là toàn bộ hệ thống quan điểm, lý
luận của Người về một lĩnh vực nào đó như: giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã
hội; văn hóa; công tác tư tưởng; công tác dân vận.... được Người đúc kết từ sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên nền tảng kế thừa, phát triển
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa nhân loại.
35

Trên cơ sở lý luận chung về công tác tư tưởng và khái niệm tư tưởng


Hồ Chí Minh, cùng những bài viết, bài nói của Người về tư tưởng, công tác tư
tưởng, tác giả đưa ra định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng
như sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng là hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc của Người về vai trò của tư tưởng - lý luận; truyền bá
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cán bộ, đảng
viên và quần chúng; cổ động, khích lệ hành động đúng đắn của họ; tập hợp
lực lượng; xây dựng, củng cố niềm tin trong Đảng và trong nhân dân, hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị.
Luận án tiếp cận khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng
ở phạm vi chuyên ngành Hồ Chí Minh học, với tính cách là một chỉnh thể,
một đối tượng nghiên cứu độc lập với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về công tác tư tưởng
của Hồ Chí Minh là những nguyên lý, quan điểm chính trị liên hệ chặt chẽ với
nhau, thể hiện rõ tính liên tục, nhất quán, bao quát trên nhiều lĩnh vực trong
công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam như công tác lý luận, công tác
giáo dục tư tưởng lý luận chính trị, công tác tuyên truyền, công tác cổ động...
Thứ hai, công tác tư tưởng theo quan điểm Hồ Chí Minh có vị trí, vai
trò quan trọng trong phong trào cách mạng Việt Nam, là hoạt động chính yếu,
xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mọi thời kỳ, mọi giai đoạn trong
quá trình cách mạng từ đấu tranh giành độc lập dân tộc đến xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Thứ ba, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tư tưởng theo quan điểm Hồ
Chí Minh là định hướng, tuyên truyền, giáo dục, tạo chuyển biến về nhận thức
cho quần chúng nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ trương, đường lối
của Đảng, Nhà nước; xây dựng niềm tin trong quần chúng nhân dân về thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng, nhằm tạo sự đồng thuận xã hội, cổ vũ, động
viên tinh thần sáng tạo, đề từ đó, thúc đẩy hành động cách mạng của nhân
36

dân, vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ, giàu mạnh.
Thứ tư, chủ thể của công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng bao
gồm toàn Đảng, cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên, cả hệ thống chính trị mà nòng
cốt là cơ quan tham mưu của Đảng về công tác tư tưởng và đội ngũ cán bộ làm
công tác tư tưởng, coi đây là cái gốc, hạt nhân trong hoạt động xây dựng tư tưởng
của Đảng. Đối tượng của công tác tư tưởng là cán bộ, đảng viên và nhân dân,
Thứ năm, Hồ Chí Minh xác định những phương pháp công tác tư tưởng
cần linh hoạt nhằm tạo mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể công tác tư
tưởng và đối tượng công tác tư tưởng. Phương pháp thực hiện các hoạt động
của công tác tư tưởng có thể là tuyên truyền, giáo dục.... tùy thuộc vào nội
dung, mục tiêu và đối tượng của công tác này.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng là một bộ phận
cấu thành quan trọng trong tư tưởng của Người về hoạt động của Đảng và
cách mạng Việt Nam. Với năm đặc điểm nêu trên, tư tưởng Hồ chí Minh về
công tác tư tưởng là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam về công
tác tư tưởng, là tài sản tinh thần quý giá cho Đảng, cho dân tộc. Không chỉ
vậy, những tư tưởng, lý luận của Người còn trở thành một lực lượng vật chất
quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đầy vẻ
vang, tự hào của dân tộc.
2.1.5. Khái niệm "Công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh"
Có thể khẳng định, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đã và đang có vị trí, vai trò quyết định đến mọi hoạt động của Đảng và
xã hội Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận được đúc
kết từ hoạt động thực tiễn cuộc sống dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, nó tuân thủ các quy luật
thực tiễn khách quan. Hoạt động thực tiễn và thông qua hoạt động thực tiễn
giúp thực hiện được chức năng cải tạo của lý luận, chứng minh giá trị khoa
37

học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc cụ thể hóa tư tưởng của Người vào hoạt
động thực tiễn xây dựng Đảng và phát triển đất nước hiện nay là yêu cầu
khách quan và thực chất là quá trình bổ sung, thấm nhuần tư tưởng của Người
vào mọi hoạt động của Đảng, của đời sống xã hội.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, thực tiễn đã chứng minh, trong suốt
thời kỳ chiến tranh cho đến khi đất nước hoàn toàn độc lập; thời kỳ trước đổi
mới và từ khi đổi mới cho đến nay, Đảng luôn coi công tác tư tưởng là một
trong những hoạt động quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định trong mọi
thắng lợi của Đảng. Và trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng
cũng luôn nhất quán tiến hành công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh là cái cốt lõi, là kim chỉ nam soi đường
cho công tác tư tưởng của Đảng.
Từ những nội dung có tính chất lý luận và thực tiễn trên, có thể khái
quát công tác tư tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: Công tác tư
tưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là hoạt động quan trọng của Đảng dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng;
mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững sự thống
nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân; đấu tranh chống mọi
âm mưu của các thế lực thù địch; tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và nhân dân; cổ vũ, động
viên và tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân đoàn kết xung quanh Đảng
để tiến hành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Từ khái niệm trên làm rõ một số nội dung:
Một là, lấy tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng làm nền
tảng tư tưởng của Đảng, do đó, mọi đường lối, chủ trương của Đảng về công
tác tư tưởng đều có mối liên hệ chặt chẽ với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại. Công tác tư tưởng của
Đảng phải luôn được định hướng bởi giá trị tư tưởng của Người trong xem xét
và xử lý các vấn đề về tư tưởng nảy sinh từ thực tiễn, cả trước mắt và lâu dài.
38

Hai là, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, từng mục tiêu, nhiệm vụ,
phương pháp công tác tư tưởng của Đảng được nghiên cứu, kế thừa và vận
dụng sáng tạo và linh hoạt cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của từng giai
đoạn và từng địa phương, đơn vị.
Ba là, đúc rút kinh nghiệm từ hình thức, nhiệm vụ công tác tư tưởng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là bổ sung, phát triển những luận điểm
của Người về công tác tư tưởng từ ngay thực tiễn đất nước trong tình hình
mới. Người từng nói: "lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính
chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới
rút ra từ trong thực tiễn sinh động" [63, tr.95].
2.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
2.2.1. Vị trí, vai trò của công tác tư tưởng
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những cống hiến lớn của
Hồ Chí Minh là sáng lập và rèn luyện Đảng thành một Đảng chân chính cách
mạng. Trong công tác xây dựng Đảng, Người đặc biệt chú ý tới công tác tư
tưởng. Nghiên cứu di sản của Người cho thấy, công tác tư tưởng có một vai
trò, vị trí hết sức quan trọng.
Thứ nhất, công tác tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
hoạt động của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng có vai trò quan trọng trong hoạt
động của Đảng ở mọi thời kỳ cách mạng. Đối với Đảng ta, một đảng ra đời và
phát triển ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nơi mà giai cấp công nhân
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong xã hội, tư tưởng tiểu nông còn phổ biến, lại phải
thường xuyên đương đầu với nhiều tư tưởng đối nghịch thì việc đưa hoạt
động tư tưởng lên hàng đầu là vô cùng cần thiết. Chính thực tiễn lịch sử xã
hội nước ta trong thời kỳ Đảng ra đời, cũng như khi trở thành đảng cầm
quyền đã đặt ra yêu cầu cho Hồ Chí Minh và Đảng ta phải hết sức chú trọng
39

đến tư tưởng của Đảng. Sự quan tâm của Hồ Chí Minh về tư tưởng và công
tác tư tưởng đã làm cho Đảng ta, ngay từ khi mới ra đời, đã là một đảng
mácxít chân chính. Điều này khác với nhiều đảng cộng sản khác trên thế giới,
nhất là ở châu Âu, khi phải qua một số lần "bônsêvích hóa" về tư tưởng, đấu
tranh quyết liệt về tư tưởng để thống nhất tư tưởng thì Đảng mới trở thành
một đảng mácxít chân chính, mới thể hiện rõ tư tưởng, lập trường giai cấp
công nhân. Hơn nữa, Đảng ở một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam,
trình độ dân trí không cao, các nguồn lực kinh tế - xã hội hạn hẹp, nhận thức
của người dân hạn chế; do vậy, công tác tư tưởng là hoạt động vô cùng quan
trọng xuyên suốt hoạt động của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng là một đòi hỏi
khách quan của lịch sử. Theo Hồ Chí Minh, "Muốn thắng lợi, thì cách mạng
phải có một đảng lãnh đạo. Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu
mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển
của xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh; chỉ rõ con đường giải
phóng cho quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên quyết cách mạng; làm
cho quần chúng tin chắc cách mạng nhất định thắng lợi" [60, tr.274]. Theo
quan điểm Hồ Chí Minh, muốn thắng lợi cách mạng thì phải có một chính
đảng lãnh đạo. Đảng như một người lái thuyền, đưa con thuyền cách mạng
của nhân dân đến thắng lợi. Có Đảng "để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy" [54, tr.289]. Và nhiệm vụ của Đảng được Hồ Chí Minh xác
định là "phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột".
Đây là hoạt động định hướng, thức tỉnh, làm thay đổi nhận thức của quần
chúng nhân dân, mà trước nhất về những bất công trong cuộc sống của chính
họ - bị áp bức bóc lột hay về lợi ích, quyền lợi của chính họ. Đảng muốn
thắng lợi thì "Phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội,
40

để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh", phải khai sáng, hình thành nhận
thức của quần chúng nhân dân. Các quy luật phát triển của xã hội là những
điều tất yếu khách quan mà bất cứ xã hội nào, dân tộc nào cũng đều phải trải
qua. Tuy nhiên, để nhận thức nó, thậm chí, phải nhận thức đúng đắn, toàn
diện thì cần phải có Đảng. "Phải dạy cho quần chúng hiểu" không đơn thuần
là việc đưa những quy luật phát triển của xã hội đến với quần chúng mà phải
giúp họ hiểu, thấm nhuần, để họ thấy rõ mình sẽ vì mục đích gì mà hành động
và cần phải hành động như thế nào. Để làm được như vậy, Đảng còn phải "chỉ
rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên quyết
cách mạng". Chỉ khi quần chúng nhận thức được những quy luật chung, và
con đường cách mạng riêng có của quốc gia dân tộc có ý nghĩa, vai trò to lớn
đối với họ, với dân tộc họ thì cách mạng mới có thể thành công. Hồ Chí Minh
đã rất khéo léo khi đi từ cái chung đến cái riêng, đi từ việc "dạy" cho quần
chúng những quy luật khách quan, mà cụ thể là chủ nghĩa Mác - Lênin, là con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội đến việc "chỉ rõ" đường lối cách mạng của dân
tộc để cổ động cho quần chúng kiên quyết cách mạng, "làm cho quần chúng
tin chắc cách mạng nhất định thắng lợi". Mặc dù, Hồ Chí Minh không hề nhắc
đến công tác tư tưởng, nhưng qua luận điểm này, những đặc trưng của công
tác tư tưởng đã được bộc lộ như sự hình thành, xây dựng hệ tư tưởng, xây
dựng niềm tin trong quần chúng, cổ động quần chúng để dẫn tới hành động
kiên quyết cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng có một vai trò rất quan trọng:
"Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận
rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.
Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh.
Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên
quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội
quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền" [60, tr.274].
41

Trong quá trình xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh luôn đặt ra những vấn đề về nguy cơ lệch lạc tư tưởng của quần
chúng nhân dân, là đoàn kết, thống nhất nhân dân trên mặt trận tư tưởng...
Giải quyết những vấn đề trên, Đảng cần phải thực hiện tốt công tác tư tưởng.
Đảng phải lãnh đạo để quần chúng "nhận rõ tình hình, đường lối và định
phương châm cho đúng". Đảng định hướng nhận thức cho quần chúng nhân
dân kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhìn nhận, đánh giá tình hình thực
tế một cách khách quan, chuẩn xác; từ đó, thấy được sự hợp lý, tiến bộ trong
chủ trương, đường lối của Đảng thì mới có thể tránh được nguy cơ "lạc
phương hướng" trong quần chúng nhân dân. Hoạt động được Hồ Chí Minh đề
cập đến ở đây vừa là mục tiêu, vừa là nội dung của công tác tư tưởng - định
hướng nhận thức đúng đắn cho quần chúng nhân dân. Vì vậy, theo Hồ Chí
Minh, một trong những vai trò của công tác tư tưởng là tránh lệch lạc trong
nhận thức, tư tưởng của quần chúng nhân dân.
Không những vậy, theo Người, công tác tư tưởng còn có vai trò quan
trọng trong hoạt động của Đảng khi cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ,
nhiều thách thức. Sự lệch lạc về tư tưởng của quần chúng nhân dân không chỉ
xuất phát từ nội tại nhận thức của họ mà còn do các thế lực thù địch bên ngoài
tác động bằng cả lực lượng vũ trang hùng hậu và những lý lẽ sai trái, phản
động. Người nói, muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí
khí phải kiên quyết, hay quần chúng phải có sự thống nhất, đoàn kết về mọi
mặt, nhất là về tư tưởng để có ý chí kiên định, có niềm tin với Đảng. Và để
đoàn kết quần chúng, để quần chúng có tổ chức chặt chẽ và là một tổ chức
chặt chẽ thì Đảng cần có những hành động cụ thể để: "Tổ chức và giáo dục
nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính
quyền". Đội quân thật mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh là lực lượng tham gia
phong trào cách mạng trên cả mặt trận ngoài chiến trường và mặt trận tư
tưởng. Nếu chỉ có những chiến sĩ cầm súng ngoài chiến trường sẽ khó đánh
đổ kẻ địch, giành chính quyền hay có một chiến thắng vĩ đại. Chiến thắng sẽ
42

cầm chắc trong tay Đảng nào, giai cấp nào có những người chiến sĩ thấm
nhuần tư tưởng của Đảng mình, giữ vững niềm tin với Đảng mình, họ có thể
cầm súng trên chiến trường hoặc ở hậu phương phục vụ cho tiền tuyến. Muốn
có được đội quân này, Đảng phải tổ chức và giáo dục mọi mặt cho nhân dân
mà đầu tiên là giáo dục về tư tưởng chính trị nhằm tạo niềm tin, giác ngộ và
thống nhất về tư tưởng dẫn đến thống nhất về hành động hướng tới mục tiêu
cách mạng. Giáo dục nhân dân được Hồ Chí Minh nhắc đến chính là một nội
dung của công tác tư tưởng. Vậy, vai trò của công tác tư tưởng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là đoàn kết nhân dân để giành thắng lợi cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, khi phong trào cách mạng thắng lợi, giành được
chính quyền, thì vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò của công tác tư tưởng
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng càng trở nên quan trọng.
Người khẳng định: "Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có
Đảng lãnh đạo". Hồ Chí Minh đặt ra các vấn đề mà Đảng phải giải quyết: sau
khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, "vẫn cần có Đảng lãnh đạo, vì:
- Dù nhân dân đã nắm được chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh
trong nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn.
- Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng
vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng để đưa nhân dân lao động
đến thắng lợi hoàn toàn" [63, tr.274].
Hồ Chí Minh nhắc đến việc "giáo dục quần chúng" không chỉ trong
kháng chiến, mà trong hòa bình, Đảng vẫn phải giáo dục quần chúng để đưa
nhân dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn. Giáo dục quần chúng vì những
"mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn", vì các thế lực thù địch bên trong và bên
ngoài không ngừng truyền bá tư tưởng chống phá Đảng. Do vậy, Đảng phải
giáo dục về lý luận, tư tưởng cho quần chúng để đánh bại mọi âm mưu của đế
quốc xâm lược vẫn len lỏi vào cuộc sống của người dân trên tất cả các lĩnh vực.
Giáo dục quần chúng vì "phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội".
43

Giáo dục quần chúng trong thời bình chính là trang bị cho nhân dân kiến thức
làm kinh tế, bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng nền văn hóa, xã hội tiến
bộ, và không thể thiếu là giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị cho nhân dân. Tư
tưởng này của Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng triệt để trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước; tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng để cách
mạng thắng lợi hoàn toàn, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thành công.
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa không những tiếp tục cần Đảng
lãnh đạo mà còn cần Đảng mạnh hơn bao giờ hết, vì "đánh đổ giai cấp địch đã
khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều"
[63, tr.598]. Đây là một quá trình đấu tranh trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế
xã hội, đặc biệt đấu tranh tư tưởng. Tư tưởng của quần chúng nhân dân có
vững vàng, có tin tưởng vào con đường mà Đảng, dân tộc đã lựa chọn thì xã
hội chủ nghĩa mới có thể được xây dựng thành công. Ngược lại, nhận thức
quần chúng lệch lạc sẽ là một trong những khó khăn, cản trở lớn trong hoạt
động cách mạng của Đảng.
Thứ hai, công tác tư tưởng góp phần giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của Đảng
Sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của cách mạng. Muốn vậy, Đảng đó phải mang bản
chất giai cấp công nhân - giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng cộng sản đến với cách mạng Việt Nam trong
điều kiện bối cảnh đất nước xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng đan xen, Hồ Chí
Minh luôn coi công tác tư tưởng là một trong những hoạt động quan trọng để
chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, là yếu tố để xác
định bản chất của Đảng là bản chất của giai cấp công nhân. Đây là tư tưởng
xuyên suốt, nhất quán của Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng và rèn luyện
Đảng ta.
44

Ngay khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết: "Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng" [55, tr.3]. Hồ Chí Minh
khẳng định, Đảng mang bản chất giai cấp công nhân với nền tảng tư tưởng
của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng là
nguyên tắc tập trung dân chủ;... Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa cộng sản, Đảng "phải thu phục cho được đại bộ
phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng". Hồ Chí Minh dùng từ "thu phục" giai cấp mình, "làm cho" giai cấp
mình là cách nói gián tiếp khi đề cập đến công tác tư tưởng. Thu phục là làm
cho nhân dân biết đến, tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định với đường
lối, chủ trương của Đảng. Đó là nhiệm vụ mà đội tiên phong của giai cấp vô
sản cần phải làm để xác lập bản chất giai cấp công nhân của mình.
Hồ Chí Minh đã nêu lên cơ sở lý luận cội nguồn của bản chất giai cấp
công nhân của Đảng. Việc hình thành bản chất giai cấp công nhân của Đảng
dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, dựa vào việc tuân thủ một cách chặt
chẽ những đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân thế giới. Những đặc
tính đó là: "kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại là giai cấp
tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và
đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần
một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tinh
thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về
mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai
trò lãnh đạo" [60, tr.256]. Có thể thấy, những đặc tính cách mạng của giai cấp
công nhân đã tự khẳng định đây là giai cấp tiên phong, lãnh đạo phong trào
cách mạng, đưa quần chúng đến với một xã hội tốt đẹp trong tương lai - xã hội
xã hội chủ nghĩa. Nhưng để có được xã hội này, giai cấp công nhân với tính
kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, kỷ luật và trách nhiệm đánh đổ chế độ
45

tư bản, đế quốc thì cần thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, đó là chủ
nghĩa Mác - Lênin. Do vậy, không còn cách nào khác, Đảng phải thực hiện và
thực sự coi trọng công tác tư tưởng, trước nhất là trong nội bộ Đảng để tập hợp
vào hàng ngũ của mình những người tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình
của Đảng, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng. Và
tư tưởng, tinh thần đấu tranh của những con người ưu tú trên sẽ có ảnh hưởng
lớn và mang tính giáo dục cao cho các tầng lớp khác. Họ có thể trở thành
những người làm công tác tư tưởng tốt nhất cho quần chúng nhân dân, có thể
dùng công tác tư tưởng để xác lập, khẳng định bản chất của giai cấp mình,
khẳng định bản chất giai cấp công nhân của đảng mình, của Đảng lãnh đạo duy
nhất phong trào cách mạng nhân dân - Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề cập đến vai trò của công tác tư tưởng trong việc xác định tính tiên
phong, bản chất giai cấp công nhân của Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Muốn có lập trường vô sản vững chắc, thì đảng viên phải có ý thức giai cấp,
đồng thời phải có lý luận cách mạng. Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng" [67, tr.113]. Theo
Người, ý thức giai cấp công nhân phải được hình thành và có vị trí vững chắc,
kiên định trong tư tưởng của những người đảng viên thì lập trường vô sản của
Đảng mới vững chắc. Những người đảng viên phải trở thành những người cộng
sản chân chính, thấm nhuần tư tưởng của Đảng và hành động vì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Muốn người đảng viên có ý thức giai cấp công
nhân cũng như có lý luận cách mạng, thì công việc của Đảng là cần làm tốt
công tác tư tưởng, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu, truyền bá lý luận cách
mạng cho cán bộ, đảng viên. Nếu cán bộ, đảng viên không có lý luận cách
mạng thì bản chất giai cấp công nhân trong mỗi đảng viên và rộng hơn là trong
Đảng sẽ có nguy cơ mờ nhạt, không vững vàng. Hồ Chí Minh tiếp cận vai trò
xác lập bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong công tác tư tưởng thông
46

qua đề cao vai trò nghiên cứu lý luận của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin. Người nhấn mạnh: "Học tập chủ nghĩa Mác -
Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản
thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta" [60, tr.611].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Quan điểm đó cho thấy, Đảng Cộng
sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, nhưng cơ sở xã hội của
Đảng là toàn dân tộc. Đảng vì nhân dân và sống trong lòng nhân dân. Sức
mạnh của Đảng được tăng cường nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng
tiên tiến của giai cấp công nhân với khí phách, tinh hoa truyền thống dân tộc.
Theo Người, bản chất giai cấp công nhân của Đảng luôn cần được xác lập,
nhưng song hành với đó phải là "khí phách, tinh hoa truyền thống dân tộc".
Bởi vậy, công tác tư tưởng không chỉ làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin lan tỏa,
thấm nhuần trong Đảng, trong quần chúng mà còn là hoạt động làm rõ vai trò
của Đảng, tôn vinh giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nói cách khác,
bản chất giai cấp công nhân của Đảng phải được cấu thành từ những yếu tố
chung nhất của giai cấp công nhân trên thế giới và những nét đặc thù của giai
cấp công nhân Việt Nam. Công tác tư tưởng trong Đảng cần phải làm rõ, sáng
tỏ nội dung này để quần chúng và toàn thể nhân dân lao động thấy được bản
chất giai cấp công nhân của Đảng không phải là những lý luận xa vời ở một
quốc gia nào đó trên thế giới mà là ở chính đất nước ta, dân tộc ta.
Thứ ba, công tác tư tưởng góp phần tăng cường công tác chính trị và
công tác tổ chức của Đảng
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò của công tác tư tưởng còn được thể
hiện trong mối quan hệ với công tác chính trị và công tác tổ chức của Đảng.
Công tác tư tưởng, công tác chính trị và công tác tổ chức luôn có mối quan hệ
biện chứng, gắn kết chặt chẽ với nhau.
47

