You are on page 1of 24

ĐỀ TÀI 2:

tử tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng,và sự vận dụng tư


tưởng đó vào đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay.

0
MỤC LỤC

Trang

A. Mở đầu.....................................................................................................................2
................................................................................................................................................

B. Nội dung...................................................................................................................3
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................

I. tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng............................................................3

1. Đạo đức cộng sản còn xa, nhưng đạo đức cách mạng

là mỗi ngày, là cả đời.....................................................................................................8

2. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng là

một trong những biểu hiện rõ nhất của phẩm chất cách mạng Việt Nam......................8
3. Phẩm chất tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở cuộc đời hoạt động không biết mệt
mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người..........9

4. Giải quyết vấn đề dân tộc và dân chủ ở Việt Nam..................................................…9


II.vận dụng tư tưởng đó vào xây dựng đạo đức, lối sống cho sv hiện nay..................14

1 -chăm lo xây dựng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:.................14

1
2 - Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau như thế nào?.........................16

3 - Để thanh, thiếu niên và nhi đồng xứng đáng là thế hệ cách mạng

của đời sau, họ cần được bồi dưỡng những gì?..........................................17

C. kết luận.....................................................................................................................20

Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................................21

A. MỞ ĐẦU

HỒ CHÍ MINH là con người đa tài, nhưng lại có cuộc đời sống rất giản dị, gần gũi với
nhân dân.nhưng đàng sau cái con người giản dị đó đã có một hoài bão bão lớn cho cả
đồng bào,cho cả dân tộc việt nam và hơn hết đó là cho cả loài người bị áp bức bóc lột
trên toàn thế giới.Tư tưởng của người như ánh mặt trời soi sáng mọi chân lý, là kim chỉ
nam cho đảng cho dân tộc bị áp bức bóc lột.

Học tập tư tưởng HCM nhằm khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp ,đấu tranh khắp phục sự suy thoái về đạo đức ,lối sống,chặn đứng và đẩy lùi quan
liêu,tham nhũng lãng phí và các tệ nạn xã hội, hình thành và phát triển các giá trị đạo
đức của chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa xã hội có
nhân cách cao đẹp, bản lỉnh chính trị vũng vàng, có lối sống văn minh, xây dụng quan
hệ xã hội lành mạnh.

Tư tưởng của HCM về cách mạng khác với ông cha ta đi trước như: Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám. Nhung người cũng rất khâm phục tinh than cứu
nước của ông cha ta đi trước, nhưng người cũng không tán thành mà đi theo con đường
khác và con đường đó đã được lịch sử gi nhận là đã đạt được thành quả và mục đích
mà cả cuộc đời người đã đề ra. HCM là người tiêu biểu nhất về đạo đức cách mạng,
người đã xây dựng nền đạo đức cách mạng ở Việt Nam. Người đã phát triển lý luận
đạo đức Mark-lenin kế thừa xuất sắc những tinh hoa đạo đức của dân tộc. người đã tự
tu dưỡng, rèn luyện mình trở thành người mẫu mực nhất, là tấm gương trong sáng

2
nhaats về đạo đúc cách mạng. đó là di sản văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc ta và
đảng ta.

HCM là người việt nam đẹp nhất là tiêu biểu cho phẩm chất đạo đức và khí phách của
dân tộc ta và đảng ta.

Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời di huấn dặn dò về Đảng, và vấn đề
đạo đức cách mạng: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân". Cả cuộc đời của mình, Người đã tự thực hiện một cách hoàn
chỉnh, trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức cách mạng; Người vừa là nhà lý
luận đạo đức cách mạng, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng gần gũi và độc đáo
nhất.
Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: "Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu.
Nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Và theo cách diễn đạt bình dị của
Người: Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người,
sức có mạnh mới gánh được nặng, và đi được xa. Ngay trong những năm kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, Đảng ta tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất
nước, Người đã khái quát và cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân". Người cũng thường xuyên nhấn mạnh: "Đảng phải là đạo đức,
là văn minh", cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng phải vừa hồng vừa chuyên, hội
tụ đủ đức tài, đức là gốc; phải có sự trung với nước, và hiếu với dân.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh là tài sản tinh
thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, công chức đối với Bác kính
yêu - một con người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời
gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.

