You are on page 1of 31

ĐỀ CƯƠNG CHÍNH TRỊ

Đề số 1
Anh (chị) đọc đoạn văn sau:
“Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng,
coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công
việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức
làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người
cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng”.
(Nguồn trích: Báo Hải Dương)
Câu hỏi
1. Qua đoạn văn trên, anh (chị) hiểu như thế nào về vai trò của đạo đức cách
mạng đối với người làm cách mạng? Lấy ví dụ minh họa. (2 điểm)

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đặc biệt quan tâm tới đạo đức cách mạng, Người là hiện
thân của đạo đức cách mạng, nêu gương cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đạo đức được Hồ Chí
Minh xem xét toàn diện bao gồm đạo đức công dân, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, chủ
chốt. Đạo đức được nhận diện từ môi trường gia đình, công sở, xã hội; trong các mối quan
hệ với mình, với người, với việc. Đạo đức Hồ Chí Minh có giá trị dân tộc và nhân loại, có ý
nghĩa lịch sử, hiện tại và tương lai.

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng:

Người coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn
nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người từng nói “Cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát,
mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì”.

Đạo đức là sức mạnh của con người. Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải có sức
mạnh. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp
vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu
dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không
sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc.
Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất
phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ
không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo,
không hủ hóa. Hồ Chí Minh chỉ rõ "tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau,
người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao
thượng".

Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi cán bộ đảng
viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Theo Người, yêu cầu đạo
đức người cán bộ cần có là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; thương yêu con người, sống có tình nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng. Người đặc biệt
nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh
niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”.

Đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác định được vai
trò to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì Mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Ví dụ: các tổ chức Hội (cựu chiến binh, người cao tuổi…) luôn luôn đặt mục tiêu: học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh….
(tự diễn giải)

2. Anh (chị) trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức? (5
điểm)
1. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất sớm và
xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình. Cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927 không
phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách. Người
đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ:
Với mình, với người, với việc. Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều
có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn
mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào
tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông, cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát
mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì?” (2) . Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó
cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” (3) . Đạo đức trở
thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người: “Mọi
việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuận đạo đức cách mạng, hay là
không”, “Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to, người làm
việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”. Người từng
khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật chất” (4) . Chỉ nhìn về vật chất, chỉ
nhìn ở hiện tượng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem, thì không giải thích được thắng lợi của
ta đối với kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng
ta không những nhìn vào hiện tại mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần
và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người
lừng chừng và bi quan kia rằng:
“Nay tuy châu chấu đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra” (5) .
Đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã hội mới và xây
dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại,
cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn
cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo không hủ hoá”.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản
Nghiên cứu di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ta thấy Người có những lời dạy với
những phẩm chất đạo đức cụ thể cho từng đối tượng. Người nêu cái đúng, cái tốt, cái hay,
đồng thời cũng chỉ ra cái sai, cái xấu, cái dở để giáo dục đạo đức cho các tầng lớp nhân dân.
Qua đó, Hồ Chí Minh đã nêu bật những phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người Việt
Nam trong thời đại mới. Đây cũng là những phẩm chất của nền đạo đức mới, đạo đức cách
mạng Việt Nam.
2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung,
hiếu là những khái niệm đạo đức trong xã hội phong kiến phương Đông. Trên cơ sở kế thừa,
phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, khắc phục, vượt qua những hạn chế
của truyền thống đó, Hồ Chí Minh khẳng định trung với nước, hiếu với dân là một trong
những phẩm chất của đạo đức cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh không gạt bỏ từ ngữ “trung, hiếu” đã ăn sâu, bám rễ trong con người Việt Nam
với một ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, người con. Với khái niệm cũ, Người
đưa vào đây một nội dung mới, cách mạng, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn,
không phải trung với vua và chỉ có hiếu với cha mẹ, mà “trung với nước, hiếu với dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ điều cốt lõi nhất trong đạo
đức Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua phong kiến.
Cái mà Nho giáo tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh
không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức với kẻ áp bức mình,
“Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách
nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước. Nước ở đây
là nước của dân và dân là chủ nhân của nước.
Từ chỗ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu với dân” là một
sự đảo lộn trong quan niệm đạo đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cũ như
người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng
vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” (6) . Nhân dân từ chỗ là kẻ nghèo hèn, phải được
chăn dắt, sai khiến trở thành lực lượng làm nên lịch sử, sáng tạo ra lịch sử. Trước, quan là
phụ mẫu của dân, thì nay - Đảng, cán bộ, đảng viên là “đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là phải suốt đời đấu tranh cho cách mạng,
ra sức làm việc, giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Hồ Chí
Minh dạy rằng, hiếu với dân thì phải hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần
chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho dân tin, dân phục, dân
yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên
quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng; phải lấy dân làm gốc,
phải thực hiện dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đảng, Nhà nước hoạt động phải gần
dân, thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, phải biết làm học trò dân mới làm được thầy
học của dân. Chỉ có thực hiện được như thế thì người cách mạng mới được dân tin yêu, cách
mạng mới đi đến thành công.
2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Phẩm chất này gắn bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Việc thực hiện
phẩm chất này, đặt ra đối với tất cả mọi người, đòi hỏi mỗi người phải lấy bản thân mình
làm đối tượng điều chỉnh. Nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền
thống Việt Nam, được Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung
mới. Người khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng
không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng.
Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo
để lợi cho nước, cho dân” (7) .
Tháng 6-1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Cần, kiệm, liêm,
chính. Sau đó, Người thường xuyên đề cập tới các phạm trù đạo đức này.
Hồ Chí Minh không chỉ giải thích nghĩa của cần, kiệm, liêm, chính mà Người còn nêu lên
mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây
cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm,
Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn” (8) . So sánh với bốn mùa của trời, bốn
phương của đất, Người cho rằng: “Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương
thì không thành đất, thiếu một đức, thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính đối với cán bộ đảng viên lại càng cần thiết, bởi vì: “Cán bộ các cơ
quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền
mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút” (9) . Theo Hồ Chí Minh, càng có
chức, có quyền càng cần phải cần kiệm, liêm, chính. Người viết: “Những người trong các
công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì
dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” (10) .
Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc.
Người viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về
tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” (11) .
Cần, kiệm, liêm, chính, vì vậy là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc”; là cái cần
để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại”. Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng “cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã
hội hưng thịnh. Những điều trái lại là đặc điểm của xã hội suy vong”.
Chí công, vô tư là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là “lòng mình chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Điều mà Phạm Trọng Yêm đời Tống đã nói: “Tiên thiên hạ
chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” đã được Hồ Chí Minh đưa thành nội dung phục
vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi, thực hành chí công vô tư là phải
“kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi vì, chủ nghĩa cá
nhân là trái với chủ nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ ra “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành
người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ
hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường
tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh, v.v...”. Tóm
lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó
chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu đậy. Nó là một kẻ địch, bạn
đồng minh của các kẻ địch khác.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh
chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh
trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” (12) .
Tuy nhiên, cần có nhận thức về sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, cần phân
biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến
lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người
vì mình”, chỉ “lo mình béo mặc thiên hạ gầy”. Như thế là phải “tiêu diệt”, “quét sạch”, “trừ
bỏ”. Theo Hồ Chí Minh, “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi
ích cá nhân”. “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản
thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể
thì không phải là xấu (13) . Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì
mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng
và sở trường riêng của mình” (14) .
Chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy hại cho một Đảng, cho cả dân tộc: “Một dân tộc, một
Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm
nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng
nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (15) . Người giải thích cho cán bộ làm sách “Người tốt
việc tốt”: “Các chú có biết rằng dân tộc ta vĩ đại, Đảng ta vĩ đại, ta được anh em bầu bạn
khắp năm châu yêu mến và ca ngợi là vì cái gì không? Vì cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo là chí công vô tư, mình vì mọi người. Từ nay về
sau, nhân dân ta và Đảng ta phải giữ gìn và phát huy mãi mãi đạo đức trong sáng ấy” (16) .
2.3. Yêu thương con người
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn cách mạng, từ cuộc
sống của các dân tộc bị áp bức và giai cấp cần lao, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có
hàng muôn triệu người, hàng trăm nghìn công việc nhưng có thể chia thành hai hạng người:
người Thiện và người Ác, và hai thứ việc: việc Chính và việc Tà. Có lúc Người khái quát hai
hạng người đó là hạng người đi áp bức bóc lột và hạng người bị áp bức bóc lột. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Cần phải thực hành chữ
Bác ái. Khi trả lời các nhà báo, Người nói: Tôi yêu nhất điều thiện và ghét nhất điều ác.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Con người không phải
thần thánh, có tốt có xấu ở trong lòng. Dù văn minh hay dã man, tốt hay xấu, đều có tình.
Chúng ta cần làm cho trong mỗi con người phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu
mất dần đi.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng kiểu tôn giáo, mà
trước hết dành cho những người mất nước, người cùng khổ.
Hồ Chí Minh yêu thương con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la, vừa gần gũi, bao
trùm cả cộng đồng đến từng số phận con người. Người thức tỉnh, tái tạo lương tâm, vạch
hướng đi, đánh thức những gì tốt đẹp nhất trong mỗi con người, tạo điều kiện cho con người
đứng dậy, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh yêu thương những con người đang sống trên trái đất này. Đó là tình yêu
thương gắn liền với hành động cụ thể để mang lại cơm ăn, nước uống, trả lại nhân phẩm cho
con người.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, mang tính nhân
loại, vừa bốn biển năm châu, vừa bốn phương vô sản. Đó chính là một nội dung cơ bản của
tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung.
Hồ Chí Minh là bậc đại nhân, thể hiện tinh thần phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân. Đó cũng chính là phẩm chất đạo đức cách mạng “giàu sang không quyến rũ,
nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục” mà người cộng sản quyết tâm thực
hiện để phục vụ quần chúng nhân dân.
3. Những nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức mới
Nói đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, phải chú ý tới con đường và phương pháp hình
thành đạo đức mới. Đặc điểm và quy luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho
thấy rõ một số nguyên tắc xây dựng đạo đức mới cơ bản sau đây:
3.1. Tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện cành trong.
Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người (17) . Vì vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi
phải “gian nan rèn luyện mới thành công”. “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo
dục mà nên”. “Kiên trì và nhẫn nại... Không nao núng tinh thần”.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của
mỗi người và dư luận của quần chúng. Người cách mạng phải ý thức được đạo đức cách
mạng là nhằm giải phóng con người và là đạo đức của những con người được giải phóng. Đã
hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa
chữa sai lầm và khuyết điểm. Tu dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc,
mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Như vậy mới phân biệt được việc tu dưỡng đạo đức của người cộng
sản với cách tu dưỡng của các nhà nho. Người viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá
nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại
không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có
được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” (18) . Vì vậy, gột rửa
chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”.
3.2. Nêu gương đạo đức, lời nói đi đôi với việc làm
Đây không chỉ là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức, mà còn là ranh giới phân biệt giữa đạo
đức cách mạng và không phải đạo đức cách mạng.
Nói nhưng không làm là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột. Lời nói phải đi đôi với việc
làm và thực hành đạo làm gương là đạo đức của người cách mạng nói chung, nằm trong vốn
văn hoá phương Đông nói riêng. Hồ Chí Minh viết: “Nói chung thì các dân tộc phương
Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền” (19) . Người nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết
kiệm trước đã” (20) . Người dạy “đảng viên đi trước”, để cho “làng nước theo sau”.
Đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực: từ Đảng, Nhà
nước, các đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã hội...
Đạo làm gương, lời nói đi đôi với việc làm của Hồ Chí Minh thực sự có một sức thu hút
mãnh liệt, khiến cho cả dân tộc, nhiều thế hệ, các giai tầng xã hội đều tin tưởng đi theo tiếng
gọi của Người.
3.3. Xây dựng đạo đức mới, đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức
Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, không phải “người người đều tốt,
việc việc đều hay”. Vả lại, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian
khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ chống lại cách mạng.
Có nhiều kẻ địch, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc
là kẻ địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm
ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân.
Từ đó Người kết luận: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải
quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết
không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu” (21) . Đối với từng người, Hồ Chí Minh yêu cầu
“trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”. Với việc, với người thì nhất thiết
phải phê phán, đấu tranh, loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ. Hàng
trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra thì phải tiêu diệt, vì đó là cản trở lớn trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng phải thấy rằng, chống là nhằm xây, đi liền với xây
và lấy xây làm chính. Lấy gương người tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con
người mới, cuộc sống mới.
Ngày nay, tình hình mọi mặt so với thời Hồ Chí Minh còn sống đã có nhiều thay đổi. Nhưng
nhiều cái xấu, cái ác, cái sai, cái vô đạo đức mà Người đã nêu lên từ những năm 1925-1927,
trong Đường cách mệnh, đặc biệt từ năm 1945 trở đi, đến nay dưới nhiều biểu hiện khác
nhau, vẫn tiếp tục tồn tại. Do đó, quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức mới đấu
tranh với những hiện tượng phi đạo đức vẫn có ý nghĩa thời sự.
3. Là cán bộ địa phương, anh (chị) là chiến sỹ cách mạng trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển quê hương, đất nước, anh (chị) đã và sẽ tiếp tục rèn luyện như thế
nào để có được phẩm chất đạo đức của người cộng sản? (3điểm)

