You are on page 1of 101

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ANOUKOUN BOUNXOUEI

THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU


CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG LÀO HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ANOUKOUN BOUNXOUEI

THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU


CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG LÀO HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học


Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỌ QUANG


HÀ NỘI – 2015
Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.

Hà Nội, ngày tháng 09 năm 2015

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN

GS,TS. Dương Xuân Ngọc


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cả nhân tôi. Các tư
liệu, số liệu được sử dụng trong Luận văn có nguồn tích dẫn rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về công trình nghiên cứu của minh.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Anoukoun BOUNXOUEI
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự ủng hộ và giúp
đỡ tận tình của các thầy, cô giáo và các anh chị em cùng học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS Trần Thọ Quang đã tận tình hướng dẫn
tôi để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Đồng thời, tôi xin gửi lợi cảm ơn chân thành đến Ban Giảm đốc Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, các thầy cô giáo Ban Chủ nhiệm Khoa Chính
trị học, các anh chị em học cùng lớp Cao học Chính trị học (k 19) Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, các cơ quan, đoàn thể, tổ chức liên quan, đã tạo điều
kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong gúa trình tim tài liệu phục vụ
nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Những sự động viên và giúp đỡ tận tình đó đã là động lực cho tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Anoukoun BOUNXOUEI
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Đảng NDCM Lào : Đảng Nhân dân Cách mạng Lào


BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương Đảng
VPTW : Văn phòng Trung ương Đảng
ĐU : Đảng ủy
Nxb : Nhà xuất bản
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM


MƯU CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH
MẠNG LÀO.....................................................................................................9

1.1. VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG
LÀO VÀ CHỨC NĂNG THAM MƯU......................................................9

1.1.1. Quan niệm về tham mưu, văn phòng và Văn phòng Trung ương
Đảng............................................................................................................9

1.1.2. Chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng...............11

1.1.3. Về cơ cấu bộ máy tổ chức, cơ chế hoạt động, lối làm việc và cán bộ
của Văn phòng Trung ương Đảng.............................................................19

1.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH


HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU CỦA
VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG....................................................25

1.2.1. Nội dung và phương thức thực hiện chức năng tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng...........................................................................25

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng tham mưu
của Văn phòng Trung ương Đảng.............................................................33

Chương 2 : THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHỨC


NĂNG THAM MƯU CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN
DÂN CÁCH MẠNG LÀO............................................................................37

2.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU CỦA
VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NDCM LÀO.............................37

2.1.1. Những thành tựu việc thực hiện chức năng tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng...........................................................................39
2.1.2. Những hạn chế - yếu kém và những vấn đề đặt ra trong việc thực
hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng..................52

2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU
CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH
MẠNG LÀO TRONG THỜI GIAN TỚI.................................................56

2.2.1. Nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, cán bộ làm công tác văn phòng
từ Trung ương đến địa phương về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Văn phòng Trung ương Đảng...................................................................56

2.2.2. Xác định rõ các yêu cầu và nội dung tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng trên một số mặt công tác chủ yếu................................58

2.2.3. Đổi mới, kiện toàn mạnh mẽ về tổ chức của Văn phòng Trung ương
Đảng..........................................................................................................65

2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các đồng chí Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đối với Văn phòng Trung ương Đảng....................................74

2.2.5. Tăng cường mối quan hệ giữa Văn phòng Trung ương Đảng với các
ban, ngành, đoàn thể Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy......................76

2.2.6. Bảo đảm các phương tiện, điều kiện làm việc, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân viên..............................................79

KẾT LUẬN....................................................................................................82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................85

TÓM TẮT LUẬN VĂN................................................................................91


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong cơ cấu tổ chức của hệ thống chính trị nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, Văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào có vai
trò đặc biệt quan trọng. Văn phòng Trung ương Đảng là cơ quan tham mưu,
giúp việc Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư
trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo của Đảng, phối hợp, điều hoà
hoạt động của các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng; tham mưu về
chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực kinh tế-xã hội, nội chính;
tham mưu về nguyên tắc và chế độ quản lý tài chính, tài sản của Đảng, trực
tiếp quản lý tài chính, tài sản của các cơ quan đảng Trung ương và bảo đảm
hậu cần phục vụ hoạt động của Trung ương Đảng; đồng thời là một trung tâm
thông tin tổng hợp phục vụ lãnh đạo. Giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư xây dựng, tổ chức thực hiện Quy chế làm việc và
chương trình công tác, sơ kết, tổng kết và sửa đổi, bổ sung Quy chế nếu thấy
cần thiết. Văn phòng Trung ương cũng là đầu mối phối hợp, điều hoà chương
trình công tác của đồng chí Tổng Bí thư, đồng chí Thường trực Ban Bí thư và
một số hoạt động của các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư để thực
hiện Quy chế làm việc và chương trình công tác của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư. Tham gia tổ chức phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hội nghị do Bộ
Chính trị, Ban Bí thư triệu tập; các cuộc làm việc của đồng chí Tổng Bí thư,
đồng chí Thường trực Ban Bí thư. Giúp Thường trực Ban Bí thư xử lý công
việc hằng ngày của Đảng.

Nâng cao công tác thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng là nhằm nâng cao năng lực để đảm nhiệm nhiệm vụ chính
2

trị giai đoạn mới, giúp Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thực hiện
sự lãnh đạo của mình đối với sự nghiệp cách mạng toàn diện, mọi mặt trong
giai đoạn mới một cách hiệu quả, thiết thực và toàn diện. Trong những năm
qua, Văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã cố gắng đổi
mới hoạt động, nỗ lực nâng cao hiệu quả trên các mặt công tác để hoàn thành
sứ mệnh lịch sử quan trọng của mình, giành nhiều thành công lớn.

Trong tình hình hiện nay, thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến rất
phức tạp với điều kiện thuận lợi và nhiều thách thức đặt ra sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng đất nước Lào đổi mới và hội nhập toàn diện. Cạnh tranh quyền
lực của các nước nhằm giành ưu thế ảnh hưởng tại Lào ngày một lớn, phức
tạp. Cùng với đó, các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống
phá toàn diện chế độ mới, nhất là thực hiện cuộc cách mạng màu để xóa bỏ
chế độ chính trị của Lào hiện nay trong chiến lược “diễn biến hòa bình” và
hoạt động tấn công, tuyên truyền bôi nhọ chế độ với thủ đoạn nêu vấn đề
nhân quyền, dân chủ, dân tộc, tôn giáo và các tệ nạn xã hội... để nhằm áp đặt
và can thiệp công việc nội bộ của Lào làm cho nhiệm vụ của các cơ quan nói
chung trong hệ thống chính trị ngày càng đứng trước nhiều thách thức. Nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, tiến hành
cải cách kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
mở cửa quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trong điều kiện còn nhiều
khó khăn và trở ngại, vừa có mặt tích cực và tiêu cực đã tác động đến vai trò
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các tổ chức quần chúng, đội ngũ cán bộ,
đảng viên.

Đối với tình hình trên, việc nắm bắt đầy đủ tình hình hoạt động của
Đảng, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, tình hình thế
giới, để thu thập thông tin chính xác và tham mưu kịp thời cho Ban Chấp
3

hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để có những quyết đáp chuẩn xác
trong việc điều hành hoạt động mọi mặt của đất nước là nhiệm vụ đòi hỏi phải
nâng cao hơn nhiều sự đổi mới hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng.
Từ đó, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Trung ương Đảng với hệ thống chính trị
một cách thông suốt, làm cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng phát triển đất
nước vững chắc; ổn định chính trị và trật tự xã hội; kinh tế không ngững tăng
trưởng và phát triển...

Để đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, nhiệm
vụ trọng điểm là phải tăng cường được hiệu lực, hiệu quả tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng. Trên thực tế thời gian qua, sự lãnh đạo của Bộ
Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng đối với Văn phòng Trung ương
Đảng một cách có hệ thống, nguyên tắc và toàn diện, tạo điều kiện thuận lợi
để Văn phòng Trung ương Đảng giành được những thành tựu đáng mừng trên
nhiều mặt. Nhưng so với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị giai đoạn mới đặt ra
thì còn nhiều vấn đề phải được khắc phục, giải quyết kịp thời. Vì thế, việc
nâng cao vai trò tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng là cần thiết,
khách quan và là yêu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài, bởi vì Văn phòng
Trung ương Đảng là một bộ máy trực tiếp phục vụ lãnh đạo Đảng cấp trên, có
vai trò quan trọng đóng góp vào thành quả và thắng lợi trong việc tổ chức
thực hiện công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng, vừa tham gia trong việc không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức sáng tạo của Đảng. Chỉ làm được
điều đó, Đảng Nhân dân cách mạng Lào mới có thể đề ra đường lối chính trị,
cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với hoành cảnh cụ thể của nhiệm vụ
cách mạng trong từng giai đoạn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mà
còn phù hợp với quy luật phát triển xã hội.
4

Từ việc nhận thức vấn đề như trên, chúng tôi chọn đề tài: “Thực hiện
chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành
Chính trị học. Nghiên cứu vấn đề này có tính cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần nào đó cho công tác thực hiện chức năng
tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng đáp ứng được yêu cầu giai đoạn
hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Trong thời gian qua, việc nghiên cứu cũng như việc tổ chức thực hiện
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng Trung ương Đảng trong
công tác tham mưu phục vụ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư Trung ương Đảng cũng đã ban hành nhiều văn bản như Nghị quyết, Quy
định, Văn bản Hướng dẫn về việc tổ chức và hoạt động của Văn phòng Trung
ương Đảng.

