You are on page 1of 15

ĐẠI HỌC DUY TÂN

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Là một sinh viên, em cần làm gì để học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Lớp: POS 361 SE


Nhóm sinh viên thực hiện: MSSV
Lê Nguyễn Hưng 24215310486
Trần Gia Tân 24215302541
Lương Huyền Trâm 24205313227
Phạm Anh Tuấn 24215315716
Lê Đặng Tú Uyên 24205303765

Đà Nẵng, ngày 29 tháng 7 năm 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU (Giới thiệu về Hồ Chí Minh)..............................................................................................3
CHƯƠNG 1: Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh...........................4
1- Vai trò, vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh.................................................................................4
1.1. Vai trò đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh:..............................................................................4
1.2. Vị trí tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh:.................................................................................5
2- Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.....................................................................6
2.1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên tu dưỡng rèn luyện
đạo đức:..............................................................................................................................................6
2.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người
Việt Nam hiện tại và tương lai:.........................................................................................................7
2.3. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đại.............................................................................8
Chương II: Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.....................................9
1- Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên hiện nay..................................................................9
1.1. Mặt tích cực:...............................................................................................................................9
1.2. Mặt tiêu cực:.............................................................................................................................10
2- Phương pháp, định hướng của sinh viên trong việc học tập tư tưởng Hồ Chí............................10
Minh.....................................................................................................................................................10
KẾT LUẬN:.............................................................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................14
Phân công nhiệm vụ:...............................................................................................................................15
LỜI MỞ ĐẦU (Giới thiệu về Hồ Chí Minh)
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Sen (nay
là làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An), là một người con yêu nước. Bác sinh ngày
19/5/1890 và mất ngày 2/9/1969, với tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Từ năm 1911,
ông đã rời quê hương đi tìm đường cứu nước ở nước ngoài và tìm thấy đường lối cách
mạng chính xác, góp phần quan trọng vào sự giải phóng dân tộc tại Việt Nam. Bác Hồ
cũng là một chiến sĩ cộng sản quốc tế và được coi là một nhà ngoại giao tài ba trong lịch
sử nhân loại. Gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc
(1862 - 1929), hay còn được gọi là Cụ Phó Bảng, và mẹ là cụ Hoàng Thị Loan (1868-
1901). Mẹ Bác: bà là một hình mẫu người phụ nữ Việt Nam hiếu thuận, vì gia đình và
con cái. Trong gia đình, bác có hai anh chị em là bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh
Khiêm và em út Nguyễn Sinh Nhuận.
Với các hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam. Trước khi lên cầm quyền, ông đã sống và hoạt
động ở nhiều quốc gia và châu lục khác nhau từ năm 1911 đến năm 1941. Ông được cho
là đã sử dụng từ 50 đến 200 biệt danh khác nhau và tìm ra con đường tư tưởng chính trị
theo chủ nghĩa Marx-Lenin.
Sau 30 năm ở nước ngoài, vào năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức trở về Việt
Nam qua biên giới Trung Quốc. Ông trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống lại thực
dân Pháp, thành lập mặt trận Việt Minh. Ông cũng là người soạn thảo và đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập để thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trở thành Chủ tịch nước
sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Trong quá trình diễn ra chiến tranh Đông Dương và
chiến tranh Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật quan trọng trong đội ngũ
lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam. Vì lý do sức khỏe, ông giảm dần hoạt động chính trị vào năm 1965 và qua đời
vào năm 1969. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từng
là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945–1969, Thủ tướng Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam từ 1956–1960, và Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam từ năm 1951 cho đến khi qua đời.
Ngoài hoạt động chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà
báo, viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp.
Mặc dù trải qua những thăng trầm và gặp nhiều nguy hiểm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
không ngừng nỗ lực vì sự nghiệp cách mạng quốc tế và Việt Nam nói riêng. Ông đã đóng
góp quan trọng vào cuộc giải phóng dân tộc của Việt Nam, mang lại hòa bình và phát
triển thịnh vượng cho đất nước. Người ta không thể nhắc đến Hồ Chí Minh mà không
nghĩ đến những nỗ lực của ông trong việc tìm kiếm con đường cứu nước cho dân tộc Việt
Nam.

CHƯƠNG 1: Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của tư


tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

1- Vai trò, vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp đạo đức truyền thống của dân tộc
với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với phương Tây, được
hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.