Tự liên hệ bản thân có những ưu điểm, nhược điểm sau về đạo đức lối sống:
a) Ưu điểm:
Về ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Đối với một giáo viên việc rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên là hết sức cần thiết. Nhận thức được điều đó bản thân
tôi luôn tự rèn luyện, trau dồi về phẩm chất đạo đức, biết kính trên nhường dưới, cư xử
đúng mực, hoà nhã với mọi người; đặc biệt luôn là tấm gương cho học trò noi theo, phải
luôn lluôn kiên định lập trường tư tưởng của Đảng ; Đồng cảm và sẵn sàng giúp đỡ những
người có hoàn cảnh đặc biệt; không kiêu căng, tự cao, tự đại trong mọi trường hợp. Đặc biệt
không tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Về ý thức trách nhiệm, tâm huyết với công việc: Đối với mỗi một người giáo viên công việc
chính là giảng dạy truyền thụ tri thức và rèn luyện nhân cách cho học sinh, một công việc hết
sức khó khăn nhưng cũng đầy tự hào. Thấm nhuần được đạo đức, tư tưởng và mong ước của
Người tôi đã, sẽ không ngừng học tập nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ để hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tôi luôn khát khao mình sẽ đóng góp được một phần nhỏ
bé vào công cuộc trồng người và cống hiến cho đất nước những người con đủ đức, đủ tài để
phần nào thoả lòng mong ước của Người, tôi luôn tự hào và sẽ cố gắng hết mình để thực
hiện tốt điều đó.
Về chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, thực hiện ” Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh:
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân;
không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức.
- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng ; thẳng thắn, trung thực, bảo vệ
chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn;
không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm…đặc biệt bản
thân sống có trách nhiệm, ủng hộ và thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” trong giáo
dục
- Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói
nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu
óc cá nhân.
- Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên
quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội
hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn
kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh
thần yêu nước chân chính.
Về ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương Hồ Chí Minh:
Bản thân tôi luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật,
kỷ cương không kéo bè, kéo cánh để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc
chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng…, làm cho nhân dân bất
bình, cần phải lên án và loại bỏ.
'Dù ở bất cứ cương vị nào phải gần gũi với mọi người, học tập và có trách nhiệm với những
người xung quanh.
Luôn có ý thức phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Bản thân tôi không sợ phê bình,
không sợ khuyết điểm mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm dẫn đến những sai phạm
nghiêm trọng hơn vì vậy phải tự nghiêm khắc với chính mình và phê bình luôn có mục đích
xây dựng . Cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà
“đấu đá”, nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
Luôn động viên những người thân trong gia đình và xã hội giữ gìn đạo đức lối sống, xây
dựng gia đình văn hoá.
b) Nhược điểm:
Tôi nhận thấy rằng bản thân mình đã cố gắng rất nhiều trên tất cả các mặt song vẫn còn có
những hạn chế nên kết quả chưa cao .
- Trong việc đấu tranh phê bình và tự phê bình đôi lúc còn rụt rè, còn cả nể trong việc đánh
giá xếp loại .
- Việc nắm bắt thông tin, ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào công việc
chuyên môn còn có những hạn chế nhất định .
3. Phương hướng phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo
gương Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt được . Luôn là người giáo viên
mẫu mực xứng đáng với niềm tin yêu của học sinh . Luôn gương mẫu trong các hoạt động ,
tích cực vận dụng phương pháp giảng dạy mới để phát huy tính tích cực của học sinh , phải
luôn nêu gương về mặt đạo đức , giữ vững lập trường của người đảng viên Đảng cộng sản ..
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình
thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam, đồng thời tạo ra
những thuận lợi và thử thách đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức . Hơn lúc nào hết
chúng ta hãy kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta, học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để tạo nên động lực cho sự phát triển bền vững của
đất nước . Và điều quan trọng nhất là mỗi chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề
đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức theo gương Bác
Hồ vĩ đại.
Đề số 2
Anh (chị) đọc đoạn văn sau:
“Hải Dương đón bằng UNESCO ghi danh ca trù là di sản văn hóa phi vật thể”
“… Nghệ thuật ca trù của Hải Dương có từ lâu đời và phát triển rực rỡ vào thế kỷ
XVIII, XIX và những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Thời gian qua, nghệ thuật ca trù được tỉnh
quan tâm bảo tồn và phát huy. Theo điều tra năm 2006 của tỉnh Hải Dương phối hợp với
Viện Âm nhạc Việt Nam, trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hoạt động hát ca trù khá
sôi nổi với với sự góp mặt của nhiều phường, đào, kép như: Giáo phường ca trù Cao La
thuộc xã Dân chủ, huyện Tứ Kỳ; Giáo phường thôn An Xá, xã Quốc Tuấn, huyện Nam
Sách; Giáo phường Tào Khê, Thúc Kháng và Dương Xá, Nhân Quyền huyện Bình Giang...
Các gánh ca trù đã tạo nên không gian ca trù rộng khắc các đình, đền của tỉnh Hải Dương.
Đặc biệt tại phố Ghi xưa (nay là đường Chi Lăng) có cả một dãy phố hát ca trù thỏa mãn nhu
cầu thưởng thức nghệ thuật của người trung lưu. Việc công nhận ca trù là di sản văn hóa phi
vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp đã khơi dậy niềm tự hào về truyền thống âm nhạc, thi ca
của người dân tỉnh Hải Dương cũng như của dân tộc Việt Nam; tôn vinh những nghệ nhân
dân gian đã cống hiến trọn cuộc đời cho một loại hình nghệ thuật truyền thống: Ca trù. Đồng
thời thúc đẩy hoạt động văn hóa dân tộc phát triển, hướng cộng đồng vào lưu giữ, phát huy
nền văn hóa của nhân loại…”
(Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hải Dương, 11/2010)
Câu hỏi:
1. Anh (chị) hiểu như thế nào về đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam trở
thành nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc? (2 điểm)
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới về
kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối xây dựng một nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận
của Đảng, đồng thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt
Nam trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản
sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như
vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một
nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được
bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng sau này. Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng ta
lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"1.
Tháng 7-2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã
ra Kết luận Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X
của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”2.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ và giải
pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
một trong những yêu cầu cấp thiết để tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, tạo động
lực cho việc triển khai các nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới
hiện nay. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý
luận này để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