Đến nay, ở Lào cũng có một số công trình nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp
đơn vị đào tạo về vai trò tham mưu của các bộ, ngành và các tổ chức chính trị -
xã hội khác. Cụ thể như:

- “Củng cố tổ chức tham mưu của Đảng ở tỉnh Khăm Muộn” của học
viên Khăm Bay ĐĂM LẮT, Luận văn thạc sĩ Chuyên ngành Xây dựng Đảng,
được bảo vệ tại Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, năm 2011.

- “Nâng cao chất lượng lãnh đạo Đảng ủy của các cơ quan tham mưu của
Đảng cấp Trung ương” của học viên Bua Văn VI LA SẮC, Luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành Xây dựng Đảng, được bảo vệ tại Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia Lào, năm 2012.
5

- “Phát huy vai trò của Văn phòng Trung ương Đảng” của học viên Sỉ Su
Phăn THĂN SA MAY, Luận văn thạc sĩ Chuyên ngành Chính trị học, được bảo
vệ tại Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, năm 2013.

- “Củng cố công tác xây dựng cán bộ chuyên viên của Văn phòng Trung
ương Đảng” của học viên Lốt Cha Na SỈ VI LAY, Luận văn thạc sĩ Chuyên
ngành Xây dựng Đảng, được bảo vệ tại Học viện Chính trị và Hành chính quốc
gia Lào, năm 2013.

- Lịch sử và truyền thống 55 năm (1955 - 2010) sự hình thành và


trưởng thành của Văn phòng Trung ương Đảng, là công trình nghiên cứu về
lịch sử và truyền thống của Văn phòng Trung ương Đảng từ ngày thành lập và
nhiệm vụ của Văn phòng trong giai đoạn hiện nay, do TS Kham Phong BÚT ĐA
VÔNG làm chủ biên, sách được xuất bản vào năm 2011.

Ngoài ra, cũng còn có các bài viết được tăng trên các tạp chí như: bài
viết với tiêu đề “Một số ý kiến về thực hiện chức năng tham mưu phục vụ lãnh
đạo của Văn phòng Trung ương Đảng” của ông Pha Khăm IN SẺNG, được đăng
trên tạp chí A Lun Mai, số 7 năm 2014 và bài viết với tiêu đề “Một số vấn đề về
cán bộ tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng” cũng do ông Pha Khăm IN
SẺNG, được đăng trên Tạp chí Ko Xạng Phắc, số 161 năm 2015 và .v.v.

Các công trình nghiên cứu trên đã được các nhà khoa học nghiên cứu ở
các khía cạnh khác nhau, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về
công tác thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng. Đó
là khó khăn lớn đối với bản thân em trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận
văn, nhưng từ đó cũng thấy không gian nghiên cứu của vấn đề hết sức rộng mở,
có thể tiến hành nghiên cứu và giải quyết vấn đề không sợ bị trùng lặp về nội
dung so với các nghiên cứu trước đây.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn


6

3.1. Mục đích nghiên cứu


Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng công tác thực hiện chức năng
tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng hiện nay, luận văn đề xuất một
số phương hướng và giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao công tác thực hiện
chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:

- Làm rõ vai trò chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương
Đảng trong cơ cấu, tổ chức bộ máy của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và hệ
thống chính trị của Lào.

- Phân tích thực trạng công tác thực hiện chức năng tham mưu của
Văn phòng Trung ương Đảng.

- Đề xuất phương hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng trong thời
gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác thực hiện chức năng tham
mưu của Văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai
đoạn hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu


Luận văn tập trung nghiên cứu về chức năng tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng giai đoạn từ năm 2006 tức là từ Đại hội VIII của
Đảng NDCM Lào đến nay.
7

5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận văn


5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm
Chủ tịch Kay Sỏn Phôm Vi Hản và của Đảng NDCM Lào qua các kỳ Đại hội,
các Nghị quyết, văn bản... liên quan đến Văn phòng Trung ương Đảng nói
chung, chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng nói riêng để
làm cơ sở lý luận.

5.2. Phương pháp nghiên cứu


Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
lôgic kết hợp với lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để thực hiện
mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.

6. Đóng góp về khoa học của luận văn


- Trên cơ sở khái quát về công tác thực hiện chức năng tham mưu của
Văn phòng Trung ương Đảng, luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của
chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng trong thời gian tới.

- Từ thực trạng thành tựu và một số hạn chế trong việc thực hiện chức
năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng hiện nay, luận văn phân
tích làm rõ những luận cứ khoa học cho việc nâng cao chức năng tham mưu
của Văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong thời giai
tới.

7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn


- Góp phần vào cơ sở lý luận cho việc đề ra chủ trương, đường lối;
hoạch định chính sách đúng đắn liên quan đến yếu tố thực hiện chức năng
tham mưu có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị giai đoạn
8

mới của Văn phòng Trung ương Đảng mói riêng và các tổ chức chính trị - xã
hội nói chung.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên
cứu, giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trường Chính trị - Hành
chính và phục vụ cho đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành có liên quan đến
công tác tham mưu.

8. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
9

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU CỦA


VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO

1.1. VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH


MẠNG LÀO VÀ CHỨC NĂNG THAM MƯU

1.1.1. Quan niệm về tham mưu, văn phòng và Văn phòng Trung
ương Đảng

- Quan niệm về tham mưu

Tham mưu là khi một tổ chức hoặc một cá nhân tham gia (tham dự)
vào việc đề xuất thiết kế một kế hoạch, một chương trình và tổ chức thực hiện
(thi công) các kế hoạch, chương trình của một chủ thể quyền lực lãnh đạo,
quản lý nhất định.

Công tác tham mưu là một nghề chuyên sâu, có tính chuyên nghiệp
cao. Tham mưu không chỉ là cơ quan tham dự, đề xuất chủ trương, chính sách
cho cơ quan lãnh đạo, quản lý cấp mình mà còn là cơ quan hướng dẫn và chỉ
đạo thực hiện về lĩnh vực mình đảm trách cho cấp lãnh đạo, quản lý và cơ
quan tham mưu cấp dưới. Xét cả về chức năng tham dự lẫn chức năng hướng
dẫn tổ chức thực hiện thì cơ quan và cán bộ tham mưu đều có thuộc tính lãnh
đạo, quản lý và đồng thời phải cùng chịu trách nhiệm với cơ quan lãnh đạo,
quản lý về lĩnh vực mình tham mưu.

- Quan niệm về văn phòng


Văn phòng là bộ máy làm việc tổng hợp và trực tiếp trợ giúp cho
việc điều hành của ban lãnh đạo một cơ quan, đơn vị. Theo quan niệm này thì
ở các cơ quan thẩm quyền chung, cơ quan đơn vị có quy mô lớn thì thành lập
văn phòng (ví dụ Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng
10

Trung ương Đảng…) còn ở các cơ quan, đơn vị có quy mô nhỏ thì văn phòng
là phòng hành chính tổng hợp.

Văn phòng là cơ quan hành chính hoặc phòng điều hành; là tên gọi
của tổ chức bộ máy làm nhiệm vụ giúp việc lãnh đạo để chỉ đạo - lãnh đạo và
điều hành quản lý công việc.

Văn phòng còn được hiểu là nơi làm việc, nơi cung cấp các thông tin
trong nước và ngoài nước phục vụ lãnh đạo các cấp; là nơi làm việc của cán
bộ, công chức; là trung tâm của mọi công việc; là nơi thường trực của lãnh
đạo các ban ngành.

