You are on page 1of 43

Những nguyên lý và quy luật của phép biện

chứng duy vật


Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là
hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò cốt lõi
trong phép duy vật biện chứng của triết học
Mác - Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện
tượng. Phép biện chứng duy vật được xây
dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên
lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật
phổ biến phản ánh hiện thực khách quan.
Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai
nguyên lý khái quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản
gồm:
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên
tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách
quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một
sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp
phạm trù cơ bản.
* Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý
luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào
quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông
qua ba quy luật cơ bản
Ph.Ăng-ghen định nghĩa:
“ Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy ”
— Ăng-ghen[1]
Phương pháp biện chứng là phương pháp xem
xét những sự vật và những phản ánh của
chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ
qua lại giữa chúng, trong sự móc xích của
chúng, trong sự vận động của chúng, trong sự
phát sinh và tiêu vong của chúng

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam


1. Khái niệm về thời kỳ quá độ
Là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ
nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ
khi giai cấp công nhân giành được chính quyền
và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của
chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế của thời kì
quá độ lên CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong
thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên
chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã
hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
Khoảng thời gian diễn ra quá độ.
Trong tính tất yếu, nước ta xác định nhu cầu đi
lên chủ nghĩa xã hội. Do đó trong khoảng thời
gian chưa thống nhất đất nước, thời kỳ quá độ
được diễn ra trước tiên ở Miền Bắc. Thời kỳ
này bắt đầu từ năm 1954 sau khi miền Bắc
được giải phóng. Sau đó, các tính chất trong
đấu tranh giải phóng và chi viện cho miền Nam
được thực hiện. Đến năm 1975, đất nước
hoàn toàn độc lập và thống nhất hai miền Nam
Bắc. Khi đó, sự thống nhất trong vai trò lãnh
đạo của Đảng đặt ra mục tiêu phát triển đất
nước. Trước tiên là khôi phục kinh tế, xã hội và
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy đến năm 1975, cả nước cùng quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Diễn ra với các chính sách
cần thiết dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Tính tất yếu.
Đặt dưới nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội, đất
nước ta thấy được những lợi ích trong đổi mới
kinh tế. Bên cạnh các phát triển mọi mặt và
nhu cầu hợp tác toàn cầu. Do đó tính dân chủ
cần được phản ánh hiệu quả thông qua quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Bất cứ sự chuyển dịch
tính chất xã hội nào cần được tiến hành hết
sức khéo léo. Thông qua lộ trình cùng với các
tác động và điều chỉnh hợp lý. Đặt dưới tính
chất phối hợp của mọi thành phần kinh tế.
Với một đất nước với tính chất thuộc địa như
nước ta bấy giờ, các tính dân chủ không được
phản ánh. Khi đó, người dân không đảm bảo
với quyền lợi đáng ra được hưởng. Bên cạnh
các lỗ lực xây dựng kinh tế cá nhân hay kinh tế
đất nước. Chủ nghĩa xã hội sẽ mang đến các
đảm bảo thông qua hệ thống pháp luật được
ban hành trên phạm vi cả nước.
Đối với nước ta, thời kỳ đó phản ánh một
nước nông nghiệp lạc hậu. Đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, các khó
khăn rất lớn. Trong đó, với lý tưởng trong ứng
dụng công nghệ, kỹ thuật và khoa học hiện đại.
Cùng với sự thúc đẩy đảm bảo cho chất lượng
cuộc sống từng người. Với tinh thần đó, sự
chuyển dịch hay tác động diễn ra chậm mà
chắc. Bên cạnh các lợi thế và năng lực thời đó
còn kém. Bởi vậy mà Việt Nam đã trải qua một
thời kỳ quá độ tương đối dài.
Nhiệm vụ của thời kỳ này.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên


chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch
sử. Với: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng
ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội,… tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến.
Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây
dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm
vụ chủ chốt và lâu dài”.
Đây là những tính chất trong thay đổi cũng
như nhu cầu cần thiết phản ánh với xã hội
mới. Thành tựu này giúp cho nền kinh tế phát
triển. Cũng mang đến sự đảm bảo cho nhu cầu
và chất lượng cuộc sống của người dân được
cải thiện tốt nhất. Thực hiện tốt các giá trị
phản ánh trong kinh tế, văn hóa. Mang đến lợi
thế trong thị trường hợp tác quốc tế.