2. Anh (chị) trình bày nội dung cơ bản của đường lối xây dựng, phát triển văn
hóa nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo? (5 điểm)

ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ


I. Quá trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa
1. Thời kỳ trước đổi mới
a. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá mới
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối xây
dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền văn
hoá Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại, mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Văn
hoá luôn được xác định là một mục tiêu, thậm chí là mục tiêu bao trùm của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là động lực, nền tảng vững chắc nhất
của cách mạng.
- Trong quá trrình vận động cách mạng giành chính quyền, năm 1943 Ban thường vụ
Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Phú Yên) đã thông qua bản Đề cương văn
hoá Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trực tiếp dự thảo.
+ Đề cương văn hoá Việt Nam xác định văn hoá là một trong ba mặt trận: kinh tế,
chính trị, văn hoá của cách mạng Việt Nam.
+ Bản đề cương đề ra 3 nguyên tắc của nền văn hoá mới là Dân tộc - Khoa học - Đại
chúng.
+ Bản đề cương đã xác định khái niệm văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật và
nghệ thuật, những vấn đề cơ bản của đời sống tinh thần xã hội.
+ Bản đề cương khẳng định văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức
và tân dân chủ về nội dung.
Có thể coi Đề cương chính là cương lĩnh văn hoá của Đảng trong cách mạng giải
phóng dân tộc, là phương hướng chỉ đạo hoạt động văn hoá, nghệ thuật trong quá trình đấu
tranh giành và bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và cả những năm sau
đó, khi vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, vừa kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược.
- Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong đó
có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá.
+ Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt.
+ Hai là, phải giáo dục lại tinh thần nhân dân.
Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác và
tính thời sự của nó.
- Cuộc vận động thực hiện đời sống văn hoá mới. Đầu năm 1946 Ban Trung ương
vận động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật có uy tín như
Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè..., mà tổng thư ký là nhà Văn Nguyễn Huy
Tưởng. Đến tháng 3/1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu đời sống mới giải thích rất dễ hiểu
những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hoá quan trọng này.
- Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong chỉ thị "Kháng chiến kiến
quốc" ra ngày 25/11/1945 của Ban thường vụ trung ương Đảng, trong bức thư về "Nhiệm vụ
văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay" của đồng chí
Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946 và tại báo cáo "Chủ nghĩa Mác
và văn hoá Việt Nam" trình bày tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai tháng 7/1948.
Đường lối đó gồm các nội dung:
+ Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn
hoá cứu quốc.
+ Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại
chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là Dân tộc, Dân chủ.
+ Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh
thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ.
+ Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới.
+ Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn
ngừa sức thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hoá thế
giới.
+ Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến
quốc và cho cách mạng Việt Nam.
- Trong văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) nêu rõ đường lối xây dựng nền văn
hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó
chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật.
- Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng, xây dựng nền văn hoá mới
xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc - khoa học - đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ
sung trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định "Xây dựng con
người mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, tiến hành
đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản động của chủ nghĩa thực dân và của giai cấp bóc
lột".
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn hoá mới là
nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu
sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V cũng trình bày
rất đầy đủ về khái niệm "Con người mới xã hội chủ nghĩa" và đưa ra phương châm "Nhà
nước và nhân dân cùng làm văn hoá".
b. Đánh giá thực hiện đường lối
Như vậy, trước đổi mới, đường lối văn hoá của Đảng đã hình thành và phát triển trên
những nét cơ bản nhất: nêu ra quan niệm về văn hoá, cả theo nghĩa rộng là tổng thể những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và theo nghĩa
hẹp, gồm các giá trị văn hoá tinh thần, văn hoá văn nghệ; mục tiêu của văn hoá là phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân làm rõ vị trí của văn hoá là động lực và là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng, đưa ra những đặc trưng của nền văn hoá mới là dân tộc, khoa học và đại
chúng, chỉ ra sự cần thiết của công tác lãnh đạo văn hoá và các hình thức lãnh đạo văn hoá
của Đảng; xác định xây dựng nền văn hoá mới là một mặt trận...
Nhờ được soi sáng bởi đường lối lãnh đạo phát triển văn hoá đúng đắn, văn hoá cách
mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn:
+ Khơi dậy được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc, kết hợp với
những giá trị tiến bộ và phù hợp của nhân loại và thời đại, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh
thần đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc.
+ Định hình cơ bản những giá trị văn hoá mới của dân tộc gắn với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên nhiều lĩnh vực
văn hoá, đi sâu vào đời sống nhân dân.
+ Góp phần tích cực vào việc xoá bỏ những tàn dư của nền văn hoá thực dân cùng với
những hủ tục lạc hậu gây tổn hại tới bản chất của nền văn hoá mới.
+ Góp phần xây dựng đội ngũ trí thức hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá, nghệ
thuật, không ngừng nâng cao về trình độ, chất lượng sáng tác.
+ Trình độ văn hoá chung của xã hội đã được nâng lên một mức đáng kể. Lối sống
mới đã trở thành phổ biến, con người sống có nghĩa, có tình, có tấm lòng hậu phương vì tiền
tuyến, có tinh thần xả thân vì tổ quốc.
+ Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ không chỉ là
thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chủ nghĩa yêu
nước và những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam.
Hạn chế, nguyên nhân
+ Công tác tư tưởng văn hoá thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng thể
chế văn hoá còn chậm, sự suy thoái về đạo đức lối sống có chiều hướng phát triển. Đời sống
văn hoá nghệ thuật còn nhiều bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp
cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Một số công trình văn hoá vật thể và phi vật
thể truyền thống có giá trị không được quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm chí bị phá huỷ, mai
một.
+ Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá giai đoạn 1955 - 1986 bị chi phối bởi tư
duy chính trị "nắm vững chuyên chính vô sản" mà thực chất là nhấn mạnh đấu tranh giai
cấp, đấu tranh "ai thắng ai" giữa hai con đường, đấu tranh 2 phe, đấu tranh ý thức hệ.
+ Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị quy
định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xoá bỏ tư hữu, xoá
bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước,
tách rời trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất.
+ Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp và
tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo dục; kìm hãm
năng lực tự do sáng tạo.
2. Trong thời kỳ đổi mới
a. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá
- Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận thức mới, quan điểm
mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá, đối với con người thực chất
là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở cho những nhận thức mới, quan điểm
mới về văn hoá của Đảng.
Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng nào có thể thay
thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc
vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người".
Đại hội VI cũng đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư
tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ đã không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định đồng thời
với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi trường văn hoá thích hợp
cho sự phát triển.
- Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc
trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao
đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng định và biểu dương
những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê
phán những cái lỗi thời thấp kém.
+ Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt
đẹp của tất cả cấc dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Chống tư
tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Cương lĩnh xác định giáo dục và đào toạ, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu.
- Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định
văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
+ Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa học và
giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ
tiên tiến của thế giới. Do đó phải coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát
triển xã hội.
+ NQTƯ 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể
và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ mới.
Năm quan điểm chỉ đạo:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến bộ thì không có sự
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn
hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.
2. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Mười nhiệm vụ cụ thể:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính:
tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh...
2. Xây dựng môi trường văn hoá.
3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
8. Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
Bốn giải pháp lớn:
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và phong
trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
2. Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
+ Đến HNTƯ 9 khoá IX (1/2004) xác định thêm "phát triển văn hoá đồng bộ với phát
triển kinh tế".
+ HNTƯ 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng
nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng thời cũng nhận định: cơ chế thị trường
đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ đời sống xã hội,
đa dạng hoá thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hoá. Do đó phạm vi, vai trò của dân chủ
hoá - xã hội hoá văn hoá và của cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là những thách thức
mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hoá của Đảng và Nhà nước ta.
b. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Theo UNESCO: Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi
mặt của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao
thế kỷ nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và trong cả cộng đồng dân tộc. Nó được truyền lại, tiếp nối và phát huy
qua các thế hệ người Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần vững bền của xã hội, trở thành động
lực phát triển kinh tế xã hội.
- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự phát
triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn, phát
triển phải dựa trên cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc là văn hoá.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh
tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần tuý kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh
tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hoá đang được phát huy.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn cái đúng, cái tốt,
cái đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hoá với số lượng và chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để hạn chế
xu hướng sùng bái lợi ích vật chất dẫn tới suy thoái xã hội.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hoá giúp hạn chế lối
sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ" dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển
Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh chính là mục tiêu của văn hoá
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 xác định: Mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu "tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường".
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển là vấn đề bức
xúc. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập đang tìm tới
con đường dẫn tới ấm no hạnh phúc, thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá
và phát triển kinh tế xã hội càng có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục tiêu
văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chính sách phát triển của
nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp hoá.
Để làm cho văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển chúng ta chủ
trương phát triển văn hoá gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ
thể là:
Khi xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục tiêu
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hoá trở thành động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội
Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn
hóa, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau như tài nguyên,
vốn v...v.. Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức
con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt.
Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ
trí tuệ và năng lực khai thác chúng.
Năm 1990, chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) đưa ra những tiêu chí
mới để đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con người, một
trong ba chỉ tiêu của cách tính toán mới này là thành tựu giáo dục (hai chỉ tiêu khác là tuổi
thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng hợp từ hai tiêu chí: Tình
trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình quân cho mỗi người.
Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều
hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào. Như vậy văn hoá
trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn "tài nguyên người".
Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nên chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ người biết đọc, biết
viết được xếp vào thứ hạng cao trong khu vực nhưng nguy cơ tái mù chữ lại đang tăng, đặc
biệt là mù ngoại ngữ, tin học.
Hai là, Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả
vì con người.
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được xây dựng, vun đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước.
Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường tinh thần đoàn kết, đó là lòng nhân ái
khoan dung, trọng đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất...
Có thể nói bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc
thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh, hợp
tác để tồn tại và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách
sống, cách sáng tạo trong văn hoá, khoa học, nghệ thuật...nhưng được thể hiện sâu sắc nhất
trong hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân
dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các chuẩn mực xã hội,
nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ
sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ ta.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm đượm trong
mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật... sao cho
trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang
bản sắc Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế phải tiếp thu những
tinh hoa của nhân loại, song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân
tộc. Để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ
trương phải mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá dân
tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn
hoá với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của nền văn hoá Việt Nam đương đại.
Đồng thời phải chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán và lề thói cũ.
Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hoà
quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hoá các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh
thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng
dân tộc Việt Nam có nền văn hoá chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng, đa
dạng trong sự thống nhất không có sự đồng hoá hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hoá của
các dân tộc.
54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có những giá trị và bản sắc văn hoá riêng. Các
giá trị và bản sắc văn hoá đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và
củng cố sự thống nhất dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Mọi người Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá của đất nước,
trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hoá do Đảng ta lãnh đạo và Nhà nước quản lý.
- Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục và đào tạo, cùng với
khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
Như vậy, văn hoá hiểu theo nghĩa rộng thì bao hàm cả giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ. Phát triển nhận thức này đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, đến Hội nghị
Trung ương 2, khoá VIII (12/1996) khẳng định:
+ Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
+ Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các
ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng - an
ninh.
- Thực hiện quốc sách này chúng ta chủ trương:
+ Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
+ Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội
học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành
học.
+ Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
+ Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao
đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm và cho việc
xuất khẩu lao động.
+ Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực
tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao.
+ Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học,
bậc học.
+ Thực hiện xã hội hoá giáo dục.
+ Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
+ Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ.
+ Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Năm là, văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá
trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con
người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy
xây" làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân
tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải
tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến
đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hoá để thực hiện "diễn biến hoà bình".
c) Đánh giá việc thực hiện đường lối
- Trong những năm qua, cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hoá mới đã bước đầu
được tạo dựng; quá trình đổi mới tư duy về văn hoá, về xây dựng con người và nguồn nhân
lực có bước phát triển rõ rệt, môi trường văn hoá có những chuyển biến theo hướng tích cực;
hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng.
- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới. Quy mô giáo dục và đào tạo tăng ở tất
cả các cấp, các bậc học. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông có chuyển biến, cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho trường học trên cả nước được tăng cường đáng kể. Dân trí tiếp tục được
nâng cao.
- Khoa học và công nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội.
- Văn hoá phát triển, việc xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn minh có tiến bộ
ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước.
- Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng văn hoá chứng tỏ đường lối và các chính
sách văn hoá của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định hướng
đúng đắn cho sự phát triển đời sống văn hoá.
Hạn chế và nguyên nhân:
- So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng phong phú
trong đời sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh
vực văn hoá còn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối
với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng. Đạo đức, lối sống tiếp tục
diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng
và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
- Sự phát triển của văn hoá chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu
gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ, xây dựng con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện dại hoá chưa tạo được chuyển biến rõ
rệt. Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm
và dịch vụ văn hoá mê tín, lai căng...Sản phẩm văn hoá và các dịch vụ văn hoá ngày càng
phong phú nhưng còn rất thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư
tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng tích cực và sâu sắc trong đời sống.
- Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, chưa đổi mới thiếu đồng bộ, làm hạn chế
tác dụng của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước.
- Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá - tinh thần ở nhiều
vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu... vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoảng cách
chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở
rộng.
Những khuyết điểm, yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
song cần nhấn mạnh các nguyên nhân chủ quan là:
+ Các quan điểm chỉ đạo về phát triển văn hoá chưa được quán triệt đầy đủ cũng chưa
được thực hiện nghiêm túc.
+ Bệnh chủ quan, duy ý chí trong quản lý kinh tế - xã hội cùng với cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu cực đến việc triển khai đường lối phát triển
văn hóa.
+ Chưa xây dựng được cơ chế chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hoá
trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
+ Một bộ phận những người hoạt động trên lĩnh vực văn hoá có biểu hiện xa rời đời
sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, thị hiếu thấp kém.