B. NỘI DUNG

I, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG.

3
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức
cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và
tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan
tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi
đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự
nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết
định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt
đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô
dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc
nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoà thành nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta trên cơ sở vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng. Song, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm xây
dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, mà còn đề cập đến một phương diện
khác, đó là xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Bác Hồ đã mở rộng nội hàm về
công tác xây dựng Đảng bao gồm chính trị, tư tưởng, tổ chức và về đạo đức, lối sống.
Đây là đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt lý luận trong công tác xây dựng
Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin.

Qua nghiên cứu cho thấy từ rất sớm, Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là
gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Bác đã nêu "Tư cách
một người cách mạng" ở mục đầu tiên. Bác đề cập đạo đức cách mạng trong 3 mối
quan hệ: Tự mình, đối với người, đối với việc. Bác từng nói: “Làm cách mạng để cải
tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm
vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. “Mọi việc thành hay bại,
chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”. “Có đạo đức
cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè lùi bước…”,
“khi gặp thuận lợi và thành công nhưng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát,
4
khiêm tốn”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ
không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo,
không hủ hóa”.
Bác Hồ thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng: “Đảng ta là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho quyền lợi của dân tộc”. Bác yêu cầu người cách
mạng phải thấy rõ điều đó và phải phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cao cả và sứ mệnh
lịch sử vẻ vang đó. Trong bài viết về đạo đức cách mạng năm 1958, Bác nêu rõ bản
chất và nội dung của đạo đức cách mạng, đồng thời cũng nêu rõ những biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trong bài viết này, Bác nêu
5 phẩm chất đạo đức mà cán bộ, đảng viên phải phấn đấu rèn luyện, gìn giữ. Đó là:

- Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
- Là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
- Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh
giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
- Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết.
- Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.

Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người
mà không ngần ngại hy sinh lợi ích riêng của ác nhân mình. Đó là biểu hiện cao quý
của đạo đức cách mạng. Bác nói: Có đạo đức thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, chứ không tính toán, kèn cựa để hưởng thụ; không công
thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, hủ hoá. Người còn nói: Đạo đức cách mạng
không phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.

Theo quan điểm Bác Hồ, “trung với nước, hiếu với dân” có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Vì “dân là dân của nước, nước là nước của dân”. Nghĩa là nhân dân là chủ của đất nước. Còn
theo quan điểm của đạo đức phong kiến, coi nước là của vua, vua là người quyết định tất cả, còn dân
chỉ có nhiệm vụ làm tôi trung theo quan điểm “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” (Vua xử tôi
phải chết thì tôi phải chết, không tuântheo lệnh vua là tôi không trung thành). Rõ ràng, quan điểm của
Bác hoàn toàn khác hẳn với quan niệm của đạo đức phong kiến. Bác Hồ chỉ rõ: “Trung là trung với tổ
quốc, hiếu là hiếu với nhân dân”. Và cũng chính Người là biểu tượng cao đẹp thể hiện phẩm chất này.
Suốt cuộc đời vì dân, vì nước. Đến khi chuẩn bị vĩnh biệt thế giới này Bác cũng tính toán sao cho

5
khỏi tốn kém thì giờ và tiền bạc của nhân dân đối với việc riêng của mình. Bác khẳng định: “Bất kỳ
bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích nước, lợi dân”.

Người đã từng nói:” - Trong cuộc đấu tranh to lớn, lâu dài, gay go, ít nhiều đảng viên,
ít nhiều nơi không tránh khỏi những khuyết điểm như: chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm,
hủ hoá, xa quần chúng, chủ nghĩa địa phương, không giữ kỷ luật, làm việc luộm
thuộm, tự kiêu, tự mãn.

- Dù đó là những chứng bệnh thành niên, nhưng từ nay, Đảng đòi hỏi các đảng
viên phải kiên quyết tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy. Vì nếu không trị cho khỏi hết, thì
nó có thể lây ra mà trở nên rất nguy hiểm cho Đảng”.

