You are on page 1of 11

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

( Nhóm 6 )
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC NHÓM
STT & Họ và Tên MSSV Nhiệm vụ Đánh giá mức độ hoàn thành

4. Trần Quốc Bảo 21H1220030 Nội dung ( III ) 100%

6. Nguyễn Huy Chương 21H1220062 Nội dung ( III ) 100%

10. Trần Lê Minh Đức 21H4010064 Nội dung ( I,II ) 100%

11. Nguyễn Anh Duy 21H1220067 Nội dung ( III ) 100%

36. Lương Trần Hoài Nam 21h1220091 Làm slide thuyết 100%
( NT ) trình ( canva )
40. Huỳnh Thị Thanh Ngân 21H4010028 Nội dung ( I,II ) 100%

49. Võ Trung Thành 21H4010040 Nội dung ( I , II ) 100%

35. Lê Phạm Việt Nam 21H1110018 Trả lời câu hỏi sau 70%
thuyết trình

Mục lục
I. Phân tích Tư tưởng HCM về đạo đức.
1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
1.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
1.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
2. Liên hệ sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam ta hiện nay.

II. Phân tích những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
của sinh viên hiện nay.
1. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng mới.
2. Liên hệ thực tế ở sinh viên ta hiện nay.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới.
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một tài sản tinh thần vô giá, đó là
tư tưởng của Người. Trong đó, nổi bật là tư tưởng đạo đức cách mạng. Bản thân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là một tấm gương mẫu mực, sáng ngời về thực hành
đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo.
Có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Bác trong
sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đạo đức
cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin; là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển
những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại cả phương Đông lẫn phương Tây
mà Người đã tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao,
thử thách vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.

I. Phân tích tư tưởng HCM về đạo đức.


1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
1.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức:
a/ Đạo đức, một trong những vấn để quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp cách mạng.

• Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng đã bàn
nhiều nhất đến vấn đề đạo đức Người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn.
nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết,
bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo phong cách phương
Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện
trước nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói, đã viết về
đạo đức Người vừa là một nhà đạo đức học lớn, lại vừa là tấm gương đạo đức
trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới thừa nhận.
• Vì vậy tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải chỉ thông qua những
tác phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng hơn phải thông qua chính hành
vi được thể hiện trong toàn bộ hoạt động thực tiễn của Người, thông qua mẫu
mực đạo đức trong sáng mà Người đã để lại cho Đảng, cho dân tộc, cho nhân
loại. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động cơ và hiệu quả, giữa lý luận
và thực tiễn đã trở thành một đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh, đặc trưng này
đã làm cho Hồ Chí Minh phân biệt với rất nhiều nhà tư tưởng, nhiều lãnh tụ cách
mạng khác từ trước đến nay.

b/ Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh


• Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của
dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời
kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân
loại; đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen,
Lênin.
Điều này đã được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi Lênin
mất:
Lênin là người " đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại
và sự khiêm tốn cao độ". "Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính
coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị,
tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới
các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không có gì
ngăn nổi".

c/ Vị trí đạo đức trong đời sống của con người và xã hội
Hồ Chí Minh có những quan niệm về vị trí, vai trò sức mạnh của đạo đức:
● Đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của
cây, ngọn nguồn của sông nước:
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.”
Người từng nói“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không
có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”.

● Đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc:
“Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”.
Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức,
coi nhẹ mặt tài.
● Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức
và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

d/ Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh


Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện:
- Đối với mọi đối tượng - từ công nhân, nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ; từ các
cụ phụ lão đến phụ nữ, thanh thiếu niên nhi đồng; từ đồng bào các dân tộc đến đồng
bào các tôn giáo, các nhà tu hành... Cùng với việc đề cập đạo đức công dân, Người
đặc biệt quan tâm đến đạo đức của cán bộ, đảng viên. Có thể nói đây là nội dung
chiếm phần chủ yếu nhất trong tư tưởng đạo đức của Người.
- Trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người - từ đời tư đến đời công, như sinh hoạt,
học tập, lao động, chiến đấu lãnh đạo, quản lý...
- Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng - từ gia đình đến xã hội (làng xóm, phố phường,
một tập thể, một đơn vị, một tổ chức...), từ giai cấp đến dân tộc, từ các vùng - miền,
địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế.
- Trong cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi người – đối với mình, đối với người, đối
với việc. Đối với người thì có quan hệ giữa cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước
với dân, quan hệ giữa cấp trên - cấp dưới, v.v...

1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức
cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:

Một là, trung với nước hiếu với dân.


- Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác.
- Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống
của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung
mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”.
Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
- “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Hai là, yêu thương con người.


- Đây là điều đầu tiên trong 5 điều Bác Hồ dạy: “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào”.
- Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người vàvà không phân biệt
họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt
một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong
tấm lòng nhân ái của Người.
- Tuy nhiên, tình yêu của Bác không chỉ dành riêng cho người dân Việt Nam, mà
còn dành cho toàn bộ những con người theo cách mạng XHCH trên toàn thế giới.

Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.


- Cần tức là lao động cần cù, siêng năng để tăng năng suất và hiệu quả công tác.
- Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô
trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
- Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Vì vậy mà quang minh
chính đại, không bao giờ hủ hoá".
- Chính, nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn".
+ Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
+ Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá,
lừa lọc.
+ Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

- Chí công vô tư:


● Chí công là yêu cầu phải rất mực công minh, chính trực, công bằng, công
tâm.
● Vô tư là không được thiên tư, thiên vị.
● Chuẩn mực này nhắc nhở người lãnh đạo, cầm cân nảy mực phải hết sức
công bằng, không được có lòng riêng mà thiên tư, thiên vị.

Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất
cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”;
phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
- Tôn trọng tất cả các dân tộc trên thế giới dù đó là dân tộc lớn hay nhỏ. Có tinh
thần hòa bình, hữu nghị, hơp tác giữa các dân tộc;
- Có tinh thần bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc. Và một trong
những tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh
đề "Bốn phương vô sản đều là anh em";

2. Liên hệ sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta .


• Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống
đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các
nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để
cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây
dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết
của Đảng.
• Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ
động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể,
cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương
sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.

• Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng.
• Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người
để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .

-> Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho
Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam
ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

II. Phân tích những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng mới
của tưởng Hồ Chí Minh.
1. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng mới:
Hiện nay yêu cầu của thực tiễn là phải xây dựng một nền đạo đức mới ngang
tầm với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Vì vậy học tập làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Ở đây Hồ Chí Minh đã đề ra
được những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng như sau:

a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.

• Nói đi đôi với làm là một trong những đặc điểm và nét đẹp của truyền thống văn
hóa, truyền thống đạo đức phương Đông. Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc
quan trọng bậc nhất trong xây dựng nền đạo đức mới. “Nói đi đôi với làm” là
đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nói đi đôi với làm đối
lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà
không làm.
• Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết
thực cho chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều
làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại
những hậu quả phản tác dụng.
• Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng
lý luận cách mạng tiền phong mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của
mình thông qua quan điểm: “Các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và
đối với một tấm gương sống còn có giá trị hơn một tram bài diễn văn tuyên
truyền.”
• Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho
các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng,
chiến sỹ thi đua những tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành,
từng cấp, những tấm gương “Người tốt việc tốt” rất gần gũi trong đời thường có
ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí
Minh đã nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào,
địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.

b. Xây đi đôi với chống

• Để đào tạo nên những con người hoàn thiện về tài, đức, phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng, theo Hồ Chí Minh cần quán triệt nguyên tắc xây phải đi đôi với
chống. Xây dựng các giá trị, các chuẩn mực về đạo đức mới; chống các biểu
hiện, các hành vi vô đạo đức.
• Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành bằng
việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo dục
đạo đức mới phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù
hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường
khác nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người.
• Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới
chỉ có thể được xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa
đế quốc, chống những thói quen và tập tục lạc hậu, phải loại trừ chủ nghĩa cá
nhân. Đây thực sự là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa
cách mạng và phản cách mạng.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời

• Vì sao phải tu dưỡng đạo đức suốt đời? Vì theo Hồ Chí Minh đã là con người ái
cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có cái thiện, cái ác… Do đó,
muốn xây dựng một nền đạo đức mới bản thân mỗi cá nhân phải không ngừng
tu dưỡng đạo đức để loại bỏ những cái xấu, cái ác, phát huy những cái hay, cái
tiến bộ.
• Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Từ rất sớm, Người đã lưu ý: “Một
dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

2. Liên hệ thực tế ở sinh viên ta hiện nay về vấn đề học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ thuộc
nhiều vào sự nỗ lực của thanh niên, sinh viên, có tác động to lớn đến tương lai của cá
nhân và đất nước vì thế mỗi cá nhân chúng ta cần:
• Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với mọi cá nhân, mọi người
trong cuộc sống.
• Tu dưỡng rèn luyện bản thân theo các nguyên tắc chuẩn mực đạo đức của
Bác.
• Học tập theo tấm gương về:
➢ Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian

nguy để đạt được mục đích cuộc sống


➢ Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; Một nếp sống giản dị và đức khiêm tốn

phi thường.

Hội viên, sinh viên cần chủ động, tích cực, thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền tư
tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi
với làm, góp phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên.
Để trở thành một người như Bác - điều đó là khó có thể.Nhưng học và làm theo Bác
chắc chắn không phải là cái gì đó quá cao siêu. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Người là chuẩn mực của tất thảy những việc diễn ra trong cuộc sống thường ngày, khi
thật tâm, thì soi chiếu vào đó, ai cũng đều có thể thấy được những việc mình có thể học
theo, làm theo Người.

III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới.