3. Là cán bộ địa phương, anh (chị) đã, đang và sẽ làm gì để vận dụng đường lối
xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng vào phát triển văn hóa tại địa phương nơi
anh (chị) công tác? (3 điểm)
(tham khảo và thay bằng bản thân)
Nhìn nhận những hạn chế
Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư
duy, lối sống của sinh viên theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Sinh viên nước ta
biết thêm nhiều hơn về phong tục, tập quán, văn hóa và con người của các quốc gia trên thế
giới. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học -kỹ thuật hiện
đại, tri thức mới...
Bên cạnh đó, cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận và điều chỉnh kịp thời, như: Một
bộ phận sinh viên xa rời truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc. Không ít người có thái
độ ứng xử, biểu hiện tình cảm thái quá trong các hoạt động giải trí, văn hóa, nghệ thuật; lãng
quên, thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca, dòng nhạc cách mạng, truyền thống. Bên cạnh đó,
chúng ta thấy một hiện tượng đáng báo động của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng
trong việc hội nhập, tiếp thu văn hóa thế giới, du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực,
không phù hợp thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Không ít sinh viên đang ngày đêm cuốn
vào các trò chơi điện tử, online mang nặng tính bạo lực, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thời
gian học tập. Có những người say mê với các ấn phẩm, văn hóa phẩm không lành mạnh, độc
hại, dẫn đến những hành động suy đồi đạo đức, vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, những biểu hiện sai lệch của những người mà giới trẻ coi là thần tượng như ca
sĩ, diễn viên điện ảnh...
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của một số sinh viên hiện nay. Ngoài ra, ngôn ngữ
dùng trong những cuộc trò chuyện trên các trang mạng xã hội hay tin nhắn cũng bị một bộ
phận học sinh, sinh viên "biến tấu" với những từ ngữ khó hiểu, thậm chí dung tục và sử dụng
một cách tràn lan, khó chấp nhận, không còn giữ được sự trong sáng của tiếng Việt.
Thậm chí, có những từ ngữ bị dùng sai bản chất với ngụ ý không lành mạnh.
Những thực trạng nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và những nguyên
nhân chủ quan. Trước hết, cần phải khẳng định, bản thân mỗi học sinh, sinh viên chưa thật
sự xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện, nâng cao trình độ, học hỏi kỹ năng.
Bản lĩnh, ý thức tìm hiểu còn hạn chế của sinh viên trước những loại hình hoạt động văn
hóa, nghệ thuật khác nhau cũng là một trong những nguyên nhân đáng chú ý dẫn đến những
hạn chế, yếu kém của một bộ phận bạn trẻ trong việc tham gia gìn giữ bản sắc văn hóa dân
tộc. Trong thực tế cuộc sống, một số hoạt động văn hóa, nghệ thuật không còn phù hợp với
sở thích của tuổi trẻ, cho nên giới trẻ và sinh viên phải tìm đến với những loại hình nghệ
thuật du nhập từ nước ngoài. Tuy nhiên, các loại hình này lại chưa được chọn lọc trước khi
tràn lan trong xã hội. Công tác quản lý của các ban, ngành chức năng chưa thật sự có hiệu
quả trong việc khắc phục thực trạng này.
Quyết tâm gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa
Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên phải tự đặt ra
cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất nước, mình đã, đang và sẽ
làm gì để góp phần đưa đất nước phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi
cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân.
Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những
hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
Với trách nhiệm của mình, Hội Sinh viên Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục tư
tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách,
cần thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các cuộc thi tìm hiểu liên quan lịch sử
hào hùng, truyền thống văn hóa của đất nước, của quê hương. Hơn nữa, phải chủ động, sáng
tạo và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp thu những mặt
tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ
và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô
cảm; khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong tuổi trẻ.
Hội Sinh viên Việt Nam các cấp cần trở thành mái nhà chung ấm áp để sinh viên đóng góp,
cống hiến trong các phong trào Hội.
Hội Sinh viên cần tạo nhiều hơn nữa các sân chơi lành mạnh để đáp ứng nhu cầu học tập,
vui chơi và giải trí của hội viên, sinh viên. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để sinh viên
đăng ký và tham gia nghiên cứu, thực hiện các đề tài khoa học, trong đó chú trọng các đề tài
liên quan bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Những hội viên và quan trọng hơn là những cán bộ nòng cốt của Hội phải là những người
tiên phong đi đầu, làm gương trong công tác này, chủ động xây dựng tác phong, lối sống
đẹp, sống có ích... và động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng. Được như vậy, vai trò
của Hội Sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ nhanh chóng
được khẳng định.
Đề số 3
Anh (chị) đọc đoạn văn sau:
“Vua hòa giải”
Đó là biệt danh người dân ở thôn Phú Nhuận 3, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên
(Quảng Nam) đặt cho bà Nguyễn Thị Cường. Hiện, bà Cường tham gia 6 nhiệm vụ: Phó Bí
thư Chi bộ, Trưởng ban thôn, Chi hội trưởng Khuyến học, Chi hội phó CCB, Tổ trưởng Hòa
giải, Y tế thôn kiêm CTV dân số... Đặc biệt, tuy là một thương binh 2/4, sức khỏe có hạn
nhưng bà có một bề dày tham gia công tác xã hội với 14 năm làm Trưởng ban thôn Phú
Nhuận 3. Nhiều năm qua bà Nguyễn Thị Cường phối hợp cùng cán bộ cơ sở trong thôn, xóm
mỗi năm hòa giải thành công từ 5-6 vụ mâu thuẫn, tranh chấp đất đai, kinh tế, hôn nhân gia
đình… Cụ thể, năm 2013, các hộ có tranh chấp, mâu thuẫn như hộ ông Nguyễn Văn C, hộ
ông Nguyễn Văn N… được hòa giải thành công. Hiện nay, các gia đình đã êm ấm, hạnh
phúc, chí thú làm ăn, hết mình vì tình làng nghĩa xóm. Để làm tốt công tác hòa giải, bà
Cường chia sẻ: "Muốn hòa giải thành công trước hết phải chọn những thành viên trong tổ
hòa giải phải hội đủ các yếu tố, điều kiện như: gia đình văn hóa, gương mẫu, đoàn kết, có
kiến thức, kỹ năng giao tiếp, ý thức kỷ luật và quan trọng là cái tâm của họ… Trong cơ cấu
phải có: Người Cao tuổi, Nông dân, Đoàn thanh niên, Phụ nữ, Mặt trận, CCB… Sau mỗi lần
hòa giải, dù thành công hay thất bại, các cán bộ cơ sở phải họp nhằm đánh giá, rút kinh
nghiệm, đồng thời nêu ra những tồn đọng, những đóng góp mới để hòa giải những vụ việc
mới xảy ra; tranh thủ sự quan tâm, hỗ trợ của chính quyền, Mặt trận cấp trên; Chi bộ,
Trưởng ban CTMT, các đoàn thể khác và gia tộc, anh em… để mang lại thành công trong
công tác hòa giải. Nhờ vậy, những năm qua tại thôn không có chuyện nhỏ xé to, không có
đơn thư vượt cấp…”.
(Nguồn trích: Báo Đại đoàn kết, ngày 15/4/2015)
Câu hỏi:
1. Qua đoạn văn trên, anh (chị) cho biết tầm quan trọng của việc giải quyết mâu thuẫn
trong đời sống xã hội? (2 điểm)
2. Anh (chị) phân tích nội dung của “quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập”. Lấy ví dụ để chứng minh nhận định “mâu thuẫn khi được giải quyết tốt
sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển”? (5 điểm)