6
-Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt
Nam gồm những điểm sau:

Một là, trung với nước hiếu với dân.

Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.

7
 Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã
hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo
đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng
trong quan niệm đạo đức.

“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc
vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng
chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
trước mắt, mà còn lâu dài về sau

Hai là, yêu thương con người

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã
xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị
áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành"

Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền
xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai,
hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm.
Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều
có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như
hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những
người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ
tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ
không phải đập cho tơi bời"

Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc
nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người

Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

8
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch,
sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không
ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của chúng ta".

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành
cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không
liên hoan, chè chén lu bù.

Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một
đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam".
"Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng
bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".

Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại,
luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở
của bản thân mình.

Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc".
“Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”;
phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ
Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn
kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày
công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc.

Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam đầu tiên yêu nước, nhưng công lao chính của
Người là đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên tầm cao mới khi những vấn đề của thời
đại tác động vào dân tộc Việt Nam và những vấn đề mà dân tộc Việt Nam đòi hỏi. Ở Hồ

Chí Minh, đức, tài, tâm, bản lĩnh, nhân cách, phong cách đã hội tụ lại thành phẩm chất.

1. Đạo đức cộng sản còn xa, nhưng đạo đức cách mạng là mỗi ngày, là cả đời.
Hồ Chí Minh nói "đức và tài", như Người cũng nói "tài và đức". Trong Di chúc thiêng liêng,
9
Người nói đến "hồng và chuyên".
Phẩm chất không phải là phạm trù trừu tượng, mà là phạm trù lịch sử cụ thể. Nó chứng
minh hành vi của con người, quy định nghĩa vụ của người này với người khác và với xã hội.

Nó phản ánh sự cống hiến và sự tử tế của mỗi con người trong cộng đồng xã hội.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Đường cách mệnh. Vào đề, Người nói ngay đến
yếu tố "tư cách người cách mệnh".
Năm 1947, Người viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Vào đề, Người nói ngay đến học tập,
rèn luyện đạo đức cách mạng.
Năm 1958, Người viết tác phẩm Đạo đức cách mạng. Trước tiên, Người nói về chống chủ
nghĩa cá nhân, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Năm 1960, Người viết tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. Mở đầu, Người đề cập đức tính gương mẫu của đảng viên: "Đảng viên đi trước, làng
nước theo sau".
Có thể nói, hầu hết các trước tác của Hồ Chí Minh đều nói đến đạo đức cách mạng.
Khổng Tử nói đến đạo đức phong kiến. M.Gandhi nói đến đạo đức giống nòi. K.Marx,
F.Engel, V.I.Lenin nói đến đạo đức cộng sản. Còn Hồ Chí Minh suốt đời nói đến đạo đức
cách mạng.
2. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng là một trong
những biểu hiện rõ nhất của phẩm chất cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước là một tình cảm rất thiêng liêng, nó ăn sâu bám rễ trong lòng dân tộc
Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Lòng yêu nước của mỗi con người Việt Nam tạo
thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Môi trường kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá thay đổi theo lịch sử, cho nên chủ nghĩa yêu
nước ở mỗi thời đại khác nhau cũng có nội dung khác nhau, nó được quy định bởi những
điều hiện kinh tế - xã hội. Một dân tộc tràn đầy chủ nghĩa yêu nước là một dân tộc mạnh.
Một dân tộc thiếu chủ nghĩa yêu nước là một dân tộc yếu.
Hồ Chí Minh nhận định chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ xây dựng lại đất nước.
Người nhận định, nhân dân lao động là những người yêu nước chân chính, những người
biểu hiện lợi ích dân tộc thật sự. Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải chuyển chủ nghĩa
yêu nước từ thời chiến sang chủ nghĩa yêu nước thời bình.
Chủ nghĩa yêu nước thời bình được thể hiện bằng sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, dân
giàu, nước mạnh, đạt nhiều thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, về lối sống xã
hội chủ nghĩa, những giá trị đạo đức và những ý tưởng mới. Nó phát sinh hằng ngày, hằng
giờ trong mỗi con người chân chính, trong phong trào thi đua của những người lao động
tiên tiến, trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng và tiến bộ xã hội, cho sự tổ chức công việc
một cách khoa học. Nó biểu hiện sự không khoan nhượng đối với những khuyết điểm, thiếu

sót.
3. Phẩm chất tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở cuộc đời hoạt động không biết mệt mỏi
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