Với nguyên tắc điều hành và hành chính, một cơ quan nhất định, dù có
quy mô lớn - nhỏ đều được tổ chức nên vì mục đích và mục tiêu nào đó nhằm
đạt tới, làm tròn nhiệm vụ công việc. Để đạt tới mục đích, mục tiêu đã đề ra
đó thì phải có người lãnh đạo, có bộ máy giúp việc như: cán bộ nhân viên,
phương tiện, ngân sách, trang bị phục vụ văn phòng và nền nếp tổ chức thực
hiện công việc... Có thể hiểu, Văn phòng là là cơ quan điều hành, quản lý
hành chính; là nơi công tác của cán bộ nhân viên thực hiện nhiệm vụ đảm
nhiệm nhằm đạt tới mục đích và nhiệm vụ công việc.

- Quan niệm về Văn phòng Trung ương Đảng


Từ việc nêu quan niệm về Văn phòng trên đây, chúng ta có thể đưa ra
quan niệm về Văn phòng Trung ương Đảng như sau: Văn phòng Trung ương
Đảng là một cơ quan tổ chức trực thuộc Đảng, có vị trí ngang tầm với các cơ
quan tổ chức khác của Trung ương Đảng; Văn phòng Trung ương Đảng thực
hiện ba chức năng chủ yếu như: tham mưu, giúp việc Ban Chấp hành Trung
ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng chí Tổng Bí thư và đồng
chí thường trực Ban Bí thư; có nhiệm vụ phục vụ Trung ương; Văn phòng
Trung ương Đảng là trung tâm phối hợp với các bộ phận, các ban ngành liên
11

quan có nhiệm vụ phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo của Trung ương Đảng.
“Văn phòng Trung ương Đảng là một cơ quan tổ chức Trung ương Đảng có
chức năng tham mưu giúp việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của các trợ
lý tư vấn của Trung ương, của Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư trong
việc giám sát, kiểm tra, báo cáo và nghiên cứu tình hình việc tổ chức thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nghiên cứu tình hình
quốc tế; vừa là trung tâm liên hệ, phối hợp giữa các ban ngành khác của
Trung ương Đảng, giữa ban đảng của các cơ quan, ban ngành và các địa
phương (các cơ quan tổ chức của Đảng) với Trung ương Đảng và Bộ Chính
trị; tiếp nhận và phân phát các tài liệu của Trung ương và Bộ Chính trị, đồng
thời điều hành công tác nội bộ Văn phòng Trung ương Đảng, điều chỉnh và
hoàn thiện bộ máy tổ chức hoạt động hiệu quả hơn” [1,1].

1.1.2. Chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng

Văn phòng Trung ương Đảng là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, có chức năng tham mưu, giúp Ban Chấp hành Trung ương
trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo
của Đảng; phối hợp, điều hòa hoạt động của các cơ quan tham mưu của Trung
ương Đảng; đồng thời là một trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ lãnh đạo.

Để nghiên cứu sau về thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng thì chúng ta phải hiểu được nhiệm vụ, chức năng của Văn
phòng Trung ương Đảng.

Về những nhiệm vụ của Văn phòng Trung ương Đảng có những


nội dung như sau:
Một là, Nghiên cứu, theo dõi, phân tích, tổng hợp các vấn đề và thông
báo, kiến nghị chủ trương chính sách và các giải pháp giúp lãnh đạo. Giúp
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng và tổ chức
12

thực hiện chương trình công tác, quy chế làm việc. Thúc đẩy các cơ quan tổ
chức của Đảng, Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, nghị quyết Đại hội, nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương, chỉ thị, thông báo và chỉ đạo của lãnh đạo.

Hai là, Ban hành thông báo, quy định, thông tư về các vấn đề theo
nhiệm vụ được giao từ lãnh đạo cũng như theo chức năng của mình cho các
cơ quan tổ chức và cá nhân có trách nhiệm liên quan của Đảng và Nhà nước.
Thu thập, nghiên cứu thông tin trong nước và ngoài nước phục vụ lãnh đạo.

Ba là, Đảm nhiệm trực tiếp và phối hợp với đảng ủy của các cơ quan
tổ chức trực thuộc Trung ương; với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch
nước, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Bộ Quốc phòng, Văn phòng Bộ An
ninh, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, Mặt trận Lào
Xây dựng Đất nước, tổ chức quần chúng, Văn phòng của các tỉnh, Thủ đô
(Văn phòng Tỉnh ủy, Thành ủy Viêng Chăn) trong việc chuẩn bị chương trình
hoạt động công tác trong tuần, tháng, 3 tháng, 6 tháng và năm của Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư, đồng chí Tổng Bí thư và đồng
chí Thường trực Ban Bí thư.

Bốn là, Tổ chức phục vụ công tác chuẩn bị nội dung, chương trình
cuộc họp, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương; chuẩn bị nội dung gặp gỡ và
làm việc với các đoàn khách đến từ trong và ngoài nước của lãnh đạo. Thông
báo kết quả cuộc họp, hội nghị và cuộc gặp gỡ của lãnh đạo; kiểm tra và biên
tập Nghị quyết hội nghị, nôi dung bản báo cáo kết quản hoạt động của lãnh
đạo trong và ngoài nước; phối hợp với các ban ngành liên quan, thúc đẩy
công tác chuẩn bị nội dung cuộc họp liên quan về ngành đó đúng và đáp ứng
được tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo và thực hiện thành công theo đúng thời
giai quy định.
13

Năm là, Nghiên cứu, tổng duyệt nội dung các văn bản (Nghị quyết,
Chỉ thị, Thông báo...) trước khi trình xin ý kiến, chữ ký từ lãnh đạo để bảo
đảm nôi dung văn bản chính xác, đúng về nguyên tắc của Đảng.

Sáu là, Phối hợp với bộ phận liên quan trong việc chỉnh sửa, điều
chỉnh, bổ sung chế độ làm việc của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương,
Ban Bí thư, của đồng chí Tổng Bí thư và Thường trực Ban Bí thư; nghiên cứu
và điều chỉnh chế độ thực hiện các chính sách đối với lãnh đạo và nguyên
lãnh đạo Đảng – Nhà nước phù hợp và đúng với tình hình cụ thể của từ giai
đoạn.

Bảy là, Hợp tác và phối hợp với các ban ngành, cơ quan liên quan để
tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động công việc, cuộc sống, bảo đảm sự an
toàn trong công tác lãnh đạo, nguyên lãnh đạo trong phạm vi trực thuộc Văn
phòng Trung ương Đảng.

Tám là, Làm nhiệm vụ phục vụ về lễ tân, liên hệ với tổ chức ban
ngành liên đảm nhiệm về hoạt động công việc của lãnh đạo cấp cao; giữ gìn
và khôi phục, sửa chữa tài sản của Nhà nước đã giao cho lãnh đạo và Văn
phòng Trung ương Đảng quản lý, sử dụng có hiệu quả và trong một thời gian
dài.

Chín là, Kiện toàn bộ máy tổ chức, phương thác lãnh đạo, nền nếp
làm việc và xây dựng, bồi dưỡng cán bộ nhân viên của Văn phòng Trung
ương Đảng; quản lý và tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ,
chế độ chính sách đối với cán bộ, nhân viên đúng theo chế độ và chính sách
chung; chỉ đạo của các tổ chức quần chúng trong Văn phòng Trung ương
Đảng hoạt động thường xuyên và đúng với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ
chức.
14

Mười là, Quy định và ban hành văn bản pháp lý, chiến lược công tác
của Văn phòng Trung ương Đảng và công tác Đảng.

Mười một là, Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ về chất
lượng chuyên môn làm việc tại Văn phòng Trung ương Đảng, cũng như Văn
phòng của các Bộ ngành, cơ quan và địa phương; quản lý và sử dụng cán bộ
chuyên gia cấp cao có hiệu quả.

Mười hai là, Quản lý và hoàn thiện hệ thống mạng lưỡi thông tin của
Đảng, phát triển và khuyến khích sử dụng công nghệ thông tin điện tử, máy vi
tính, các dịch vụ thông tin của Văn phòng Trung ương Đảng; chỉ đạo việc sử
dụng thông tin học và tập huấn cho cán bộ chuyên viên của Văn phòng Trung
ương Đảng, Bộ ngành, cơ quan và các địa phương khác.

Mười ba là, Quản lý và lưu trữ các loại văn bản, tài liệu, thông tin của
Đảng, để phục vụ cho việc nghiên cứu và sử dụng trong công tác cụ thể của
Đảng.

Tất cả những nhiệm vụ nêu trên của Văn phòng Trung ương Đảng đã
thể hiện rõ chức năng tham mưu của Văn phòng ấy. Qua đó, chúng ta có thể
đặt nó làm cơ sở lý luận để phục vụ cho việc nghiên cứu về thực hiện chức
năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng.

Về tham mưu và chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương
Đảng có nội dung như sau:
Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, tham mưu là “góp ý kiến về
chủ trương, kế hoạch và biện pháp cho một người hay một tổ chức: ý kiến
tham mưu cho cấp ủy và tham mưu cho lãnh đạo” [1, 16].

