You are on page 1of 14

TƯ TƯỞNG HCM

Chứng minh luận điểm: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” của Hồ Chí
Minh. Liên hệ với nội dung xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay.

SLIDE 1

SLIDE 2: [Các thành viên]

SLIDE 3: [Mục lục]

SLIDE 4

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”

SLIDE 5: [Mục lục P1]

SLIDE 6

1.1 “Đảng ta là đạo đức” trong tư tưởng Hồ Chí Minh

SLIDE 7: [Câu hỏi]

Câu 1: Tại sai Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng về xây dựng đạo đức cách
mạng?

Câu 2: Tại sao Đảng văn minh hay không lại phải dựa vào đội ngũ đảng viên?

SLIDE 8

1.1.1 Đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng

Trong Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ:

“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,

Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình,

Đảng ta là đạo đức, là văn minh


Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no…”

SLIDE 9

Khẳng định “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” bởi Đảng là một tổ chức chính
trị chân chính, trung thực, trung thành, quang minh, chính đại, chung thủy, tôn trọng
công lí và chính nghĩa, phấn đấu, hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân.

SLIDE 10

Và để xây dựng được một Đảng cầm quyền vững mạnh như vậy thì điều đầu
tiên cần có ở mỗi người cộng sản là đạo đức cách mạng. Trong công tác xây dựng
đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng đạo đức cách mạng bởi đạo
đức là biểu hiện trực tiếp của tư tưởng, chỉ đạo tư duy và hành động của con người.
Giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng tình cảm, xây dựng nhân cách người đảng
viên, cũng như chăm lo củng cố xây dựng tổ chức đảng phải đặt trên nền tảng đạo đức
cách mạng, bảo đảm hiệu quả vững chắc và lâu bền.

SLIDE 11

Từ rất sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Cuốn sách “Đường
kách mệnh” năm 1927 không phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng
nhưng ở trang đầu cuốn sách, Người đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một
người cách mạng, giải quyết 3 mối quan hệ: Với mình, với người, với việc.

SLIDE 12

Những thập kỉ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết
ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Năm 1947, Bác viết tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc”. Năm 1958, Bác viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng”. Năm 1965 đến 1969,
Bác viết Di chúc. Trong Di chúc Bác cũng nói nhiều về vấn đề rèn luyện đạo đức
cách mạng.
SLIDE 13

Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông, cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo.

SLIDE 14

Cũng giống như người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì “quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước”. Cho đến ngày nay, quan điểm ấy vẫn tiếp tục được khẳng định
qua lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Cán bộ cấp cao phải gương mẫu,
nghiêm khắc với bản thân”.

SLIDE 15

Vì sao? Vì giải phóng dân tộc, giải phóng loài người là một công việc to tát mà
tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm
nổi việc gì?

SLIDE 16

Bên cạnh đó, vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng còn được Hồ Chí Minh
khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp
rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức
tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”.

SLIDE 17

Từ đó ta có thể thấy, đạo đức đã trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của
mọi công việc cũng như quyết định phẩm chất của mỗi con người: “Mọi việc thành
hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”,
“Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to, người làm
việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”.

SLIDE 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần mà
chiến thắng vật chất”. Tức là nếu chỉ nhìn vào vật chất, nhìn vào hiện tượng, chỉ lấy
con mắt hẹp hòi mà xem thì chắc chắn không thể giải thích được thắng lợi của ta
trước kẻ thù lớn mạnh. Cách mạng giành được thắng lợi phần nhiều là ở ý chí, ở tinh
thần kiên cường, bất khuất và sự đoàn kết của nhân dân ta.

SLIDE 19

Do đó, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Đảng ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin,
chúng ta không những nhìn vào hiện tại mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc
vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc.” Tức là thắng bại cốt yếu
nằm ở tinh thần, ở sự tin yêu và ý chí, đạo đức cách mạng của đồng bào ta chứ không
hẳn chỉ ở phương diện vật chất đời thường.

SLIDE 20

Theo Bác, đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành
một xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp
khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”. Có nghĩa là bất kể thành công hay
thất bại, thuận lợi hay khó khăn thì người cách mạng phải luôn giữ vững và thấm
nhuần đạo đức cách mạng.

SLIDE 21

Đạo đức của Đảng thể hiện qua những điểm:


• Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp cách
mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân dân có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc
trên thế giới. Đạo đức của Đảng là thật sự vì nước, vì dân, nêu cao lợi ích của
đất nước, dân tộc, Tổ quốc trên hết, độc lập trên hết. Toàn Đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên nhận thức và hành động vì lợi ích của dân tộc. Ngoài lợi ích của giai
cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Toàn Đảng chung
sức lãnh đạo đấu tranh làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, thống
nhất, dân tộc, đồng bào được tự do, hạnh phúc, bảo đảm quyền sống và thoát
khỏi sự áp bức, bất công, đau khổ dưới sự thống trị của chế độ thực dân, phong
kiến và các thế lực phản động.