10
Muốn giải phóng được giai cấp, trước hết phải giải phóng dân tộc. Giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp là tiền đề đi đến giải phóng con người. Cả ba hợp thành giải phóng xã hội.

Với Hồ Chí Minh, con người bao giờ cũng là vốn quý nhất, là tâm điểm mà xã hội cần tập
trung giải quyết.
Hồ Chí Minh nói cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Cây có đơm hoa kết trái, cành lá sum

suê, đều ở cái gốc đó mà ra. Nhưng muốn có cán bộ, trước hết phải xây dựng con người.
Muốn trở thành cán bộ, trước hết phải trở thành con người.

Trong đội ngũ của chúng ta, nhiều người chưa biết làm người đã xông vào làm cán bộ, rút
cục, những người đó đều là những cán bộ hư hỏng, lòng lang dạ sói, trở thành cặn bã của xã
hội.
4. Giải quyết vấn đề dân tộc và dân chủ ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ" (cách mạng
phản đế và thuộc địa) ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam.
Xét cho cùng, Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước cũng là để giải quyết vấn đề dân tộc và
dân chủ. Người cho rằng, nếu không giải quyết được hai vấn đề này, thì nhân dân Việt Nam
mãi mãi là vong quốc nô.
Theo Người, dân tộc được thể hiện ở độc lập dân tộc. Dân chủ được thể hiện ở vấn đề ruộng
đất cho nông dân và tự do cho nhân dân. Hai vấn đề này hợp thành dân tộc và dân chủ trong
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nếu chỉ giải quyết vấn đề dân tộc mà không giải quyết vấn đề
dân chủ, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì, khi nhân dân vẫn mất quyền tự do dân chủ.
Người nói: "Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì". Đó là chân lý của dân tộc.
Năm 1949, Hồ Chí Minh viết bài: Dân vận. Đây là một tác phẩm rất có giá trị về phẩm
chất tư tưởng cao cả.
Người khẳng định: "NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ".
Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã
xúc tiến thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam và Người đã cùng
Trung ương Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công,
vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả

đời.
một là, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước
11
hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ
bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất
nước.
Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất
nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm
trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói

gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp
bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không
có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách
mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục
tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước
ngoặt lịch sử.
Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp,
họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí
Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản
và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc
địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn,
đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa
Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của nhân
dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi
được độc lập…”.
Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng chí Võ
Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”.
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải
quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu
hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống
của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện
tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập
dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc
khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình

12
đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
hai là, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn
tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để
giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được
một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền
độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các
dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan
trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ

Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do
và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao
đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách triệt
để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được ước nguyện đó
nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều
trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý,
trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với
những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở chỗ
đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư
sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà
cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa,
càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực
hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được
đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc của tất cả mọi người.Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và
độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để
lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ

13
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao
động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã
hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.”
ba là, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta khồng hề có
dân tộc lớn đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ, mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ
anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana…
đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau.”Hồ Chí Minh luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp
đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo
nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách

mạng đã đề ra. Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ Tám (5 – 1941), nhận thấy cơ
hội cứu nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả nước, trong thư
Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công nông, binh,
thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao
hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng”.
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà chính Người là hiện
thân của sự đoàn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết
đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình
đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong
cách mạng Việt Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”.
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn cảnh và điều kiện sống của các
dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người, sống
ở miền núi, vùng sâu và vùng xa của đất nước. Bởi theo Người so với đồng bào sống ở miền
xuôi, vùng đồng bằng và đô thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi, xét trên mọi phương
diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vậy, quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người
vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh
tế và quốc phòng to lớn đối với cả hiện tại và tương lai của đất nước.
Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí Minh, là trách
nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa
phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết thực.
bốn là, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện với
người nước ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của đời sống thế giới, là người dân của nước