Khi xem xét quan niệm về tham mưu và chức năng tham mưu của
Văn phòng Trung ương Đảng, cần phải dựa trên các quyết định, quy định của
15

Bộ Chính trị, Ban Bí thư xác định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Văn
phòng Trung ương Đảng trong mối quan hệ hữu cơ với các ban tham mưu của
Trung ương Đảng và phải xem xét đến đối tượng mà Văn phòng Trung ương
Đảng phải phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo. Có thể ở văn bản này, văn bản khác,
ở từng thời kỳ hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng, việc xác định
chức năng tham mưu chưa thật nhất quán hoặc chưa liên tục, nhưng hoạt động
thực tiễn suốt mấy chục năm qua, đặc biệt từ sau ngày giải phóng đất nước
đến nay, chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng thể hiện rõ ở
mấy nội dung như sau:

Một là, Văn phòng Trung ương Đảng tham mưu giúp Bộ Chính trị,
Ban Bí thư tổ chức và điều hành công việc lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
chủ yếu là tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư ra được những quyết định
đúng đắn, kịp thời để lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
đất nước. Đây là nội dung tham mưu chủ yếu riêng Văn phòng Trung ương
Đảng mới có.

Hai là, tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc xây dựng
và thực hiện quy chế làm việc và chương trình làm việc, đảm bảo nền nếp
khoa học, đảm bảo nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy trí tuệ,
sự năng động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân;
tham mưu tổ chức các cuộc họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ khâu chuẩn
bị đề án, thẩm định đề án, bố trí, sắp xếp lịch họp, tổ chức cuộc họp và ra các
quyết định của cuộc họp.

Ba là, Văn phòng Trung ương Đảng tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban
Bí thư với tư cách là một trung tâm thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng;
nội dung chủ yếu của chức năng này là biên tập các sản phẩm thông tin của
Văn phòng để cung cấp cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư làm cơ sở để ra các
16

quyết định đúng đắn, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư nắm chính xác, kịp thời
tình hình trong Đảng và tình hình đất nước; thông tin do Văn phòng Trung
ương Đảng cung cấp phải đảm bảo độ tin cậy cao, nhanh chóng, kịp thời và
thật chính xác.

Bốn là, Văn phòng Trung ương Đảng tham mưu cho Bộ Chính trị,
Ban Bí thư trong việc phối hợp, điều hòa các hoạt động của các cơ quan tham
mưu của Trung ương Đảng, trong đó có việc Văn phòng Trung ương Đảng
cùng phối hợp với các ban Trung ương Đảng kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban
Bí thư việc kiểm tra, đôn đốc việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
ở cấp ủy và tổ chức đảng.

Chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng tự thân nó
không có mục đích. Chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng
chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ trực tiếp cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư và giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên cơ sở tham mưu của Văn
phòng và các cơ quan tham mưu có liên quan, ra được những quyết định đúng
đắn, kịp thời, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của Đảng, của đất nước
trong mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng nhất định.

Từ lâu đã và đang tồn tại những ý kiến khác nhau về vai trò tham mưu
của Văn phòng Trung ương Đảng giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Các ý kiến
này xuất phát từ các quan điểm và góc đọ nhìn nhận khác nhau trong hoạt
động của Văn phòng Trung ương Đảng để đưa ra những lập luận về việc có
hay không có chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng, tựu
chung lại có hai loại quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất: Văn phòng Trung ương Đảng không có chức
năng tham mưu, mà chỉ có chức năng phục vụ sự lãnh đạo của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư. Vì Văn phòng Trung ương Đảng chỉ là cơ quan chuyên lo về
17

công tác văn bản, giấy tờ và bảo đảm các điều kiện làm việc một cách tốt nhất
cho Bộ Chính trị, Ban Bí Thư; nếu cho rằng Văn phòng Trung ương Đảng có
chức năng tham mưu tức là phải đưa ra những ý kiến độc lập để thẩm định
các đề án trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư giúp lãnh đạo có các quyết định đúng
đắn; điều này không phù hợp và vượt quá khả năng của Văn phòng Trung
ương Đảng, nếu xét cả về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và đội ngũ
cán bộ hiện nay.

Mặt khác, cũng không nên coi việc Văn phòng Trung ương Đảng giúp
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo của Đảng là
hoạt động tham mưu mà phải xác định đây là hoạt động phục vụ, còn nếu có
tham mưu thì tính chất tham mưu là chưa rõ, chưa nổi bật.

Cũng theo quan điểm này, chức năng tham mưu giúp sự lãnh đạo của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư là chức năng của các ban chuyên môn của Đảng ở
Trung ương. Tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo trên từng lĩnh
vực như: tổ chức, kiểm tra, kinh tế, tư tưởng, khoa giáo, nội chính... thì đã có
các ban chuyên sâu, còn nếu cứ gắn cho Văn phòng Trung ương Đảng chức
năng tham mưu, đặc biệt là tham mưu về nội dung lãnh đạo, thì có thể sẽ dẫn
tới hai khuynh hướng sau:

Một là, để thực hiện được việc tham mưu về nội dung giúp Bộ Chính
trị, Ban Bí thư trong công tác của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng sẽ phải
tổ chức thêm các vụ nghiên cứu, tăng cường cán bộ giỏi, chuyên sâu theo
từng lĩnh vực để tiến hành nghiên cứu, khảo sát, điều tra, thu thập thông tin và
thẩm định các đề án trình Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Phạm vi và
quy mô hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng sẽ lấn sang hoạt động
của các ban chuyên môn của Trung ương Đảng và với vị trí là cơ quan trực
tiếp nhất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Văn phòng Trung ương Đảng sẽ từng
18

bước “vô hiệu hóa” các ban đảng ở Trung ương và thậm chí trở thành “siên
ban”.

Hai là, với điều kiện tổ chức và cán bộ như hiện nay, kể cả trong
tương lai với chủ trương giảm biên chế, nếu Văn phòng Trung ương Đảng
thưc hiện việc tham mưu về mặt nội dung giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên
tất cả các lĩnh vực, sẽ có sự bất cập lớn giữa yêu cầu của công tác tham mưu
với năng lực và điều kiện bảo đảm chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng, do không đủ điều kiện và người để nghiên cứu và nắm đầy
đủ thông tin trước khi kiến nghị, đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư có thể
dẫn tới chất lượng công tác tham mưu sẽ không đáp ứng được yêu cầu của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư khi bàn và ra quyết định.

Quan điểm thứ hai: Loại ý kiến này cho rằng: không những Văn
phòng Trung ương Đảng có chức năng tham mưu, mà tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong công tác lãnh
đạo của Đảng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là rất quan trọng. Cần
hiểu rộng hơn, đầy đủ hơn khái niệm tham mưu, mà trực tiếp là tham mưu sự
lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ngoài việc giúp góp ý kiến có tính chất
chỉ đạo, công tác tham mưu đối với cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại
hội của Đảng còn là việc giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức và điều hành
công việc của Đảng một cách khoa học nhất, hợp lý nhất.

Vì tổ chức và điều hành công việc là một khoa học tinh tế và rất phức
tạp, nhất là tổ chức và điều hành của cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ
Đại hội của một Đảng cầm quyền quy nhất. Nên ở đây, đòi hỏi sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự
vận hành thông suốt và có hiệu quả cao cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”.
19

Những bất cập của công tác tham mưu cũng như việc thực hiện chức
năng tham mưu trong tổ chức, điều hành, kể cả các ý kiến tham mưu về mặt
nội dung của Văn phòng Trung ương Đảng đều có thể dẫn tới những hậu quả
xấu, ảnh hưởng lớn đến nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng. Như
vậy, cần hiểu một cách biện chứng mối quan hệ hữu cơ giữa chức năng tham
mưu và chức năng phục vụ của Văn phòng Trung ương Đảng là một thể thống
nhất, trong tham mưu có phục vụ và ngược lại.

1.1.3. Về cơ cấu bộ máy tổ chức, cơ chế hoạt động, lối làm việc và
cán bộ của Văn phòng Trung ương Đảng

Hiện nay, Văn phòng Trung ương Đảng có 6 đơn vị vụ trực thuộc với
hơn 169 cán bộ, nhân viên và thực hiện các mạng công việc như sau:

1. Về cơ cấu tổ chức của Đảng ủy:


Đảng ủy Văn phòng Trung ương Đảng được bầu từ Đại hội Đảng ủy
Văn phòng Trung ương Đảng, trong trường hợp không thể tiến hành Đại hội
thì do Bộ Chính trị hoặc Ban Bí thư Trung ương Đảng bổ nhiệm. Đảng ủy
Văn phòng Trung ương Đảng có 1 đồng chí Bí thứ, 1 đồng chí Phó Bí thư và
một số ủy viên, tất cả có 7 đồng chí. Đảng ủy Văn phòng là cơ quan lãnh đạo
tổ chức Đảng của Văn phòng [34, 1-3].