SLIDE 22

• Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều
nhằm mục đích đó. Đảng phải luôn luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc vì
Đảng không có mục đích riêng, sự ra đời và phát triển của Đảng đều là vì mục
đích làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi
cho dân.
• Đội ngũ đảng viên phải luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu dưỡng,
rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy, một trong
những biểu hiện rõ nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức của văn minh là Người “rèn”
đạo đức của các cán bộ, đảng viên.

SLIDE 23

1.1.2 Cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư – phẩm chất cốt lõi của
người làm cách mạng

SLIDE 24: [Câu hỏi]

Theo bạn, những phẩm chất cốt lõi của người làm cách mạng là gì?
Đ/a: Có lòng nhân ái, trung với đảng, 4 đức, chí công vô tư, …

SLIDE 25

Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đảng viên càng phải là những người có lòng nhân ái,
“phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, trung với Đảng, trung với nước, hiếu với
dân, có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính và luôn chí công vô tư, có tinh thần quốc tế
trong sáng.

SLIDE 26

Việc thực hiện phẩm chất này phải diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác,
sinh hoạt và phải được đặt ra với tất cả mọi người, đòi hỏi mỗi người phải lấy bản
thân mình làm đối tượng điều chỉnh.

SLIDE 27

Đặc biệt, Cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư là những khái niệm đạo đức
phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam, được Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc,
đưa vào những yêu cầu và nội dung mới nên hai phẩm chất này lại càng là thứ không
thể thiếu với mỗi người cách mạng.

SLIDE 28

Về cần, kiệm, liêm, chính

Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân”.

SLIDE 29

Tháng 6-1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Cần,
kiệm, liêm, chính. Sau đó, Người thường xuyên đề cập tới các phạm trù đạo đức này.
Hồ Chí Minh không chỉ giải thích nghĩa của cần, kiệm, liêm, chính mà Người còn nêu
lên mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính.
Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một
người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn”. So sánh
với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, Người cho rằng: “Thiếu một mùa thì
không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức, thì không
thành người”.

SLIDE 30

Đối với cán bộ đảng viên: cần, kiệm, liêm, chính lại càng cần thiết hơn nữa bởi:
“Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù
to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”.

SLIDE 31

Theo Hồ Chí Minh, càng có chức, có quyền càng cần phải cần, kiệm, liêm,
chính. Người viết: “Những người trong các công sở đều có nhiềuhoặc ít quyền hành.
Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu
mọt của dân”.

SLIDE 32

Theo Người, cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo văn minh, tiến bộ của một
dân tộc. Người viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dântộc giàu về vật
chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”.

SLIDE 33

Cần, kiệm, liêm, chính, vì vậy là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua
áiquốc”; là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp
và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng “cần, kiệm,
liêm, chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh. Những điều trái lại là đặc điểm của xã
hội suy vong”.

SLIDE 34: [Câu hỏi] Theo bạn, “chí công vô tư” là gì?

SLIDE 35
Chí công vô tư

Chí công vô tư có thể được hiểu là sự khách quan, công bằng, chính trực;
không thiên vị, không tự tư, tự lợi, mọi hành động đều vì đại nghĩa, vì lợi ích chính
đáng của nhân loại, quốc gia, cộng đồng.

SLIDE 36

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc giá trị của tinh thần “chí công vô tư”
để rèn luyện cho mình cũng như xem đây là một trong những phẩm chất quan trọng
của đạo đức cách mạng, cần phải giáo dục cho cán bộ, nhân dân.

SLIDE 37

Người cho rằng thực hành chí công vô tư là phải “kiên quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi vì chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ
nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng.

SLIDE 38

Hồ Chí Minh chỉ ra “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó
khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ rahàng trăm
thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,thích địa vị quyền hành,
tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền,
quan liêu mệnh lệnh, v.v...”.

SLIDE 39

Tóm lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi
người chúngta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu đậy.
Nó là một kẻ địch, bạn đồng minh của các kẻ địch khác.

SLIDE 40

Do đó, tinh thần chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển phù
hợp với mục tiêu, lý tưởng của cuộc cách mạng do Người lãnh đạo. Luận điểm “chí
công vô tư” cũng xuất hiện nhiều trong các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiêu
biểu là trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), Người viết về cách rèn luyện
đạo đức cách mạng, phẩm chất chí công vô tư như sau: “Lòng mình chỉ biết vì Đảng,
vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô
tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm.”

SLIDE 41

1.2 Xây dựng Đảng văn minh

SLIDE 42: [Câu hỏi]

Câu 1: Tại sao Đảng văn minh hay không lại phải dựa vào đội ngũ đảng viên?