14
này đến cư trú và làm ăn sinh sống ở nước khác và ngược lại. Giải quyết thực trạng đó ở
mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng, thậm chí với từng nhà lãnh đạo có những quan
điểm và chủ trương chính sách khác nhau.
Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, thương yêu
họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con
đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà
con phải giữ mối quan hệ thân thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của
họ. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí
Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ ôn hoà và
thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm
1946), Hồ Chí Minh nêu rõ:.
“Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp cũng
nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ôn hoà.

Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp ủng hộ ta
càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích muốn chia
rẽ, không có thể và không có cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc thống nhất và độc lập của
chúng ta chóng thành công”.
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan điểm trước sau như
một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng cũng như quyền làm ăn chính đáng
của họ trên đất nước Việt Nam, như công dân Việt Nam. Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều”
nhân ngày Độc lập 2 – 9 – 1945, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta,
mấy ngàn năm nay, huyết thống tương thông, chung nền văn hoá, trong lịch sử vẫn được gọi
là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước liền kề, núi sông kế tiếp, càng như môi với răng che
chở cho nhau. Ngót trăm năm nay, đế quốc xâm lược Viễn Đông, giặc Pháp cưỡng chiếm
nước ta, lấy đó làm bàn đạp xâm lược Trung Quốc. Hai dân tộc anh em phương Đông chúng
ta lại chịu chung nổi khổ cực bị áp bức và xâm lược".
Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của Hồ Chí Minh là
tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân
tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Quan
điểm đó của Người được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 –
1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,

dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
Nội dung của một nước dân chủ theo quan điểm của Người là:
"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

15
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".

II VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO
SINH VIÊN HIỆN NAY

Gần 40 năm đã qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản "Di chúc" căn dặn toàn Đảng,
toàn dân và thế hệ trẻ những điều hệ trọng, những việc cần phải làm vì sự nghiệp cách
mạng. Những lời dặn của Người trong đó có tư tưởng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời

sau vẫn giữ nguyên giá trị to lớn, có ý nghĩa sâu sắc.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng
lực lượng cách mạng. Đó không chỉ là lực lượng trực tiếp gánh vác và giải quyết những
nhiệm vụ hiện tại, mà còn là đội ngũ kế cận, nguồn bổ sung có đủ năng lực để kế thừa và
tiếp tục phát triển sự nghiệp của những thế hệ đi trước. Trong 'Di chúc', Người nhắc nhở
toàn Đảng, toàn dân phải luôn ghi nhớ rằng, 'Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết'. Luận điểm đó chứa đựng thế giới quan khoa học
của một lãnh tụ cách mạng, phản ánh tầm nhìn xa trông rộng của một nhà hiền triết, một nhà
văn hóa lớn; nó đã trở thành một chân lý của cách mạng.

1 -chăm lo xây dựng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:

Sự nghiệp đấu tranh cách mạng nhằm biến xã hội cũ xấu xa, bất công và phi nhân tính thành
một xã hội mới, tốt đẹp và công bằng cho tất cả mọi người là một quá trình đầy cam go, thử
thách. Trong 'Nhà nước và cách mạng', khi đề cập đến tính chất phức tạp của những nhiệm
vụ cách mạng, chẳng hạn như vấn đề chính quyền, V.I.Lênin từng nói rằng, đấu tranh giành