Một là, vai trò của công tác tư tưởng trong mối quan hệ với công tác
chính trị. Theo Hồ Chí Minh, công tác chính trị là hoạt động xác định mục
tiêu, đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn cách
mạng cụ thể. Trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, công tác chính
trị của Đảng là xác định mục tiêu giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc và hình
thành đường lối, kế hoạch, nhiệm vụ để đạt được mục tiêu này. Cách mạng
thành công, giai cấp công nhân giành được chính quyền, công tác chính trị
của Đảng hướng tới mục tiêu phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội qua các hoạt động như xây dựng cương lĩnh phát triển đất nước,
chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... Trong mỗi giai
đoạn cách mạng, công tác chính trị của Đảng đều nhằm đạt mục tiêu cao nhất
là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Điểm mấu chốt là lãnh đạo tư
tưởng, làm cho cán bộ và nhân dân thông suốt đường lối, phương châm
công tác…" [64, tr.14]. Có thể thấy mối quan hệ biện chứng, liên hệ chặt
chẽ giữa công tác tư tưởng và công tác chính trị trong mọi hoạt động tư
tưởng, chính trị của Đảng. Với một giai cấp hay một đảng cầm quyền, để
những mục tiêu, đường lối, chủ trương của mình được đưa vào thực hiện,
thậm chí thực hiện có hiệu quả thì giai cấp đó, đảng đó phải đặc biệt coi
trọng công tác tư tưởng. Bởi, công tác chính trị chỉ có thể thành công nếu
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân nhận thức được tính đúng đắn, tin
theo chủ trương, đường lối của Đảng hay "thông suốt đường lối, phương
châm công tác" của Đảng. Có nhận thức đúng thì quần chúng nhân dân mới
có niềm tin và có hành động đúng. Mặt khác, một giai cấp, một đảng cầm
quyền có thể xác định cho mình một con đường đúng đắn, phù hợp với quy
luật phát triển chung của xã hội nhưng nếu không có sự đồng tình, ủng hộ
của đại bộ phận giai cấp mình, đảng viên của đảng mình và quần chúng
nhân dân thì con đường đó sẽ khó hoặc rất chậm để đưa giai cấp đó, đảng
48

đó đến được đích. Sự ủng hộ, đồng tình trên cần được xây dựng qua hoạt
động truyền bá tư tưởng, chủ trương, đường lối của giai cấp, của đảng cầm
quyền đến với quần chúng nhân dân. Làm cho quần chúng nhân dân tin
theo, ủng hộ chủ trương, đường lối của Đảng là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của công tác tư tưởng.
Hai là, vai trò của công tác tư tưởng trong mối quan hệ với công tác tổ
chức. Khi đã thực hiện tốt vai trò là cầu nối giữa đường lối cách mạng của
Đảng với nhận thức của quần chúng nhân dân, xây dựng niềm tin trong quần
chúng nhân dân, công tác tư tưởng tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng của
mình trong việc thúc đẩy hành động của quần chúng nhân dân, đảm bảo hiệu
quả cao mục tiêu, chủ trương, đường lối của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, công
tác tổ chức của Đảng là hoạt động triển khai đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng nhằm đạt được mục tiêu đặt ra. Trong tư tưởng của Người,
công tác tổ chức phải gắn liền với công tác tư tưởng, phải dựa vào công tác tư
tưởng để có kết quả tốt nhất.
V.I.Lênin cho rằng, sức mạnh của giai cấp công nhân là tổ chức; không
có tổ chức, giai cấp công nhân sẽ không là cái gì hết. Được tổ chức lại - nó sẽ
là tất cả… Nhưng tính tổ chức không có tư tưởng là vô nghĩa. Kế thừa luận
điểm đó của Lênin, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: tư tưởng có thông suốt thì tổ
chức mới chặt chẽ, nội bộ mới đoàn kết thật sự, kỷ luật mới nghiêm minh,
hành động mới tự giác, thống nhất. Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào,
công tác tổ chức cũng là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện sức
mạnh, năng lực của Đảng. Có đường lối đúng đắn mà thực hiện không tốt thì
cũng không thể có thắng lợi cách mạng. Công tác tổ chức là biện pháp của công
tác chính trị. Hồ Chí Minh từng nói: "Công tác tư tưởng, chính trị phải kết hợp
chặt chẽ với công tác kế hoạch. Tư tưởng thông, mọi người hăng hái thực hiện
kế hoạch mới tốt" [65, tr.25]. Để thông suốt từ công tác chính trị đến công tác tổ
chức thì cần thực hiện tốt công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng lúc này trở thành
49

một điều kiện, một chất xúc tác đặc biệt quan trọng để quần chúng nhân dân, cán
bộ, đảng viên cũng như toàn Đảng thực hiện hiệu quả mục tiêu, đường lối chính
trị đặt ra. Trong quan điểm Hồ Chí Minh, sức mạnh về tổ chức sẽ được nhân lên
gấp bội nếu có được sự thống nhất cao về tư tưởng. Phong trào cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn khi gắn
kết công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Vai trò của công tác tư tưởng trong thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng còn được Hồ Chí Minh khẳng định trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ
sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) khi Người định ra ba
nhiệm vụ và 10 công tác do Trung ương Đảng lãnh đạo. Người viết:
“Trong 10 công tác trên thì công tác lãnh đạo tư tưởng là quan
trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận thức tình hình mới,
hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống
nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng
từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và
hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó
khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi" [60, tr.554-555].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng luôn được xác định là
công tác quan trọng nhất để thực hiện thành công mọi mục tiêu của Đảng.
Những "nhiệm vụ tuy nặng nề", "công việc tuy khó khăn phức tạp", dù tính
chất khác nhau trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, nhưng có sự thống nhất giữa tư
tưởng và hành động, thì "ta cũng nhất định thắng lợi". Trong hoạt động của
Đảng, dù đối với cán bộ, đảng viên - trong Đảng, đối với quần chúng nhân
dân và các giai cấp, tầng lớp khác - ngoài Đảng; dù cấp trung ương hay các
chi bộ, đều phải lấy sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, sự gắn kết
giữa công tác tư tưởng và công tác tổ chức là cơ sở thực hiện mọi nhiệm vụ
đặt ra.
Ba là, mối quan hệ biện chứng giữa công tác tư tưởng, công tác chính
trị và công tác tổ chức. Vai trò của công tác tư tưởng không chỉ dừng lại khi
50

công tác tổ chức hoàn thành nhiệm vụ của mình, thực hiện, cụ thể hóa chủ
trương, đường lối của Đảng. Khi công tác tổ chức của Đảng được thực hiện,
công tác tư tưởng với nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn lại trở
thành cơ sở cho công tác chính trị, là căn cứ để công tác chính trị tiếp tục thực
hiện sứ mệnh của mình. Trong quá trình thực hiện, triển khai đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng việc tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn để thấy điểm hợp lý, bất hợp lý là vô cùng quan trọng. Bởi một chủ
trương, quyết sách có thể chỉ đúng trong một giai đoạn lịch sử, có thể phù hợp
với một bộ phận quần chúng nhân dân hoặc một vài địa phương. Đối với mỗi
một đối tượng, hoàn cảnh cụ thể thì về mục tiêu, cách thức tổ chức phải có sự
linh hoạt. Để nhận thức được điều đó, Đảng cần tiến hành các hoạt động đánh
giá, tổng kết, nghiên cứu lý luận làm cơ sở để công tác chính trị, công tác tổ
chức có những điều chỉnh và đưa ra những mục tiêu, đường lối phù hợp.
Đường lối, chủ trương, nhiệm vụ chính trị đúng đắn phải được xây dựng trên
cơ sở lý luận khoa học đã được rút ra trong nghiên cứu, tổng kết từ thực tiễn
sinh động. Hồ Chí Minh luôn đề cao mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Người viết: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"
[63, tr.95]. Do vậy, hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của công
tác tư tưởng là một hoạt động đặc biệt quan trọng trong kết nối thực tiễn - lý
luận, kết nối công tác tổ chức với công tác chính trị và ngược lại.
Không chỉ vậy, trong quá trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn,
vai trò của công tác tư tưởng còn thể hiện qua việc phát hiện những tư tưởng
sáng tạo, trong cách thức thực hiện, trong tư duy của đảng viên và quần chúng
nhân dân. Trong quan điểm Hồ Chí Minh, tính sáng tạo, tự do tư tưởng cũng
là một yếu tố quan trọng cho việc xây dựng, phát triển đường lối, chủ trương,
nhiệm vụ chính trị của Đảng. Sự đồng thuận, nhất trí cao trong mọi chủ
trương, đường lối của Đảng không triệt tiêu tính sáng tạo của bất cứ một cá
51

nhân nào mà nó còn tạo điều kiện để mỗi cá nhân được thể hiện mình. Bởi,
chỉ khi nào tư tưởng được giải phóng, được tôn trọng thì mỗi cán bộ, đảng
viên mới bộc lộ hết khả năng trí tuệ, năng lực tham gia vào quá trình hoạch
định đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng. Hồ Chí Minh viết: "Chế độ ta là
chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do… Đối với mọi vấn đề, mọi người tự
do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà
cũng là một nghĩa vụ của mọi người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự
do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý" [62, tr.378].
Như vậy, từ công tác chính trị đến công tác tổ chức cần phải có mối
quan hệ với công tác tư tưởng, công tác tổ chức tác động ngược lại đến công
tác chính trị cũng cần phải có cầu nối là công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng
là tiền đề, cơ sở và nền tảng của sự thống nhất về chính trị và tổ chức, bảo
đảm cho Đảng làm tròn và xứng đáng vai trò đội tiên phong chiến đấu của
giai cấp và dân tộc. Khi nói đến công tác tư tưởng, Hồ Chí Minh thường chú ý
đến vai trò định hướng, vừa chỉ ra mục tiêu hay cái đích cần đến, vừa có khả
năng tập hợp lực lượng tạo ra sức mạnh tinh thần và vật chất. Công tác tư
tưởng là linh hồn của công tác chính trị và công tác tổ chức.
2.2.2. Mục tiêu của công tác tư tưởng
Thứ nhất, công tác tư tưởng nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng và tạo sự thống nhất tư tưởng, đoàn kết trong Đảng.
Một trong những mục tiêu của công tác tư tưởng là nhằm khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được
thể hiện rõ nét trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, để các tầng lớp quần chúng nhân dân nhận thức
đúng đắn, đầy đủ về vai trò này thì cần làm tốt công tác tư tưởng. Với quá
trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; cổ động hành động đúng đắn của cán bộ, đảng
52

viên và quần chúng nhân dân, công tác tư tưởng hướng tới thực hiện thắng lợi
mục tiêu cách mạng dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.
Cách mạng Việt Nam chuyển sang bước ngoặt mới từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách
mạng nước ta đấu tranh giành chính quyền. Đảng lớn mạnh, phát triển rộng
khắp, lãnh đạo cách mạng giành được những chiến thắng vẻ vang. Có được
những thành tựu ấy, trước hết là do Đảng đã thực hiện tốt công tác tư tưởng,
tạo sự thống nhất cao về tư tưởng, về lý luận Mác - Lênin. Đánh giá những
kết quả mà Đảng ta đã giành được, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Khi tư tưởng đã
thông suốt thì khó khăn gì cũng vượt qua được, công việc to lớn mấy cũng
làm được" [64, tr.403].
Thắng lợi to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xét ở chiều
sâu, đây chính là thắng lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam trên mặt trận công
tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, giác ngộ, giáo dục, động viên, tập hợp
và tổ chức quần chúng cách mạng vùng lên lật đổ ách thống trị của thực dân
phong kiến, lập nên Nhà nước Dân chủ cộng hòa đầu tiên ở nước ta. Sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, cả nước bắt tay vào công cuộc vừa
kháng chiến chống thực dân Pháp vừa xây dựng kiến thiết đất nước. Một
trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp (1945 - 1954) và kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) là
do Đảng đã làm tốt công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng của Đảng đã góp
phần quan trọng, trực tiếp đưa chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam lên một đỉnh cao mới; nuôi dưỡng, xây dựng và phát triển
sức mạnh dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ để giành
lấy chiến thắng.
Không chỉ nhằm mục tiêu xác lập vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng với
quần chúng nhân dân và toàn thể xã hội, công tác tư tưởng còn nhằm xây
dựng sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng. Sức mạnh của Đảng, một mặt là
53

nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, mặt khác là ở sự thống nhất,
đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng. Trong tác phẩm Di chúc, Hồ Chí Minh đã
đặt ra yêu cầu: "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ ǵn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình" [67, tr.611].
Thống nhất đoàn kết trong Đảng là thống nhất trên cơ sở cùng chung một
lý tưởng dựa trên lý trí khoa học và thống nhất về tư tưởng, đường lối.
Theo Hồ Chí Minh, sở dĩ Đảng ta có thể lãnh đạo giai cấp công nhân và
toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, là vì Đảng ta có chính sách đúng đắn và
lãnh đạo thống nhất, là vì toàn thể đảng viên tư tưởng thống nhất, lý luận
thống nhất, hành động thống nhất. Người cho rằng, phàm làm công việc gì
bất kể lớn hay bé, khó hay dễ, nếu không ra sức thì chắc khó thành công,
nhưng nếu đồng tâm hiệp lực thì cũng có thể làm được. Muốn vậy, mọi
người phải hiểu vì sao phải làm, làm như thế nào. Có thế "mục đích mới
đồng", "chí mới đồng", "tâm mới đồng". Trong lời hiệu triệu giữ vững và
đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Hồ Chí Minh viết: "Người xưa có
nói rằng: "Đánh vào lòng người là hơn hết; đánh vào thành trì là thứ
hai”…, trước hết là bằng tinh thần: bại không nản, thắng không kiêu…,
đồng tâm, nhất trí" [56, tr.214-215].
Thực tiễn đã chứng minh, để có thể phát triển lớn mạnh, Đảng cần có
một hệ tư tưởng làm cơ sở để đoàn kết nhất trí về nhận thức, ý chí dẫn đến
đoàn kết nhất trí về hành động. Tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là tư
tưởng của giai cấp công nhân mà nòng cốt của nó là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin "làm cốt" và làm ngọn cờ tư tưởng để tạo ra
sự thống nhất trong Đảng. Đây cũng là luận điểm quan trọng nhất quyết định
vai trò và bản chất giai cấp công nhân của Đảng; là nguyên lý cơ bản trong
học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản. Trong quan điểm Hồ Chí Minh,
sự thống nhất trong nội bộ Đảng là vô cùng quan trọng. Công tác tư tưởng là
hoạt động không thể thiếu để có được sự thống nhất này. Nói cách khác, một
54

trong những mục tiêu quan trọng của công tác tư tưởng là nhằm tạo sự thống
nhất, đoàn kết trong Đảng.
Thứ hai, công tác tư tưởng nhằm tạo dựng sự động thuận trong nhận
thức và hành động, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bên cạnh mục tiêu khẳng định và bảo vệ
vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, công tác tư tưởng còn nhằm xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng là giáo dục tư tưởng và lãnh đạo
tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng. Để làm tròn sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng, Đảng phải đặt mục tiêu lãnh đạo tư tưởng, định hướng nhận thức
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh nói:
"Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Để làm tròn nhiệm vụ kháng
chiến và kiến quốc, Đảng phải mạnh, toàn Đảng tư tưởng phải nhất trí, hành
động phải nhất trí" [59, tr.396]. Đây vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ nội tại
trọng yếu của cách mạng, của Đảng. Nhất là trong những giai đoạn khó khăn
của cách mạng, công tác tư tưởng cần định hướng tư tưởng, nhận thức đúng
đắn và kịp thời. Sự đúng đắn, kịp thời trong định hướng của công tác tư tưởng
sẽ thống nhất được tư tưởng, nhận thức và hành động, thúc đẩy các nhân tố
tích cực, loại trừ những hạn chế, tiêu cực, từ đó, cách mạng phát triển thuận
lợi. Theo Hồ Chí Minh: "Tư tưởng có thống nhất, hành động mới thống nhất.
Tư tưởng và hành động có thống nhất mới đánh thắng được giặc" [59, tr.75].
Người cũng nhấn mạnh: "Tư tưởng hẹp hòi, thì hành động cũng hẹp hòi, thì
nhiều thù, ít bạn. Người mà hẹp hòi ít kẻ giúp. Đoàn thể mà hẹp hòi không thể
phát triển" [57, tr.88].
Hồ Chí Minh quan tâm đến việc định hướng tư tưởng, nhận thức cho
đảng viên và nhân dân từ rất sớm. Ngay từ những hoạt động chuẩn bị cho việc
55

thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Cuốn Đường Cách mệnh - cuốn giáo
trình lý luận chính trị đầu tiên của Đảng do Người biên soạn để giảng tại các
lớp huấn luyện lý luận chính trị cho những thanh niên yêu nước Việt Nam
nhằm giáo dục, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào cách mạng
Việt Nam, định hướng và tạo sự thống nhất tư tưởng, nhận thức và dẫn đến
thống nhất về hành động trong các lực lượng cách mạng Việt Nam, đã nêu rõ
mục tiêu của lớp học là "để giác ngộ đồng bào, đồng chí làm cách mạng",
"Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy,
tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh" [54, tr.283]. Hồ Chí
Minh thấy rõ bối cảnh lịch sử của cách mạng đất nước lúc đó, điều mà Người
thấy rõ hơn ai hết mục tiêu của công tác tư tưởng là thức tỉnh dân tộc, định
hướng tư tưởng cộng sản phải được đặt lên hàng đầu: "Đảng ta lớn lên trong
hoàn cảnh thuộc địa và nửa phong kiến, một nửa nước vừa thoát khỏi ách đế
quốc và phong kiến, cho nên dễ bị những tư tưởng xấu, tư tưởng không vô
sản, ảnh hưởng vào trong Đảng" [62, tr.313]. Hồ Chí Minh yêu cầu: "Đảng
phải tăng cường tư tưởng giai cấp công nhân và rửa gột những tư tưởng trái
với nó. Nước ta từ lâu ở dưới chế độ thực dân và phong kiến, cho nên những
tư tưởng bất chính có thể bị ảnh hưởng vào trong Đảng" [60, tr.280]. Tư
tưởng của giai cấp công nhân mà Người đề cập trên là chủ nghĩa Mác-Lênin
mà Hồ Chí Minh luôn định hướng cho toàn Đảng, toàn dân. Người nói:
"Lênin đã để lại cho chúng tôi một kho tàng quý báu vô ngần: học thuyết của
Người về cơ sở tư tưởng, về những nguyên tắc tổ chức, về lý luận và sách
lược của đảng cách mạng. Chủ nghĩa Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh
chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ
chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và
lương tâm của dân tộc chúng tôi" [61, tr.412].
Để làm rõ mục tiêu định hướng tư tưởng, nhận thức của công tác tư
tưởng, Hồ Chí Minh đi sâu tìm hiểu mối quan hệ chặt chẽ giữa định hướng
tư tưởng, định hướng nhận thức với hành động cách mạng; nhất là trong
56