a) Vị trí của quy luật: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đốilập là quy luật
cơ bản và quan trọng nhất - hạt nhân của phép biện chứngduy vật. Quy luật này vạch ra
nguồn gốc, động lực của sự vận động, pháttriển.
b) Nội dung của quy luật: Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái
ngược nhau,tức những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sựvật vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lựccủa sự vận động, phát triển
của sự vật.
c) Khái niệm mặt đối lập, thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của cácmặt đối
lập: Mặt đối lập là phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính có đặc điểm hoặccó khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau trong một chỉnh thể. Thống nhất của các mặt đối lập là sự
nương tựa vào nhau, ràng buộc nhau,quy định nhau mặt này lấy mặt kia làm tiền cho sự tồn
tại của nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại teo khuynh hướngphủ định
lẫn nhau, bài trừ lẫn nhau. Cứ có hai mặt đối lập là tạo thành một mâu thuẫn biện chứng +
Trong một mâu thuẫn có sự thống nhất của các mặt không tách rời sự đấutranh của chúng,
bất cứ một sự thống nhất nào của các mặt đối lập mangtính chất tạm thời tương đối còn sự
đấu tranh là tuyệt đối. Đấu tranhgiữa các mặt đối lập là nguồn gốc của sự phát triển. + Mối
quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bảnthân sự vật - tạo thành
nguồn gốc, động lực của sự vận động và pháttriển của sự vật. - Các tính chất của mâu thuẫn
Tính khách quan: mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi dạng vật chất.Vật chất tồn tại
khách quan nên mâu thuẫn cung tồn tại khách quan. Tính phổ biến biểu hiện: Trong bất kể
sự vật hiện tượng nào, ở bất cứđịa điểm nào, ở bất cứ thời gian cũng tồn tại các mặt đối lập

Tính đa dạng phong phú: Thế giới vật chất có vô vàn các dạng khác nhauchúng có một
không gian khác nhau, thời gian khác nhau, mối liên hệ khácnhau cho nên chúng có những
mâu thuẫn khác nhau, không có một dạng mâuthuãn nào chùng khít lên dạng mâu thuẫn nào.
Có mâu thuẫn trong tựnhiên, có mâu thuẫn trong xã hội, có mâu thuẫn trong tư duy... + Các
hình thức của mâu thuẫn Căn cư vào quan hệ đối với các sự vật được xem xét người ta phân
loại mâu thuẫn như sau: Có mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản,
mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng mâu
thuẫn không đối kháng... Mâu thuẫn bên trong là mâu thuân do sự tác đông giữa các mặt,
cáckhuynh hướng trong cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong
mối quan hệ giữa sự vậtđó với sự vật khác. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản
chát của sự vật quy định sựphát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Mâu thuẫn không cơ
bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phưng diện nàođó của sự vật. Mâu thuẫn chủ yếu là
mâu thuẫn hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhấtđịnh của sự vật. Mâu thuẫn thư yếu là
mâu thuẫn ra đời tồn tại trong một gia đoạn pháttriển nào đó của sự vật, nhưng không phải
đóng vai trò chi phối mà bịmâu thuẫn chủ yếu chi phối. - quá trình vận động của mâu thuẫn
+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tácđộng khác nhau của các
mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâuthuẫn biện chứng bao hàm cả "sự thống nhất"
lẫn "đấu tranh" của các mặtđối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định
tạm thờicủa sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động vàphát triển.+
Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hìnhthành, phát triển và giải quyết
mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại củacác mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập
quy định sự thay đổicủa các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi hai
mặtđối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau,mâu thuẫn được
giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ
mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Ý nghĩa phương pháp luận - Vì mâu thuẫn là nguồn gốc,
động lực của sự vận động, phát triển của sựvật và là khách quan trong bản thân sự vật nên
cần phải phát hiện ra mâuthuẫn của sự vật bằng cách phân tích sự vật tìm ra những mặt,
nhữngkhuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng. - Phải
biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâuthuẫn và tìm cách giải quyết
cụ thể đối với từng mâu thuẫn. - Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn - phù hợp
với từng loạimâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâuthuẫn.
Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyếtmâu thuẫn khi điều kiện đã
chín muồi. Vận dụng vào Việt Nam Những mâu thuẫn phát sinh trong nền kinh tế thị trường.
Ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập thống nhất biệnchứng. Có ổn định thì mới
đổi mới được.Muốn ổn định được thì cần phảigiải quyết những mâu thuẫn sau: - Mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và qua hẹ sản xuất. - Mâu thuẫn giữa hình thái trước đây và nền kinh
tế thị trường. - Mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội
chủ nghĩa.

(tự lấy ví dụ)

3. Là cán bộ địa phương, qua nghiên cứu nội dung của quy luật trên, anh (chị) rút ra ý
nghĩa phương pháp luận gì cho công tác xã hội trong phát triển nông thôn của mình? (3
điểm)

Đề số 4
Anh (chị) đọc đoạn văn sau:
“Đoàn kết là sức mạnh”
“Đúng như lời Hồ Chủ tịch dạy: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công,
thành công, đại thành công". Phương châm này mang ý nghĩa vô cùng rộng lớn. Hồ Chủ
tịch luôn đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân là lực lượng to lớn, nòng cốt để
chiến thắng kẻ thù, giành thắng lợi trong tất cả các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giữ
nước và xây dựng đất nước. Lực lượng ấy có thể rời non lấp biển làm nên lịch sử vẻ vang
mà dân tộc ta đã thực hiện. Những dấu ấn của những sự kiện quan trọng này không thể
không nói đến tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Ta có thể nhìn lại lịch sử của ông cha ta
trước đây, nhà Trần đã bao lần chiến thắng quân Nguyên Mông là một quốc gia hùng mạnh
nhất phương Bắc thời bấy giờ cũng là do nhà Trần đã khơi dậy được tinh thần đoàn kết
nhất trí vua tôi một lòng, triệu người như một, toàn dân tham gia bày mưu hiến kế đánh
giặc, giữ nước được thể hiện khí phách hội nghị Diên Hồng hay hào khí Đông A đã được
vua tôi nhà Trần khai thác và vận dụng để đánh thắng giặc ngoại xâm. Theo dòng lịch sử kể
về những chiến tích thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta là hào hùng và oanh liệt, là rực rỡ và
huy hoàng cũng là do tinh thần đoàn kết chung sức chung lòng làm nên thành quả to
lớn như ngày hôm nay. Không ai dễ gì quên được cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước
của nhân dân ta, ác liệt, gian khổ, hao người, tốn của để giành thắng lợi cuối cùng là thống
nhất đất nước, non sông quy về dải. Để đạt được ý tưởng này, không thể không nhắc
đến nhân dân ta đoàn kết chống Mỹ cứu nước, miền Bắc chi viện sức người, sức của cho
tiền tuyến lớn miền Nam chiến đấu chống Mỹ, ngụy giải phóng miền Nam, đồng lòng. đồng
tâm hiệp lực để giành thắng lợi vẻ vang. Tất cả những sự kiện, sự việc hay tình tiết trên đây
tựu chung lại quyết định vẫn là của tinh thần đoàn kết mà có…”
(Nguồn trích: Báo Đại đoàn kết, tháng 4/2014)
Câu hỏi:
1. Quan đoạn văn trên, anh (chị) chỉ rõ sức mạnh của tinh thần đoàn kết? Lấy ví dụ về
thành quả của tinh thần đoàn kết mà đội ngũ lãnh đạo tại địa phương của anh (chị) đã làm
được để minh họa cho vấn đề này? (3 điểm)
2. Anh (chị) trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? (5
điểm)
Trả lời:
Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò của đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng.
Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, sách
lược mà là một chiến lược. Theo Người, “đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc Lúc nào dân ta
đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết tạo nên một sức mạnh
thật sự, là “điểm mẹ”, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt.
Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là chiến lược vừa là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng. Bởi vì cách mạng là cuộc chiến đấu khổng lồ, muốn giành thắng lợi thì
phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ dại của toàn
dân. Mặt khác trong thời đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười, phải chống kẻ thù
mới là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, nếu không có lý luận khoa học và cách mạng về đoàn
kết thì khó thành công.
Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc
trong mọi giai đoạn lịch sử Đại đoàn kết dân tộc cũng là đại đoàn kết toàn dân. Theo một
nghĩa nào đó thì khái niệm “dân tộc" rộng hơn khái niệm “nhân dân". Nhưng trong nhiều
trường hợp nhất là khi bàn về đoàn kết, khái niệm “dân” cũng rộng như dân tộc, có biên độ
rộng lớn, gồm mọi con dân nước Việt, không phân biệt đa số hay thiểu số giàu nghèo, già
trẻ, gái trai, cùng sống trên đất nước Việt Nam. Dân tộc thường được hiểu theo nghĩa cộng
đồng, còn dân vừa được hiểu theo nghĩa cộng đồng tức toàn thể đồng bào, cũng có thể được
hiểu là mỗi cá nhân. Vì vậy dân không phải là một khối đồng nhất mà là một cộng đồng bao
gồm nhiều giai cấp, dân tộc, tầng lớp, cá nhân có lợi ích chung và riêng, có thái độ và vai trò
khác nhau đối với sự phát triển kinh tế xã hội.