16
chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền cách mạng còn khó hơn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng khẳng định, có độc lập, tự do mà nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì độc lập, tự
do cũng chẳng có ý nghĩa gì; nhân dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ được ăn
no, mặc ấm... Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân tất thảy những quyền con
người hết sức tự nhiên và chân chính ấy. Nhưng, chủ nghĩa xã hội không phải muốn là tức
khắc có ngay, mà chỉ có thể là kết quả của cuộc đấu tranh rất bền bỉ của con người.
Nhắc lại những điều đó để thấy, sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, bao gồm
nhiều nhiệm vụ, nhiều giai đoạn khác nhau và do vậy, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến quên
mình của nhiều thế hệ cách mạng. Thực vậy, trong tiến trình ấy, những lớp người hiện tại đã
trực tiếp giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ, nhưng cũng có không ít công việc còn dang
dở; hơn nữa, thực tiễn cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải tiếp tục giải
quyết. Theo đó, nếu thiếu lực lượng kế cận xứng đáng thì chẳng những sự nghiệp cách
mạng sẽ gặp khó khăn, mà ngay cả những gì đã có cũng khó được gìn giữ, bảo tồn.
Tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể hiện sự vĩ đại, sâu sắc trong tầm
nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này, Người không chỉ thấy hiện tại mà còn
thấy cả tương lai; không chỉ dành tâm huyết trước mắt cho sự nghiệp cách mạng mà còn
chăm lo vun trồng cái gốc của sự nghiệp đó để nó trở nên vững bền. ở đây, quan điểm biện
chứng duy vật về sự phát triển mà Người tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng
một cách sáng tạo: tương lai đang ở ngay trong hiện tại.
Đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh viết: 'Một năm khởi đầu từ mùa xuân.
Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội'. Đầy nhiệt huyết, có sức sống

tràn trề và năng lực sáng tạo..., đó là thế mạnh, là vốn quý của tuổi trẻ. Với tư cách là đội
ngũ dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của cách mạng và là những người chủ tương lai của
nước nhà, các thế hệ trẻ - trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế tục sự nghiệp cách
mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà lớp người đi trước đã chuyển giao vào tay
mình. Coi vận mệnh của nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh
niên, Hồ Chí Minh khẳng định, thanh niên phải trở thành một lực lượng to lớn, vững chắc
trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải 'là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ
thanh niên già,... là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội'.
Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
có lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh vô địch cũng như năng lực sáng tạo phi thường của quần
chúng nhân dân, trong đó có thế hệ trẻ. Thế hệ trẻ nói chung và trẻ em nói riêng luôn ở
trong trái tim và tâm trí của Người. Lúc nào Người cũng dành muôn vàn tình thương yêu
cho các thế hệ trẻ. Hơn thế nữa, Người còn gửi gắm niềm tin khi đặt trọn tương lai của cách
mạng, của dân tộc vào họ. Nhân ngày khai trường của năm học đầu tiên dưới chế độ mới,
Người đã gửi thư khích lệ và động viên học sinh cả nước: 'ngày nay chúng ta cần phải xây
dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước

17
khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em
rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các em'.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định, như một lô-gíc tất yếu, việc 'bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau' là nhiệm vụ rất quan trọng và rất cần thiết.

2 - Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau như thế nào?

Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình, kết hợp với lý luận cách mạng, từ rất
sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ rằng, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Do
vậy, ngay từ những ngày đầu mới thành lập chính quyền cách mạng, Người đã coi việc xóa
mù chữ, tiêu diệt giặc dốt và nâng cao dân trí là nhiệm vụ thứ hai trong số sáu nhiệm vụ cấp
bách của đất nước lúc bấy giờ. Đặc biệt, Người đã đưa ra một quan điểm vừa mang tính
chiến lược, vừa mang giá trị nhân văn sâu sắc mà đến nay, đã trở thành phương châm hành
động của toàn xã hội nói chung, của ngành giáo dục Việt Nam nói riêng: 'Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người'. Bởi vậy, dù bận trăm công
nghìn việc, Người vẫn thường xuyên quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục của nước nhà,
coi giáo dục xã hội chủ nghĩa là phương thức quan trọng nhất của sự nghiệp 'trồng người', là
một mắt xích không thể thiếu trong chiến lược bồi dưỡng thế hệ trẻ. Nói cách khác, trọng