điều kiện Đảng giành được chính quyền, lãnh đạo đất nước. Người luôn
cho rằng cần làm tốt hơn nữa để thực hiện mục tiêu này. Người phân tích:
"Những đảng viên xuất phát từ giai cấp khác ắt cũng sẵn có tính tự nhiên
của giai cấp đó. Tuy ngày nay họ đã theo tư tưởng cách mạng, nhưng dù
sao cũng còn vương vấn ít nhiều vết tích tư tưởng, ý thức, tập quán không
cách mạng" [58, tr.299], hơn nữa, "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là
kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ" [63, tr.605]. Do đó,
cần thực hiện công tác tư tưởng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, thống nhất lòng dân, ý Đảng.
2.2.3. Chủ thể, đối tượng của công tác tư tưởng
2.2.3.1. Về chủ thể
Theo Hồ Chí Minh, mọi hoạt động của Đảng đều do đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng tiến hành. Người nói: "Kinh qua đảng viên và các tổ chức của
Đảng, Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng, tuyên truyền, giáo dục và tổ chức
quần chúng, lãnh đạo các đoàn thể cách mạng của quần chúng" [60, tr.278]; "Lời
nói và việc làm của đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh
hưởng lớn đến quần chúng" [63, tr.606].
Hồ Chí Minh chỉ rõ công tác tư tưởng của Đảng được tiến hành thông
qua những con người cụ thể: đó là những cán bộ, đảng viên và đội ngũ những
người làm công tác tư tưởng. Đội ngũ đó chính là chủ thể công tác tư tưởng.
Họ là những người xây dựng, hình thành hệ tư tưởng; truyền bá; thúc đẩy
hành động của đối tượng của công tác tư tưởng.
Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên và cán bộ làm công tác tư tưởng thì
đức và tài luôn là hai yếu tố quan trọng, gắn kết chặt chẽ với nhau. Với Hồ
Chí Minh, trong một con người, một người cán bộ thì đức và tài phải vẹn
toàn: Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì
làm việc gì cũng khó. Người nói: "Có tài mà không có đức ví như một anh
làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không
57

làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho
loài người" [63, tr.399]. Với công tác tư tưởng, cán bộ, đảng viên và cán bộ
làm công tác tư tưởng nếu chỉ có trình độ, có lý luận tốt mà không mẫu mực
hoặc đạo đức không tốt thì không thể làm gương, xây dựng được niềm tin
trong Đảng, trong quần chúng nhân dân. Ngược lại, nếu chỉ có đạo đức mà
trình độ yếu kém thì không đủ lý luận và sự linh hoạt để thuyết phục người
dân. Công tác tư tưởng thành công hay thất bại phụ thuộc phần nhiều vào chủ
thể - con người thực hiện công tác này.
Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của người đảng viên, cán bộ
làm công tác tư tưởng trước hết phải mẫu mực, tâm huyết; phải trung thành và
kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, với lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của
Đảng và nhân dân ta. Mọi sự hoài nghi, mơ hồ về nền tảng tư tưởng của Đảng
trước khó khăn, thách thức, diễn biến phức tạp của tiến tình cách mạng trong
tư tưởng của những người làm công tác tư tưởng sẽ trở thành điểm yếu của
Đảng, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng. Do vậy, nắm vững, kiên định với chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng là yêu cầu về
tài và đức trong người cán bộ làm công tác tư tưởng. Là tài, bởi phải có nhận
thức, tư duy để tiếp thu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng của Đảng. Là
đức, bởi phải hoàn thành nhiệm vụ với nhiệt huyết và vì lợi ích cao nhất của
dân tộc. "Đức" của người làm công tác tư tưởng được Hồ Chí Minh tiếp cận
không đơn giản là đạo đức thông thường mà là đạo đức cách mạng. Theo Hồ
Chí Minh, "đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng" [61, tr.603]. Người yêu cầu những người làm công tác tư tưởng
phải là những tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng và những người thực
sự tâm huyết với công việc, có tinh thần trách nhiệm kể cả trong hoàn cảnh
gian khổ, điều kiện thiếu thốn. Người làm công tác tư tưởng phải trung thực,
thẳng thắn, nhất là lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Người

6465969
58

tuyên truyền cần phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm" [57, tr.192]. Theo
Người, cán bộ làm công tác tư tưởng phải thật sự là "tấm gương sống“.
Mặt khác, năng lực cán bộ làm công tác tư tưởng cũng là một đòi hỏi
quan trọng với công tác tư tưởng. Bởi, đây là công tác mang tính đặc thù: được
tiến hành mọi lúc, mọi nơi, với mọi đối tượng khác nhau. Với đặc thù đó, đòi
hỏi người làm công tác tư tưởng phải am hiểu nhiều lĩnh vực, có tri thức cách
mạng, phải nắm vững lý luận chính trị Mác - Lênin làm cơ sở cho việc định
hướng tình cảm cách mạng. Người nói: "Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng" [67, tr.113]. Lập
trường giai cấp không vững vàng, không thể làm tốt công tác tư tưởng được.
Hơn nữa, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, đòi hỏi trình độ của cán
bộ làm công tác tư tưởng phải được chuyên môn hóa, thành thạo. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: "Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy... cán bộ ở
môn nào phải học cho thạo công việc ở trong môn ấy" [57, tr.309-310].
Theo Hồ Chí Minh, người làm công tác tư tưởng không chỉ có trình độ,
năng lực chuyên môn, mà còn phải có năng khiếu nghề nghiệp. Do xuất phát
từ các mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, biểu hiện đặc trưng của
người làm công tác tư tưởng rất riêng biệt. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ làm
công tác tuyên truyền cần có năng lực và phẩm chất của nhà sư phạm, mô
phạm trọng phong cách, giản dị, khúc chiết trong ngôn ngữ, hiểu sâu vấn đề
định tuyên truyền, biết lựa chọn nội dung đúng định hướng của Đảng, phù
hợp với nhu cầu, trình độ nhận thức của đối tượng.
2.2.3.2. Về đối tượng
Đối tượng của công tác tư tưởng rất đa dạng và phong phú. Xét trong
nội bộ Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân thì công tác
tư tưởng gồm các đối tượng: cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Cán
bộ, đảng viên có thể là chủ thể của công tác tư tưởng và cũng là đối tượng của
công tác tư tưởng. Nếu nội bộ Đảng không thống nhất, không đoàn kết thì sẽ
59

không tạo thành sức mạnh to lớn trong Đảng. Nếu chính cán bộ, đảng viên
của Đảng không thông suốt nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối, chính
sách của Đảng thì Đảng không thể thu phục được các giai cấp và tầng lớp
khác trong xã hội. Do vậy, muốn cán bộ, đảng viên - những "tế bào của cơ thể
Đảng" thực sự có năng lực và đạo đức cách mạng thì Đảng phải thường
xuyên, sát sao làm công tác tư tưởng trong Đảng.
Trong quần chúng nhân dân lại có thể chia làm nhiều đối tượng dựa trên
những tiêu chí khác nhau. Căn cứ theo ngành nghề, lĩnh vực, giai cấp có thể
chia đối tượng công tác tư tưởng thành giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, đội
ngũ doanh nhân.... Căn cứ theo độ tuổi có thể tập trung đến đối tượng là thiếu
niên nhi đồng, sinh viên, thanh niên.... Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là cán
bộ làm công tác tư tưởng xuất sắc khi Người luôn thực hiện công tác này đúng
đối tượng bằng cả trí tuệ và tình cảm cách mạng. Người luôn dành cho thế hệ
trẻ một tình cảm và sự quan tâm đặc biệt. "Năm điều Bác Hồ dạy" là một bài
học thuộc lòng ý nghĩa, quý giá với thiếu niên, nhi đồng. Điều đầu tiên trong
Năm điều dạy của Bác là "Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào" đã cho thấy sự khéo
léo, tài tình của Hồ Chí Minh trong công tác tư tưởng với thiếu niên nhi đồng.
Với thanh niên, Người luôn đặt niềm tin và cho rằng đây là lực lượng quan
trọng trong xây dựng và phát triển đất nước. Người viết: "Thanh niên là người
chủ tương lai của nước nhà". Và Người cũng yêu cầu: "Thanh niên bây giờ là
một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo tư
tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình" [60, tr.399].
Căn cứ theo vùng, khu vực, tùy điều kiện từng vùng mà đối tượng của
công tác tư tưởng khác nhau. Với những điểm nóng gần đây như một số tỉnh
miền Tây, tỉnh Bình Thuận, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công
tác tư tưởng ở đây. Lợi dụng tình hình dân tộc, tôn giáo phức tạp, trình độ dân
trí không cao, các thế lực thù địch thực hiện các chiêu bài chống phá cách
mạng, chống phá Đảng. Bởi vậy, quần chúng nhân dân tại những địa phương
60

này là những đối tượng đặc biệt của công tác tư tưởng, do vậy, chủ thể cần có
nội dung, phương pháp công tác tư tưởng linh hoạt và hiệu quả.
2.2.4. Nhiệm vụ của công tác tư tưởng
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
Trong quá trình xây dựng và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, với
quan điểm: Không có lý luận cách mạng, thì không có cách mạng vận động,
Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.
Nghiên cứu lý luận, theo Người, là tiếp thu lý luận, nhận thức được bản chất
khoa học và cách mạng của lý luận nhằm vận dụng sáng tạo lý luận và phát
triển lý luận.
Đối với Hồ Chí Minh, lý luận cách mạng như ngọn đèn soi sáng, dẫn
lối cho cách mạng thành công. Đảng có lý luận tiên phong thì Đảng mới vững
mạnh, giành và giữ vững vị trí lãnh đạo đất nước. Lý luận cách mạng là yếu
tố cốt lõi để một đảng khẳng định con đường đúng đắn của mình, từ đó,
khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo đối sự nghiệp cách mạng của nhân dân và vì
nhân dân. Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo lý luận, phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh thành lập, xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam. Và cũng từ nghiên cứu, thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh cùng Đảng, cùng cả dân tộc đã chiến thắng đế quốc xâm lược,
giành độc lập, tự do cho dân tộc. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: "Phải nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và áp dụng vào công tác hàng ngày" [60, tr.100].
Không nghiên cứu lý luận, hay nghiên cứu không đến nơi, dẫn đến
những hạn chế, thiếu sót, thậm chí là sai lầm trong lãnh đạo cách mạng. Hồ
Chí Minh viết: "vì trình độ lý luận thấp kém cho nên đứng trước nhiệm vụ
cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo Đảng ta không
khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm" [64, tr.91]. Hồ Chí
Minh cũng chỉ ra hậu quả của việc không thấy hết vai trò nghiên cứu lý luận
cách mạng, đó là dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí. Hồ Chí Minh viết:
61

"Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý
luận suông" [57, tr.273].
Nghiên cứu lý luận là cơ sở của công tác tư tưởng không chỉ là hoạt
động của riêng Hồ Chí Minh, của riêng đảng viên hay những cán bộ làm công
tác tư tưởng mà còn là của toàn thể quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh xác
định, quần chúng nhân dân tiếp thu lý luận là chính, còn đối với cán bộ, đảng
viên, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến hoạt động nghiên cứu lý luận của
cán bộ, đảng viên ở vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận. Theo quan điểm
Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên cũng là con người và đều có mặt tích cực,
mặt tiêu cực - mặt "thiện" và mặt "ác". Khi mặt thứ nhất chiếm vị trí chi phối,
hoạt động của nó sẽ mang lại lợi ích cho cách mạng, có tác động tích cực thúc
đẩy lịch sử phát triển. Khi mặt thứ hai chiếm ưu thế thì tác động sẽ ngược
lại. Muốn làm thế nào để mặt tích cực thắng mặt tiêu cực, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: phải học tập lý luận. "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ…". Đảng
viên có hiểu, có vận dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào công tác của Đảng,
thấm nhuần lý luận đó trong cả những công việc hàng ngày thì mới có thể
làm tốt công tác tư tưởng cho quần chúng. Có thể thấy, trong quan điểm Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là vũ khí lý luận để cải tạo thế
giới, mà còn là vũ khí lý luận để cải tạo chính bản thân con người, trước hết
là cải tạo chủ thể cách mạng.
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn là hai nội dung không thể tách
rời trong công tác tư tưởng của Đảng. Tổng kết thực tiễn được hiểu là việc
khái quát những hoạt động thực tiễn từ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, kinh
nghiệm đến giải pháp. Tổng kết thực tiễn bổ sung và làm cơ sở cho nghiên
cứu lý luận. Hồ Chí Minh khẳng định: "Lý luận sở dĩ quan trọng là vì nó dạy
ta hành động... Hiểu biết do thực hành mà ra... Lý luận ấy lại phải dùng vào
thực hành... Thực hành, hiểu biết. Lại thực hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vòng
như thế mãi, không bao giờ ngừng" [59, tr.127-130]. Hồ Chí Minh diễn đạt
62

mối quan hệ giữa lý luận và thực hành như một vòng tuần hoàn khép kín, lý
luận và thực hành luôn bổ trợ, làm cơ sở cho nhau. Cũng như vậy, nghiên cứu
lý luận là để có cơ sở cho các hoạt động thực tiễn được diễn ra đúng đắn, để
đạt được cái đích mà lý luận hướng tới. Không có lý luận hướng dẫn thì thực
tiễn trở nên mù quáng. Ngược lại, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông. Trong thực tiễn, một hành động được cho là đúng đắn có thể
không hẳn đã đúng với mọi thời kỳ, mọi dân tộc. Hoặc, nhận thức về lý luận
khác nhau ở mỗi cá nhân sẽ dẫn đến sự khác biệt, không đúng đắn trong hành
động... Từ khi mới tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh từng đưa ra
luận điểm: Những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào
châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu. Hay, sau này, khi nói về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nói: Ta không thể giống Liên Xô vì Liên Xô
có phong tục, tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác... Trong Diễn văn khai
mạc lớp lý luận khóa 1 tại trường Nguyễn Ái Quốc ngày 7-9-1957, Người
nhấn mạnh: Hiện nay, đứng về mặt xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy chúng ta
đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta
không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta
có những đặc điểm riêng của ta... Những sáng tạo và bổ sung những luận
điểm quan trọng vào chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã góp phần quan trọng trong việc hình thành Đảng ta, là cơ sở tư tưởng,
cơ sở lý luận để Đảng đề ra đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do vậy, tổng kết thực tiễn để thấy sự
phù hợp hay chưa phù hợp của lý luận, để có những chủ trương, đường lối
đúng đắn hơn. Như vậy, có thể nói, cũng như mối quan hệ giữa công tác tư
tưởng và công tác tổ chức, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng không thể tách rời.
Thứ hai, truyền bá tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng và thực
hiện nhiệm vụ chính trị.
63

Cùng với hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn thì truyền bá
tư tưởng, lý luận của Đảng là một trong những nội dung quan trọng của công
tác tư tưởng. Bởi những sản phẩm khoa học và cách mạng được kết tinh trong
hoạt động nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn cần được truyền thụ đến
với cán bộ, đảng viên và toàn thể quần chúng nhân dân. Theo Hồ Chí Minh,
truyền bá tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng là truyền bá lý luận Mác -
Lênin; là mang quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến
với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, khiến họ thấm thuần tư tưởng,
nắm rõ chủ trương, đường lối để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, góp phần
xây dựng, kiến thiết đất nước.
Truyền bá tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng và thực hiện
nhiệm vụ chính trị gồm những hoạt động sau:
Một là, giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị
Truyền bá tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng gồm nhiều hoạt
động, trong đó giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị là hoạt động quan trọng
nhất. Công tác giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị, theo Hồ Chí Minh, là một
trong những hoạt động rất quan trọng đối với Đảng ta và cũng là yêu cầu tất
yếu trong công tác tư tưởng của Đảng. Công tác giáo dục tư tưởng, lý luận
của Đảng được hiểu là hoạt động giáo dục cho cán bộ, đảng viên và toàn thể
xã hội nhận thức đúng về cơ sở lý luận và nền tảng tư tưởng, đường lối, chính
sách của Đảng để tạo ra sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, dẫn đến sự thống
nhất về hành động cách mạng trong Đảng và xã hội. Xét về bản chất, công tác
giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị là quá trình tác động có mục đích, có hệ
thống, nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức chính trị cho quần chúng, hướng
họ tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Cụ thể hơn,
giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị trong công tác tư tưởng của Đảng là giáo
dục lý luận Mác - Lênin; giáo dục đường lối, nghị quyết, chính sách, của
Đảng. Đây là một nội dung có ý nghĩa phương pháp luận trong việc khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng đất nước.
64

Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của
giáo dục tư tưởng, lý luận. Cán bộ, đảng viên là đối tượng đầu tiên của công tác
giáo dục tư tưởng, lý luận. Bởi, với vai trò là hạt nhân của Đảng, cán bộ, đảng
viên phải được giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng để thấm nhuần những lý luận này và có hành động đúng đắn, tích
cực, góp phần xây dựng và bảo vệ Đảng. Hồ Chí Minh đã yêu cầu:
"- Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay
trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương
trình công tác của cấp ủy. Phải bồi dưỡng giảng viên lý luận cho các chi bộ.
- Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học lý luận và
chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình" [67, tr.117]. Người cho rằng:
Làm cách mạng, bản thân mọi người chúng ta đều chịu ảnh hưởng của xã hội
cũ hoặc nhiều, hoặc ít. Cho nên, trong người chúng ta hoặc nhiều hoặc ít
không tránh khỏi có cái ác, như tự đại, tự kiêu, tự tư, tự lợi. Nhưng "với sự
giúp đỡ giáo dục của Đảng và Chính phủ, sự cố gắng học tập và cải tạo của
mọi người, thì cái ÁC trong mình chúng ta ngày càng bớt, cái THIỆN ngày càng
tăng" [62, tr.455-456]. Trong quan điểm Hồ Chí Minh, thông qua công tác giáo
dục tư tưởng, lý luận chính trị mà đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước
thấm sâu vào trong tâm thức của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân;
góp phần nâng cao nhận thức chính trị, giác ngộ cách mạng cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân, thúc đẩy họ hăng hái hành động thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
của cách mạng do Đảng đề ra. Người cho rằng, thông qua công tác giáo dục tư
tưởng, lý luận mới hiểu biết, nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin. Có nắm vững
chủ nghĩa Mác - Lênin mới có cơ sở để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có
khả năng vận động, lãnh đạo, giáo dục, giác ngộ quần chúng thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Người cán bộ, đảng viên mà "không hiểu lý luận
thì như người mù đi trong đêm", không thể bảo đảm vai trò "vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
65

Theo Hồ Chí Minh, giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị còn xuất phát từ
nhiệm vụ định hướng nhận thức quần chúng nhân dân trong công tác tư tưởng
của Đảng. Quần chúng nhân dân là đối tượng của công tác tư tưởng, còn đảng
viên, khi đã nắm vững lý luận của Đảng thì lại trở thành chủ thể giáo dục tư
tưởng, lý luận chính trị cho quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, vì sự
phức tạp trong diễn biến tư tưởng, có "tư tưởng tốt", có "tư tưởng xấu" nên cần
phải nhận thức, phân biệt rõ để từ đó xác định nội dung đúng đắn, phù hợp cho
công tác giáo dục tư tưởng. Do vậy, giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị trong
công tác tư tưởng của Đảng không thể không nhắc đến giáo dục tư tưởng, lý luận
chính trị trong quần chúng nhân dân. Người yêu cầu cần phải gạt bỏ tư tưởng cá
nhân chủ nghĩa - căn bệnh mẹ đẻ ra nhiều cái xấu như lười biếng, tham ô, đòi hỏi
hưởng thụ, kèn cựa, địa vị... Hồ Chí Minh đúc kết: "Muốn tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa
phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột
rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa" [64, tr.11]. Con người xã hội chủ nghĩa mà Hồ
Chí Minh nhắc đến bao gồm cả đảng viên và quần chúng nhân dân. Muốn có
con người xã hội chủ nghĩa, phải "gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa", để toàn
Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng vì mục tiêu chung của đất nước. Đây là một
quá trình lâu dài và công tác giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị của Đảng phải
được xuyên suốt quá trình này. Được giáo dục vững vàng về tư tưởng, lý luận
chính trị, cán bộ, đảng viên mới có đủ bản lĩnh để giáo dục tư tưởng, lý luận
chính trị cho quần chúng nhân dân, lãnh đạo phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân. Được giáo dục tốt về tư tưởng, lý luận chính trị, quần chúng
nhân dân mới thực sự có niềm tin và hết lòng phụng sự Tổ quốc.
Hai là, tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
chấp hành nghiêm túc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Để hành động của đảng viên và quần chúng nhân dân luôn đúng đắn,
kiên định với tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng thì hoạt động tuyên
truyền, vận động là không thể thiếu trong công tác tư tưởng của Đảng.
66