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng


Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và
là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái
gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo
đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự
thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành
công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay
kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí
Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức,
coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà
không có đức là người vô dụng nhưng có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho
nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp
với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

- Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung


nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam
gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.

Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm


nhất và chi phối các phẩm chất khác.

Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha


mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội
phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa
vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức
ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu
với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan
niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn
đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời
kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính
trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không
phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước
mắt, mà còn lâu dài về sau.

Hai là, yêu thương con người.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất


toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định
tình yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành
tình yêu thương rộng lớn cho những người
cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc
lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành".

Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí


của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi
hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái...
không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ
là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ
trong tấm lòng nhân ái của Người.

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối


với những người có sai lầm khuyết điểm. Với
tấm lòng bao dung của một người cha, Người
căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có
thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho
phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như
hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là
thái độ của người cách mạng. Đối với những
người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản
lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ
tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong
con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ
không phải đập cho tơi bời".

Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có


tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở
mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến
phẩm chất yêu thương con người.

Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. -


Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần
cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo,
có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc
của chúng ta".

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm


thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước,
của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến
cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to;
"không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi", không phô trương hình thức, không liên
hoan, chè chén lu bù.

Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của


công và của dân"; "không xâm phạm một đồng
xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân".
Phải "trong sạch, không tham lam". "Không
tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham
sung sướng. Không ham người tâng bốc mình.
Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao
giờ hủ hoá".

Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng


đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn
chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm
điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở
của bản thân mình.

Đối với người: không nịnh hót người trên,


không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà,
không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước
việc tư, việc nhà.

Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công


vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất
cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ".

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh


thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh
đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản
đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các
dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các
nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp
bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản
thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả
dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân
Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên
thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội,
vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác
và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản


gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải
là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa
quốc tế vô sản trong sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên
tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của
Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.

+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo


đức.

Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu


“miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo
đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ,
đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống
theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi
người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các
điển hình tiêu biểu.
+ Xây đi đôi với chống.

Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục


chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự
giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng
mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong
sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo
đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ
nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra.

+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Người cũng khẳng định đạo đức không phải là


thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do
con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo
thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ
rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc
đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên
rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong".

Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng


và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất
đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng
đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền
với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt
đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập
và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát
triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí
Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh
tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã
hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển
văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần này đã
được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí
Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".

Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh,


Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ động phong trào
thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu
dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất
sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”,
nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi
người tôn vinh và noi theo.

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực


hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh
việc xây dựng những phẩm chất đạo đức.
Trung với nước, hiếu với dân, thương người,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần
quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người,
chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống
các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị
trường đang làm phương hại đến nền đạo đức
cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra


sự nguy hiểm của bệnh "cá nhân", đó là
nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chế độ.

Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ


nạn cần phải chống gồm ba loại hình là tham ô,
lãng phí quan liêu. Người coi những tệ nạn đó
là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân
dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong
kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”
phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của
những kẻ tham ô, lãng phí quan liêu cũng nặng
như tội lỗi "Việt gian, mật thám". Người cho
rằng: "Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến
bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc
tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội
bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót".
Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch
Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức của
xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song.
Phải khắc phục các nguyên nhân đẻ ra các tệ
nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân
đã để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong
cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng
Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được
nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng.

Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch


Hồ Chí Minh trong Di chúc Người để lại cho
toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng
cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân” .
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ
nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân
dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây
dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với
những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