trách to lớn của ngành giáo dục là đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng. Vì vậy,
theo Người, dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt; các ngành,
các cấp Đảng và chính quyền địa phương phải quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải
chăm sóc nhà trường về mọi mặt, nhằm đẩy sự nghiệp giáo dục của nước ta lên những bước
phát triển mới. Có thể nói, 'trồng người' là một tư tưởng có ý nghĩa to lớn, bởi đó là kế lâu
bền để phát triển đất nước. Ngày nay, khi con người được coi là nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta càng cảm nhận thấy
chiều sâu trong tư tưởng đó của Người.
Đối với sinh viên và học sinh, để xứng đáng là thế hệ cách mạng của đời sau, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đòi hỏi họ phải ra sức học tập: học tập trong nhà trường, trong gia đình và ngoài
xã hội; học tập qua sách vở và từ chính thực tiễn cuộc sống. Học không phải để 'làm quan'
như trong xã hội cũ, mà là 'Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu,
nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà'.
Một trong những triết lý sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học phải đi đôi với hành, lý

18
luận phải gắn với thực tiễn. Vì vậy, bên cạnh quan điểm xác định giáo dục, học tập như một
phương thức chủ yếu để bồi dưỡng thế hệ trẻ, Người còn đòi hỏi thế hệ trẻ phải luôn tự rèn
luyện, tu dưỡng trong thực tiễn nhằm xây dựng, phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết
để sau này có thể cống hiến được nhiều nhất cho quê hương, cộng đồng và xã hội. Theo
Người, việc tự rèn luyện, tu dưỡng đó cần tuân theo nguyên tắc nhất quán: điều gì phải thì
cố làm cho kỳ được; điều gì trái thì hết sức tránh, dù nó là nhỏ.

Cách đây 60 năm (năm 1947), trong 'Thư gửi thanh niên', Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà... Thanh niên muốn làm chủ tương lai
một cách xứng đáng thì ngay từ bây giờ phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của
mình, phải tích cực làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Việc giáo dục thanh niên không thể
tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội, nhằm giúp họ tránh
những cái độc hại, tiêu cực và tiếp thu, học hỏi những cái hay, tiến bộ trong cuộc sống.
Thanh niên phải có tinh thần sẵn sàng: 'đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh
niên làm'; phải đoàn kết chặt chẽ, kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và
lao động sản xuất, góp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

3 - Để thanh, thiếu niên và nhi đồng xứng đáng là thế hệ cách mạng của đời
sau, họ cần được bồi dưỡng những gì?

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Muốn làm tròn trọng trách người chủ tương lai
của đất nước, thế hệ trẻ phải được giáo dục, bồi dưỡng một cách thường xuyên và toàn diện.

Có như vậy, họ mới hội đủ các phẩm chất, năng lực cần thiết, cả về trí tuệ lẫn bản lĩnh chính
trị, cả về nhân cách, đạo đức lẫn sức khỏe, để đáp ứng những yêu cầu của công cuộc đấu
tranh bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo đó, việc bồi dưỡng thế hệ trẻ phải tập
trung vào những nội dung cơ bản sau:

Một là, bồi dưỡng đạo đức cách mạng:

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, nội dung quan trọng hàng đầu
là xây dựng đạo đức cách mạng, giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa và gột rửa chủ nghĩa cá
nhân. Không phải ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo đức của người cách mạng là nội
dung trước tiên của cuốn sách 'Đường kách mệnh'. Tư tưởng của Người về đạo đức cách
mạng chứa đựng nhân sinh quan và giá trị quan hết sức sâu sắc đối với việc xác lập nhân

19
cách, lý tưởng cũng như chuẩn mực lối sống cho thế hệ trẻ. Đạo đức cách mạng là đạo đức
mới, là phẩm chất không thể thiếu và là cái gốc của con người xã hội chủ nghĩa. Bởi, 'Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân'.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi nhất của đạo đức cách mạng là cần, kiệm,
liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa của trời đất; nếu thiếu một trong bốn
phẩm chất đó thì con người không thể trở thành người theo đúng nghĩa. Nhưng, đạo đức
cách mạng không phải là cái có sẵn, không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày của mỗi người. Do vậy, Người cho rằng, đối với thế
hệ trẻ, phải luôn nỗ lực rèn luyện đạo đức cách mạng: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kiêu ngạo; tích cực đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến hành
phê bình và tự phê bình... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật:

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng.
Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển:
'Dốt thì dại, dại thì hèn'. Vì vậy, để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên
cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có
học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin là nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận cách mạng - ngọn đèn pha soi sáng cho
hoạt động thực tiễn.

Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập văn hóa,
khoa học - kỹ thuật...; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, nhiệm vụ này quan trọng hơn bao giờ hết, bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với
từng cấp học, Người viết: 'Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức
học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để
thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học
trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây
dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần
giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng

20
của công'. Có như vậy, thế hệ trẻ mới có thể tích lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền
đề phát huy năng lực sáng tạo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ
nghĩa xã hội của dân tộc.

Ba là, bồi dưỡng thể chất:

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, tương lai của loài người hoàn toàn tùy
thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến sự phát triển toàn diện của thanh, thiếu niên và nhi đồng Việt Nam, trong đó có sự
phát triển về mặt thể chất. Theo Người, việc giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, thực hiện
đời sống mới... tất thảy đều phải có sức khỏe thì mới thành công. Bởi vì, 'Mỗi một người
dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh
khỏe'. Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao;
đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người, dù gái hay trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn
luyện thân thể, coi 'luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe' vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận
của mỗi người dân yêu nước. Đặc biệt, đối với thanh niên, Người mong muốn họ phải có
sức sống dẻo dai, thể chất cường tráng, tinh thần mạnh mẽ và nghị lực lớn. Để có được như
vậy, không có cách nào khác ngoài việc hăng hái, tích cực rèn luyện thể dục, thể thao.
Thấm nhuần và thực hiện những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc nói trên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhiều thế hệ cách mạng đã nhanh chóng trưởng thành, đóng góp công lao to lớn vào
sự phát triển của dân tộc. Họ đã chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội;
đã và đang tích cực 'xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn', như mong ước
cháy bỏng của Người trước khi từ biệt thế giới này.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự
sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn
luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để
cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập
nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh
hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh

những thanh niên, sinh viên và học sinh tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ Việt Nam ngày
nay vẫn xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

21
'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào

tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa 'hồng' vừa 'chuyên''.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn
đấu, một bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại,
như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức,
thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn
hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ
đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành
mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực
thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến hành
chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng
Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng và toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, bởi nó liên quan trực
tiếp đến tương lai của đất nước. Đó cũng là một biểu hiện, một nội dung quan trọng của
chiến lược 'lấy dân làm gốc'. Có thể khẳng định, cùng với những biện pháp tích cực và đồng
bộ khác, cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh' mà Đảng ta
vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu vươn lên.

II. kết luận

 Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, những
yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ, đảng viên đòi hỏi phải được tăng cường rèn luyện, tu
dưỡng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng,
của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh lợi ích riêng của ác

nhân mình. Đó là biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng. Bác nói: Có đạo đức thì khi
gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, chứ không tính toán, kèn cựa để
hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, hủ hoá. Người còn nói:
Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện

22
càng trong.
 Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một di sản tinh thần vô cùng quí
báu của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, vấn

đề đặt ra không chỉ ở chỗ thừa nhận và khẳng định những giá trị thực tiễn to lớn của tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà một điều rất quan trọng là vận dụng và phát triển những giá trị tư
tưởng đó vào sự nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Những tư liệu gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam là những di sản vật chất quí báu để góp phần nghiên cứu tư tưởng của Người.

===========

Tài liệu tham khảo:

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 12, tr.510

(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t 4, tr.167

(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t 10, tr.488

(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 4, tr.33

(5) Hồ Chí Minh: Sđd, t 9, tr.222

(6) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr.399

(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr.252

(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t 8, tr.64

(9) Hồ Chí Minh: Sđd, t 8, tr.81

(10) Hồ Chí Minh: Sđd, t 4, tr.212

(11) Hồ Chí Minh: Sđd, t 12, tr.498

23

You might also like