Theo cách hiểu thông thường, tuyên truyền, vận động là hoạt động có
mục đích của một chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, thái độ, tinh thần, tư
tưởng đến đối tượng, biến những tri thức, tinh thần, tư tưởng đó thành nhận
thức, niềm tin, tình cảm theo những định hướng do chủ thể đề ra. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền được hiểu: "Tuyên truyền là đem một việc
gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm" [57, tr.191]. Đối với Người,
mục đích của tuyên truyền là phát huy lòng yêu nước, vì độc lập dân tộc, lợi
ích của đất nước, làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Người chỉ rõ: "... các ban tuyên truyền nên
hướng dẫn lòng yêu nước và chí cương quyết cố giành độc lập hoàn toàn của
đồng bào một cách ôn hòa, bình tĩnh, có lợi cho ngoại giao. Hơn nữa cần phải
giải thích cho toàn dân hiểu rõ con đường đi của Chính phủ..." [56, tr.234].
Tuyên truyền, vận động hành động của cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân nhằm khích lệ, động viên, thúc giục hành động của họ. Theo
Hồ Chí Minh, tuyên truyền, vận động được xem là hoạt động kết nối giữa
nhận thức và hành động, giữa lý luận và thực tiễn của mỗi đảng viên và mỗi
người dân. Hồ Chí Minh viết: "Mỗi khẩu hiệu của Đảng phải là ý nguyện và
mục đích của hàng vạn ức đảng viên và của hàng triệu dân chúng. Mà muốn
như thế, phải làm cho dân chúng đều hiểu, phải học cách nói của dân chúng.
Nếu không hàng vạn khẩu hiệu cũng vô ích" [57, tr.345].
Trong tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênnin, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến tuyên
truyền miệng và tuyên truyền qua báo chí. Đồng thời, Người cũng chú trọng
đến việc tuyên truyền nhân tố mới, nêu gương người tốt, việc tốt, phải nêu
gương những cán bộ trong sạch, gương mẫu. Người cho rằng, nhiệm vụ tuyên
truyền, vận động là phải ra sức tuyên truyền đường lối của Đảng, tuyên truyền
những thành tích của công cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải nêu dương
người tốt, việc tốt. Theo Hồ Chí Minh, cách tuyên truyền tốt nhất, có tác dụng
67

tốt nhất là nêu gương người tốt, việc tốt. Người nhấn mạnh: "Lấy gương
người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục
lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin
thiết thực nhất" [67, tr.672].
Với cán bộ tuyên truyền, Hồ Chí Minh cho rằng, trong thực hiện nhiệm
vụ tuyên truyền, điều quan trọng nhất là phải học được cách nói của quần
chúng nhân dân. Người căn dặn: "Chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng,
phải học cách nói của quần chúng, mới nói lọt tai quần chúng... Vì cách nói
của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát, rất thiết thực, mà lại rất giản đơn. Anh
em đi tuyên truyền chưa học được cách nói đó, cho nên khi viết, khi nói, khô
khan, cứng nhắc, không hoạt bát, không thiết thực" [57, tr.341].
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu, trên mặt trận tuyên truyền, cần chú trọng
việc đấu tranh chống các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, xảo quyệt của kẻ
địch. Người nói: "Đế quốc Pháp - Mỹ không những chiến tranh xâm lược
bằng quân sự, chúng còn chiến tranh bằng tuyên truyền. Chúng dùng báo chí
và phát thanh hàng ngày, tranh ảnh và sách vở in rất đẹp, các nhà hát, các
trường học, các lễ cúng bái ở nhà thờ và chùa chiền, các cuộc hội họp, v.v. -
để tuyên truyền" [60, tr.490].
Hiện nay, trước những yếu tố bên trong và bên ngoài tác động trực tiếp
đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đến công tác tư tưởng của
Đảng, Đảng đặc biệt chú trọng đến công tác giáo dục tư tưởng, lý luận chính
trị cho đảng viên và quần chúng nhân dân. Đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng xác định việc học lý luận chính trị là việc của tất cả mọi người, từ đảng
viên đến quần chúng nhân dân, từ học sinh, sinh viên đến lực lượng lao động
trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Đảng đã xây dựng và triển khai chương trình
giáo dục lý luận chính trị từ Trung ương đến địa phương. Tại địa phương, hệ
thống trường chính trị các tỉnh, thành phố - nơi thực hiện nhiệm vụ đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, lãnh đạo trên địa bàn tỉnh, thành phố
68

được coi là một cơ quan quan trọng thực hiện công tác tư tưởng của Đảng ở
địa phương. Hoạt động giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị của Đảng còn
được triển khai trên quy mô lớn khi các trường học trong hệ thống giáo dục
quốc dân đều có nội dung học tập về chủ nghĩa Mác - Lênin, các nội dung liên
quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong tư tưởng của
mình, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục tư tưởng, lý
luận chính trị cho giới trẻ, cho thanh niên. Kế thừa tư tưởng này, Đảng ta đã và
đang triển khai rất tích cực, hiệu quả hoạt động này trên toàn hệ thống giáo dục
quốc dân. Trước xu hướng hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, tuyên
truyền, giáo dục nhận thức cho thanh, thiếu niên là một hoạt động có ý nghĩa to
lớn. Có thể thấy được quy mô và chất lượng công tác giáo dục tư tưởng, lý luận
chính trị của Đảng ngày càng được mở rộng và nâng cao. Đây chính là một
trong những hình thức tuyên truyền hiệu quả, đảm bảo quá trình truyền thụ tư
tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được thực hiện theo cả
chiều sâu và chiều rộng. Bên cạnh đó, hoạt động truyền bá tư tưởng, đường lối,
chính sách của Đảng còn là hoạt động bồi dưỡng cho quần chúng ưu tú qua các
lớp tìm hiểu nhận thức về Đảng, các lớp bồi dưỡng đảng viên mới, các hội nghị
báo cáo viên và nhiều chương trình bồi dưỡng, tuyên truyền khác.
Thứ ba, cổ động, khích lệ, động viên cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân
Cùng với tuyên truyền, cổ động là hình thức, công cụ, biện pháp tác
động trực tiếp vào nhận thức, tình cảm, tư tưởng của quần chúng nhận thức,
lôi cuốn và thúc đẩy quần chúng nhân dân tham gia các hoạt động theo mục
đích đã xác định, nhằm biến nhận thức, tư tưởng thành sức mạnh vật chất.
Sinh thời, Hồ Chí Minh viết:
“Theo ý tôi, các bạn có nhiệm vụ như sau:
1. Vạch rõ âm mưu, chính sách và những hành động tàn bạo của địch.
2. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ, vì sao phải trường kỳ kháng
chiến, vì sao kháng chiến nhất định thắng lợi.
69

3. Giải thích chính sách của Chính phủ cho dân chúng rõ. Bày tỏ
nguyện vọng của dân chúng cho Chính phủ biết.
4. Cổ động dân chúng, huấn luyện dân chúng, bày cho dân chúng tổ
chức lực lượng của mình.
5. Kêu gọi toàn dân đoàn kết, hăng hái kháng chiến, tin tưởng về sự
thắng lợi" [57, tr.210].
Theo Hồ Chí Minh, cổ động, khích lệ cán bộ, đảng viên và nhân dân
được thể hiện dưới những khẩu hiệu hành động những lời cổ vũ ngắn gọn và
có sức hấp dẫn, muốn tiến hành cổ động thì cần phải có khẩu hiệu hành động.
Người cho rằng: Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng căn cứ vào tình hình
trong nước và trên thế giới, đề ra những khẩu hiệu, mục đích và kế hoạch đấu
tranh. Đảng quy định ở giai đoạn nào thì phải dựa vào lực lượng nào, đoàn kết
lực lượng nào, cô lập và phân hóa lực lượng nào, để tiêu diệt kẻ thù của giai
cấp, của nhân dân. Người viết: "Khẩu hiệu chính trị đúng, thì toàn dân thấy rõ
phương hướng, nhận rõ ai là bạn, ai là thù, đoàn kết chặt chẽ xung quanh
Đảng, để đánh thắng kẻ thù của cách mạng" [60, tr.277].
Hồ Chí Minh còn chỉ ra: Có khẩu hiệu chung, cũng chưa đủ, Đảng còn
phải căn cứ theo lợi ích của nhân dân trong giai đoạn đó, đề ra những khẩu hiệu
mới, động viên quần chúng, làm rõ mục đích và vạch đường lối cho quần
chúng đấu tranh; đồng thời, để huấn luyện, giáo dục quần chúng. Người nói:
"Thực hiện những khẩu hiệu này, tức là đẩy cách mạng tiến tới và giúp cho
khẩu hiệu chung thực hiện. Thí dụ: Để đẩy mạnh kháng chiến kiến quốc, Đảng
đề ra khẩu hiệu "Phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất", "Thi
đua sản xuất", v.v.. Những khẩu hiệu ấy làm cho hàng triệu nhân dân lao động
càng thêm hăng hái tham gia kháng chiến kiến quốc" [60, tr.278].
Trong điều kiện hiện nay, với xu hướng phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin, các phương pháp, cách thức cổ động nhằm khích lệ, động viên
cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia thực hiện đường lối, chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng linh hoạt và
70

có tính lan tỏa lớn. Vận dụng những giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh về cổ
động, khích lệ, động viên; Đảng ta xác định: cổ động, khích lệ, động viên là
phương tiện hữu ích để giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Từ khâu tuyên truyền giải thích trực tiếp cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, về tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước; đến cổ vũ, thúc đẩy mọi
người, mọi đối tượng hăng hái, nhiệt tình, tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị
được giao là một chu trình khoa học và cần thiết. Cách thức chủ yếu của cổ
động hiện vẫn tập trung vào việc xây dựng gương điển hình, tiêu biểu giúp cho
cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân thấy được sự đúng đắn của đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước; trên cơ sở đó, khích lệ, kêu
gọi mọi người cùng hành động cách mạng vì mục đích chung, sự nghiệp chung
của toàn Đảng, toàn dân tộc. Hiệu quả của công tác tư tưởng phụ thuộc rất
nhiều vào hoạt động cổ động. Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng chỉ rõ: công tác tư
tưởng, công tác cổ động góp phần "tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng
thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng chống "diễn biến hòa bình" của
các thế lực thù địch" [26, tr.186]. Đây chính là quan điểm khẳng định kết quả
tích cực của công tác tư tưởng nói chung, cổ động nói riêng hiện nay.
2.2.5. Phương thức công tác tư tưởng
Phương thức công tác tư tưởng là con đường và cách thức tác động,
chuyển tải mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tư tưởng để nâng cao trình độ lý
luận, nhận thức và định hướng hành động cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân. Vì vậy, đây là một hoạt động đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ, tính
linh hoạt, sáng tạo của tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Với mỗi đối
tượng, chủ thể công tác tư tưởng cần áp dụng phương thức khác nhau do trình
độ, nhận thức, đặc điểm của mỗi đối tượng là khác nhau.
Từ thực tiễn hoạt động phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã quan tâm
và chỉ ra phương thức công tác tư tưởng, cụ thể:
71

Một là, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị. Theo Người, một trong những phương thức thực hiện hiệu quả công tác tư
tưởng là phải đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Theo Người, có lý luận, tư tưởng
vững vàng, đúng đắn thì cán bộ, đảng viên cũng như quần chúng nhân dân
mới có nhận thức, hành động tiến bộ, tích cực góp phần tạo nên thành công
của công tác tư tưởng. Nhằm truyền bá sâu, rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã thường xuyên mở các lớp tập huấn cán bộ, đề cao vai trò của
hoạt động giáo dục lý luận chính trị. Quan điểm của Hồ Chí Minh là "Học tập
chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ chức - là những
việc cần kíp của Đảng" [59, tr.33] Người cho rằng, công tác tư tưởng trước
tiên phải được thực hiện có bài bản qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
lý luận chính trị mà trước hết là đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng
viên được tiếp cận, trau dồi về lý luận chính trị, tư tưởng qua các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn của Đảng dành cho cán bộ, đảng viên là một
trong những phương pháp trực tiếp, hiệu quả của công tác tư tưởng. Hồ Chí
Minh từng nói: Ban Tuyên huấn Trung ương cần căn cứ vào trình độ khác
nhau của thành viên mà soạn các chương trình học tập, bảo đảm cho đảng
viên ở cơ sở có thể thường xuyên học tập. Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa
đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là
một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy.
Với quần chúng nhân dân, phương thức này được thực hiện chủ yếu
qua các hoạt động giáo dục, bồi đắp tư tưởng chính trị. Hồ Chí Minh nói:
"Trước hết phải cách cái mệnh tư tưởng của con người, nghĩa là phải tăng
cường giáo dục về tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho quần chúng. Tư tưởng của
quần chúng thông, lực lượng và trí tuệ của quần chúng sẽ vô cùng vô tận,
khó khăn gì cũng vượt được, công việc to mấy cũng làm nên" [63, tr.437].
72

Nhiệm vụ của Đảng là phải "Đánh thông tư tưởng của quần chúng bằng
mọi cách tuyên truyền giáo dục rộng khắp" [60, tr.488]. Qua các chương
trình tập huấn, bồi dưỡng gắn liền với những công việc, nghề nghiệp, địa
phương, đơn vị cụ thể mà cán bộ làm công tác tư tưởng có thể trực tiếp,
gián tiếp bồi dưỡng lý luận chính trị cho quần chúng nhân dân. Theo Hồ
Chí Minh, mục tiêu của các hoạt động này để làm cho "mọi người công dân
- già trẻ gái trai - đều phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà. Mọi
người phải nâng cao tinh thần trách nhiệm cần kiệm xây dựng Tổ quốc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là công tác tư tưởng cực kỳ quan trọng mà mỗi
đảng viên, đoàn viên thanh niên, và các cấp ủy đảng, trước hết là chi bộ
phải làm cho tốt" [65, tr.428].
Hai là, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát
thanh, đài truyền hình để tiến hành công tác tư tưởng là một trong những
phương pháp được thực hiện thường xuyên, gần gũi với cán bộ, đảng viên,
quần chúng nhân dân và mang lại hiệu quả cao.
Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của báo chí trong công tác tư tưởng.
Người coi báo chí là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc và xây dựng đất nước. Với Người, hoạt động báo chí là một phương
thức quan trọng của công tác tư tưởng. Bởi, hoạt động báo chí cũng là hoạt
động cách mạng, là hoạt động tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị,
đường lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trong
báo chí nói chung hay báo chí cách mạng nói riêng, Hồ Chí Minh luôn xác
định: Viết cho ai? Viết để làm gì? Thế thì viết cái gì? Cách viết thế nào?
Viết rồi phải thế nào? Hàng nghìn bài báo cho nhiều đối tượng với những
bút danh khác nhau, Hồ Chí Minh đã thực sự biến báo chí trở thành công
cụ đắc lực, hữu hiệu để mang lý tưởng cách mạng đến với cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân.
73

Ba là, thông qua sinh hoạt của tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể
quần chúng
Theo Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng phải được tiến hành thường
xuyên để kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân. Do vậy, qua hoạt động sinh hoạt của các tổ chức đảng, chính
quyền, các đoàn thể quần chúng có thể tiến hành công tác tư tưởng thường
xuyên, liên tục. Theo Hồ Chí Minh, tổ chức sinh hoạt đảng cần phải được
thực hiện 3 nguyên tắc: nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách; nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Những nguyên
tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động này đảm bảo sự thống nhất trong Đảng về
tư tưởng, đường lối; thống nhất trong cách thực hiện chủ trương đường lối
của Đảng. Mặt khác, với những nguyên tắc trên, sinh hoạt đảng còn là hoạt
động để mỗi cán bộ, đảng viên tự nhận thức, kiểm điểm, đánh giá lại bản thân
về mọi mặt, nhất là về tư tưởng chính trị để luôn vững vàng về tư tưởng, về
phẩm chất chính trị, kiên định với con đường cách mạng của Đảng. Qua sinh
hoạt đảng, mỗi tổ chức đảng có thể nắm bắt được thông tin, tâm tư, nguyện
vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân; từ đó, tìm ra phương thức
giải quyết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân. Muốn vậy, trong sinh hoạt
đảng phải đề cao dân chủ trong Đảng, phát huy tính chủ động, sáng tạo và tự
do tư tưởng. Người dặn: "Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư
tưởng" [60, tr.98]. Người chỉ rõ: Đối với một vấn đề, mọi người tự do bày
tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý... Khi mọi người đã phát biểu ý
kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do
phúc tùng chân lý. Vậy, sinh hoạt Đảng chính là một cách thức, phương pháp
làm công tác tư tưởng mà trước nhất là cho cán bộ, đảng viên.
Bốn là, quá trình tự giáo dục của cán bộ, đảng viên
Mỗi cán bộ, đảng viên đều là một chiến sĩ trên mặt trận công tác tư
tưởng. Cán bộ, đảng viên phải làm công tác tư tưởng cho chính đồng chí,
74

đồng đội của mình cũng như cho quần chúng tại cơ quan, đơn vị, địa phương
mình. Để tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cách mạng
của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp
tùy vào từng đối tượng khác nhau. Một trong số đó phải kể đến phương pháp
nêu gương. Hồ Chí Minh cho rằng: "Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng
ngày giáo dục lẫn nhau" [67, tr.672], vì theo Người, "một tấm gương sống còn
có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền" [53, tr.284]. Hồ Chí Minh
nói: Lấy gương người tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên để
làm công tác tư tưởng lẫn nhau; hay phương pháp lấy quần chúng giáo dục
quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn. Cán bộ, đảng viên có
gương mẫu thì mới có thể làm tốt công tác tư tưởng, xây dựng niềm tin trong
nhân dân. Hồ Chí Minh đề cao phương pháp tự làm công tác tư tưởng của đảng
viên, Người nhắc nhở đảng viên: "Muốn cải tạo xã hội mà đảng viên không tự
cải tạo mình, không tự nâng mình thì không thể được" [60, tr.93]. Mỗi cán bộ,
đảng viên phải thực hiện tốt công tác phê bình và tự phê bình, để không chỉ
nhận thấy sự chưa hoàn thiện, thậm chí là yếu kém của người khác mà còn để
đánh giá chính mình. Có thực sự gương mẫu, chuẩn mực thì cán bộ, đảng viên
mới có thể xây dựng được lòng tin, từ đó, truyền bá tư tưởng của Đảng, động
viên hành động đúng đắn trong quần chúng nhân dân.
Năm là, hoạt động văn hóa, văn nghệ
Văn hóa, văn nghệ là những hoạt động gần gũi và có sức thu hút lớn
đối với mọi đối tượng của công tác tư tưởng. Do vậy, đây là một trong những
phương thức công tác tư tưởng được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Theo
Người, văn hóa, văn nghệ là vũ khí và mỗi người nghệ sĩ là một người chiến
sĩ trên mặt trận này. Hồ Chí Minh nói: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác,
chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng
sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh... Văn hóa,
nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài, mà phải ở
75

trong kinh tế và chính trị" [59, tr.246]. Theo Hồ Chí Minh, tuyên truyền là
làm cho dân hiểu. Để làm cho dân hiểu thì có nhiều phương pháp, và phương
pháp phải phù hợp với đối tượng. Đối với đông đảo quần chúng nhân dân, thơ
ca hay các hoạt động văn hóa, văn nghệ thường được tiếp nhận, cảm thụ dễ
dàng hơn là các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn… Vì thế, cần phải
coi văn hóa, văn nghệ là một vũ khí sắc bén, khéo léo đưa tư tưởng của Đảng
đến với mỗi người dân một cách nhẹ nhàng và hiệu quả. Hồ Chí Minh luôn căn
dặn những cán bộ văn hóa, văn nghệ sĩ cần đoàn kết, gần gũi với nhân dân, cần
mài sắc ý chí chiến đấu trên mặt trận văn hóa, để ở một mặt trận không tiếng
súng này mà toàn Đảng, toàn dân ta luôn đoàn kết, đánh bại mọi âm mưu của
kẻ thù. Người nói: "Cơ quan trong Bộ Văn hóa, các cơ quan các ngành, các ty
văn hóa thì cần xuống nông thôn, vào nhà máy, vào bộ đội nhiều hơn nữa, mà
đi vào như thế thì phải cùng làm, cùng ăn, cùng ở với nhân dân. Chứ nếu đi
xuống nông thôn mà lại lao động phất phơ, rồi ăn riêng, ở riêng thì cảm thông
sao cho được, gần gũi sao cho được với công nông, với bộ đội. Muốn thật sự
gần gũi quần chúng thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm, mới biết sinh hoạt của
quần chúng như thế nào, mới biết khó khăn, biết chí khí của quần chúng như
thế nào, mới biết nguyện vọng của quần chúng như thế nào" [66, tr.560].