1.1. Vai trò đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh:


- Về vai trò của đạo đức, Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng
giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết: “Có đạo
đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi và thành công cũng giữ vững tinh
thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn,“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”;
lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu
phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “ là đạo đức, là văn
minh”. Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: Đảng Cộng Sản phải tiêu
biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến 1 cách toàn diện. Người
nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội,
trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội
trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối
với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực
đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng ta trở thành Đảng cầm
quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư”.
- Mỗi xã hội hình thành và phát triển đều dựa trên một nền tảng nhất
định cả về vật chất và tinh thần, kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội.
Sự phát triển của xã hội Việt Nam cũng vậy, nó đòi hỏi phải có nền tảng
vật chất và tinh thần cho sự phát triển lâu dài, bền vững, trong đó không
thể thiếu lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được
hình thành thông qua vai trò chủ động, tự giác của con người. Do đó, việc
hình thành một nền đạo đức - nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền
vững của xã hội Việt Nam trong hiện tại và tương lai, phải có định
hướng, phù hợp với thực tiễn phát triển của dân tộc
- Sự phát triển của đất nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người. Khi chúng ta khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, thì
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam
cho việc xây dựng nền đạo đức Việt Nam hiện nay và mai sau.
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chứa đựng những hạt nhân hợp lý, chắt
lọc từ tinh hoa giá trị đạo đức nhân loại, phù hợp với những điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, hướng tới những giá trị mang tầm
thời đại. Vì vậy, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh chính là nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, cũng như lâu dài
trong tương lai của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân,
như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với
chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Tăng cường rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng...”

1.2. Vị trí tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh:


- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách
mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm
thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn
về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và
với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội
mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh
mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang”.
- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người
viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con
người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách
mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi
gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác,
khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
- Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng
viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không
chịu cúi đầu
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết
+ Hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu giai cấp công nhân , nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây
dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “ là đạo đức, là văn minh”.
Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu
cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.

2- Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh


2.1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên tu
dưỡng rèn luyện đạo đức:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách mạng. Người
cho rằng, cán bộ chỉ có giác ngộ chính trị chưa đủ, mà còn phải thấm nhuần, tu
dưỡng đạo đức cách mạng.Theo Người, đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời,
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật
của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng thì phải đặt lợi ích của
Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Phải hết sức
hết lòng phục vụ nhân dân, vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, luôn gương
mẫu trong mọi công việc, ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Người khẳng định
làm cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Người cán bộ có đạo đức cách mạng thì nghĩ, nói và
làm phải thống nhất. Vì vậy, “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, là nhân tố quyết định
sự thắng lợi của mọi công việc, phẩm chất, uy tín của mỗi con người. Người cho
rằng, mọi việc thành công hay thất bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo
đức cách mạng hay không và “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là
người cao thượng”. Đạo đức cách mạng giúp người cách mạng đứng vững trong
mọi hoàn cảnh, dù khó khăn hay thuận lợi. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu
Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”, phải tiêu biểu cho lương tâm, phẩm giá và trí
tuệ của dân tộc. Trong Di chúc, Người căn dặn: “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

2.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở những chuẩn mực đạo đức
cơ bản của con người Việt Nam hiện tại và tương lai:
Mỗi một mô hình xã hội mới đòi hỏi phải có những con người mới cụ thể, với
những phẩm chất năng lực cụ thể để xây dựng và phát triển xã hội đó. Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định rõ, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những
con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người vừa có đức, vừa có tài, vừa
“hồng”,vừa “chuyên”. Riêng về khía cạnh đạo đức, đó trước hết là những người có
tinh thần yêu nước, thương dân, đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết,
trước hết. Đó là những người luôn luôn gắn bó với nhân dân, yêu thương, kính
trọng nhân dân và do đó được nhân dẫn yêu mến, quý trọng, được dân tin, dân
phục, dân yêu. Đó phải là những con người có ý thức trách nhiệm với công việc, có
tinh thần lao động siêng năng, cần củ, lao động với năng suất và chất lượng cao,
tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Đó đồng thời phải là những con người có tính thần
tiết kiệm, biết tiết kiệm sức người, sức của, tiết kiệm thời gian cho đất nước và
nhân dân.
Sinh thời, người đã làm cuộc cách mạng về đạo đức khi sử dụng những khái niệm
trong Nho giáo truyền thống nhưng với những nội hàm mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng hết sức coi trọng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn quan tâm, chú trọng đến các chuẩn mực đạo đức khác là tình
thương yêu con người và tinh thần quốc tế trong sáng trên lập trường của giai cấp
công nhân. Đó không dừng lại ở lòng trắc ẩn, mà còn được nâng lên ở tầm cao, gắn
tình yêu thương với khát vọng giải phóng con người không phân biệt màu da,
chủng tộc, giai cấp, tôn giáo khỏi những áp bức, bất công. Tình yêu thương con
người ở Người vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, dân tộc, đến với nhân loại tiến
bộ và thu hút sự ngưỡng mộ, cảm phục của nhân loại tiến bộ.