Ngoài Đảng ủy ra, Văn phòng Trung ương Đảng còn có bộ máy tổ
chức về phía Nhà nước như: 1 đồng chí Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương
Đảng, làm nhiệm vụ chỉ đạo, đảm nhiệm công tác chính trị - tư tưởng. Có 6
đồng chí Phó Chủ nhiệm Văn phòng như: Phó Chủ nhiệm thư nhất chỉ đạo
công tác Tổ chức - Văn phòng, đảm nhiệm công tác chuyên môn nghiên cứu
tổng hợp; Phó Chủ nhiệm thứ hai làm Trưởng ban kiểm tra, chỉ đạo lĩnh vực
hành chính - tài chính, đảm nhiệm công tác kiểm tra; Phó Chủ nhiệm thứ ba
đảm nhiệm công tác xây dựng cơ sở chính trị; Phó Chủ nhiệm thứ tư đảm
20

nhiệm Bảo tàng Kay Sỏn PHÔM VI HẢN; Phó Chủ nhiệm thứ năm và sáu
đảm nhiệm công tác tổng hợp thông tin phục vụ lãnh đạo. “Chủ nhiệm và Phó
Chủ nhiệm được bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm đều do Ban Tổ chức Trung ương
kiến nghị và Bộ Chính trị quyết định” [33, 4].

2. Về các đơn vị trực thuộc Văn phòng


- Vụ Thư ký Lãnh đạo
Vụ Thư ký Lãnh đạo gồm có 3 phòng trực thuộc như: Phòng Thư kỹ -
Kế hoạch, Phòng Chính sách và Văn phòng, Phòng Văn thư [36, 2-4].

Vụ Thư ký Lãnh đạo có nhiệm vụ giúp Văn phòng Trung ương Đảng
trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, đồng chí Tổng Bí thư, đồng chí Thường trực Ban Bí
thư, đồng chí thủ trưởng và phó Trưởng ban Văn phòng Trung ương Đảng
phù hợp với phương hướng công việc được quy định trong Nghị quyết qua
các kỳ Đại hội của Đảng; theo dõi, khuyến khích và phối hợp với các ban,
ngành, địa phương và các bộ phận liên quan trong việc tổ chức thực hiện
chương trình công việc; kiểm tra, biên tập nội dung và hình thức văn bản,
thông tin mà các bộ phận trình lên và xin chữ ký lãnh đạo; thông báo về ý
kiến chỉ đạo, quyết định lãnh đạo cấp trên với tư cách Văn phòng Trung ương
Đảng để thông báo cho bộ phận liên quan biết và tổ chức thực hiện; theo dõi,
kiểm tra việc tổ chức thực hiện Quyết định, chỉ đạo của Hội nghị Bộ Chính
trị, Hội nghị Ban Bí thư ở các ban ngành và các địa phương để báo cáo Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và thủ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng biết từng
giai đoạn; giúp ban đảng Văn phòng Trung ương Đảng trong việc phối hợp
với các Bộ ngành, cơ quan và bộ phận liên quan khác trong việc chuẩn bị tài
liệu Hội nghị Trung ương, Hội nghị Bộ Chính trị, Hội nghị Ban Bí thư và bài
phát biểu, bài nói chuyện, bài đóng góp ý kiến, bài trả lời phòng vấn trong
21

nước và quốc tế của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước,
đồng chí Thường trực Ban Bí thư, các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư và
ban đảng Văn phòng Trung ương Đảng; làm nhiệm vụ hẹn họp, giấy mời
tham dự hội nghị; theo dõi, ghi chép và ghi âm Hội nghị Bộ Chính trị, Hội
nghị Ban Bí thư; lữu trữ tài liệu và giữ thông tin bí mật của lãnh đạo, của các
tài liệu và văn bản khác; theo dõi và phối hợp với các ban ngành, địa phương
và các vụ khác trong Văn phòng Trung ương Đảng để tạo điều kiện thuận lợi
trong hoạt động, tổ chức thực hiện công việc một cách thường xuyên và có
hiệu quả.

- Vụ Tổng hợp
Vụ Tổng hợp gồm có 6 phòng trực thuộc như: Phòng Địa phường;
Phòng Lập pháp; Phòng Ngoại bang - Quốc phòng - An ninh; Phòng Kinh tế -
Xã hội; Phòng Văn hóa - Xã hội và Phòng Đảng - Cán bộ [38, 2-3].

Vụ Tổng hợp có những nhiệm vụ sau đây:


1. Chủ trì chuẩn bị dự thảo chương trình làm việc toàn khóa của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, chương trình làm việc hàng năm, hàng quý,
hàng tháng và hàng tuần của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
2. Theo dõi, đôn đốc và thẩm tra việc chuẩn bị các đề án do các ban,
ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc trình Trung ương, trước hết
về yêu cầu, phạm vi của đề án, về quy trình, tiến độ chuẩn bị và thể thức văn
bản của đề án. Tùy theo tính chất của đề án và khả năng, chủ động báo cáo
với lãnh đạo Văn phòng để tổ chức nghiên cứu, phát biểu ý kiến bằng văn bản
về nội dung đề án. Tham gia cùng cơ quan chủ đề án chính lý các văn bản của
Trung ương, trực tiếp biên tập những văn bản và chuẩn bị các đề án khi được
lãnh đạo Văn phòng Trung ương giao.
22

3. Tham gia phục vụ về mặt nội dung các cuộc hợp của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; chuẩn bị dự thảo các báo cáo của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Văn phòng Trung ương theo sự phân công của
lãnh đạo Văn phòng Trung ương.

4. Theo dõi, tiếp nhận thông tin, tổng hợp tình hình lãnh đạo, chỉ đạo
tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị... của Đảng theo từng lĩnh vực hoạt
động của các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung
ương, kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư những vấn đề cần thiết.

5. Theo dõi, đôn đốc các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy
trực thuộc Trung ương thực hiện chế độ báo cáo theo quy định của Trung
ương.

- Vụ Tổ chức - Văn phòng


Vụ Tổ chức - Văn phòng gồm có 5 phòng trực thuộc như: Phòng Tổ
chức Đảng - Quần chúng; Phòng Quản lý bộ máy và đào tạo cán bộ; Phòng
Chính sách - Khen thưởng; Phòng Lễ tân - Hợp tác quốc tế và Phòng Kiểm
tra – Giáo dục [39, 1-3].

Vụ Tổ chức – Văn phòng có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng kế hoạch


về công tác xây dựng Đảng, quản lý và đào tạo cán bộ; củng cố bộ máy tổ
chức, cơ chế thực hiện chính sách và điều hành phục vụ ban đảng, ban cán sự
Văn phòng Trung ương Đảng, công tác lễ tân và hợp tác quốc tế; xây dựng kế
hoạch, theo dõi công tác xây dựng Đảng, tổ chức quần chúng và nắm bắt tư
tưởng và hoạt động của cán bộ nhân viên Văn phòng Trung ương Đảng để
báo cáo với ban đảng, ban cán sự Văn phòng Trung ương biết; nghiên cứu và
kiến nghị củng cố bộ máy tổ chức, đào tạo cán bộ và quản lý cán bộ của Văn
phòng Trung ương Đảng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể từng giai đoạn như:
nghiên cứu việc xây dựng kế hoạch xây dựng cán bộ và quản lý cán bộ trong
23

toàn Văn phòng Trung ương Đảng toàn diện; quản lý về lý lịch, hoạt động của
cán bộ nhân viên; nghiên cứu, tuyển chọn sinh viên đã tốt nghiệp các chuyên
ngành để xin ý kiến bố trí làm nhân viên Văn phòng Trung ương Đảng theo
nhu cầu các đơn vị; nghiên cứu việc đón nhận cán bộ nhân viên từ nơi khác
về và luân chuyển cán bộ nhân viên đi công tác nơi khác; nghiên cứu và thực
hiện việc thăng chức, bậc lương cho cán bộ; nghiên cứu việc xây dựng cán bộ
nhân viên kế cận, bổ nhiệm chức vụ mới...

- Vụ Hành chính - Tài chính


Vụ Hành chính - Tài chính gồm có 5 phòng trực thuộc như: Phòng Kế
hoạch - Tài chính; Phòng Tòa nhà - Tu dưỡng; Phòng Tài sản - Đất đai;
Phòng Phương tiện và Phòng Hành chính - Tranh trí [37, 2-3].