Tiểu kết chương 2

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn đề cao công tác tư tưởng. Theo
Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng với vai trò là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng;
góp phần giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng và tăng cường công
tác chính trị và công tác tổ chức của Đảng là hoạt động cần được chú trọng,
xuyên suốt mọi hoạt động của Đảng, mọi giai đoạn phát triển của đất nước.
Để đạt được mục tiêu khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, chủ thể công tác tư tưởng cần thực hiện ba nhiệm
76

vụ cơ bản: nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; truyền bá tư tưởng, đường
lối, chính sách của Đảng; động viên, khích lệ hành động của cán bộ, đảng
viên, quần chúng nhân dân. Từ đó, tác động lên đối tượng của công tác này là
đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, giúp họ có nhận thức,
hành động đúng đắn trong xây dựng, phát triển Đảng, phát triển đất nước. Với
mỗi đối tượng cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có những cách giáo dục,
tuyên truyền, khích lệ phù hợp. Do đó, công tác tư tưởng theo tư tưởng hiện
nay cần được tiến hành với phương thức linh hoạt như thông qua các hoạt
động: đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; sử dụng phương tiện thông tin đại
chúng; qua sinh hoạt của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể; quá trình tự
giáo dục của cán bộ, đảng viên và thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng từ khi sáng lập
và rèn luyện Đảng ta đến nay vẫn còn nguyên giá trị khoa học và cần được kế
thừa, vận dụng sáng tạo tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
77

Chương 3
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA THÀNH ỦY HẢI PHÒNG
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. KHÁI QUÁT NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG CỦA THÀNH ỦY HẢI PHÒNG
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
3.1.1.1. Về đặc điểm tự nhiên
Là một thành phố trẻ so với nhiều đô thị tồn tại lâu đời như Hà Nội,
Ninh Bình, Hải Dương, thành phố Hải Phòng ra đời từ những năm 70 của
thể kỷ XIX. Từ một làng chài nhỏ gần cửa sông, cửa biển, thành phố Hải
Phòng được hình thành với chức năng phát triển kinh tế và đảm bảo quốc
phòng. Với vị trí địa lý thuận lợi: nằm trên bờ biển vịnh Bắc bộ, trong
khoảng 200007'20'' - 211001'15'' vĩ độ Bắc và 106023'50'' - 107045' kinh độ
Đông; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hải Dương,
phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông và Đông- Nam giáp vịnh Bắc
Bộ, Hải Phòng trở thành điểm nút giao thông, là cầu nối giữa nhiều tỉnh,
thành phố khu vực miền Bắc. Trải dài 125km đường bờ biển, Hải Phòng
là cảng biển lớn nhất miền Bắc, là cửa ngõ quan trọng kết nối Việt Nam
với thế giới. Do đó, hàng năm, một lượng không nhỏ số thuyền viên,
doanh nhân, thương nhân người nước ngoài cùng ngư dân, lao động thuộc
các tỉnh thành khác đến Hải Phòng, mang theo những đặc điểm văn hóa
vùng miền, quốc gia và cả những tư tưởng tích cực lẫn không tích cực.
Nói cách khác, Hải Phòng là nơi hội tụ về kinh tế, kéo theo sự du nhập,
giao thoa văn hóa, tư tưởng giữa các tỉnh, thành phố trong nước và nhiều
quốc gia trên thế giới. Bên cạnh việc tiếp thu sự tiến bộ, hiện đại trong tư
duy, Hải Phòng phải đối mặt với những những suy nghĩ thực dụng, trái
ngược với truyền thống dân tộc; những thông tin trái chiều, sai lệch về
Đảng, cách mạng từ các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
78

Mặt khác, Hải Phòng có địa hình đa dạng, phong phú phân bổ trên
1.519 km2 diện tích tự nhiên với diện tích chủ yếu là đồng bằng, diện tích đồi
núi chiếm 15%. Địa hình thuận lợi là yếu tố tích cực trong triển khai công tác
tư tưởng tại các địa phương trên địa bàn thành phố. So với các địa phương có
diện tích đồi núi lớn, thì các hoạt động trong công tác tư tưởng tại Hải Phòng
thuận lợi hơn. Với địa hình bằng phẳng, hệ thống hạ tầng giao thông ngày
một hiện đại, quá trình thông tin, liên lạc, di chuyển của cán bộ làm công tác
tư tưởng dễ dàng, kịp thời, ít bị gián đoạn.
3.1.1.2. Về đặc điểm kinh tế - xã hội
Hải Phòng có dân số 2.013.776 người, trong đó, số dân thành thị là
918.962 người và số dân ở nông thôn là 1.094.814 người với mật độ dân số
1.268 người/km2 (Số liệu sơ bộ năm 2018 theo Niên giám thống kê thành phố
Hải Phòng 2018).
Theo Niên giám thống kê thành phố Hải Phòng 2018, tính sơ bộ năm
2018, Hải Phòng có 1.110.253 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc.
Trong đó, lao động chuyên môn kỹ thuật bậc cao là 77.529 người (chiếm
6,98%), lao động chuyên môn kỹ thuật bậc trung là 45.949 người (chiếm
4,13%) những ngành nghề khác như dịch vụ cá nhân, bảo vệ, bán hàng; thợ
lắp ráp và vận chuyển máy móc, thiết bị; thợ thủ công; nghề giản đơn chiếm
tỷ trọng cao trong tổng số lao động. Lao động đã qua đào tạo ở Hải Phòng
chiếm 31,1% tổng số lao động của thành phố hiện nay. Với lực lượng lao
động đông đảo nhưng trình độ lao động không đồng đều, số lượng lao động
đã qua đào tạo chưa cao đặt ra cho công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng
những vấn đề như: lựa chọn phương thức tiến hành công tác tư tưởng trên
những đối tượng có trình độ khác nhau; tiếp cận những đối tượng có trình độ
thấp nhưng có phần lớn thời gian hoạt động tập trung tại nhà máy, xí nghiệp.
Bởi, Hải Phòng hiện nay, với 18 khu công nghiệp, khu kinh tế, thu hút một số
lượng lớn lao động thành phố cũng như lao động tại nhiều tỉnh thành lân cận.
Số lượng công nhân tại đây lên tới hơn 100.000 lao động. Việc tiến hành công
79

tác tư tưởng với đối tượng này đòi hỏi thời gian hợp lý, năng lực cán bộ
chuyên trách làm công tác tư tưởng và những cơ chế thích hợp.
Là một trong năm thành phố lớn trực thuộc Trung ương, Hải Phòng
luôn thuộc nhóm những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, GDP
bình quân đầu người ở mức cao. Bình quân giai đoạn 2015-2019, tốc độ tăng
trưởng của ngành công nghiệp thành phố tăng 19,93%/năm, vượt mục tiêu đặt
ra tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ thành phố (14%) [Phụ lục
2: Các văn bản liên quan đến công tác tư tưởng]. Với tốc độ phát triển thuộc
nhóm những tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước, động cơ lợi ích kinh tế trong
nền kinh tế thị trường, lối sống đô thị tại Hải Phòng hiện nay khiến một bộ
phận người dân, cán bộ, đảng viên, thậm chí những cán bộ có vị trí, chức vụ
cao trong Đảng, trong chính quyền bất chấp lợi ích chung, đặt lợi ích cá nhân
lên hàng đầu. Từ đây, những biểu hiện suy thoái, tha hóa của cán bộ, đảng
viên là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự mất niềm tin vào
Đảng, nghi ngờ vai trò lãnh đạo của Đảng của không ít nhân dân trên địa bàn.
Mặt khác, một bộ phận người lao động nghèo thuộc nhóm dễ bị tổn thương
khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, thường
bị các thế lực thù địch lợi dụng những biểu đó để kích động, gieo rắc những
tư tưởng lệch lạc, thậm chí dẫn đến hành động sai trái.
3.1.1.3. Về đặc điểm văn hóa, con người
Đặc điểm văn hóa, con người Hải Phòng được thể hiện rõ nhất qua các
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội thành phố và là một trong những yếu tố tác động đến công tác tư tưởng
của Thành ủy Hải Phòng.
Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, người Hải Phòng với truyền
thống dũng cảm, quyết chiến đã lập nhiều chiến công vẻ vang. Với những tinh
thần bất khuất như Nữ tướng Lê Chân, với trận chiến oanh liệt có vai trò quan
trọng trong quá trình dựng nước, giữ nước như chiến thắng trên sông Bạch
80

Đằng của Ngô Quyền, kháng chiến chống quân Nguyên Mông, chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ... đã trở thành những nét văn hóa tốt đẹp của Hải Phòng hay
con người Hải Phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khen ngợi Đảng bộ, quân
và dân Hải Phòng với bốn chữ vàng: "TRUNG DŨNG - QUYẾT THẮNG". Trong
lao động sản xuất, người Hải Phòng có đức tính kiên nghị, năng động và sáng
tạo được duy trì và phát huy qua các giai đoạn lịch sử của đất nước và những
bước ngoặt trong phát triển thành phố. Những năm 1980, khủng hoảng kinh tế
diễn ra trên cả nước, Hải Phòng đã sáng tạo, đột phá trong phát triển kinh tế
thành phố với tư tưởng khoán sản phẩm đến nhóm và từng người lao động giúp
năng suất lao động, sản lượng nông nghiệp của thành phố tăng đáng kể, là hình
mẫu để Đảng và Chính phủ nhân rộng mô hình trên cả nước.
Truyền thống giữ nước và sự sáng tạo, năng động trong xây dựng đất
nước là đặc điểm nổi bật trong văn hóa, con người Hải Phòng - nền tảng vững
chắc cho tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc của mỗi người dân. Khi quần
chúng nhân dân có niềm tự hào về lịch sử, truyền thống của địa phương thì sẽ có
niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, tin vào con đường mà
Đảng lựa chọn để xây dựng đất nước phát triển về mọi mặt. Đây là yếu tố quan
trọng góp phần vào thành công của hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến quần
chúng nhân dân trong công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng.
3.1.1.4. Về đặc điểm dân tộc, tôn giáo
Đặc điểm dân tộc, tôn giáo là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến công tác tư tưởng. Các thế lực thù địch thường lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo để kích động quần chúng nhân dân thực hiện những hành vi sai
trái. Đặc biệt, hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng trên nhiều
lĩnh vực, những trào lưu tư tưởng, tôn giáo mới được du nhập vào nước ta càng
khiến vấn đề dân tộc, tôn giáo trở nên phức tạp và có nguy cơ trở thành điểm
nóng tại một số địa phương.
Ở Hải Phòng, hiện nay có 04 tôn giáo chính: Phật giáo, Công giáo, Cao
Đài, Tin Lành, với 734 cơ sở thờ tự, trên 40 vạn tín đồ, chiếm 20,75% dân số
81

thành phố, trong đó, số tín đồ của Phật giáo là 350.450 người, Công giáo là
51.036 người, Tin lành là 2.800 người và Cao Đài là 320 người [98]. Nhìn
chung, trong những năm gần đây, các tôn giáo ở Hải Phòng không có những
điểm nóng về vấn đề dân tộc, tôn giáo. Tuy vậy, việc lợi dụng tôn giáo để
chống phá Đảng, Nhà nước, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là chiêu
bài quen thuộc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước mà bất cứ địa
phương nào cũng cần kiểm soát, ngăn chặn và Hải Phòng cũng không ngoại
lệ. Mặt khác, sự xuất hiện của một số đạo như Hội Đức Chúa Trời Mẹ, Thánh
Mẫu Âu Cơ, Ngọc Phật Hồ Chí Minh... cũng đặt ra cho công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng nhiều nhiệm vụ cần thực hiện kịp thời.
Hiện nay, Hải Phòng có 13 dân tộc sinh sống gồm Tày, Hoa, Mường,
Nùng, Thái, Dao, H’mông, Gia Rai, Ê đê, Khơ me, Ê đê, Chăm, Ba na...
Tại Hải Phòng, không có những mâu thuẫn giữa các dân tộc với nhau,
không xuất hiện những vấn đề nổi cộm như một số địa phương tại khu vực
Tây Nguyên, Tây Bắc. Nếu tại địa phương hình thành nhiều cộng đồng
riêng biệt với văn hóa, phong tục khác nhau thì đòi hỏi cán bộ làm công tác
tư tưởng phải được đào tạo hoặc tự trau dồi những kiến thức cơ bản về
phong tục, tập quán đó nhằm thực hiện công tác tư tưởng có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, ở Hải Phòng chỉ có duy nhất người Hoa hình thành cộng đồng
riêng (khoảng 4.000 người), còn các dân tộc khác không hình thành cộng
đồng riêng. Đây là một thuận lợi đối với Hải Phòng khi Thành ủy không
phải đầu tư nhân lực và vật lực để thực hiện công tác tư tưởng trên từng
nhóm cộng đồng riêng biệt trên địa bàn thành phố.
3.1.2. Về đặc điểm Đảng bộ thành phố Hải Phòng, cơ quan và đội
ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng
3.1.2.1. Về đặc điểm Đảng bộ thành phố Hải Phòng
Tháng 4-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Hải Phòng được thành lập
gồm 3 đồng chí. Tháng 4 -1930, Đảng bộ Cộng sản thành phố Hải Phòng ra
đời với 100 đảng viên sinh hoạt trong 14 chi bộ. Hệ thống tổ chức của Đảng
82

bộ thành phố Hải Phòng không ngừng được kiện toàn, củng cố. Tính đến
tháng 12-2019, toàn Đảng bộ có 35 đảng bộ trực thuộc với 124.048 đảng viên,
sinh hoạt trong 1.301 tổ chức cơ sở đảng, gồm 594 đảng bộ cơ sở và 707 chi
bộ cơ sở với hầu hết các loại hình tổ chức cơ sở Đảng và 6.086 chi bộ trực
thuộc [04]. Với bề dày truyền thống trong xây dựng và phát triển Đảng cùng
lực lượng đảng viên, tổ chức đảng đông đảo là yếu tố quan trọng góp phần
nâng cao năng lực chiến đấu, sức mạnh của Đảng bộ thành phố Hải Phòng; từ
đó, trong công tác tư tưởng, Thành ủy Hải Phòng có nền tảng, có nguồn nhân
lực để thực hiện công tác này. Bởi, mỗi đảng viên là một chiến sĩ trên mặt
trận tư tưởng.
Thành ủy Hải Phòng hay còn gọi là Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố
Hải Phòng, là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ thành phố Hải Phòng
giữa hai kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố. Một trong những chức năng
quan trọng của Thành ủy Hải Phòng cũng như Ban Chấp hành Đảng bộ mỗi
tỉnh, thành phố trên cả nước là lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác tư tưởng
với cán bộ, đảng viên và toàn thể các tầng lớp nhân dân trên địa bàn.
Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XV (nhiệm kỳ 2015-
2020) bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố gồm 56 đồng chí; trong đó,
100% có trình độ đại học trở lên, trong đó: Đại học là 20 đồng chí (35,72%),
Thạc sỹ là 25 đồng chí (44,64%), Tiến sỹ là 11 đồng chí (19,64%); 100% các
đồng chí có trình độ cao cấp lý luận chính trị [100]. Ban Thường vụ Thành ủy
là 11 đồng chí, với trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị cao.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng của cả nước nói chung và
Hải Phòng nói riêng, công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng đòi hỏi
những cán bộ làm công tác tư tưởng có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận
chính trị cao, mà trước nhất là cán bộ trong Ban Chấp hành Đảng bộ thành
phố. Với trình độ cán bộ của Thành ủy Hải Phòng là một trong những yếu tố
quyết định đến hiệu quả của công tác tư tưởng tại địa phương hiện nay. Bởi,
chỉ khi có những cán bộ có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị
83

cao thì Thành ủy Hải Phòng mới có đủ năng lực để lãnh đạo, chỉ đạo công
tác tư tưởng trên địa bàn thành phố và thực hiện chức năng tham mưu cho
Trung ương về công tác tư tưởng của Đảng.
3.1.2.2. Về đặc điểm cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác tư
tưởng của Thành ủy Hải Phòng
Với góc tiếp cận của luận án, tác giả xác định cơ quan tham mưu về
công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng là Ban Tuyên giáo Thành ủy,
Trường Chính trị Tô Hiệu và các trung tâm chính trị quận, huyện. Những
người chuyên trách thực hiện hoạt động này bao gồm: cán bộ tuyên giáo các
cấp của thành phố; giảng viên trường Chính trị Tô Hiệu; giảng viên trung tâm
chính trị các quận, huyện.
Đội ngũ cán bộ tuyên giáo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng được
chia ở 3 cấp: cán bộ tuyên giáo cấp thành phố; cán bộ tuyên giáo cấp
huyện; cán bộ tuyên giáo cấp cơ sở. Trên cả ba cấp này, cán bộ tuyên giáo
của Hải Phòng đều có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao.
Cụ thể: Ban Tuyên giáo Thành ủy gồm 35 người, có trình độ thạc sĩ chiếm
48,6%; trình độ cao đẳng, đại học chiếm 51,4%; trình độ cao cấp, cử nhân
lý luận chính trị chiếm 45,7%. Cán bộ Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Quận
ủy gồm 82 người, có trình độ thạc sỹ chiếm 43,9% cao cấp, cử nhân lý
luận chính trị chiếm 45,1%. Đối với cán bộ tuyên giáo thuộc cấp ủy cơ sở,
làm công tác tuyên giáo tại xã, phường, thị trấn, theo quy định, công tác
tuyên giáo cấp xã do bí thư đảng ủy làm trưởng ban cùng một số cán bộ
bán chuyên trách là thành viên. Với 223 đảng bộ xã, phường, thị trấn (143
xã, 10 thị trấn, 70 phường), tổng số cán bộ tuyên giáo xã, phường, thị trấn
tại Hải Phòng là 1.850 đồng chí với trình độ trung cấp lý luận chính trị
chiếm 64%. Tính đến tháng 9-2018, tổng số cán bộ tuyên giáo của Đảng
bộ thành phố Hải Phòng là 1.967 người, với trình độ cao đẳng, đại học và
trình độ trung cấp lý luận chính trị là chủ yếu [Phụ lục 3]. Cán bộ tuyên
84

giáo tại Hải Phòng cũng thường xuyên được tham gia các chương trình
tập huấn nghiệp vụ công tác tuyên giáo theo các chức danh do Trung
ương và địa phương tổ chức, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về công tác tuyên
giáo tại địa phương.
Đội ngũ giảng viên tại trường Chính trị Tô Hiệu và các trung tâm chính trị
quận, huyện cũng có trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị tương đối
cao. Với 31 giảng viên trường Chính trị Tô Hiệu, 56 giảng viên tại 14 trung tâm
chính trị quận, huyện, đa số giảng viên có trình độ thạc sĩ (thạc sĩ tại trường
Chính trị Tô Hiệu chiếm 81,2%, tại các trung tâm chính trị quận, huyện là
41,1%), trình độ cao cấp lý luận chính trị chiếm tỷ lệ cao (tại trường Chính trị Tô
Hiệu chiếm 43,8% tại các trung tâm chính trị quận, huyện là 57,1%). 100%
giảng viên tại trường Chính trị Tô Hiệu có các chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm,
chứng chỉ bồi dưỡng nâng cao năng lực và phương pháp sư phạm và các chứng
chỉ tương đương [Phụ lục 3].
Có thể thấy, trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị của cán bộ
làm công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện nay tương đối cao. Đây là
một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu đối với chất lượng của công tác tư
tưởng tại mỗi địa phương cũng như trên phạm vi cả nước. Bởi, muốn làm tốt
công tác tư tưởng hay bất cứ công tác nào của Đảng, trình độ chuyên môn, trình
độ lý luận chính trị của cán bộ là yếu tố quyết định. Muốn làm công tác tư tưởng
cho quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên thì cán bộ làm công tác tư tưởng
phải nghiên cứu lý luận, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, lựa chọn những hình
thức tuyên truyền, khuyến khích phù hợp. Và muốn làm được những điều trên,
bên cạnh kinh nghiệm, nhiệt huyết, sự linh động, sáng tạo thì yếu tố đầu tiên, đặc
biệt quan trọng đó là cán bộ làm công tác tư tưởng phải có trình độ cao cả về lý
luận chính trị và chuyên môn. Do vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng hiện nay là nhân tố tích cực, quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng công tác này tại địa phương.
85

3.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA THÀNH ỦY HẢI PHÒNG
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
3.2.1.1. Thành tựu
Một là, Thành ủy Hải Phòng chú trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn góp phần nâng tầm lý luận của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của lý luận
trong hoạt động cách mạng. Vận dụng tư tưởng của Người, cùng sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Trung ương, Thành ủy Hải Phòng luôn chú trọng nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn và coi đây là một trong những hoạt động nền tảng
trong công tác tư tưởng nói riêng, công tác xây dựng Đảng nói chung. Điều
này được thể hiện qua những nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, Thành ủy Hải Phòng đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý
luận nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về việc coi trọng công tác nghiên
cứu, phát triển lý luận, Thành ủy Hải Phòng đã chỉ đạo các cơ quan chuyên
môn thực hiện các công trình, hội thảo, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
thành phố và cấp cơ sở về các nội dung, hoạt động trong công tác tư tưởng
của địa phương. Thành ủy Hải Phòng đã tổ chức Hội thảo khoa học "50
năm thành phố Hải Phòng thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh -
thành tựu và bài học kinh nghiệm" (tháng 11/2019); đề tài "Nghiên cứu
luận cứ phục vụ đề xuất một số giải pháp đổi mới nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tư tưởng ở Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020" của Đảng ủy Khối các cơ quan
thành phố; "Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao kỹ năng công
tác tuyên giáo cho đội ngũ làm công tác tuyên giáo tại thành phố Hải
Phòng trong tình hình hiện nay" của Ban Tuyên giáo Thành ủy với ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cao đã góp phần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu
chuyên sâu, phát triển lý luận của Đảng.
86