2.3. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đại
Trên thực tế, trong xã hội Việt Nam hiện nay, tình trạng suy thoái, xuống cấp về
đạo đức xã hội trong một bộ phận dân cư không chỉ do thiếu sự nhận thức đúng
đắn và thống nhất về vị trí, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, về các chuẩn
mực đạo đức xã hội, mà còn có một là phần nguyên nhân do chưa có sự tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức đúng đắn và thống nhất trên cả phương diện lý thuyết và thực
hành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá
trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người, Người đã nêu gương thực
hành những nguyên tắc đó trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn hóa mới, nền
đạo đức mới của Việt Nam. Đó là các nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu
gương đạo đức; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người từng sớm khẳng định tử
giữa những năm 20 của thế kỷ XX rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông
đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm
bài diễn văn tuyên truyền”. Người cũng thẳng thắn nhắc nhở các cán bộ, đảng viên:
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được
họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, minh phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Một nền
đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một nền tảng rộng lớn, vững chắc, khi
những chuẩn mực đạo đức mới trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã
hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Để xây dựng một nền
đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây phải đi đôi với
chống, chống nhằm mục đích xây; phải bằng nhiều biện pháp kết hợp cả giáo dục,
phê phán và trùng trị bằng pháp luật; phải kết hợp giữa quét sạch chủ nghĩa cá
nhân và nâng cao đạo đức cách mạng... Đồng thời, Người cũng nhắc nhở hết sức
sâu sắc: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bị hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng cùng luyện cùng trong”. Đạo đức không phải là cái nhất thành bất biến,
không phải là điểm đến, chỉ cần phấn đấu vươn tới một lần là xong xuôi, mà là quá
trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời. Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên
cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã gần nửa thế kỷ, nhưng tư tưởng và tấm gương
đạo đức của Người vẫn có giá trị thời sự đổi với sự nghiệp đổi mới đất nước hôm
nay và mai sau, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, là
nền tảng tinh thần cho xây dựng nền đạo đức mới ở trong hiện tại và tương lai ở
Việt Nam

Chương II: Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh

1- Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên hiện nay.
1.1. Mặt tích cực:
Đạo đức Hồ Chí minh là đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt
chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí công vô tư.
Dưới ngọn cờ của tư tưởng đó, trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt
Nam đã lập được nhiều kỳ tích to lớn, đóng góp vào tiến trình chung của lịch sử
dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế, một nền đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của
Đảng, là nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền
đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc, như: yêu nước,
thương người, sống nghĩa tình trọn vẹn, cần. kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với
những yêu cầu mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại. nhờ
đó, phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong
sạch, lành mạnh; khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản
lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó
khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó với
nhân dân, đồng hành cùng dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Phần lớn sinh viên Việt Nam luôn tin tưởng và đồng thuận với đường lối chính trị
của Đảng, chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, ra sức học tập, rèn luyện
và lao động sản xuất. Nhiều sinh viên có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị
cao, có ý chí vươn lên, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích của những thế hệ
thanh niên lớp trước, trở thành tấm gương sáng cho đông đảo thanh niên noi theo.
Ở nhiều cuộc thi trí tuệ thế giới, học sinh, sinh viên nước ta luôn đạt giải cao.