Thắng lợi to lớn của cách mạng v

Thực tế 85 năm qua đã khẳng định, sự lãnh


đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, các phong trào
yêu nước, từ lập trường Cần Vương đến lập
trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm
của lịch sử đều lần lượt thất bại...
QĐND - Thực tế 85 năm qua đã khẳng định, sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước, từ lập
trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu
tư sản, qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần
lượt thất bại. Tình hình đất nước đen tối như
không có đường ra. Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc-
Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường đấu
tranh giải phóng dân tộc đã sớm tiếp cận lý
luận cách mạng của thời đại là Chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và tìm thấy ở lý luận đó con đường giải
phóng đúng đắn. Suốt những năm 20 của thế
kỷ XX, Nguyễn ái Quốc đã chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để thành lập một Đảng cách
mạng chân chính. Sự kết hợp Chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn ái
Quốc đã dẫn tới sự ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam vào mùa xuân năm 1930. Trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng (tháng 2-1930) đã xác
định trách nhiệm lớn lao lãnh đạo sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc “làm cho nước
Nam hoàn toàn độc lập”, tạo tiền đề “để đi tới
xã hội cộng sản”. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
đã giải quyết những vấn đề cơ bản của cách
mạng: Về mục tiêu chiến lược lâu dài và mục
tiêu cụ thể; về tổ chức và xây dựng lực lượng
cách mạng; về hình thức và phương pháp đấu
tranh, sách lược cách mạng; về đoàn kết mọi
lực lượng của toàn dân tộc và đoàn kết quốc
tế; về xây dựng Đảng-đội tiền phong lãnh đạo
cách mạng. Cương lĩnh của Đảng không ngừng
được bổ sung, phát triển và cụ thể hóa trong
đường lối, chính sách và những chủ trương
lớn ở các thời kỳ cách mạng.
Dù có những nhận thức và quan điểm khác về
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc vẫn kiên trì
nêu cao đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
về nước sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.
Tại Cao Bằng, tháng 5-1941, Người chủ trì Hội
nghị Trung ương lần thứ 8, phát triển hoàn
chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đấu
tranh dân tộc với đấu tranh giai cấp, chống đế
quốc và chống phong kiến, lợi ích dân tộc và
lợi ích giai cấp. Quyền lợi của bộ phận, giai cấp
phải đặt dưới quyền lợi của quốc gia, dân tộc;
phải tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là giải
phóng dân tộc.
Đường lối đúng đắn của Đảng được mọi giai
cấp, tầng lớp trong dân tộc hưởng ứng và ủng
hộ, phát triển mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn
dân trong Mặt trận Việt Minh, thúc đẩy cao
trào giải phóng dân tộc, dẫn tới thắng lợi của
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xóa bỏ
chế độ thuộc địa gần một thế kỷ, chấm dứt chế
độ phong kiến hàng nghìn năm, lập nên Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa-Nhà nước
cách mạng kiểu mới ở Việt Nam, mở ra kỷ
nguyên độc lập, tự do và phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám gắn liền với vai trò
lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh-một
đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
Không cam chịu thất bại ở Việt Nam, thực dân
Pháp đã quay lại xâm lược nước ta từ ngày 23-
9-1945 với việc đánh chiếm Nam Bộ. Sau thất
bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (7-5-1954), đế
quốc Mỹ tìm cách thế chân Pháp bằng cách
thiết lập chế độ thực dân mới ở miền Nam
Việt Nam và phát động cuộc chiến tranh xâm
lược tàn bạo chống dân tộc Việt Nam vốn khát
khao độc lập, tự do và yêu chuộng hòa bình.
Đảng Cộng sản Việt Nam trước vận mệnh sống
còn của dân tộc đã quyết tâm lãnh đạo toàn
dân tiến hành cuộc kháng chiến oanh liệt giành
và bảo vệ độc lập, thống nhất của dân tộc. Sự
nghiệp đó được hoàn thành trọn vẹn với Đại
thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử.
Kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng,
khi miền Bắc được giải phóng (1954), Đảng đã
lãnh đạo thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đất
nước thống nhất (1975), Đảng lãnh đạo xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Thực hiện
nhiệm vụ nặng nề đó đã có được những thành
tựu quan trọng: Xóa bỏ chế độ bóc lột, xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật quan trọng của
chủ nghĩa xã hội, tạo dựng nền văn hóa và con
người mới trong một xã hội ổn định, lành
mạnh và chế độ chính trị vững chắc, song cũng
bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thậm chí sai
lầm, khuyết điểm. Thực tế đó đòi hỏi Đảng
phải chú trọng nắm bắt đặc điểm, thực tiễn
của đất nước, đổi mới tư duy lý luận, khắc
phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nóng
vội để nhận thức và vận dụng đúng đắn các
quy luật khách quan, những đặc trưng của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi
mới của Đại hội VI (12-1986) đã được hoạch
định trên cơ sở đó. Thực tiễn đổi mới và sự
phát triển nhận thức lý luận có ý nghĩa quan
trọng để Đảng đề ra “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” tại Đại hội VII (6-1991) và bổ sung, phát
triển Cương lĩnh 1991 tại Đại hội XI của Đảng
(1-2011).
Thành tựu to lớn và rất quan trọng của công
cuộc đổi mới ở Việt Nam đã làm biến đổi và
phát triển đất nước cả về chính trị, kinh tế, xã
hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, nâng cao và khẳng
định vị thế của Việt Nam trong đời sống chính
trị, kinh tế của thế giới. Từ thành tựu của đổi
mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày
càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và
mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng. Những vấn đề về kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, con người và chặng
đường bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cũng được thực tiễn làm rõ để
nhận thức đúng đắn hơn. Nội dung và khả
năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng
được nhận thức rõ hơn. Sự phát triển thực
tiễn và nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam cho thấy giá trị bền vững của lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học, lý luận hình thái kinh tế-
xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đang được
nhận thức và vận dụng sáng tạo từ thực tiễn
Việt Nam.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh
đạo đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ
thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tăng cường
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đoàn kết dân tộc và
vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị-xã
hội, củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân, giữ vững ổn định chính trị và sự
đồng thuận xã hội. Thực hiện tốt hơn các đột
phá chiến lược, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng
đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao. Xây dựng kết cấu hạ
tầng đồng bộ, hiện đại; tái cấu trúc nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, kiểm
soát lạm phát để phát triển nhanh, bền vững.
Xây dựng và thực hiện đồng bộ các chính sách
xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xây
dựng con người mới.
Trong khi phát triển kinh tế-xã hội, chúng ta
cũng hết sức chú trọng thực hiện Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc theo nội dung Nghị quyết Trung
ương 8 (khóa XI), xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc
sống của nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
vùng trời, biển đảo của Tổ quốc. Tích cực, chủ
động hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển, giữ vững môi trường hòa bình,
thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, bảo vệ Tổ quốc và nâng cao vị thế của
đất nước.
Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi những vấn đề
cơ bản và bức thiết đó, Đảng không ngừng
nâng cao trình độ lý luận và trí tuệ, vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, làm cơ sở để bổ sung, phát triển
cương lĩnh và đường lối. Làm rõ hơn những
vấn đề nhận thức lý luận, thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; về Đảng Cộng sản cầm quyền, về
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
nhiều vấn đề mới đặt ra từ thực tiễn đổi mới
và hội nhập quốc tế. Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng về tổ chức, thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo
gắn với trách nhiệm người đứng đầu, thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường
xuyên tự phê bình và phê bình. Chú trọng chất
lượng đảng viên và xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến
lược; nâng cao bản lĩnh chính trị gắn với rèn
luyện, nêu gương đạo đức cách mạng. Tổ chức
Đảng các cấp phải không ngừng đổi mới phong
cách công tác, nắm bắt thực tiễn, gắn bó mật
thiết với nhân dân, đổi mới phương thức lãnh
đạo từ ra quyết định đến tổ chức thực hiện,
kiểm tra, tổng kết thực tiễn. Đó là những yêu
cầu thiết yếu bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng, củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo
và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
a) Người công dân tốt
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Người
công dân tốt là người thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân do Hiến pháp và
pháp luật quy định.
- Thực hiện tốt quyền của công dân:
Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận, kiên nghị các vấn đề chung
của cả nước và địa phương. Công dân đủ mười
tám tuổi trở lên có quyền bầu cử, đủ 21 tuổi
trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội
đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy
định của pháp luật; quyền sở hữu về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất; quyền xây dựng, thuê
nhà ở theo quy hoạch và pháp luật
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, phát
minh, sáng chế; được hưởng chế độ bảo vệ
sức khoẻ.
Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện,
tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con
thành những công dân tốt. Con cháu có bổn
phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.
Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục.
Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội
tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát
triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức,
truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc
lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.
Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người
và gia đình có công với nước được hưởng các
chính sách ưu đãi của Nhà nước. Người già,
người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa
được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.
Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở
trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ
nước ngoài về nước theo quy định của pháp
luật. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, có quyền được thông tin; có quyền hội
họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luật. Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; có quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở. Thư tín, điện thoại,
điện tín của công dân được bảo đảm an toàn
và bí mật.
Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những
việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, xã hội hoặc bất cứ cá nhân
nào.
- Thực hiện tốt nghĩa vụ chủ yếu của công
dân:
+ Công dân phải trung thành với Tổ quốc.
+ Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham
gia xây dựng quốc phòng toàn dân.
+ Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài
sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.
+ Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và
pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia.
+ Công dân phải chấp hành những quy tắc sinh
hoạt công cộng; có nghĩa vụ thực hiện các quy
đinh về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công
cộng.
+ Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động
công ích theo quy định của pháp luật.
b) Tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người
công dân tốt
Công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế; phát triển kinh tế tri
thức, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tạo ra nhiều ngành nghề mới, đặt ra yêu
cầu bức thiết về nguồn nhân lực chất lượng
cao; có kiến thức chuyên môn, kỹ thuật, kỷ
luật, kinh nghiệm, kỹ năng lao động...
Những kiến thức, kỹ năng thực hành không
thể có ngay mà là quá trình hình thành và phát
triển trong học tập, rèn luyện ở nhà trường và
sau khi ra trường. Người học sinh trung học
chuyên nghiệp có những tiêu chí tu dưỡng rèn
luyện để phấn đấu để trở thành người công
dân tốt. Cụ thể:
- Thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân:
Thực hiện đúng và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ
của người công dân như đã nêu ở trên.
Hiện tại trong việc học tập và rèn luyện cần
nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của
người học sinh khi đến lớp, khi tự nghiên cứu,
khi ở trường, ở ngoài xã hội.
Mỗi học sinh phải cố gắng vì sự phát triển của
bản thân, vì gia đình, vì tập thể, vì xã hội, phấn
đấu trở thành người công dân có ích cho đất
nước.
-Có ý thức công dân:
Đối với người học sinh, ý thức công dân trước
hết là hiểu ý nghĩa, quyền và nghĩa vụ học tập
của công dân. Thấy được sự quan tâm của Nhà
nước và xã hội đối với quyền lợi học tập của
công dân và trách nhiệm của bản thân trong
học tập.
Biểu hiện của ý thức công dân là cần cù, chăm
chỉ, kiên trì, sáng tạo, tự giác và giữ kỷ luật
trong học tập và rèn luyện.
- Tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống:
Đó là tu dưỡng ý thức và điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức
xã hội; sống có trách nhiệm với bản thân mình
và mọi người.