Đại đoàn kết toàn dân thể hiện nhiều tầng nấc, cấp độ. các quan hệ rộng hẹp khác nhau theo
tinh thần đoàn kết rộng rãi, lâu dài vì độc lập thống nhất của Tổ quốc và xây dựng nước nhà.
Vì vậy theo Hồ Chí Minh, ai có tài có đức có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân
thì ta đoàn kết với họ. Trong khối đông đảo toàn dân tộc đó, đa số nhân dân gồm công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác là nền gốc của đại đoàn kết trong đó nòng
cốt là liên minh công nông.
Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh
phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng,
không bỏ sót một ai, trừ bọn Việt gian bán nước, quay lưng lại với lợi ích của dân tộc.
Xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. từ hoàn cảnh một nước Việt Nam
thuộc địa muốn thực hiện được đoàn kết rộng rãi phải có lòng khoan dung độ lượng, xóa bỏ
mọi thành kiến theo tinh thần “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài
đều hợp nhau lại nơi bàn tay Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng
thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta”. Đã là con người thì có tốt có xấu, có thiện
có ác trong lòng. Đặt lợi ích của cách mạng trên hết, trân trọng phần thiện trong mỗi người
dù nhỏ nhất. Cũng như “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng
nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó
hẹp nhỏ”1. Trong hoàn cảnh nước thuộc địa, tránh quan điểm giai cấp đơn thuần, nói vô sản
một cách cứng nhắc theo kiểu “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu
giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” [1].
Muốn đoàn kết phải khơi lòng yêu nước, trở về cội nguồn “đồng bào”, căm thù đế quốc, khát
vọng độc lập dân tộc của mọi người. Đó là những điểm tương đồng, mẫu số chung của con
người Việt Nam Trên cơ sở nhận thức có ý nghĩa nhân văn và cách mạng, Hồ Chí Minh cho
rằng: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác
đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con
Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết”. Người
tuyên bố: “bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ thì dù người
đó trước đây chống chúng ta bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
Vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân làm nên thắng lợi của cách mạng là
gốc của nước, nhưng không phải là một khối đồng nhất, nên muốn có đoàn kết vững chắc,
lâu dài thì phải có lòng thương yêu, kính trọng nhân dân. Phải hiểu dân, học dân, tin dân,
dựa vào dân.

Mọi việc phải bàn bạc và giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Lòng thương yêu nhân dân là điểm
xuất phát mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh, tạo nên sự đoàn kết chân thành, bền vững, lâu dài.
Để có sức mạnh thật sự đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải được tổ chức trong
Mặt trận dân tộc thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận được xây dựng trên nền
tảng liên minh công nông, thực hiện đoàn kết rộng rãi, lâu dài, vững chắc, thật sự vì mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

3. Là cán bộ địa phương, anh (chị) đã, đang và sẽ làm gì để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân nơi anh chị sống và làm việc? (2 điểm)