Trong triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4
khóa XI về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Thành ủy
Hải Phòng đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu lý luận. Cùng với các hoạt
động đẩy mạnh học tập, nghiên cứu lý luận trong mỗi cán bộ, đảng viên,
Thành ủy Hải Phòng đã triển khai biên soạn nhiều cuốn sách với nội dung
khẳng định tính trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin và vai trò to lớn của tư
tưởng Hồ Chí Minh qua những tấm gương điển hình, những minh họa từ thực
tiễn. Hải Phòng đã biên soạn 10.500 cuốn sách "Hải Phòng làm theo lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh", 2.000 cuốn sách "Những tấm gương điển hình
học tập và là theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; điều tra xã hội học về
kết quả 4 năm thực hiện Chỉ thị gắn với Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 4 khóa XII với 2.000 phiếu điều tra... [97]. Sử dụng lý luận như một vũ
khí đanh thép để đấu tranh, phản bác lại các luận điểm xuyên tạc của các thể
lực thù địch, Thành ủy Hải Phòng khuyến khích nghiên cứu lý luận chính trị
trong thời kỳ mới thể hiện qua nhiều bài viết trên tạp chí Tuyên giáo và Sinh
hoạt chi bộ như: Công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch trên địa bàn thành phố Hải Phòng thời
gian qua; phát huy vai trò của cấp ủy các cấp và chi bộ trong đấu tranh phòng,
chống âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch...
Thứ hai, huy động trí tuệ tập thể trong đóng góp, bổ sung cho những
tài liệu quan trọng của Đảng
Thành ủy Hải Phòng đã chỉ đạo tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị
nhằm nghiên cứu sâu, rộng nội dung các dự thảo báo cáo chính trị để trình
Đại hội lần thứ XII của Đảng, Đại hội lần thứ XV Đảng bộ thành phố, xây
dựng, tư vấn dự thảo báo cáo chính trị tại đại hội Đảng các cấp. Với quan
điểm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là hoạt động của toàn Đảng, toàn
dân, với những tài liệu quan trọng của Đảng như văn kiện, nghị quyết đại
hội các cấp, Thành ủy Hải Phòng đã lãnh đạo các tập thể, cơ quan và toàn thể
87

nhân dân thành phố, huy động trí tuệ tập thể tham gia góp ý, trình bày quan
điểm. Đa số cán bộ, đảng viên đều tham gia hoạt động nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn của Đảng bộ thành phố và các đảng bộ các cấp. Qua khảo
sát, 78% trên tổng số cán bộ, đảng viên được hỏi đã tham gia vào các hoạt
động như góp ý cho Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Văn kiện Đại hội
Đảng bộ thành phố và các cấp cơ sở [Phụ lục 1, Bảng hỏi dành cho cán bộ,
đảng viên].
Các hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương được thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả, kịp thời. Đặc biệt, qua mỗi đợt học tập, quán triệt nghị quyết,
Thành ủy Hải Phòng yêu cầu đối tượng tham gia học tập, quán triệt nghị
quyết viết và nộp bài thu hoạch với những câu hỏi mở để cán bộ, đảng viên
trình bày quan điểm của mình qua những vị trí công tác thực tiễn. Đây là một
hoạt động có ý nghĩa không chỉ hạn chế tình trạng nghiên cứu lý luận chính trị
mang tính hình thức mà còn là một kênh thông tin giúp Thành ủy Hải Phòng
có thể đánh giá nhận thức của cán bộ, đảng viên; nhận được những quan
điểm, ý tưởng từ thực tiễn công tác của họ.
Thứ ba, tổ chức đánh giá, sơ kết, tổng kết các hoạt động công tác tư
tưởng; từ đó, phát triển lý luận
Công tác tổng kết thực tiễn với các hoạt động đánh giá, sơ kết, tổng
kết rút kinh nghiệm có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển, nâng tầm lý
luận của Đảng trong toàn Đảng nói chung và đối với Hải Phòng nói riêng.
Giai đoạn từ năm 2015 đến nay, Thành ủy Hải Phòng đã thực hiện tổng kết,
sơ kết các hoạt động trong công tác tư tưởng, góp phần khẳng định sức sống
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tính khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay.
Trong tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4
khóa XI về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Thành ủy
Hải Phòng một mặt nhấn mạnh ý nghĩa của chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí
88

Minh để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng; mặt khác, đã chỉ ra những
vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng tại địa phương hiện nay. Một trong
những hạn chế, yếu kém và những việc chưa làm được như: trong tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ về công tác tư tưởng, có lúc, có nơi còn hình thức,
hiệu quả chưa cao... Để xây dựng Đảng vững mạnh, công tác tư tưởng là
nhiệm vụ hàng đầu, xuyên suốt quá trình lãnh đạo của Đảng. Kế thừa tư
tưởng của Hồ Chí Minh, Thành ủy Hải Phòng xác định phải khắc phục triệt
để những hạn chế được nêu trong báo cáo tổng kết. Thành ủy Hải Phòng đã
xác định: đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm bồi dưỡng
thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh;... phải vận dụng thực
sự sáng tạo lý luận của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng
là vấn đề được Thành ủy Hải Phòng chú trọng ngăn chặn, đẩy lùi. Thành
ủy Hải Phòng đã tổng kết công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tại Đảng bộ,
chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên
hiện nay. Những giải pháp đề xuất nhằm khắc phục tình trạng này chú
trọng đến việc tạo sức lan tỏa chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cuộc sống, thực sự coi đây là yếu tố nền tảng trong nhận thức lý luận chính
trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên. Hoạt động này có ý nghĩa quan
trọng trong đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết của Thành ủy Hải
Phòng. Đây cũng là một dữ liệu quan trọng để Thành ủy Hải Phòng đề cập,
thẳng thắn thừa nhận những khó khăn, bất cập trong xây dựng Đảng tại địa
phương; từ đó, có những phương thức, giải pháp thực hiện công tác tư
tưởng phù hợp, hiệu quả hơn nữa.
89

Trong Báo cáo số 115-BC/TU ngày 06-6-2017 của Thành ủy Hải


Phòng cũng chỉ rõ kết quả trong công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng
khi phát huy vai trò của nhân dân trong: đóng góp ý kiến để xây dựng, bổ
sung vào văn kiện đại hội Đảng các cấp, đại hội các tổ chức chính trị - xã
hội và các hội quần chúng; nhân dân góp phần phát hiện và đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của một số cán bộ, đảng viên, công
chức... Đây là một trong những nội dung về đánh giá thực trạng thực hiện
phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; phát huy vai trò
của nhân dân góp phần đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
ở thành phố Hải Phòng. Vận dụng tư tưởng trọng dân của Hồ Chí Minh,
Thành ủy Hải Phòng xác định vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân,
lấy sự ủng hộ, đồng lòng của nhân dân là động lực cốt lõi của các hoạt động
xây dựng Đảng. Những đánh giá này là căn cứ quan trọng để Thành ủy Hải
Phòng đưa ra hệ thống giải pháp tiếp tục thực hiện có hiệu quả phương châm
gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.
Từ năm 2016 đến nay, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh là hoạt động xuyên suốt trong mỗi cấp ủy
đảng cơ sở, mỗi cá nhân đảng viên. Qua Báo cáo sơ kết 02 năm thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị "Về đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" cho thấy, từ
năm 2016 đến nay, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là hoạt động xuyên suốt trong mỗi cấp ủy đảng,
đảng viên. Thành ủy Hải Phòng đã đánh giá quá trình thực hiện Chỉ thị
này trong toàn Đảng bộ thành phố, khẳng định tính khoa học, đúng đắn
của Chỉ thị và tiếp tục chỉ đạo, lãnh đạo các tổ chức Đảng triển khai thực
hiện, coi đây là hoạt động thường xuyên, có ý nghĩa trong rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức mỗi cán bộ, đảng viên. Cũng từ hoạt động sơ kết này,
90

Thành ủy Hải Phòng đã đúc kết được bài học kinh nghiệm và đưa ra
những giải pháp, nhiệm vụ trong thời gian tới như: Cần tăng cường hơn
nữa vai trò của nhân dân tham gia vào các hoạt động công tác tư tưởng,
nhất là trong việc đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hòa bình" của các
thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và văn học nghệ thuật; từ
đó, có chủ trương khuyến khích các cuộc thi, sáng tác, quảng bá với chủ
đề Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giai
đoạn 2018 - 2020...
Hai là, truyền bá, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Nếu hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là hoạt động phát
triển theo chiều sâu thì truyền bá, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước được hiểu là hoạt động theo chiều rộng của công tác tư tưởng, tạo sức
lan tỏa trong nhân dân nhằm thống nhất nền tảng tư tưởng của Đảng, xây
dựng, phát triển Đảng đoàn kết, vững mạnh. Kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác tư tưởng, công tác truyền bá tư tưởng, chủ trương,
đường lối của Đảng được Thành ủy Hải Phòng thực hiện trong tất cả các hoạt
động chỉ đạo, lãnh đạo đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Là một nhiệm
vụ của công tác tư tưởng, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
được Thành ủy Hải Phòng triển khai qua những hoạt động chủ yếu sau:
Thứ nhất, về đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị
Theo Hồ Chí Minh: "Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi
học lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình" [67, tr.117].
Vận dụng tư tưởng này, Thành ủy Hải Phòng luôn khuyến khích, tạo cơ chế,
chính sách để cán bộ, đảng viên được tham gia học tập lý luận chính trị
trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị. Đứng
trước những nguy cơ, thách thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
91

đặc biệt giai đoạn hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay, Thành ủy Hải
Phòng cần chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và nguồn lãnh đạo, quản
lý nhằm nâng cao nhận thức, trình độ lý luận chính trị, giữ vững phẩm chất
và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, góp phần bảo vệ vững chắc nền
tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục khẳng định vị trí lãnh đạo của Đảng. Đây là
xu hướng phù hợp với những diễn biến phức tạp trong tình hình mới và
khẳng định sự quyết liệt, sáng tạo của Thành ủy Hải Phòng trong đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, giảng viên nói riêng và thực hiện
công tác tư tưởng nói chung. Thành ủy Hải Phòng coi đây là hoạt động quan
trọng đối với cán bộ, đảng viên và tất cả giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị được thực hiện qua
việc triển khai các lớp: Cao cấp lý luận chính trị; Trung cấp lý luận chính trị
- hành chính; các loại hình bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức
khác.... Nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt các cấp của thành phố, Thành ủy đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện để
nhiều cán bộ chủ chốt, nguồn cán bộ chủ chốt của thành phố được tham gia
lớp học theo quy định của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bên
cạnh đó, Thành ủy Hải Phòng phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh thường xuyên mở các lớp Cao cấp lý luận chính trị tại địa phương,
tạo điều kiện để cán bộ nguồn, cán bộ chủ chốt của thành phố vừa công tác
vừa học tập.
Bảng 3.1: Số lượng học viên trong chương trình Cao cấp lý luận chính trị
giai đoạn 2016 - 2019
Đơn vị: người

2016 2017 2018 2019


Số học viên đang tham gia 270 271 321 360
Số học viên tốt nghiệp trong năm 179 181 91 90
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
92

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị tại Trường Chính trị Tô
Hiệu và các trung tâm chính trị quận, huyện hàng năm cũng đã góp phần
nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ
thành phố. Từ năm 2016 đến năm 2019, số lượng lớp Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính của trường Chính trị Tô Hiệu tăng đáng kể, từ 28 lên
51 lớp, nâng tổng số học viên từ 2.679 người lên 3.770 người. Số lượng lớp
học, học viên tham gia, học viên tốt nghiệp trong chương trình học này có
xu hướng gia tăng rõ rệt (Bảng 3.2).
Có thể thấy, với số lượng cán bộ, đảng viên được đào tạo trung cấp lý
luận chính trị - hành chính như trên là một thành tích đáng ghi nhận của
Thành ủy Hải Phòng, thể hiện sự chú trọng trong đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên trong thời gian qua. Số
lượng cán bộ, đảng viên tốt nghiệp chương trình đào tạo Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính ngày càng tăng là một yếu tố quan trọng nhằm khẳng
định chất lượng cán bộ, đảng viên của Đảng bộ thành phố và cũng là một
tiêu chí khẳng định vị trí, vai trò và chất lượng của đội ngũ cán bộ, giảng
viên trường Chính trị Tô Hiệu - một bộ phận cấu thành đội ngũ cán bộ làm
công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng.
Bảng 3.2: Số lượng lớp, học viên chương trình đào tạo Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính của Trường Chính trị Tô Hiệu
giai đoạn 2016 - 2019
Đơn vị: người
Học viên
Năm Số lớp
Đang học Tốt nghiệp Tổng số
2016 28 1.661 1.018 2.679
2017 35 1.496 1.211 2.707
2018 48 2.224 1.338 3.562
2019 51 1.881 1.889 3.770
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
93

Bên cạnh đó, chương trình bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến
thức; bồi dưỡng kiến thức theo ngạch, bậc, vị trí việc làm của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức cũng được triển khai với phạm vi và quy mô lớn từ năm
2016 đến nay. Chương trình này thực hiện theo Quy định số 164-QĐ/TW,
ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị về Chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Nghị định số 101/2017/NĐ-CP
ngày 01-9-2017 của Thủ tướng Chính phủ về Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức với mục đích trang bị những kiến thức cơ bản về lý
luận, thực tiễn và một số kỹ năng, góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng
chính trị; xây dựng tầm nhìn và tư duy chiến lược, nâng cao năng lực lãnh
đạo, quản lý; rèn luyện đạo đức, phong cách, trách nhiệm công vụ của người
lãnh đạo, quản lý trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nói chung và xây dựng, phát triển thành phố nói riêng. Thành ủy Hải
Phòng cũng thường xuyên chỉ đạo Trường Chính trị Tô Hiệu tăng cường tổ
chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho đối
tượng là cán bộ lãnh đạo, quản lý diện đối tượng 3, đối tượng 4 (theo Quy
định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị), cấp ủy viên cấp
huyện và tương đương. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
đều cập nhật quan điểm, đường lối theo tinh thần các Nghị quyết Trung ương
mới nhất, gắn lý luận với thực tiễn.
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của Thành ủy là một
trong những hoạt động truyền bá tư tưởng, lý luận của Đảng hiệu quả, được
cán bộ, đảng viên đánh giá cao. Cụ thể: 80,2% số lượng cán bộ, đảng viên
được khảo sát tiếp cận với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng qua
các lớp đào tạo lý luận chính trị và 25,8% cán bộ, đảng viên được hỏi đã đánh
giá đây là kênh thông tin hiệu quả nhất của hoạt động tuyên truyền tư tưởng,
đường lối của đảng. Tỷ lệ này tại các lớp bồi dưỡng lần lượt là 82,2% và
11,8% [Phụ lục 1, Bảng hỏi dành cho cán bộ, đảng viên].
Không chỉ quan tâm đến giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng
94

viên, nhân dân, Thành ủy Hải Phòng còn rất coi trọng hoạt động giáo dục lý
luận chính trị cho thanh niên, đặc biệt là sinh viên các trường đại học, cao
đẳng trên địa bàn thành phố. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, các phần học:
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; Đường lối cách mạng
Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong giáo dục tư tưởng
chính trị cho sinh viên tại các trường cao đẳng, đại học. Do đó, đội ngũ giảng
viên giảng dạy các môn học lý luận chính trị tại các trường đại học, cao đẳng,
được coi là những cán bộ làm công tác tư tưởng đặc biệt - làm công tác tư
tưởng cho "những chủ nhân tương lai của đất nước". Bên cạnh đó, Thành ủy
Hải Phòng đã chỉ đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy xây dựng kế hoạch, nội dung
hướng dẫn các trường học sinh hoạt chính trị đầu khóa học nhằm định hướng
nhận thức tư tưởng chính trị của học sinh, sinh viên.
Thứ hai, về tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết các cấp
Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là một trong
những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong nhân dân. Nhất quán với chủ trương, đường lối của Đảng
về việc truyền bá tư tưởng đến cán bộ, đảng viên và các tầng lớp quần chúng
nhân dân, Thành ủy Hải Phòng luôn thực hiện nghiêm túc hoạt động quán
triệt Nghị quyết các cấp. Thành ủy Hải Phòng đã kịp thời triển khai trong
hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương khóa
XI, khóa XII; chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần
thứ XV (năm 2015) và tiến tới tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII (năm 2016)... Kết hợp với các Hội nghị quán triệt Nghị quyết, Thành ủy
Hải Phòng đã cung cấp cho cán bộ, đảng viên những tài liệu được biên soạn
như kết quả phát triển kinh tế - xã hội thành phố; cuốn Hải Phòng làm theo
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuốn Những tấm gương điển hình học
tập và là theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;...
Hội nghị quán triệt nghị quyết các cấp tạo sức lan tỏa lớn trong tuyên
truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

6465969
95

Cán bộ, đảng viên được hỏi đánh giá đây là một trong những kênh thông tin,
tuyên truyền hiệu quả nhất của Đảng hiện nay [Phụ lục 1, Bảng hỏi dành
cho cán bộ, đảng viên].
Trong kế hoạch tăng cường đổi mới công tác học tập, quán triệt, tuyên
truyền và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng đến năm 2020, Thành ủy
Hải Phòng chủ động xây dựng hệ thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, kế hoạch
tổ chức học tập, quán triệt thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung
ương Đảng, của Thành ủy Hải Phòng một cách khoa học, chặt chẽ, rõ nội
dung, trách nhiệm cụ thể của các cấp, các ngành. Việc tổ chức hội nghị cán bộ
chủ chốt, hội nghị báo cáo viên nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết
được thực hiện đồng bộ, chất lượng và rộng khắp tại các tổ chức đảng trên địa
bàn thành phố. Chỉ đạo các cấp ủy quan tâm điều kiện đảm bảo cho công tác
học tập, quán triệt nghị quyết một cách thiết thực, giúp nâng cao hiệu quả
truyền đạt, nghiên cứu, học tập nghị quyết. Hàng vạn cuốn tài liệu nghiên
cứu, học tập được cung cấp đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Hình
thức, cơ sở vật chất phục vụ cho học tập, quán triệt nghị quyết ngày càng
được cải thiện, đa số các cấp ủy huyện, quận đều tổ chức hội nghị trực tuyến.
Việc tổ chức thảo luận, viết thu hoạch sau mỗi đợt học tập, nghiên cứu nghị
quyết đã dần đi vào nề nếp, được chấp hành khá nghiêm chỉnh, nhất là với đội
ngũ cán bộ chủ chốt các cấp.
Bên cạnh đó, hoạt động quán triệt nghị quyết còn được Thành ủy Hải
Phòng tích cực triển khai có hiệu quả qua việc đẩy mạnh sinh hoạt Đảng, chính
quyền và đoàn thể quần chúng. Thành ủy Hải Phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo các tổ
chức đảng nghiêm túc thực hiện triển khai nghị quyết tại các buổi sinh hoạt chi
bộ, sinh hoạt chuyên đề từng quý và năm. Cũng qua sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt
chuyên đề mà các chi bộ, đảng bộ có thể nắm bắt được các ý kiến, tâm tư,
nguyện vọng của cán bộ, đảng viên. Từ đó, kịp thời làm công tác tư tưởng và dự
báo những chuyển biến tích cực hoặc hạn chế trong từng tổ chức Đảng.
96

Thứ ba, về định hướng chính trị, tư tưởng qua báo chí, xuất bản, văn
hóa, nghệ thuật
Báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật là những kênh thông tin tuyên
truyền tư tưởng của Đảng hữu hiệu và gần gũi, thường xuyên đến cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Bên cạnh việc ban hành Thông tri số
24-TT/TU ngày 26-7-2018 về thực hiện Kết luận số 23-KL/TW của Ban Bí
thư khóa XII "Về tăng cường chỉ đạo, quản lý, phát huy vai trò của báo chí,
xuất bản trong việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ", Thành ủy Hải
Phòng thường xuyên chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng trong lĩnh vực
báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật nhằm đẩy mạnh hiệu quả hoạt động
tuyên truyền trong công tác tư tưởng của Đảng, của Thành ủy.
Thành ủy Hải Phòng đã chỉ đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy ban hành
Quy chế tổ chức hội nghị giao ban và cung cấp thông tin đối với các cơ quan
báo chí trên địa bàn thành phố 2 tuần/1 lần nhằm kịp thời truyển tải những
thông tin thời sự, cập nhật có ý nghĩa tuyên truyền, cổ động cán bộ, đảng viên
và nhân dân thành phố. Bên cạnh việc tăng cường chỉ đạo Đài Phát thanh và
Truyền hình Hải Phòng về những hoạt động tuyên truyền, Thành ủy Hải
Phòng đã có chương trình phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam giai đoạn
2017 - 2020 nhằm giới thiệu tiềm năng của thành phố cũng như tuyên truyền
chủ trương, chính sách của thành phố Hải Phòng đến khán giả trong và ngoài
nước. Đây là chương trình có ý nghĩa của Thành ủy Hải Phòng trong giai
đoạn hiện nay.
Với đa dạng các loại hình báo chí: báo hình, báo điện tử, báo giấy...
Thành ủy Hải Phòng luôn sát sao chỉ đạo, cung cấp những thông tin chính
thống và thời sự về chủ trương, đường lối của Đảng, của Thành ủy để tuyên
truyền đến người dân. Với xu hướng phát triển nhanh của báo điện tử, Thành
ủy Hải Phòng tiếp tục tích cực đôn đốc các cơ quan, địa phương trên địa bàn
97

thành phố thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 28-12-1996 của Bộ Chính trị
khóa VIII về việc mua, đọc báo, tạp chí của Đảng... Thành ủy Hải Phòng
cũng luôn có sự chỉ đạo sát sao hoạt động của các cơ quan báo chí, truyền
hình trước những vấn đề cấp bách, nhằm hạn chế xảy ra những điểm nóng về
tư tưởng. Trong những năm gần đây, Hải Phòng luôn là một trong số ít các
tỉnh, thành phố có tình hình địa phương ổn định, không xảy ra hiện tượng
tập trung đông người phản đối các quyết sách, chủ trương của Đảng. Như về
với dự luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Thành ủy Hải Phòng đã
quyết liệt chỉ đạo tất cả các cơ quan chức năng phối kết hợp cùng các cơ
quan trong toàn hệ thống chính trị ổn định trật tự địa phương, đẩy mạnh
tuyên truyền, nâng cao ý thức, nhận thức của quần chúng nhân dân.
Từ năm 2015 đến nay, Nhà Xuất bản Hải Phòng kết hợp cùng Ban
Tuyên giáo Thành ủy và một số cơ quan Đảng xuất bản được nhiều tài liệu
có giá trị khoa học phục vụ cho công tác tuyên truyền, cổ động của Thành
ủy. Với chuyên mục Xây dựng Đảng, chuyên mục Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Báo Hải Phòng đã đăng hơn 500
tin, bài với các nội dung về việc triển khai học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, những tấm gương điển hình, tiêu biểu...
Dưới sự chỉ quan tâm, chỉ đạo sát sao của Thành ủy về việc đẩy mạnh
tuyên truyền tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng và của Thành ủy
trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật
thành phố đã phát động đến các văn nghệ sỹ thành phố sáng tác, quảng bá
các tác phẩm văn học, nghệ thuật về chủ đề "Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Thành ủy Hải Phòng cũng xác định vai
trò quan trọng của báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật trong tuyên truyền
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
thành phố cũng như tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài ra, luôn coi
trọng và phát huy hiệu quả vai trò của những kênh thông tin này và thu được
nhiều kết quả đáng ghi nhận.
98