Có trách nhiệm trước tập thể và cộng đồng,


biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của
lối sống tiến bộ, biết phê phán những biểu
hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
Có lòng nhân ái, độ lượng, trân trọng các giá trị
đạo đức công dân, xác định trách nhiệm, nghĩa
vụ của bản thân, tư cách, tác phong đúng đắn
của người công dân; giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc.
Rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức công
dân, phê phán những hành vi không phù hợp
với các chuẩn mực đạo đức. Tu dưỡng rèn
luyện đạo đức nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp.
Nội dung tu dưỡng và rèn luyện của học sinh
trung cấp chuyên nghiệp:
Có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn. Học là
để có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
có kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
để thành người công dân tốt, người lao động
tốt
Tự tin vào bản thân, vượt qua khó khăn, vượt
qua chính mình để đạt kết quả cao nhất trong
học tập, rèn luyện.
Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nội quy,
quy chế của của nhà trường, của tập thể, pháp
luật của Nhà nước.
Rèn luyện lương tâm nghề nghiệp, yêu lao
động và tôn trọng lao động của người khác. Có
ý thức rèn luyện tác phong công nghiệp, thích
ứng với sự phát triển của khoa học và công
nghệ.
Có lối sống lành mạnh, không sa vào các tệ nạn
xã hội, không gian lận trong học tập và tiêu cực
trong cuộc sống.
Kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể, lợi ích xã hội. Tham gia tích cực các hoạt
động đoàn thể; các hoạt động xã hội; bảo vệ và
sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản của tập thể,
của Nhà nước và xã hội.
Rèn luyện thân thể để có sức khoé tốt đáp ứng
yêu cầu học tập và công việc phục vụ đất nước.

You might also like