Câu 2: Tại sao Đảng phải xây dựng mối liên hệ gắn bó mật thiết với nhân dân?

SLIDE 43

“Đảng là văn minh” có nghĩa là Đảng đại biểu cho trí tuệ, cho lý tưởng hướng
tới những giá trị tốt đẹp của một xã hội tiến bộ, hiện đại và không ngừng vươn lên.

SLIDE 44

Xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng,về
ý nghĩa cơ bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng văn
minh hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là “một Đảng cách mạng chân chính”. Điều này
được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

• Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân
tộc.
• Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộcủa
dân tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu cầu
phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi ích giai
cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc, mọi hoạt động của Đảng đều
phải phù hợp với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
• Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân dân,
dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do, ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh càng
chú trọng hơn việc phòng và chống các tiêu cực trong Đảng.

SLIDE 45

• Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp, Đảng không phải là tổ chức đứng
trên dân tộc.
• Đảng văn minh còn ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, nhất
là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho đến đảng viên
không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiến sĩ tiên phong, gương
mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.

SLIDE 46

• Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động không
những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của các quốc gia khác, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của
các dân tộc trên thế giới.

SLIDE 47

Nếu Đảng không có đạo đức, văn minh thì Đảng sẽ bị mất chính quyền lãnh
đạo và khi đó Đảng chứng tỏ là một tổ chức không trong sạch, vững mạnh, đội ngũ
cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất.

SLIDE 48

Đến mức như thế và đến lúc như thế thì mọi thành quả của Cách mạng Việt Nam
sẽ bị tiêu tàn đúng như cái logic tất yếu mà Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa , nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
SLIDE 49

Do đó, mỗi người cách mạng, người cộng sản đều phải lấy “đạo đức làm gốc” để
giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp trong mọi hoạt động của Đảng ta.

 Kết luận:Từ đó ta có thể thấy, xây dựng Đảng đạo đức, văn minh là một nội
dung sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, là
bước phát triển sáng tạo của Người so với lý luận của Lênin về đảng kiểu
mới của giai cấp vô sản.

SLIDE 50

2. Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay

SLIDE 51

Khi nói về tiêu chuẩn của Đảng cách mạng, V.I.Lê-nin nêu yêu cầu xây dựng Đảng
phải trở thành đại diện cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”.

SLIDE 52

Quan điểm này được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển khi khẳng định Đảng “là đạo
đức, là văn minh”, “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện
thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”.

SLIDE 53

Từ khi ra đời và trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng
tạo tư tưởng của các nhà kinh điển, không ngừng tự bồi đắp, bổ sung, hoàn thiện những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn, xứng đáng là
đội tiên phong của giai cấp, của dân tộc.

SLIDE 54

Xây dựng đạo đức của Đảng trước hết là xây dựng đường lối chính trị, mục tiêu chính
trị tốt đẹp, nhân văn vì con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích
của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”. Mục đích cao nhất của Đảng là xây
dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không
còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và sau đó là chủ nghĩa cộng sản.

SLIDE 55

Là lực lượng lãnh đạo, Đảng đề ra các định hướng phát triển, quyết định các vấn đề
quan trọng đất nước, các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của Nhân dân. Vì thế,
tính nhân văn của tổ chức đảng nằm ngay trong quá trình nghiên cứu, thảo luận và ban
hành các chủ trương, chính sách. Những chủ trương, chính sách đó phải xuất phát từ
thực tiễn cuộc sống, đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân,
mục tiêu vì Nhân dân và phù hợp với thực tiễn đời sống. Những chủ trương, chính sách
xa rời thực tiễn, không vì Nhân dân sẽ dẫn đến sai lầm về đường lối, từ đó kéo theo
những sai lầm trong tổ chức thực hiện, mà hệ lụy của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống Nhân dân.

SLIDE 56

Với vai trò là lực lượng lãnh đạo, tổ chức đảng phải thực sự là chuẩn mực về việc tuân
thủ các nguyên tắc hoạt động của Đảng cách mạng kiểu mới, là tổ chức tiên phong của
những con người cách mạng, sống với nhau “có lý có tình”. Chuẩn mực đạo đức của
mỗi tổ chức là yếu tố nền tảng tạo thành văn hóa tổ chức – văn hóa Đảng, nó trái ngược
với chủ nghĩa hình thức, bệnh quan liêu, lợi ích nhóm, tình trạng bè cánh trong tổ chức.