Đề số 5
Anh (chị) đọc đoạn văn sau:
“Vì sao Dưa Hấu rớt giá?”
“15 năm nay, gần như năm nào cũng vậy, mọi người lại được chứng kiến cảnh dưa
hấu bị bán tháo ở cửa khẩu. Trong khi đó, dưa hấu tại ruộng của nông dân lại bị sụt giá
thảm hại, bán không có ai mua. Trong khi đó, tại thị trường trong nước, giá vẫn đứng ở mức
cao. Vậy điều gì đang thực sự diễn ra với thị trường nông sản Việt Nam? Hàng chục năm
qua, đã có nhiều phân tích để chỉ ra rằng, sở dĩ có tình trạng này là do nông dân trồng tự phát
không theo quy hoạch và bà con cứ đến mùa dưa là chỉ nghĩ đến việc chở thẳng dưa lên
Lạng Sơn, trong khi đó khả năng thông quan của cửa khẩu Tân Thanh có hạn. Một nguyên
nhân nữa được nói nhiều gần đây là chuyện công nghệ bảo quản sau thu hoạch của chúng ta
không tốt và chưa có những chính sách phù hợp để đưa doanh nghiệp đến với nông dân, tạo
chuỗi giá trị hàng hóa. Tuy nhiên, tất cả những phân tích trên đều là chuyện đã được nói
nhiều mà chưa thể giải quyết trong ngày một ngày hai. Vậy còn nguyên nhân nào chúng ta
chưa đề cập đến?”
(Nguồn trích: Báo Kinh tế, tháng 4 năm 2015)
Câu hỏi:
1. Trong quản lý phát triển kinh tế Nông nghiệp - Nông thôn ở nước ta hiện
nay, anh (chị) cho biết tại sao tình trạng nông phẩm của bà con nông dân cứ đền mùa
thu hoạch lại rớt giá? (2 điểm)
Được mùa rớt giá, do phá quy hoạch
Đầu năm 2018, câu chuyện “giải cứu” nông sản lại nóng khi hàng ngàn tấn củ cải
trắng, su hào, bắp cải và nhiều loại rau xanh khác… không tiêu thụ được, rớt giá. Nguyên
nhân của tình trạng được mùa rớt giá, trồng - chặt, theo TS Đỗ Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu chiến lược và phát triển nông nghiệp nông thôn, là do bà con nông dân phá
vỡ quy hoạch của từng loại nông sản, ngành hàng mà Bộ NN-PTNT và chính quyền các địa
phương đã đưa ra, chứ không phải do “chưa có quy hoạch”. Các chuyên gia về nông nghiệp
cũng cho biết rất nhiều loại nông sản hiện đã vượt diện tích so với định hướng đề ra. 2 năm
nay, ở tỉnh Gia Lai, diện tích trồng hồ tiêu đã lên tới 15.500ha trong khi quy hoạch đến năm
2020 chỉ là 6.000ha.
Nói về bài học cây hồ tiêu, theo ông Lê Văn Đức, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt,
diện tích trồng hồ tiêu tại Tây Nguyên và Đông Nam bộ vượt quy hoạch dẫn tới tình trạng
rớt giá thảm như hiện nay (có thời điểm chỉ còn 80.000 đồng/kg) là do vào năm 2015, khi
giá hồ tiêu tăng cao (200.000 đồng/kg), các hộ nông dân đã mở rộng diện tích ngoài quy
hoạch hoặc trồng xen canh (khoảng 15% diện tích). Thậm chí có nơi còn chặt cà phê để
chuyển sang hồ tiêu. Tình trạng “được giá là phá quy hoạch” đang xảy ra phổ biến ở nhiều
địa phương, trong khi đặc thù sản xuất nông sản ở nước ta là mùa vụ và phụ thuộc vào thời
tiết, kém khâu thu hoạch - chế biến - bảo quản nên dẫn đến “điệp khúc” được mùa rớt giá,
dư cung. Theo Bộ NN-PTNT, sau 15 năm, chăn nuôi heo của Việt Nam tăng 3 lần, sản xuất
sữa tăng 15 lần, nhiều loại rau củ quả tăng 3-4 lần nhưng năng lực chế biến, dự trữ với rau
chỉ khoảng 5%, thịt chỉ 1%.
Có nên tiếp tục giải cứu?
Từ vụ thịt heo ế ẩm, chuối rớt giá đến củ cải trắng, su hào… dư thừa cứ lặp đi lặp lại
nên doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng không còn quá nhiệt tình với việc giải cứu nữa. Bởi
bài toán của doanh nghiệp là lợi nhuận, họ không thể mua giá cao, người tiêu dùng cũng
không chịu chọn sản phẩm giá đắt khi thị trường đang dư thừa. Trong cuộc họp bàn cách
giải cứu củ cải trắng ở Mê Linh (Hà Nội) cũng như sau vụ thịt heo năm 2017, nhiều doanh
nghiệp không ngại bày tỏ rằng không thể tiếp tục giải cứu nông sản bởi sẽ tạo điều kiện để
nông dân phá vỡ quy hoạch, sản xuất theo kiểu được giá là đua nhau làm.
Theo chuyên gia kinh tế - PGS-TS Ngô Trí Long, cốt lõi cho vấn đề tiêu thụ nông sản
ở nước ta là các cơ quan chức năng phải tập trung nghiên cứu và dự báo về thị trường để
cung cấp cho nông dân lẫn doanh nghiệp. Phải có dữ liệu thì mới biết trồng cây gì, nuôi con
gì và ở mức độ bao nhiêu là phù hợp. Đối với định hướng quy hoạch, ông Ngô Trí Long đề
nghị cần phải linh hoạt theo nhu cầu và tín hiệu của thị trường, còn như hiện nay quy hoạch
hình thức và máy móc, không xuất phát từ cầu.
Vậy còn vai trò của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng khi để xảy ra
tình trạng nông dân phá quy hoạch? Nhiều ý kiến cho rằng, Nhà nước không thể kiểm soát
được việc nông dân trồng cây gì, nuôi con gì mà nên trao quyền tự quyết này cho nông dân.
Bởi khi nông sản nào được giá, nông dân sẽ ồ ạt đầu tư vì đó là quy luật kinh tế. Tuy nhiên,
ông Nguyễn Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho rằng vẫn cần phải có vai trò quy
hoạch và định hướng của cơ quan chức năng. Để tránh lặp lại tình trạng nông sản dư thừa,
các cơ quan quản lý nhà nước cần phải rút kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch, nắm được
thông tin để có điều chỉnh ngay từ đầu năm và hướng dẫn sát sao hơn, tránh rủi ro cho nông
dân.
Còn theo ông Nguyễn Xuân Dương, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi, hiện Bộ NN-
PTNT đang khẩn trương xây dựng dự thảo Luật Chăn nuôi theo tinh thần chăn nuôi sẽ là
ngành có điều kiện về môi trường và thị trường. Ngoài đảm bảo môi trường, muốn mở trang
trại chăn nuôi phải có thêm giải pháp về thị trường. Trước khi bắt đầu chăn nuôi, người dân
phải biết sản lượng làm ra bao nhiêu và sẽ tiêu thụ ở đâu… Luật Chăn nuôi sẽ là công cụ để
Nhà nước kiểm soát tình trạng chăn nuôi tràn lan không theo định hướng quy hoạch. Liên
quan vấn đề “đầu ra” nông sản, ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và phát
triển thị trường nông sản, cho rằng mấu chốt hiện nay là phải phát triển được chuỗi liên kết
giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua việc liên kết, ký hợp đồng bao tiêu.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam cũng cho rằng, để hạn chế tình trạng
nông dân đổ xô trồng - chặt, cần hình thành các HTX để nhóm vào các mặt hàng, không để
nông dân tự phát. Bên cạnh đó, nếu thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư tăng cường chế
biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm, thúc đẩy xuất khẩu, sẽ không còn cảnh được mùa rớt giá,
trông đợi giải cứu.

2. Anh (chị) trình bày chủ trương, đường lối của Đảng ta về xây dựng nền
kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Những mặt trái của nền kinh tế thị
trường ở nước ta đang có những tác động như thế nào đối với nền sản xuất nông
nghiệp? (5 điểm)
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Cơ chế quản lý kinh tế Việt Nam thời kỳ trước đổi mới
a) Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp.
- Đặc điểm:
· Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới.
· Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp.
· Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ.
· Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội
ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.
- Kết quả:
· Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng
nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong
từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu
tiên phát công nghiệp nặng.
- Hạn chế:
· Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối
với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh
doanh.
· Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
- Nguyên nhân hạn chế của quá trình thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp:
· Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và
kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín.
b) Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
- Nhu cầu thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Các chủ trương, chính sách đổi mới từng phần từ năm 1979 đến năm 1985 và nhu cầu phải
đổi mới triệt để cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp.
2. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới
a) Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
- Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát
triển chung của nhân loại
- Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
b) Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X
- Đại hội IX khẳng định: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Đại hội X làm rõ hơn về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta, thể hiện trên 4 tiêu chí.
II. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
1. Mục tiêu và quan điểm cơ bản
a) Thể chế kinh tế và thể chế kinh tế thị trường
- Thể chế kinh tế: là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh
tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế.
- Thể chế kinh tế thị trường: là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và hệ thống các
thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị
trường.
b) Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Mục tiêu cơ bản đến năm 2020: thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
- Mục tiêu cụ thể đến năm 2010:
· Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp.
Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị
hiệu đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
· Đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
· Phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước
liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
· Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đảm bảo tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
· Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tồ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cà nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
c) Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường...
- Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị
trường...
- Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng
kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta
- Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng... vừa làm vừa
tổng kết rút kinh nghiệm
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước...
2. Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
a) Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
b) Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và các tổ
chức sản xuất kinh doanh
c) Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại
thị trường.
d) Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường
e) Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia
của các tổ chức quần chúng vào quá tŕnh phát triển kinh tế - xă hội
3. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a) Kết quả và ý nghĩa:
- Một là, sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế
hoạch tập trung quan liêu – bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Hai là, chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình
thành.
- Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả
nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.
- Bốn là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt
nhiều kết quả tích cực.
b) Hạn chế và nguyên nhân:
- Hạn chế:
· Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn
chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
· Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ chưa đồng bộ và thống nhất.
· Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt, gây
khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước nhất là khi cổ phần hóa.
· Thị trường tài chính, bất động sản, khoa học và công nghệ phát triển chậm, quản lý nhà
nước đối với các loại thi trường còn nhiều bất cập.
· Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý.
· Cơ chế “xin – cho” chưa được xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình
quân.
· Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả, hiệu
lực quản lý còn thấp. Cải cách hành chính chậm, chưa đạt yêu cầu mục tiêu đề ra. Tệ tham
nhũng, lãng phí, quan liêu vẫn nghiêm trọng.
· Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch
vụ y tế, giáo dục, đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và các
vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội
và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
- Nguyên nhân:
· Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế
· Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện Nhà nước còn chậm
· Vai trò tham gia hoạch định chính sách thực hiện và giám sát của các cơ quan dân cử, mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể hành chính, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu

3. Tình hình sản xuất và tiêu thu nông phẩm của bà con nông dân trên địa bàn tỉnh
Hải Dương không nằm ngoài xu hướng “rớt giá” như trên. Là cán bộ lãnh đạo của địa
phương, anh (chị) nhận thấy vai trò và trách nhiệm của mình như thế nào trong việc chỉ đạo
sản xuất nền nông nghiệp tại địa phương? (3 điểm)

You might also like