1.2. Mặt tiêu cực:


Bên cạnh các điểm tích cực, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế, do sự bùng phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý,
đã dẫn đến những tiêu cực trong xã hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa
rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế
lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đã tác động
không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý
chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức. hậu quả là đã có một bộ phận sinh
viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập
thân, lập nghiệp, hút xách; thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy
thầy, chạy trường, mua bằng cấp, thiếu ý thức trách nhiệm xã hội, một số sinh viên
thiếu khả năng lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, lối sống tận hưởng
… đây là những biểu hiện không thể coi thường và đáng được xã hội quan tâm uốn
nắn.

2- Phương pháp, định hướng của sinh viên trong việc học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Phương pháp khi học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải nắm vững những
quan điểm cơ bản có ý nghĩa phương pháp luận, biết vận dụng thấu đáo và nhuần
nhuyễn những nguyên tắc phương pháp luận chung của khoa học xã hội. Vì vậy,
khi học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải quán triệt những nguyên tắc sau:
*Thứ nhất, bảo đảm sự thống nhất tính Đảng và tính khoa học
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp ủy, quản lý các cấp trong hệ
thống các nhà trường, học viện, nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm phối hợp giữa
phòng công tác sinh viên với các khoa, bộ môn giảng dạy về luận chính trị, cố vấn
học tập. Tính đảng là phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân, quan điểm chủ
nghĩa Mác- Lênin; quán triệt cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam để nhận thức và phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh.
Tính khoa học là phải đảm bảo tính khách quan, khoa học của các luận đề nêu ra.
Sự
thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học là một nguyên tắc rất cơ bản
trong
phương pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Tránh việc phủ định hoặc cường
điệu
hóa tư tưởng của Người. Đồng thời, phối hợp, chủ động tổ chức hội thảo, các buổi
giao lưu, trao đổi, tọa đàm về đạo đức cách mạng trong giáo dục lý luận chính trị
với sự tham gia của các chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực này, tăng cường bản
lĩnh chính trị, năng lực đấu tranh của sinh viên trước các quan điểm sai trái, mang
tính phản động.
*Thứ hai, quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền thực tiễn
Chủ Nghĩa Mác-Lênin cho rằng, thực tiễn là nguồn gốc, là động lực của nhận
thức, là cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý. Hồ Chí Minh là người luôn xuất phát từ
thực tiễn; đồng thời rất coi trọng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cần vận
dụng cơ sở phương pháp luận này của Hồ Chí Minh
khi nghiên cứu, học tập tư tưởng của Người.
Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần quán triệt quan điểm lý luận gắn
liền với thực tiễn, học đi đôi với hành.
*Thứ ba, quan điểm lịch sử cụ thể
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của một thời kì lịch sử, phản ánh hiện thực
lịch sử và do đó, chịu sự chi phối, tác động của điều kiện lịch sử. Khi nghiêng cứu,
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh phải đặt những quan điểm của người trong hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Xem các quan điểm của Người trong mối quan hệ biện chứng
với thực tiễn cuộc sống, nghĩa là phải đặt những quan điểm đó trong quá trình vận
động và phát triển không ngừng, trong quá trình tương tác với hoàn cảnh nhất định.
*Thứ tư, quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách
mạng Việt Nam. Khi nghiên cứu và học tập phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ
qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống
tư tưởng đó xung quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Nếu tách rời một yếu tố nào đó khỏi hệ thống sẽ hiểu sai tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch là một
bộ phận cơ bản, không thể thiếu trong các tài liệu, giáo trình, bài giảng lý luận
chính trị.
*Thứ năm, quan điểm kế thừa và phát triển
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế thừa, vận
dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều kiện lịch
sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và quốc tế theo tinh thần “dĩ bất biến,
ứng vạn biến” của Người để tiếp tục nhận thức và vận dụng đúng quy luật, giải
quyết những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy các môn
khoa
học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đội ngũ cán bộ, giảng viên giảng dạy
các
môn lý luận chính trị, tư tưởng cần trau dồi kỹ năng, kiến thức để khơi dậu, kích
thích
nhu cầu nhận thức, tiếp nhận thông tinh, hứng thú, ham thích, say mê nhận thức và
đặc biệt là vận dụng kiến thức chính trị tư tưởng đã học được vào thực tiễn cuộc
sống. Đối với giảng viên, trong giảng dạy, truyền đạt kiến thức, cần định hướng giá
trị sống có lý tưởng cách mạng, hun đúc ý chí vươn lên trong học tập và cuộc sống;
điều chỉnh phương pháp giảng dạy, giảm thuyết trình, tăng cường trao đổi, gợi mở
vấn đề cho sinh viên thảo luận và tăng cường khả năng tự nghiên cứu. Giảng viên
cần giới thiệu những vấn đề căn bản, mang tính nguyên lý về Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; áp
dụng những phương pháp giảng dạy tích cực để định hướng sinh viên biết tìm đọc
tài liệu tham khảo, tự học, tự nghiên cứu để thu nhận và mở mang tri thức. Bên
cạnh đó cần đa dạng hóa các phương pháp như đóng vai, thảo luận nhóm, tổ chức
các trò chơi có liên quan đến nội dung học tập, tạo nên không khí học tập sôi nổi
hấp dẫn sinh viên.
Định hướng cho sinh viên khi học Tư tưởng Hồ Chí Minh: mỗi sinh viên cần nhận
thức rằng không ai khác, chính mình là những chủ nhân tương lai của đất nước, đất
nước đang trông chờ rất nhiều ở việc học tập và rèn luyện của sinh viên. Việc học
tập các môn chuyên ngành là điều cần thiết, song nếu chỉ có kiến thức chuyên
ngành sinh viên sẽ bị lạc hậu về mặt lý luận, vì việc học tập các môn khoa học Mác
- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp họ nắm bắt được những kiến thức cơ bản, kết
hợp với việc liên hệ thực tiễn, từ đó có tư duy độc lập, đúng đắn, hành động phù
hợp trong cuộc sống, qua đó sinh viên có được phương pháp tiếp cận, nắm bắt
thông tin, kiến thức một cách hiệu quả