SLIDE 57

Đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức; tự phê bình và
phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên
cương lĩnh, điều lệ, đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích chung của đất nước, dân
tộc, giai cấp. Các nhà mác-xít đã chỉ ra trong điều kiện đảng cầm quyền, sự bất đồng
dù nhỏ có thể dẫn đến sự nguy hiểm về chính trị, bởi đó là nguồn gốc của sự chia rẽ
trong nội bộ, tự nó phá hoại sức mạnh của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất ở đây không
phải là xuôi chiều, hình thức mà phải trên cơ sở thường xuyên và nghiêm túc tự phê
bình và phê bình trong mỗi cá nhân, trong đơn vị, giữa các cấp, giữa cá nhân với tổ
chức, giữa Nhân dân với Đảng để khắc phục sai lầm và khuyết điểm, phát huy ưu điểm.
SLIDE 58

Xây dựng mối liên hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa
và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân
không chỉ là tiêu chuẩn của một đảng chân chính mà còn là quy luật tồn tại và phát triển
của Đảng, là vấn đề cơ bản trong xây dựng Đảng, nguồn gốc sức mạnh của Đảng. Xây
dựng ý thức gần Dân, phục vụ Nhân dân, lắng nghe Nhân dân, biết trân trọng và huy
động nguồn lực vô tận từ “tài dân, sức dân, của dân”, thực hiện tốt cơ chế “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Xây dựng Đảng là một tổ chức kỷ cương, kỷ luật, dân chủ, cấp trên tạo thuận lợi cho
cấp dưới hoàn thành tốt nhiệm vụ; cấp dưới tôn trọng và phục tùng cấp trên. Đảng là
một tổ chức chính trị, nhưng sự gắn kết giữa các thành viên trong Đảng không chỉ bởi
mục tiêu chính trị, nhiệm vụ chính trị mà còn bền chặt, sâu sắc hơn bởi tình yêu thương
con người lẫn nhau của người cùng chung lý tưởng cao đẹp.

Xây dựng ý thức tôn trọng, chấp hành và phục tùng pháp luật của tổ chức Đảng, của
mọi đảng viên từ những đảng viên giữ chức vụ cao nhất trong hệ thống tổ chức Đảng
và bộ máy chính quyền, không có vùng cấm trong áp dụng pháp luật. Có như vậy, trong
điều kiện đảng cầm quyền, mới có thể ngăn chặn tình trạng chuyên quyền, lạm quyền,
đặc quyền, đặc lợi.

SLIDE 59

Xây dựng bản lĩnh chính trị cho đảng viên, dám dũng cảm nhận và quyết tâm sửa chữa
sai lầm, khuyết điểm; có tinh thần đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các
biểu hiện đa dạng của chủ nghĩa cá nhân, chống bệnh kiêu ngạo cộng sản, chống hiện
tượng “tự diễn biến”, “tự suy thoái”, chống tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí.
Cuộc đấu tranh đó trước hết là đấu tranh trong chính bản thân mỗi người, giữa lý tưởng
và hiện thực, giữa nhiệm vụ phụng sự với nhu cầu, lợi ích tầm thường, để có thể chiến
thẳng “kẻ thù trong lòng”, chiến thắng ham muốn vật chất không chính đáng. Bên cạnh
đó, cần xây dựng tinh thần cách mạng, đấu tranh kiên quyết với tư tưởng, quan điểm và
hoạt động sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ. Bản lĩnh
chính trị đó trong thời đại hội nhập và phát triển hiện nay còn là sự dũng cảm “dám
nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách,
quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”.

Xây dựng tinh thần khiêm tốn, cầu thị, không ngừng học hỏi. V.I.Lê-nin từng nói,
người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự
hiểu biết tất cả những kho tàng trí thức mà nhân loại đã tạo ra. Có tinh thần học hỏi đó
mới không bị lạc hậu, mới theo kịp sự tiến bộ của Nhân dân, của đất nước và thời đại,
nhất là trong thời đại kinh tế tri thức và công nghệ số hiện nay.

Mỗi đảng viên, mà trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương phải tự giác nêu gương “để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai
trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”. Nêu
gương trong các mặt công tác, trong đời sống; nêu gương trong Đảng và trước Nhân
dân; nêu gương từ lời nói đến hành động; về tác phong, nề nếp làm việc, ứng xử với
đồng chí và Nhân dân, trong tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng…

Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, lợi ích dân tộc quốc gia và lợi ích
giai cấp, lợi ích quốc tế đa dạng, phức tạp, đan xen lẫn nhau. Vì vậy, đòi hỏi Đảng phải
“bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Xây dựng ý thức đạo đức cách mạng và tổ chức thực hành đạo đức cách mạng là công
việc thường xuyên, lâu dài, bền bỉ của Đảng. Thông qua việc tuyên truyền, giáo dục,
rèn luyện đạo đức, các quan điểm, tư tưởng đạo đức cách mạng được chuyển hóa, trở
thành tình cảm đạo đức cách mạng; các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thành lẽ sống,
lương tâm, danh dự của Đảng và đảng viên; từ các đòi hỏi của Đảng và xã hội đối với
người đảng viên thành nhu cầu nội tâm, hành vi tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức
cách mạng suốt đời, trong công tác và cuộc sống đời thường.

SLIDE 60

You might also like