Vụ Hành chính - Tài chính có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng kế


hoạch và phân bổ ngân sách hàng năm, hàng quý và hàng tháng để phục vụ
trong việc hoạt động công tác của Văn phòng như: công việc hành chính, hội
nghị, tiền lương, chế độ chính sách, tiếp đoàn khách trong nước và nước
ngoài của lãnh đạo cấp cao và cán bộ công chức Văn phòng Trung ương
Đảng; hoạch định và đảm nhiệm trong việc xây dựng cơ sở, tu sửa văn phòng,
hội trường, phòng họp, nhà khách, nhà ở của lãnh đạo, kể cả công việc lắp
đặt, thay thế các linh kiện, thiết bị điện, nước, điện thoại và đồ trang hoàng
khác; lập sổ sách quản lý, bảo khoản tài sản thuộc về quản lý của Văn phòng
Trung ương Đảng; tu dưỡng, phân bố trang trí và phục vụ phòng làm việc,
phòng tiếp khách của lãnh đạo, phòng họp, hội trường, nhà khách, vườn hoa,
cây gỗ, vườn cỏ, bể nước, sân và con đường phục vụ trong các nghi thức công
việc; lập kế hoạch về nhu cầu, sử dụng, quản lý, tu dưỡng, sửa chữa, thay thế
các công cụ, phương tiện, dầu khí, nhiên liệu phục vụ lãnh đạo và những công
việc của Văn phòng Trung ương Đảng; quản lý, tổ chức thực hiện và tổng kết
24

khoản chi ngân sách và khoản thu - chi từ các khoản tiền khác hàng tháng, 3
tháng, 6 tháng, 9 tháng và hàng năm theo thể thức tài chính.

- Vụ Lưu trữ văn thư


Vụ Lưu trữ văn thư gồm có 4 phòng trực thuộc như: Phòng Quản lý -
Bảo giữ và sử dựng văn thư; Phòng Biên tập và kỹ thuật; Phòng Hành chính
lưu trữ và Phòng Thư viện [40, 2-3].

Vụ Lưu trữ văn thư có những nhiệm vụ như sau:


1. Giúp Chánh Văn phòng theo dõi, đôn đốc việc chuẩn bị tài liệu, tư
liệu, băng hình, thành phần mời họp; xây dựng chương trình nghị sự các hội
nghị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Thường trực;
làm biên bản các cuộc họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

2. Tiếp nhận, đăng ký, phân phối tài liệu của các cấp, các ngành gửi
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Văn phòng Trung ương; nhân
sao, phát hành, thu hồi tài liệu, văn kiện của Trung ương và Văn phòng Trung
ương gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Ủy viên Trung ương, các
ban, ngành và các cấp ủy trực thuộc Trung ương.

3. Trực tiếp quản lý kho tài liệu lưu trữ của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng; sưu tầm, thu thập, chỉnh lý và bảo quản an toàn tài liệu văn kiện
của Trung ương Đảng; phục vụ các yêu cầu khai thác theo quy định của Ban
Bí thư và Văn phòng Trung ương Đảng; chỉ đạo, hướng dẫn và bồi dưỡng
nghiệp vụ văn thư, lưu trữ đối với các cơ quan Đảng ở Trung ương các Văn
phòng cấp ủy, Trung ương Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng Lào và các
tổ chức chính trị - xã hội.

4. Tiếp nhận, đăng ký, nghiên cứu, đề xuất ý kiến xử lý và làm thủ tục
chuyển đến các cơ quan có trách nhiệm giải quyết các đơn thư của cán bộ,
đảng viên, nhân dân gửi đến Trung ương Đảng được kịp thời và đúng với
25

quyết định. Theo dõi, đôn đốc các cơ quan có trách nhiệm giải quyết các vụ
việc được các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Văn phòng
Trung ương Đảng giao và tình hình giải quyết đơn thư do Văn phòng Trung
ương Đảng chuyển đến các ngành, các cấp.

- Vụ Xây dựng cơ sở chính trị


Vụ Xây dựng cơ sở chính trị gồm có 3 phòng trực thuộc như: Phòng
Quản lý tổng hợp; Phòng xây dựng cơ sở chính trị và Phòng Nghiên cứu phân
tích [41, 1-2].

Vụ Xây dựng cơ sở chính trị có những nhiệm vụ như sau:


1. Nghiên cứu và cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng mà liên
quan tới công việc đảm nhiệm của mình để kế hoạch hóa, cụ thể hóa trong
hoạt động công việc; đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả; tìm hiểu, nắm
bắt tình trạng tư tưởng, tinh thần của các tầng lớp trong nước đối tượng để có
chính sách thu hút và cạnh tranh đúng đắn. Đồng thời, tìm hiểu cách thức
phòng chống kịp thời đối với những tuyên truyền xuyên tạc của thế lực thù
địch; phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ An nhinh, Văn phòng
Quỷ ban Quốc phòng - An nhinh Trung ương và các bộ phận liên quan khác
trong việc nghiên cứu và tìm cách tuyên truyền, vận động các tầng lớp và xây
dựng cơ sở chính trị các nước đối tượng; quan hệ, phối hợp các bộ phận liên
quan để phục vụ nhiệm vụ chính trị của mình được giao.

1.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH


HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU CỦA
VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

1.2.1. Nội dung và phương thức thực hiện chức năng tham mưu
của Văn phòng Trung ương Đảng
26

Về Nội dung thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung
ương Đảng
Với bề dày truyền thống và kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình
phục vụ sự lãnh đạo các cơ quan đầu não của Đảng, Văn phòng Trung ương
Đảng đã có những đóng góp to lớn trong việc tham mưu phục vụ Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Nội dung thực hiện chức năng
tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng được thể hiện quan các mặt công
tác như sau:
Một là, Tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế và chương
trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Sau mỗi kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều
giao cho Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp với các ban đảng căn cứ vào
Điều lệ Đảng và các Văn kiện có liên quan, xây dựng dự thảo Quy chế làm
việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Văn phòng
Trung ương Đảng đã chủ trì phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban
Kiểm tra Trung ương và các ban đảng khác xây dựng dự thảo Quy chế làm
việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư là văn bản quan trọng dưới Điều lệ Đảng quy định về trách nhiệm,
quyền hạn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng
Bí thư, đồng chí Thường trực Ban Bí thư, về chế độ làm việc và phương pháp
công tác của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí
thư, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Đồng thời,
Quy chế làm việc này cụ thể hóa nội dung lãnh đạo và phương thức lãnh đạo
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí
thư đối với Nhà nước và toàn xã hội.
27

Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư bao gồm chương
trình hàng năm, hàng quý, hàng tháng, hàng tuần. Yêu cầu tổng quát của việc
xây dựng chương trình công tác là bảo đảm giải quyết nhiệm vụ của Đảng mà
chương trình toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra, đồng thời
bảm đảm giải quyết công việc trước mắt, những vấn đề đột xuất. Xây dựng
chương trình làm việc của Bộ Chính trị phải bảo đảm được sự lãnh đạo của
Đảng đi đôi với phát huy hiệu lực điều hành, quản lý của Nhà nước và vai trò
của các đoàn thể nhân dân. Cố gắng đến mức cao nhất để Bộ Chính trị, Ban
Bí thư giảm bớt họp nhưng vẫn giải quyết được những vấn đề cơ bản, quan
trọng của Đảng và đất nước về kinh tế, xây dựng Đảng, an ninh – quốc phòng,
đối ngoại, dành thời gian thích đáng để các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đi cơ sở, tăng cường công tác kiểm tra, tăng cường công tác chỉ
đạo cơ sở.

Là cơ quan tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức và điều
hành công việc lãnh đạo của Đảng, tổ chức thực hiện chương trình công tác,
quy chế làm việc của Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng căn cứ vào
các văn kiện Đại hội để xây dựng chương trình toàn khóa của Trung ương; từ
chương trình làm việc toàn khóa và Quy chế làm việc của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; trên cơ sở đề xuất của các ban đảng,
ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc, những diễn biến của tình
hình trong nước và quốc tế, những vấn đề mới nảy sinh cũng như việc nắm
bắt những tư tưởng chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo, Văn phòng Trung
ương Đảng xác định các loại vấn đề cần được bàn và xử lý, phân loại, lựa
chọn kiến nghị đưa vào chương trình công tác hàng năm, hàng quý, hàng
tháng, hàng tuần của Bộ Chính trị, Ban Bí thư phù hợp với thẩm quyền của
Bộ Chính trị hay Ban Bí thư theo quy chế. Việc xây dựng chương trình đòi
hỏi phải đúng yêu cầu và nguyên tắc làm việc, không bỏ sót những vấn đề cần
28

thiết, xác định thời gian họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư phù hợp với nội
dung, tính chất của vấn đề đưa ra.

Hai là, Tham mưu về công tác thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư.