Một trong những kênh thông tin hiệu quả nhất trong tuyên truyền tư
tưởng của Đảng đến quần chúng nhân dân là qua phương tiện thông tin đại
chúng. 72% người dân được khảo sát tiếp cận tư tưởng, lý luận và các hoạt
động của Đảng qua kênh thông tin này [Phụ lục 1, Bảng hỏi dành cho người
dân]. Do vậy, Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng cùng các cơ quan
báo chí trên địa bàn thành phố đều có những chuyên mục riêng về công tác
xây dựng Đảng; lồng ghép các nội dung về tình hình kinh tế - xã hội thành
phố, các nội dung chỉ đạo của Thành ủy Hải Phòng; các bài viết, ấn phẩm với
nội dung đa dạng được phát hành đến nhiều cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng
viên và người dân....
Ba là, đẩy mạnh công tác cổ động, khích lệ cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân
Cổ động, khích lệ hành động của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của mỗi tổ chức đảng từ cơ sở đến Trung
ương nhằm đạt được mục tiêu cao nhất trong công tác tư tưởng: kiên định
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng. Bên cạnh các hoạt động như cổ động bằng băng zôn,
khẩu hiệu, tổ chức mít tinh, tổ chức các sự kiện văn hóa, văn nghệ... công
tác cổ động được Thành ủy Hải Phòng thực hiện với các hoạt động chủ đạo,
nổi bật như sau:
Thứ nhất, khích lệ hành động của cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân qua những tấm gương điển hình, tiêu biểu và xử lý nghiêm những
hành động sai trái, gây mất uy tín của Đảng
Tư tưởng chính trị của quần chúng nhân dân và đảng viên là những yếu tố
quan trọng tác động đến công tác tư tưởng của tổ chức đảng các cấp. Nắm bắt
kịp thời tâm tư, nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, bên
cạnh những hoạt động tuyên truyền tích cực, Thành ủy Hải Phòng đã có những
hình thức cổ động đa dạng nhằm khích lệ hành động, định hướng hành động của
99

cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trên địa bàn thành phố. Từ việc triển
khai nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống thực tiễn, Thành ủy Hải Phòng
luôn đề cao công tác đánh giá hiệu quả hoạt động của cá nhân, đơn vị, từ đó, có
những biểu dương, khen thưởng, khích lệ kịp thời. Năm 2018, sơ kết 02 năm
thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, Thành ủy Hải Phòng đã biểu dương, khen
thường 41 tập thể, 72 cá nhân có thành tích xuất sắc trong học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hải Phòng đã biểu dương,
khen thưởng 59 tập thể, 202 hộ gia đình, 79 cá nhân có thành tích xuất sắc
trong phong trào Thi đua yêu nước giai đoạn 2015 - 2018 [Phụ lục 2 - Các
văn bản liên quan đến công tác tư tưởng]. Việc nêu gương những cá nhân, tập
thể điển hình qua những việc làm thiết thực, ý nghĩa, thực sự là tấm gương, là
nguồn cổ động với cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố, tạo sức lan tỏa
trong học tập, lao động, thi đua trong Đảng, trong mọi tầng lớp nhân dân thành
phố. Những chủ đề "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”; phong trào thi đua yêu nước... và nhiều hoạt động khác được hưởng ứng
và phát huy hiệu quả cao. Phần lớn cán bộ, đảng viên đều tự giác, ý thức trách
nhiệm với tinh thần gương mẫu, học tập, vận dụng và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Với mỗi chi bộ, đảng bộ cơ sở, Thành ủy Hải
Phòng đều hướng dẫn, chỉ đạo sát sao về việc sinh hoạt chuyên đề định kỳ nhằm
nâng cao ý thức, nhận thức, trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên trong
chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Bên cạnh đó, Thành ủy Hải Phòng kiểm tra, giám sát và đã xử lý
nghiêm đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý có hành
vi trái pháp luật, gây mất uy tín của Đảng. Từ năm 2015 đến nay, Thành ủy
Hải Phòng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng làm rõ, xử lý những vi phạm,
sai phạm của cán bộ, đảng viên như: khai trừ khỏi Đảng, xử lý hình sự với
Cao Đức Thoan, nguyên Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội Hải Phòng và Trần
Thị Loan, nguyên Trưởng phòng Giám định bảo hiểm y tế - Bảo hiểm xã hội
100

Hải Phòng, bị tuyên phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo vì "Thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" (2015); xử lý kỷ luật bằng hình thức rút
kinh nghiệm 04 đối tượng là Chủ tịch, công chức địa chính phường và 02 cán
bộ thuộc Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Kiến An liên
quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cách chức Đảng ủy
viên đối với Chủ tịch UBND, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Tam Cường,
huyện Vĩnh Bảo; khai trừ khỏi Đảng và chuyển công tác 01 công chức địa
chính xã liên quan đến công tác quản lý đất đai (2016) [97]. Với quyết tâm
củng cố niềm tin trong nhân dân, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
những hoạt động kiểm tra, kỷ luật đảng viên, tổ chức đảng trực thuộc của
Thành ủy Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay là một phương thức tuyên
truyền, xây dựng niềm tin với nhân dân.
Với sự đa dạng, tinh vi của những phần tử chống phá Đảng qua mạng
internet, Thành ủy Hải Phòng luôn rà soát, chỉ đạo sát sao trong việc phát
hiện, xử lý sai phạm. Năm 2018, Hải Phòng đã phát hiện hơn 70 tài khoản
facebook cá nhân (liên quan đến Hải Phòng) thường xuyên đăng bài với nội
dung lệch lạc, bôi nhọ Đảng; hơn 150 người Hải Phòng ký tên ủng hộ một
số kiến nghị mang quan điểm sai trái trên mạng internet... Bên cạnh việc xử
lý thích đáng những đối tượng này, Thành ủy Hải Phòng chỉ đạo các cơ
quan báo chí, truyền hình đưa thông tin nhằm giáo dục ý thức của quần
chúng nhân dân, răn đe, ngăn chặn những đối tượng có tư tưởng lệch lạc,
có ý định tuyên truyền làm mất uy tín của Đảng [Phụ lục 2 - Các văn bản
liên quan đến công tác tư tưởng].
Thứ hai, bàn bạc, giải thích cho nhân dân những vấn đề cụ thể, bức xúc
Một trong những hình thức cổ động người dân nâng cao ý thức chính trị,
tư tưởng vững vàng, tuân thủ nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước là
vận động trực tiếp đến từng người dân, nhóm người dân, hộ gia đình đang có
những vấn đề bức xúc hoặc nhận thức không rõ ràng. Hình thức này đã được
101

cán bộ làm công tác tư tưởng chuyên trách của Thành ủy Hải Phòng thực hiện
thường xuyên, mang lại hiệu quả tích cực. Thời gian qua, tư tưởng trong cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân chưa có những vấn đề nổi cộm, trở
thành điểm nóng như một số địa phương khác. Tuy vậy, Thành ủy Hải Phòng
luôn chỉ đạo sát sao đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng phải thường xuyên
vận động, tuyên truyền trực tiếp nhằm tháo gỡ khó khăn, khúc mắc của nhân
dân, xây dựng niềm tin trong nhân dân. Ví dụ, với tốc độ đô thị hóa nhanh,
những vấn đề xung quanh hoạt động đền bù, giải phóng mặt bằng thường tạo
dư luận xã hội theo chiều hướng không tích cực. Thành ủy Hải Phòng luôn
quan tâm chỉ đạo sát sao các cơ quan chuyên trách, thậm chí từng cán bộ,
đảng viên chi bộ tập trung tuyên truyền, thuyết phục, vận động người dân,
tạo sự thống nhất, hài hòa giữa lợi ích của người dân và lợi ích của tập thể.
Hoặc như, với những chương trình trọng điểm như xây dựng nông
thôn mới, vận động trực tiếp đến người dân là một trong những hình thức
tuyên truyền được Thành ủy Hải Phòng đánh giá cao và sử dụng hiệu quả.
Trong xây dựng nông thôn mới, Hải Phòng đã vận động người dân hiến đất
để làm các công trình của tập thể, tuyên truyền để người dân tự giác, tích
cực phấn đấu đạt được những mục tiêu đặt ra. Trong quá trình triển khai
thực hiện các tiêu chí của nông thôn mới, một số người dân không đồng tình
với chủ trương của thành phố, không tham gia và đóng góp cho những công
trình của tập thể. Bằng cách thức vận động trực tiếp, vừa tuyên truyền, vừa
vận động người dân, Hải Phòng đã làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự thống
nhất cao trong nhân dân và thu được nhiều thành tựu to lớn.
Thứ ba, tổ chức cuộc thi báo cáo viên, giảng viên lý luận chính trị
giỏi; học viên học giỏi lý luận chính trị
Tổ chức các cuộc thi: giảng viên lý luận chính trị giỏi và học viên học
giỏi lý luận chính trị là hoạt động tuyên truyền lý luận chính trị; đồng thời,
cũng là hoạt động cổ động những người làm công tác tư tưởng và khích lệ
cán bộ, đảng viên tích cực học tập lý luận chính trị, vận dụng sáng tạo trong
102

vị trí công tác tại cơ quan, đơn vị. Thành ủy Hải Phòng đã chỉ đạo Ban
Tuyên giáo Thành ủy tổ chức hiệu quả, chất lượng Hội thi báo cáo viên lý
luận chính trị giỏi cấp thành phố, lựa chọn báo cáo viên tham gia Hội thi báo
cáo viên lý luận chính trị giỏi toàn quốc hàng năm. Với nhiệm vụ đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị và một số chương trình khác cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp cơ sở, Trường Chính trị Tô Hiệu dưới sự chỉ đạo của Thành
ủy Hải Phòng đã có nhiều hoạt động tích cực trong biểu dương, khen thưởng
giảng viên, học viên học giỏi lý luận chính trị. Từ năm 2015 đến nay, Trường
Chính trị Tô Hiệu thường xuyên tổ chức các đợt thao giảng cấp khoa, cấp
trường nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm giảng dạy cho
giảng viên nhà trường và có cơ sở để lựa chọn giảng viên tham gia Hội thi
Giảng viên dạy giỏi các trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức. Bên cạnh đó,
Trường Chính trị Tô Hiệu đã tổ chức Hội thi học viên học giỏi lý luận chính
trị dành cho học viên theo học chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính
trị - hành chính và Hội thi Tìm hiểu kiến thức Quản lý hành chính nhà nước
dành cho học viên các lớp bồi dưỡng ngạch chuyên viên. Với ý nghĩa động
viên, khích lệ tinh thần học tập của giảng viên, học viên, những chương trình
này đã tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa đến học viên, giảng viên của nhà trường,
góp phần nâng cao trình độ lý luận, trình độ chuyên môn của cán bộ, đảng
viên (học viên), và cán bộ làm công tác tư tưởng (giảng viên).
3.2.1.2. Nguyên nhân của thành tựu
Thứ nhất, sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Trung ương về công tác tư
tưởng của Thành ủy Hải Phòng
Xác định Hải Phòng là một trong những thành phố lớn, có vai trò quan
trọng trong phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực miền Bắc,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến công tác tư tưởng tại đây.
Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn...
nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng tại các tỉnh, thành phố trên cả
103

nước. Cùng với những chủ trương, đường lối chung, Trung ương đã quan
tâm, chỉ đạo sát sao việc Thành ủy Hải Phòng lãnh đạo, chỉ đạo thành phố
thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương và thực hiện công tác tư tưởng
đối với toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố. Đối với những điểm nóng,
những vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến niềm tin của cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân với Đảng tại địa phương, Trung ương đã trực tiếp lãnh đạo,
chỉ đạo Đảng bộ địa phương và các cơ quan chức năng thực hiện nghiêm
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây là một trong những
điều kiện thuận lợi, tạo sự thống nhất, xuyên suốt trong chỉ đạo và thực hiện
giữa Đảng bộ địa phương và Trung ương.
Thứ hai, Thành ủy Hải Phòng luôn coi trọng công tác tư tưởng
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ
trương, đường lối của Đảng, Thành ủy Hải Phòng đặc biệt coi trọng công tác tư
tưởng, coi đây là một trong những yếu tố quyết định của việc giữ vững vị trí
lãnh đạo của Đảng trong phát triển thành phố trên mọi lĩnh vực. Thành ủy Hải
Phòng luôn kịp thời triển khai, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng đến từng cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp quần chúng nhân dân. Thành
ủy Hải Phòng đã ban hành các nghị quyết, báo cáo, thông tri... về việc thực
hiện, triển khai hoạt động công tác tư tưởng. Mặt khác, Thành ủy Hải Phòng đã
lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng, các cấp ủy cũng như cả hệ thống
chính trị làm tốt công tác tư tưởng, coi đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu cần
được triển khai thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi. Đây là những quyết sách có ý
nghĩa quan trọng để cán bộ làm công tác tư tưởng thực hiện hiệu quả nhiệm vụ
được giao, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân kiên định với chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững niềm tin với Đảng, từ đó, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng.
Bên cạnh đó, cùng với sự đầu tư lớn về vật chất (số lượng đảng viên,
đảng viên có trình độ lý luận chính trị cao không ngừng được gia tăng; các
104

chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn được nâng cao cả về số lượng,
chất lượng...), sự động viên kịp thời về tinh thần cho cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân (biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể có
thành tích trong lao động, học tập...) cũng là nguyên nhân chính để công tác
tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng đạt được những thành tựu to lớn kể trên.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng có trình độ chuyên
môn, trình độ lý luận chính trị cao
Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, trình độ lý luận chính trị cao là một trong những nguyên nhân quan trọng
đóng góp vào thành tựu của công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện
nay. Với chiều sâu về chuyên môn, nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị vững vàng,
cán bộ làm công tác tư tưởng Hải Phòng đã luôn tích cực, sáng tạo trong thực
hiện nhiệm vụ được giao: nghiên cứu, nâng tầm lý luận của Đảng; truyền bá lý
tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cổ
động hành động đúng đắn của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, cán bộ làm công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng
được cán bộ, đảng viên đánh giá có bản lĩnh chính trị vững vàng (79% cán bộ,
đảng viên được hỏi đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ làm công tác tư
tưởng ở mức tốt và khá); có thể vận dụng linh hoạt và sáng tạo lý luận vào
thực tiễn (83% cán bộ, đảng viên đánh giá cán bộ làm công tác tư tưởng vận
dụng linh hoạt sáng tạo lý luận vào thực tiễn ở mức tốt và khá) [Phụ lục 1,
Bảng hỏi dành cho cán bộ, đảng viên].
Thứ tư, trình độ dân trí cao, không có "điểm nóng" về vấn đề dân tộc,
tôn giáo
Là thành phố đô thị loại I cấp quốc gia, tốc độ tăng trưởng kinh tế
thuộc tốp đầu cả nước; trình độ dân trí của Hải Phòng tương đối cao và không
ngừng được nâng lên. Công tác tư tưởng và cán bộ làm công tác tư tưởng có
nhiều thuận lợi hơn khi thực hiện nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên, quần
105

chúng có trình độ dân trí như vậy. Đây là một trong những yếu tố tích cực góp
phần tạo nên những kết quả đạt được trong công tác tư tưởng của Thành ủy
Hải Phòng. Mặt khác, vấn đề dân tộc, tôn giáo tại Hải Phòng cũng không có
những "điểm nóng" như Tây Nguyên hay một số tỉnh, thành phố khác trên cả
nước. Điều này góp phần làm giảm bớt những sự kiện, hoạt động lợi dụng yếu
tố dân tộc, tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước trên địa bàn thành phố.
3.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.2.2.1. Hạn chế
Thứ nhất, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự coi trọng công
tác tư tưởng của Đảng, chưa có nhận thức, tư tưởng vững vàng và chưa làm
tốt công tác tư tưởng cho quần chúng nhân dân.
Bên cạnh những thành công đạt được trong công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng, còn không ít hạn chế như: một bộ phận cán bộ, đảng
viên chưa đánh giá đúng vị trí, vai trò của công tác tư tưởng trong Đảng, trong
nhân dân; chưa tích cực, thường xuyên làm công tác tư tưởng cho người dân
nếu không được phân công nhiệm vụ. Theo số liệu khảo sát, khi được cấp trên
phân công, việc làm công tác tư tưởng cho người dân được cán bộ, đảng viên
thực hiện nghiêm túc, với 87,6% thường xuyên làm công tác tư tưởng cho
người dân và 12,4% không thường xuyên. Trước những biểu hiện sai lệch về
tư tưởng, nhận thức của người dân về tư tưởng chính trị, chỉ có 34,8% số đảng
viên (được khảo sát) thường xuyên làm công tác tư tưởng, vận động, tuyên
truyền để nhân dân có nhận thức, tư tưởng đúng đắn; 65,2% đảng viên còn lại
không thường xuyên làm công tác tư tưởng cho người dân. Khi một bộ phận
người dân có hành vi động sai trái, chỉ có 41,3% số cán bộ, đảng viên thường
xuyên làm công tác tư tưởng, tuyên truyền, vận động người dân hành động
chuẩn mực. Công tác tư tưởng đối với quần chúng nhân dân phải được thực
hiện ở mọi lúc, mọi nơi, để đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc
sống thực tiễn, vận dụng hiệu quả vào các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
106

hội. Tuy nhiên, tỷ lệ số cán bộ, đảng viên (được khảo sát) làm công tác tư
tưởng cho người dân ở mọi lúc, mọi nơi chỉ đạt 23,1%. Nhìn chung, tính tự
giác của đảng viên trong thực hiện công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng
còn nhiều hạn chế, bất cập.
Đơn vị: %
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Khi cấp ủy yêu cầu, Khi Nhân dân có Khi Nhân dân có Ngay sau khi được Làm công tác tư
phân công biểu hiện nhận thức hành động sai trái chuyển tải nội dung tưởng mọi lúc, mọi
tư tưởng chính trị về chủ trương, nơi
lệch lạc đường lối, nghị
quyết, chỉ thị mới
thường xuyên Không thường xuyên

Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả


Biểu đồ 3.1: Mức độ thường xuyên làm công tác tư tưởng của cán bộ,
đảng viên tại Hải Phòng
Với những hoạt động quản lý, điều hành, kém hiệu quả, quy trách nhiệm
cho người đứng đầu chưa thực sự rõ ràng; những sai phạm đặc biệt nghiêm
trọng của những cán bộ, đảng viên giữ vị trí cao trong bộ máy quản lý nhà
nước, trong cơ quan Đảng; những vi phạm của cán bộ, đảng viên các cấp... đã
dẫn đến một thực tế là người dân mất niềm tin, xói mòn niềm tin với Đảng; cán
bộ, đảng viên không gương mẫu, không chăm lo bảo vệ uy tín, danh dự của
Đảng. Điều này cho thấy, không chỉ chưa thường xuyên làm công tác tư tưởng
trong nhân dân mà một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa làm tốt công tác tư
tưởng cho chính mình, gây nên những hậu quả đáng tiếc và nguy hại.
Mặc dù, những hành vi vi phạm pháp luật của một số cán bộ, đảng viên,
đặc biệt, những cán bộ, đảng viên có chức vụ đã được xử lý nghiêm minh trước
107

pháp luật, trước Đảng nhưng niềm tin trong dân chúng bị dao động, uy tín của
Đảng bị giảm sút. Những vi phạm trên xuất phát từ chính cá nhân cán bộ, đảng
viên và một phần do công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng chưa phát huy
hiệu quả tối đa, chưa giáo dục lý luận chính trị, tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiệu quả cho cán bộ, đảng
viên. Đây cũng là thực trạng chung của nhiều địa phương, đơn vị trên cả nước.
Thứ hai, một số hoạt động của công tác tư tưởng còn mang tính hình
thức, có chất lượng và hiệu quả chưa cao
Đối với Thành ủy Hải Phòng, việc tổng kết thực tiễn, đúc rút những kinh
nghiệm quý báu, nâng lên thành lý luận, góp phần bổ sung, phát triển lý luận
của Đảng, mặc dù, có nhiều đổi mới nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu
của tình hình mới. Với những báo cáo tổng kết, sơ kết đánh giá quá trình thực
hiện các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Trung ương, của Thành ủy Hải
Phòng còn chung chung, chưa làm rõ những điểm đặc trưng, những kinh
nghiệm, sáng tạo nhằm góp phần phát triển lý luận của Đảng. Những hoạt động
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cụ thể của cán bộ, đảng viên như: Tham
gia đánh giá kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm từ thực tiễn đơn vị, cơ quan, đơn vị mình; tham mưu cho cấp ủy về kế
hoạch, nội dung tổng kết, nghiên cứu của địa phương, cơ quan, đơn vị mình;
tham gia lựa chọn nội dung tổng kết, nghiên cứu những vấn đề thuộc phạm vi
của địa phương, cơ quan, đơn vị mình… vẫn còn chưa nhận được sự tham gia
của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây là một trong những nhiệm vụ, yêu cầu
với mỗi cán bộ, đảng viên, nhưng những hoạt động này chưa phát huy được
hiệu quả thực sự, và mới chỉ nhận được sự tham gia nhiệt tình của 72% số cán
bộ, đảng viên được hỏi [Phụ lục 1, Bảng hỏi dành cho cán bộ, đảng viên]. Tuy
nhiên, sự tham gia này, chủ yếu là hình thức góp ý trên văn bản, lồng ghép
trong hoạt động sinh hoạt Đảng tại các cơ quan, đơn vị và địa phương. Những
ý kiến đóng góp mang tính sáng tạo chưa nhiều, chưa có đóng góp lớn cho hoạt
động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng.
108