1. Quan niệm của hồ chí minh về con người
• Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể, đa chiều:
➢ Phương diện tự nhien: Hồ Chí Minh (HCM) nhìn nhận con người như một thực
thể sinh học, cho nên con người phải tuân theo các quy luật tự nhiên.
➢ Con người xã hội: HCM nhìn nhận con người với tư cách là một cá nhân. Cá
nhân con người này nằm trong mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, và tồi tại
trong vô số các quan hệ.
➢ HCM còn nhìn nhận con người ở cả tâm lực và thể lực. Phải có sự thống nhất
chặt chẽ giữa tâm lực và thể lực trong mỗi con người. Đó chính là tâm lý, ý thức
và thể chất của con người.
➢ HCM xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác,
hay và dở, tốt và xấu… bao gồm cả tính người (mặt xã hội) và tính bản năng
(mặt sinh học).
• Con người lịch sử cụ thể:
➢ HCM cho rằng con người là sản phẩm của những điều kiện lịch sử cụ thể.
➢ Ở mỗi gian đoạn lịch sử nhất định sẽ tạo lên kiểu con người nhất định.
• Bản chất con người mang tính xã hội:
➢ Mác cho rằng: bản chất của con người là tổng hóa của các mối quan hệ trong xã
hội.
➢ HCM đã tiếp thu quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và từ đó Người đã khẳng
định: bản chất của con người là mang tính xã hội, khác hẳn với con vật.
2. Quan niệm của hồ chí minh về vai trò của con người
• Con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể của
tự nhiên và xã hội.
➢ Với tư cách là chủ thể của tự nhiên: Con người bằng hành động cụ thể của mình
không ngừng tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên để cho phù hợp với nhu
cầu của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất.
➢ Với tư cách là chủ thể xã hội: Con người bằng hành động của mình đã làm nên
lịch sử, không ngừng biến đổi xã hội, đưa xã hộ loài người phát triển đi lên từ
thấp đến cao thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
• Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng,
chăm sóc, phát huy nguồn lực con người. Con người là chiến lược số một
trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Mục tiêu này được cụ thể hóa
trong các giai đoạn cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Con người là vốn quý nhất, nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.
• Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người. Người xác
định: “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm
cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
3. Quan niệm của hồ chí minh về chiến lược “trồng người”
• Do vai trò quan trọng của con người như vậy lên chiến lược trồng người là quan trọng
hàng đầu. Từ đó Hồ Chí Minh đánh giá:
➢ Trồng người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.
➢ Việc xây dựng con người mới là cả một quá trình lâu dài và phải song hành cùng
với cuộc cách mạng.
➢ Việc xây dựng con người mới phải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn cách
mạng.
➢ Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có những con người xã hội chủ
nghĩa.
“ Người mượn ”ý của Quản Trọng: “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Trồng người phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi
người, đây vừa là trách nhiệm của cá nhân, vừa là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể chính trị - xã hội.

• Nội dung xây dựng con người :


+ Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng
+ Có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể XHCN mình vì mọi người, mọi người
vì mình.
+ Cần kiệm xây dựng đất nước và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc
+ Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương.
• Phương pháp xây dựng con người :
+ Thông qua tự tu dưỡng, tự rèn luyện của mỗi người kết hợp với xây dựng cơ
chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.
+ Phát huy vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể thông qua các
phong trào Thi đua yêu nước, Người tốt việc tốt… Đặc biệt là phải chú trọng vào
vai trò của giáo dục và đào tạo.
*Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ TRONG XÂY DỰNG CON NGƯỜI
MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Về mặt lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu
sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo con
người Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục đạo lý để làm người, coi con
người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao
nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ ưu việt nhưng phải hiểu sự ưu việt trên hai mặt gắn bó
với nhau:
▪ Một là, nó là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với
những con người phát triển cả về trí lực và khả năng lao động, về tính tích cực
chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng.
▪ Hai là,, đó là xã hội do những con người mới làm chủ, một xã hội không phải chỉ
do con người mà còn vì con người.
Về mặt thực tiễn, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng
trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. Năm 1990, Chương trình phát triển của Liên
hợp quốc (UNDP) đã đưa ra chỉ dẫn nhằm đánh giá tiến bộ kinh tế và xã hội của một
nước, không chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây, mà dựa trên cơ sở của ba chỉ
tiêu cơ bản: thu nhập, trình độ giáo dục và tuổi thọ. Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân
tố con người Việt Nam là không ngừng gia tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát
huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, chú trọng xây dựng những mặt thuộc hạ tầng
của đời sống xã hội như: giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng, kết hợp với sức mạnh của
cả cộng đồng, xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc của chế độ mới.

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc
của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trong mục tiêu chung "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh", Đảng ta phấn đấu làm cho nhân dân
có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành,
chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá; quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn
minh, gia đình hạnh phúc.

Xét đến cùng, đó là tư tưởng phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc của
con người, của dân tộc và nhân loại. Nói cách khác, tất cả vì con người, do
con người.

You might also like