KẾT LUẬN:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình
cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người
đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao
đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi
cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam. Đối với mỗi cá nhân nên học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh qua đó để giáo dục, rèn luyện mình.
Qua bài tiểu luận trên cần rút ra được các điểm chính sau:

1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp đạo đức truyền thống của
dân tộc với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với
phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam.
2. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng:
Người coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như
gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân.

3. Phần lớn sinh viên Việt Nam luôn tin tưởng và đồng thuận với đường lối chính
trị của Đảng, chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, ra sức học tập,
rèn luyện và lao động sản xuất. Nhiều sinh viên có thái độ, nhận thức tốt và ý
thức chính trị cao, có ý chí vươn lên, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung
kích của những thế hệ thanh niên lớp trước, trở thành tấm gương sáng cho
đông đảo thanh niên noi theo.

4. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Mốt số ít những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự
chống phá của các thế lực phản động quốc tế đã tác động không nhỏ đến
đời sống đạo đức công dân. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai
nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập
thân, lập nghiệp, hút xách; thiếu trung thực, thiếu ý thức trách nhiệm xã
hội, một số sinh viên thiếu khả năng lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
người khác, lối sống tận hưởng … đây là những biểu hiện không thể coi
thường và đáng được xã hội quan tâm uốn nắn.

Đạo đức không phải là cái nhất thành bất biến, không phải là điểm đến, chỉ
cần phấn đấu vươn tới một lần là xong xuôi, mà là quá trình tu dưỡng, rèn luyện
suốt đời. một nề đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo
đức của mỗi người. chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã gần nửa thế kỷ, nhưng tư
tưởng và tấm gương đạo đức của Người vẫn có giá trị thời sự đổi với sự nghiệp đổi
mới của đất nước hôm nay và mai sau, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh là nền tảng tinh thần cho xây dựng nền đạo đức mới ở trong
hiện tại và tương lai ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
link 1.1 https://tuyenquang.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?
ItemID=9760&l=Tintuc

Phân công nhiệm vụ:


Tên Phân công nhiệm vụ
Lê Nguyễn Hưng Chương 2 2.2-Phương pháp, định hướng của sinh viên trong
việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trần Gia Tân 2.1- Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên
hiện nay.
Lương Huyền Trâm Viết
Phạm Anh Tuấn Mở đầu + Kết thúc + Bìa + Phân công nhiệm vụ.
Lê Đặng Tú Uyên Chương 1 1.1- Vai trò, vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2- Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.

You might also like