Từ trước đến nay, Văn phòng Trung ương Đảng có nhiệm vụ tiếp
nhận các thông tin từ các địa phương, các bộ, ban, ngành, các Đảng bộ trực
thuộc và các thông tin khác gửi đến Trung ương, thẩm định, xử lý sơ bộ trước
khi trình Ban Bí thư, Bộ Chính trị quyết định; các thông tin đến Văn phòng
Trung ương Đảng gồm có các loại như sau:

- Báo cáo hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng quý, sơ kết 6 tháng
và tổng kết năm phản ánh tình hình thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương và sơ kết tổng kết công tác của các ban đảng, các ban cán sự đảng, các
đảng đoàn ở Trung ương, các đảng bộ địa phương.

- Báo cáo chuyên đề mang tính tổng kết, sơ kết hoặc kiểm tra tình
hình thực hiện nghị quyết của các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, các
đảng bộ trực thuộc gửi Trung ương.

- Các báo cáo đột xuất phản ánh tình hình đặc biệt về thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương.

- Bao cáo xin ý kiến xử lý công việc có liên quan thuộc thẩm quyền
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư.

- Các văn bản của các cơ quan nhà nước và các cơ quan của Đảng phát
hành chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ được giao (gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư để
báo cáo hoặc gửi Văn phòng Trung ương Đảng để biế, theo dõi, tổng hợp).

Trên cơ sở các thông tin đã tiếp nhận, Văn phòng Trung ương Đảng,
tùy thuộc vào tính chất, vào mức độ quan trọng khác nhau của các tin mà
29

quyết định việc sao nguyên bản chính hoặc biên tập thành tin, tóm tắt nội
dung, tổng hợp thành báo cáo gửi đến các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương, các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sản phẩm thông tin của
Văn phòng Trung ương phục vụ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư gồm:

- Báo cáo hàng ngày gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

- Báo cáo hàng tuần gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

- Báo cáo hàng tuần điểm tin các văn bản gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

- Báo cáo đầu tháng và giữa tháng gửi các Ủy viên Trung ương Đảng
và các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương.

- Bản tin đối ngoại gửi các Ủy viên Trung ương Đảng.

- Báo cáo tin hoạt động của các tỉnh, thành ủy gửi các cấp ủy đảng
trực thuộc Trung ương.

- Báo cáo chuyên đề, đột xuất, báo cáo thẩm định của chuyên viên.

- Tài liệu tham khảo gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương.

Ba là, Tham mưu về việc phối hợp, điều hòa hoạt động của các cơ
quan tham mưu của Trung ương Đảng.

Các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính
trị, Ban Bí thư gồm có 13 ban (Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức
Trung ương, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Bảo vệ Chính trị nội
bộ Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban
Kinh tế Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương,
Ban Nghiên cứu của Bộ Chính trị về an ninh quốc phòng, Ban Tài chính -
30

Quản trị Trung ương, Ban cán sự đảng Ngoài nước và Văn phòng Trung ương
Đảng).

Mỗi ban đều có chức năng, nhiệm vụ tổ chức riêng và có chức năng
tham mưu chuyên sâu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư về lĩnh vực mà ban phục
trách. Ví dụ: Ban Kinh tế Trung ương tham mưu về chủ trương và các chính
sách lớn thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội; Ban Tư tương - Văn hóa Trung ương
tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tư tưởng - văn
hóa; Ban Tổ chức Trung ương tham mưu về chủ trương và cá chính sách lớn
thuộc lĩnh vực tổ chức - cán bộ của hệ thống chính trị, đồng thời là cơ quan
chuyên môn - nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên của Trung
ương; Ban Khoa giáo Trung ương tham mưu về chủ trương và các chính sách
lớn thuộc lĩnh vực khoa giáo (bao gồm khoa học, công nghệ, giáo dục, đào
tạo, sức khỏe, giới trí thức khoa học...).

Trong các ban nói trên, duy nhất chỉ có Văn phòng Trung ương Đảng
là có chức năng phối hợp, điều hòa hoạt động của các cơ quan tham mưu của
Trung ương Đảng. Trong những năm qua, Văn phòng Trung ương Đảng đã
phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn
phòng Chính phủ và các ban Trung ương Đảng để giúp Bộ Chính trị, Ban Bí
thư tổ chức điều hành công tác lãnh đạo của Đảng và phối hợp, điều hòa hoạt
động của các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng.

Văn phòng Trung ương Đảng thực hiện công tác phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan liên quan trong xây dựng chương trình làm việc toàn khóa
của Ban Chấp hành Trung ương, chương trình làm việc hàng năm, 6 tháng,
quý, tháng, tuần của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Về cơ bản
chương trình làm việc bảo đảm đúng quy chế, bao quát được các lĩnh vực, các
vấn đề quan trọng cần sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước giúp Trung
31

ương cụ thể hóa nhanh Nghị quyết Đại hội Đảng; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ
đạo thường xuyên trong từng giai đoạn; đồng thời những vấn đề đột xuất, phát
sinh không nằm trong chương trình đã có sự phối hợp để tham mưu điều hòa
kịp thời, giúp các cơ quan lãnh đạo xử lý nhanh trong mọi tình huống, góp
phần giữ vững sự ổn định và phát triển của đất nước.

Về phương thức thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng
Qua các quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức của Văn phòng Trung ương Đảng qua các thời kỳ, chức
năng, nhiệm vụ của Văn phòng Trung ương, trong đó có chức năng tham
mưu, ngày càng được làm rõ, cụ thể và ngày càng được mở rộng để sử dụng
và phát huy ngày càng tốt hơn vai trò Văn phòng Trung ương trong phục vụ
sự lãnh đạo, điều chỉnh của các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Trung ương
Đảng. Khi đánh giá về phương thức thực hiện chức năng tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng đối với hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương
mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần dựa trên mấy nội dung cơ bản sau
đây:

1. Nội dung tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng phải góp cho
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ
chức, điều hành công việc lãnh đạo của Đảng có nền nếp, khoa học, có hiệu
quả. Đó là việc tham mưu xây dựng và tổ chức chương trình làm việc của Ban
Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tổ chức xây dựng và
thực hiện quy chế làm việc của các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng. Đó là
tham mưu tổ chức các cuộc hội nghị, các cuộc họp, các cuộc làm việc của tập
thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của các đồng chí
lãnh đạo cao cấp của Đảng với các cấp, các ngành đảm bảo chu đáo, khoa
32

học, hiệu quả cao, giúp cho lãnh đạo ra được những quyết định đúng đắn, kịp
thời, có khả năng thực thi trong cuộc sống, đáp ứng được những nguyện vọng
của toàn Đảng, toàn dân. Chỉ có thông qua các hoạt động có hiệu quả của bộ
máy lãnh đạo của Đảng mới có thể xác định một cách chính xác hiệu quả,
chất lượng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng.

2. Chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng phải gắn
với hệ thống các ban tham mưu của Đảng nói riêng và với toàn bộ hệ thống tổ
chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương nói chung. Văn phòng Trung
ương Đảng là cơ quan có chức năng giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư phối hợp,
điều hòa hoạt động của các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng. Chức
năng này duy nhất chỉ Văn phòng Trung ương Đảng mới có, đây là trung tâm,
là đầu mối liên kết các mối quan hệ, trước hết là với các ban tham mưu Đảng
để phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Vì vậy, Văn phòng Trung ương Đảng nếu chỉ làm tốt chức năng, nhiệm vụ
của mình là chưa đủ mà còn là trung tâm, phối hợp điều hòa hoạt động của
các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng. Đây là một phương thức thực
hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng.

3. Ngoài chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng, trực
tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo của
Đảng; phối hợp, điều hòa hành động của các cơ quan tham mưu của Trung
ương Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng còn là một trung tâm thông tin tổng
hợp phục vụ lãnh đạo. Công tác thông tin tổng hợp của Văn phòng Trung
ương Đảng có vị trí vô cùng quan trọng đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, đây là cơ sở rất quan trọng để các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng
nắm được tình hình của Đảng, của đất nước, tình hình trong nước và nước
ngoài; là những thông tin tin cậy, có độ chính xác cao giúp cho Trung ương,
33

Bộ Chính trị, Ban Bí thư ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Tổ
chức tốt công tác thông tin phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là một
trong những phương thức thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng.

4. Văn phòng Trung ương Đảng cần phải xây dựng các bộ phận
nghiệp vụ, kỹ thuật văn phòng đủ mạnh để đáp ứng các yêu cầu lãnh đạo của
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách
mạng, có bản lĩnh và phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao, tinh thông nghề nghiệp, trang bị hiện đại để làm tốt chức năng tham mưu
của Văn phòng Trung ương Đảng. Đây là một phương thức thực hiện chức
năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng, vừa là cơ sở, vừa là tiền đề
để Văn phòng Trung ương Đảng thực hiện được nhiệm vụ của mình và không
ngừng nân cao chất lượng tham mưu phục vụ sự lãnh đạo của Đảng.