Với một số hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết các cấp chưa thực
sự có hiệu quả, mang nặng tính hình thức. Vẫn còn một bộ phận cán bộ,
đảng viên (38% số đảng viên được khảo sát, điều tra) đánh giá hình thức
tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng chưa hiệu quả.
Trong đó, 74,1% cho rằng nguyên nhân của việc tuyên truyền chưa hiệu
quả là do các hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết có hiệu quả chưa cao;
57,7% số cán bộ, đảng viên cho rằng do chưa có hình thức tuyên truyền
đến từng đối tượng cụ thể, thường áp dụng một phương pháp chung cho
nhiều đối tượng… [Phụ lục 1, Bảng hỏi dành cho cán bộ, đảng viên]. Mặt
khác, hoạt động tuyên truyền mới chỉ dừng lại ở sự truyền đạt một chiều
của cán bộ làm công tác tư tưởng đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân. Sự tương tác, trao đổi, đối thoại trở lại của đối tượng công tác tư
tưởng còn mờ nhạt.
Hoạt động biên soạn và xuất bản báo chí phục vụ hiệu quả cho công tác
tuyên truyền của Thành ủy Hải Phòng; tuy nhiên, đối tượng phục vụ chủ yếu là
cán bộ, đảng viên. Với một bộ phận lớn quần chúng nhân dân thuộc nhiều giai
cấp, tầng lớp khác nhau chưa được chú trọng trong áp dụng hình thức tuyên
truyền này. Mặt khác, với những nội dung của nghị quyết, những chủ trương
mới của Đảng khi được tuyên truyền đến người dân cần được tinh gọn, cô đọng,
dễ hiểu. Do vậy, việc xuất bản những cuốn sách, tài liệu dạng sổ tay, những điều
cần biết, cẩm nang… phát hành miễn phí cho quần chúng nhân dân là cần thiết
và là một phương pháp tuyên truyền hiệu quả. Hoạt động này đã được Thành ủy
Hải Phòng thực hiện nhưng ở phạm vi hẹp và còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, nhận thức, tư tưởng
chính trị cho người dân chưa đồng bộ và toàn diện
Trong thời gian qua, giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị ở Hải
Phòng đã thu được nhiều thành tựu nổi bật. Tuy nhiên, giáo dục lý luận chính
trị, tư tưởng chính trị của Thành ủy Hải Phòng đang tập trung chủ yếu vào đối
109

tượng là cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo mà chưa chú trọng đến đối tượng
là người dân. Tình trạng người dân thờ ơ với chính trị, dao động niềm tin vào
Đảng trong quần chúng nhân dân xuất phát từ việc chưa được giáo dục lý luận
chính trị kịp thời, sâu sát. Do đó, mặc dù, đa số quần chúng nhân dân thuộc
nhiều thành phần, tầng lớp trong xã hội tin tưởng vào vai trò, sự lãnh đạo của
Đảng nhưng vẫn còn một bộ phận quần chúng nhân dân thiếu niềm tin với
Đảng, thờ ơ với những vấn đề chính trị của đất nước và thành phố. Tỷ lệ
người dân (được khảo sát điều tra) không quan tâm đến vấn đề chính trị, kinh
tế, xã hội của đất nước, thành phố là 19,7%. Sự ủng hộ, đồng thuận của người
dân đối với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là yếu tố quan trọng
cho sự thắng lợi của Đảng trên tất cả các mặt trận. 19,7% số người dân được
khảo sát không quan tâm đến những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước, thành phố là một tỷ lệ không nhỏ, cho thấy hạn chế nhất định của công
tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng.
Đơn vị: %

19.7 33.1

47.2

Rất quan tâm Quan tâm Không quan tâm

Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả


Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ người dân quan tâm đến vấn đề chính trị tại Hải Phòng
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh là mức độ cạnh tranh trong
nền kinh tế ngày càng khốc liệt, động lực kinh tế là vấn đề quan trọng nhất
của người dân, do đó, một bộ phận quần chúng nhân dân nảy sinh tư tưởng,
có biểu hiện thờ ơ với các vấn đề chính trị, thậm chí, dao động niềm tin với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước thực trạng này,
110

công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng chưa thực sự phát huy tác dụng,
chưa đạt hiệu quả cao trong kết nối, tuyên truyền, vận động người dân vững
vàng tư tưởng chính trị, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Mặt khác, với xu hướng diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp
trước tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, lực lượng
lao động của thành phố làm việc tại các khu công nghiệp ngày càng gia tăng và
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động của thành phố (Tính đến tháng 6-2018,
Hải Phòng có hơn 100.000 lao động tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trên
địa bàn thành phố). Những lao động này chủ yếu là lao động phổ thông, có
trình độ chuyên môn trung bình và nhận thức về nền tảng tư tưởng, chủ trương,
chính sách của Đảng còn chưa cao. Một bộ phận công nhân, người lao động
tương đối thờ ơ với các vấn đề chính trị của đất nước, thành phố. Bên cạnh đó,
công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng cho những đối tượng này được
Thành ủy Hải Phòng triển khai chưa nhiều, chưa hiệu quả, chất lượng. Phần lớn
những công nhân tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố chưa có nhiều
cơ hội được tham gia học tập các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp. Việc
tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, đường lối của Trung ương, của
Thành ủy Hải Phòng đến với những đối tượng này chưa có chương trình riêng,
chủ yếu là lồng ghép với các hoạt động chung của địa phương. Hơn nữa, do
thời gian lao động, cường độ lao động của họ khá cao, nên việc tham gia các
chương trình tuyên truyền nghị quyết, quán triệt chủ trương của Đảng tại địa
phương rất hạn chế, hầu như họ không tham gia.
3.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Một là, nhận thức của một số cấp ủy các cấp về công tác tư tưởng còn
hạn chế; sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của công tác tư tưởng
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân còn có tư
tưởng chính trị chưa vững vàng, còn lệch lạc do sự lãnh đạo, chỉ đạo của một
111

số cấp ủy chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác tư tưởng. Những hoạt
động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được thực hiện quyết liệt,
hiệu quả do sự chỉ đạo, lãnh đạo chưa sát sao của một số cấp ủy. Trước những
khó khăn, phức tạp của tình hình mới, vai trò của cấp ủy, của người đứng đầu
cấp ủy trong công tác tư tưởng vô cùng quan trọng. Chỉ khi cấp ủy coi trọng
công tác tư tưởng, làm tốt công tác tư tưởng và chỉ đạo, lãnh đạo công tác tư
tưởng sát sao thì nhận thức, tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên, của quần
chúng nhân dân mới được nâng cao, tránh nguy cơ lệch lạc. Tuy vậy, những
đánh giá, tổng kết về tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, của quần
chúng nhân dân và đánh giá về công tác tư tưởng của một số cấp ủy còn mang
tính hình thức, né tránh những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân.
Hoạt động tuyên truyền, cổ động hành động quần chúng nhân dân tại một số
cấp ủy còn chưa thực sự hướng tới việc hài hòa lợi ích cho quần chúng nhân
dân. Tình trạng người dân khiếu kiện kéo dài về việc đền bù đất đai, giải tỏa
mặt bằng, về hoạt động điều hành, quản lý của cán bộ gây lãng phí, thất thoát
tài sản của Nhà nước... là biểu hiện rõ nét cho những yếu kém, hạn chế của
một số cấp ủy trong thực hiện công tác tư tưởng.
Qua khảo sát điều tra người dân, có 11,4% số người dân chưa tiếp xúc
với cán bộ làm công tác tư tưởng bao giờ. 11,4% không phải một tỷ lệ quá
lớn, [Phụ lục 1, Bảng hỏi dành cho người dân] song, cũng là một con số cần
được xem xét nghiêm túc. Bởi, công tác tư tưởng phải được thực hiện ngay cả
khi người dân không có những vấn đề bức xúc, nổi cộm cần được giải quyết
mà phải được thực hiện trong những điều kiện bình thường nhất để tránh
những nguy cơ, diễn biến tiêu cực có thể xảy ra. Các cấp ủy Đảng cũng như
những cơ quan chuyên trách thường chưa xác định được đúng tầm quan trọng
của việc ngăn chặn nguy cơ, đẩy lùi sự lệch lạc về tư tưởng của cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân. Nói cách khác, hoạt động "chống" lệch lạc tư
tưởng được chú trọng và hoạt động "phòng" lệch lạc tư tưởng còn tương đối
mờ nhạt. Dù đã thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII "về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
112

ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" nhưng tại một
số cấp ủy triển khai nghị quyết này còn mang tính hình thức.
Gần 70% người dân được khảo sát cho rằng nguyên nhân hạn chế của
công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng do một bộ phận cán bộ, đảng viên
không gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị. Từ những biểu hiện và hành
động không gương mẫu của cán bộ, đảng viên khiến những cán bộ, đảng viên
khác, cán bộ làm công tác tư tưởng khó khăn trong việc tiếp cận, tuyên truyền và
nhận được sự chia sẻ từ người dân. Hơn 50% số người dân được khảo sát cho
rằng nguyên nhân hạn chế của công tác tư tưởng còn đến từ tình trạng tham
nhũng, tiêu cực, lãng phí… của cán bộ có chức quyền. Việc các cấp ủy lãnh đạo,
chỉ đạo chưa tốt dẫn đến tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm, khiến công tác tư
tưởng trong tình hình mới càng trở nên khó khăn và cấp thiết hơn.
Đơn vị: %

Năng lực lãnh đạo của một số cán bộ


lãnh đạo còn hạn chế; nguyên tắc giám
sát , kỷ luật chưa nghiêm…
Nội dung, cách thức triển khai công tác
tư tưởng còn hình thức, chưa thiết thực,
chưa hiệu quả
Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, lãng
phí, không chí công vô tư của bộ một
phận cán bộ chức, có quyền
Một bộ phận cán bộ, đảng viên không
gương mẫu, suy thoái về tư tưởng, chính
trị
Công cuộc đổi mới đất nước chưa đồng
bộ, toàn diện; tình hình kinh tế - xã hội
còn nhiều bất cập, hạn chế
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100

Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả


Biểu đồ 3.3: Đánh giá của người dân về nguyên nhân hạn chế
của công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng
113

Hai là, một bộ phận cán bộ làm công tác tư tưởng còn chưa linh hoạt,
sáng tạo trong triển khai các hoạt động của công tác tư tưởng
Bên cạnh nhận thức chưa thật đầy đủ của một số cấp ủy, nguyên nhân
hạn chế của công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng còn xuất phát từ sự
chưa linh hoạt, sáng tạo trong triển khai các hoạt động của công tác tư tưởng.
Mặc dù, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ
làm công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng tương đối cao, đồng đều
nhưng mức độ sáng tạo, linh hoạt còn chưa thật đáp ứng với yêu cầu của thực
tiễn hoạt động công tác tư tưởng hiện nay. Đối với các đối tượng đa dạng về
trình độ, nhận thức, văn hóa thì cán bộ làm công tác tư tưởng cần đổi mới
phương pháp công tác tư tưởng, vận dụng linh hoạt các phương pháp công
tác tư tưởng. Tuy nhiên, cán bộ làm công tác tư tưởng thường áp dụng một
phương pháp cho nhiều đối tượng. Sự linh hoạt, sáng tạo của cán bộ làm
công tác tư tưởng còn thể hiện ở việc chuyển những nội dung mang tính vĩ
mô, mang tính chính trị trong nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng
thành những nội dung gần gũi, thiết thực đến với nhiều đối tượng quần
chúng nhân dân. Song, việc chuyển tải nội dung nghị quyết mang tính sáng
tạo, ngắn gọn, dễ hiểu chưa được thực sự chú trọng và áp dụng tại nhiều địa
phương, đơn vị.
Mặt khác, bên cạnh trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị,
sự sáng tạo, linh hoạt trong công việc thì cán bộ làm công tác tư tưởng cần
sử dụng tốt nhiều kỹ năng khác như: thuyết phục, phân tích - tổng hợp, sư
phạm, nắm bắt dư luận xã hội.... Đa số cán bộ làm công tác tư tưởng của
Thành ủy Hải Phòng sử dụng ở mức độ tốt và khá những kỹ năng này; tuy
nhiên, còn một bộ phận ở mức trung bình và yếu. Với kỹ năng nghiên cứu,
tham mưu, đề xuất, 11,6% số cán bộ làm công tác tư tưởng được khảo sát
cho rằng cán bộ công tác tư tưởng ở Hải Phòng có sử dụng kỹ năng này ở
mức độ trung bình, yếu, kém; với kỹ năng sư phạm con số này là 26,3%;
114

kỹ năng thuyết trình, diễn thuyết, đối thoại là 16,6%; kỹ năng phân tích
tổng hợp là 20,8% và kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội là 19,7%. Sử dụng
những kỹ năng này thành thạo, ở mức độ tốt sẽ là một lợi thế, ưu điểm của
cán bộ công tác tư tưởng. Theo đánh giá của chính cán bộ làm công tác tư
tưởng về hiệu quả sử dụng những kỹ năng này cho thấy, một bộ phận cán
bộ này còn chưa sử dụng các kỹ năng trên ở mức trung bình, yếu. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của công tác tư tưởng tại
Thành ủy Hải Phòng.
Đơn vị: %

Kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội

Kỹ năng phân tích, tổng hợp

Kỹ năng thuyết trình, diễn


thuyết, đối thoại

Kỹ năng sư phạm

Kỹ năng nghiên cứu, tham


mưu, đề xuất
0 20 40 60 80 100

Khó trả lời Yếu, kém Trung bình Khá Tốt


Tải bản FULL (224 trang): bit.ly/37y3d4l
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả
Biểu đồ 3.4: Mức độ sử dụng kỹ năng của cán bộ làm công tác tư tưởng
tại Thành ủy Hải Phòng
Ba là, nội dung của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thiếu tính thuyết phục
Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 của Bộ Chính trị về "Tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
115

trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý" nêu rõ: "Bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn một số hạn chế, yếu kém…
Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chậm được đổi mới, bổ sung, cập
nhật, còn trùng lặp, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực
tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, phong cách lãnh đạo, quản lý...
Thiếu sự liên thông giữa các cấp học, các hệ đào tạo dẫn đến việc cán bộ phải
học nhiều lần một số chuyên đề, học phần". Đây cũng là một nguyên nhân dẫn
đến hạn chế của công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện nay. Một số
nội dung của chương trình bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ lý luận chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
còn thiếu thuyết phục, thiếu tính sát thực với tình hình thực tế.
Hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân chưa thực sự hiệu quả, biểu hiện cụ thể như: Việc khuyến
khích cán bộ, đảng viên thực hiện minh bạch về tài chính, đảm bảo nghĩa vụ
đóng thuế với Nhà nước còn mang tính chất hình thức. Thực tế hoạt động kê
khai tài sản được thực hiện thường xuyên theo quy định; tuy nhiên, việc xác
minh tính xác thực của các bản kê khai tài sản trên lại tương đối hạn chế; một
số chương trình thực hành tiết kiệm được phổ biến rộng rãi trong cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân nhưng chưa có những đánh giá cụ thể sau quá
Tải bản FULL (224 trang): bit.ly/37y3d4l
trình thực hiện....
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Bốn là, những vấn đề phức tạp về chính trị - xã hội ảnh hưởng tiêu cực
đến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan, hạn chế của công tác tư tưởng
của Thành ủy Hải Phòng còn xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Đó
là quá trình phát triển kinh tế kéo theo những vấn đề phức tạp về chính trị - xã
hội ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Mặt khác, sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản trước tình hình mới,
những bất ổn về chính trị tại nhiều quốc gia trên thế giới cũng có tác động tiêu
116

cực không nhỏ đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhiều tầng lớp nhân
dân. Hiện nay, một số nước tư bản có nền kinh tế thị trường xã hội (các nước
Bắc Âu) với mức an sinh xã hội cao, các nước phát triển với mức thu nhập
cao là điểm đến của luồng di cư trên thế giới; trong đó, có một số người Việt
Nam. Hiện trạng này đã làm xuất hiện luồng tư tưởng hoài nghi về chủ nghĩa
xã hội, về chủ nghĩa Mác - Lênin, thậm chí cực đoan đến mức chống phá
Đảng và Nhà nước. Đây thực sự là những nguyên nhân khách quan gây khó
khăn lớn cho công tác tư tưởng của Đảng, của Thành ủy Hải Phòng hiện nay.
Quá trình hội nhập về văn hóa của cả nước nói chung và Hải Phòng nói
riêng làm xuất hiện trào lưu tư tưởng đòi dân chủ hóa các vấn đề kinh tế,
chính trị giống như các nước phương Tây. Nhưng trên thực tế, những đòi hỏi
này xuất phát từ mục đích chống phá Đảng và Nhà nước của nhiều thế lực thù
địch trong và ngoài nước. Những người dân có nhận thức chưa đầy đủ về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng
là những đối tượng bị lợi dụng để đạt được những mục đích trên. Bên cạnh
đó, văn hóa, lối sống phương Tây thực dụng, độc hại và không phù hợp với
truyền thống, văn hóa Việt Nam đã ảnh hưởng đến một bộ phận người dân,
đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Sự ảnh hưởng của văn hóa, điện ảnh tác động
không nhỏ đến lối sống, suy nghĩ hành động của thanh niên. Như trong thời
gian gần đây, những vụ án giết người, cướp của với tính chất man rợ gây
hoang mang trong dư luận xã hội thực sự là vấn đề đặt ra cho cả hệ thống
chính trị nói chung và cơ quan chuyên trách thực hiện công tác tư tưởng nói
riêng. Lối sống thực dụng này có chiều hướng lấn át các giá trị ưu việt của
chủ nghĩa xã hội và các giá trị văn hóa dân tộc.
3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA
THÀNH ỦY HẢI PHÒNG HIỆN NAY
Thực trạng công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng từ năm 2015
đến nay, bên cạnh những thành tựu và hạn chế còn có không ít những vấn đề
đặt ra. Cùng với những biểu hiện, thực trạng từ những yếu tố chủ quan, khách
117

quan cần phải tiếp cận đến những nguy cơ, thách thức với công tác tư tưởng
của Thành ủy Hải Phòng trong thời gian tới. Nhận diện những vấn đề đó,
Thành ủy Hải Phòng có thể đưa ra được những giải pháp nhằm khắc phục hạn
chế, đẩy lùi những nguy cơ, những "tảng băng chìm" trên mặt trận tư tưởng
của Đảng bộ thành phố nói riêng cũng như toàn Đảng nói chung.
3.3.1. Những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hướng
đến đối tượng là quần chúng nhân dân có trình độ thấp
Đặc điểm nổi bật của Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay là tốc độ
tăng trưởng, phát triển kinh tế cũng như tốc độ đô thị hóa nhanh làm biến
đổi cấu trúc giai tầng xã hội, cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động... đặt ra những
vấn đề phức tạp trong đời sống xã hội của thành phố. Các thế lực thù địch
lợi dụng thời điểm này để thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, đặc biệt
đối với những đối tượng quần chúng nhân dân có trình độ thấp. Đây là vấn
đề đặt ra cho công tác tư tưởng của Thành ủy Hải Phòng hiện nay.
Như đã trình bày ở trên, số lượng công nhân tại các khu công nghiệp
của thành phố gia tăng nhanh chóng nhưng chủ yếu họ có trình độ phổ
thông, trình độ lý luận chính trị thấp. Do đó, họ có nguy cơ trở thành đối
tượng, mục tiêu của các thế lực thù địch chống phá Đảng, cách mạng. Lợi
dụng thời gian lao động nhiều, việc nắm bắt thông tin tình hình kinh tế - xã
hội, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng của bộ phận lớn công
nhân còn hạn chế, nên các thế lực thù địch tuyên truyền những thông tin sai
lệch, tác động đến tâm tư, suy nghĩ thậm chí hành động của họ. Những
thông tin này có thể xoay quanh các vấn đề liên quan đến thu nhập, đến mức
sống, mức an sinh xã hội và nhiều vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong dư
luận. Tính từ năm 2010 đến tháng 6-2017, trên địa bàn thành phố Hải Phòng
đã xảy ra 79 cuộc đình công, ngừng làm việc tập thể của công nhân, lao
động với số lượng người tham gia từ 100 - 2000 người. Chủ yếu những cuộc
đình công này không đúng trình tự, quy định của pháp luật [Phụ lục 2: Các
văn bản liên quan đến công tác tư tưởng]. Điều này là một trong những

6465969

You might also like