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng
tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng

Để nâng cao chất lượng thực hiện chức năng tham mưu đối với sự
lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, không thể không tính tới những nhân
tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung
ương Đảng. Qua thực tiễn công tác, nếu biết phát huy và lợi dụng tốt các nhân
tố sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng tham mưu của Văn phòng Trung
ương Đảng và ngược lại, nếu không biết tận dụng có hiệu quả các nhân tố tích
cực, sẽ làm giảm hiệu quả của công tác tham mưu, thậm chí có khi làm cản
trở công việc tham mưu.

Có thể kể đến những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng
tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng như sau:
34

1. Như đã trình bày, khác với các ban đảng, Văn phòng Trung ương
Đảng là cơ quan gần gũi nhất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tiếp tục và thường
xuyên phục vụ sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Vì vậy, sự quan tâm
và chỉ đạo sát sao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư mà trực tiếp là đồng chí Tổng
Bí thư và đồng chí Thường trực Ban Bí thư là nhân tố rất quan trọng để nâng
cao chất lượng công tác văn phòng nói chung, trong đó có chất lượng công tác
thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng. Một mặt,
các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng động viên, cổ vũ, khích lệ những mặt
làm tốt, mặt khác sẽ kịp thời chỉ đạo, uốn nắn những sai sót, khuyết điểm.
Điều đó sẽ giúp cho cán bộ, nhân viên văn phòng tiến bộ nhanh chóng.

2. Với tư cách là cơ quan chủ trì, phối hợp giúp Bộ Chính trị, Ban Bí
thư điều hòa các hoạt động của các ban tham mưu của Đảng, chất lượng tham
mưu của Văn phòng Trung ương Đảng phụ thuộc vào hoạt động của cả hệ
thống bao gồm các ban đảng, các cơ quan nhà nước và các tỉnh ủy, thành ủy.
Vì vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng thực hiện chức năng tham mưu của
Văn phòng Trung ương Đảng, cũng cần kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí
thư quan tâm đúng mức đến hoạt động của các ban đảng, cá cơ quan có liên
quan và đến chất lượng đội ngũ cán bộ của các cấp ủy và tổ chức đảng nói
chung, Chỉ bằng cách làm như vậy, chất lượng thực hiện chức năng tham mưu
đối với sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư mới bảo đảm toàn diện,
đồng bộ và có hiệu quả cao.

3. Xác định đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
tham mưu, nội dung tham mưu là yếu tố quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng thực hiện chức năng tham mưu. Vì vậy, cần tiếp tục làm rõ hơn, cụ
thế hơn nội dung tham mưu nói chung, nội dung tham mưu và mức độ tham
mưu trên từng lĩnh vực công tác ở Văn phòng Trung ương để một mặt, không
35

thể quên hoặc chậm trễ công việc. Nhưng mặt khác, không làm lấn sân công
việc của các ban chuyên môn.

4. Chương trình làm việc, nội dung cần bàn và ra quyết định phương
thức và chế độ làm việc cũng ảnh hưởng đến công tác thực hiện chức năng
tham mưu; mỗi phương thức và lề lối làm việc khác nhau đòi hỏi cách thức tổ
chức tham mưu cũng khác nhau. Vì vậy, việc tổ chức chương trình làm việc,
phương thức và chế độ làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải nhất quán,
khoa học thì mới tạo điều kiện cho Văn phòng Trung ương Đảng làm tốt hơn
chức năng tham mưu của mình.

5. Các yếu tố bảo đảm cho công tác tham mưu như điều kiện cơ sở vật
chất, thông tin, điều kiện tiếp xúc và giải quyết công việc; cơ hội để nâng cao,
cập nhật kiến thức mới cũng ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện chức năng
tham của Văn phòng Trung ương Đảng.

6. Do làm việc ở một cơ quan mật, bị sàng buộc ở nhiều quy định chặt
chẽ, khắt khe, điều đó cũng làm ảnh hưởng một phần nào đó đến tính sáng
tạo, cởi mở của chuyên viên tham mưu trong tư duy độc lập và dám kiến nghị
những vấn đề có tính đột phá.

7. Chất lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng thực
hiện công tác tham mưu. Một số cán bộ còn yếu và không đồng đều về
chuyên môn; thời gian gần đây, bổ sung nhiều cán bộ từ các địa phương hoặc
từ các cơ quan khác về, vốn đã quen với cách nghĩ, cách làm của cơ quan cũ,
nên chưa kịp thích ứng với điều kiện và lề lối làm việc ở Văn phòng Trung
ương Đảng. Mặt khác, cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng đòi hỏi phải được
đào tạo chuyên sâu về công tác văn phòng và phải có thời gian nhất định công
tác ở Văn phòng Trung ương Đảng thì mới đủ bản lĩnh, kinh nghiệm và trình
độ xử lý công việc.
36

8. Chưa kết hợp chặt chẽ giữa công tác đào tạo với công tác tuyển
dụng, tuyển chọn về cơ quan những công chức có trình độ cao, có nhiều kinh
nghiệm công tác Đảng và công tác văn phòng cũng là nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng.

9. Chính sách sử dụng, đãi ngộ còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm điều
kiện vật chất, trước hết là vấn đề nhà ở và vấn đề thu nhập, nên rất khó khăn
trong việc điều động những cán bộ giỏi, tâm huyết với nghề về công tác ở
Văn phòng Trung ương Đảng.

TIỂU KẾT
Việc nghiên cứu, xem xét vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức
của Văn phòng Trung ương Đảng cũng như phân tích thực trạng chất lượng
thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng, đánh giá
những việc làm tốt, những khuyết điểm, yếu kém tồn tại, rút ra nguyên nhân
và những bài học kinh nghiệm là cơ sở rất quan trọng để đề ra các mục tiêu,
phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chức
năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Nội dung này sẽ được đề cập trong chương 2 của luận văn.
37

Chương 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHỨC NĂNG


THAM MƯU CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN
CÁCH MẠNG LÀO

2.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM MƯU


CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NDCM LÀO

Từ khi thành lập và bắt đầu từ bộ máy giúp việc đầu tiên của Trung
ương Đảng, là thành phần chiến đấu hàng ngày gần gũi và gắn bó trực tiếp
với ủy ban chỉ đạo Trung ương Đảng. Bắt đầu từ việc phục vụ và giúp việc
trực tiếp cho Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Han, Bí thư ban chỉ đạo Trung ương
Đảng và tổng tư lệnh quân sự Lào ít xa la (tự do), Văn phòng Trung ương
Đảng đã trải qua quá trình lịch sử biết bao thăng trầm gắn liền với quá trình
cách mạng dân chủ và sự nghiệp bảo vệ và xây dựng phát triển chế độ mới,
cũng như gắn liền với sự trưởng thành của Đảng sau nay. Xuất phát từ “ đoàn
24” năm 1955 đã tổ chức và hoạt động thực hiện chức năng giúp việc Trung
ương Đảng dựa trên tên của văn phòng mặt trận yêu nước. Đến năm 1968 đã
có sự chia tách và đổi tên thành “văn phòng nghiên cứu của trung ương
Đảng”; Từ năm 1968-1975 là giai đoạn cách mạng đã trưởng thành và phát
triển trên nhiều mặt, yêu cầu nhiệm vụ chính trị giai đoạn này cũng ngày càng
tăng lên. Chính vì vậy, đã thực hiện tiến hành cải cách tổ chức bộ máy, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của văn phòng nghiên cứu trung ương Đảng có
phạm vi chịu trách nhiệm các công việc rộng và nhiều hơn. Sau khi đất nước
đã được giải phóng hoàn toàn ngày 2 tháng 12 năm 1975, văn phòng nghiên
cứu trung ương đảng đã chuyển trụ sở từ huyện Viêng Xay, tỉnh Hua Phăn
sang Thủ đô Viêng Chăn và quyết định sáp nhập văn phòng Thủ tướng phe
Viêng Chăn vào bộ máy văn phòng nghiên cứu Trung ương Đảng, nhưng lúc
38

đó chưa gọi văn phòng Trung ương Đảng. Đến năm 1977, sau khi Trung ương
Đảng có nghị quyết công khai về công tác Đảng trên cả nước, lúc này mới gọi
là “văn phòng Trung ương Đảng”; do điều kiện thực tế, lúc đó Chủ tịch Cay
Sỏn Phôm Vi Han, kiêm nhiệm chức danh Tổng bí thư và Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng. Đến tháng 10 năm 1979, Bộ chính trị Trung ương Đảng đã ban
hành nghị quyết số 33/BCT về việc thành lập Văn phòng Trung ương Đảng
và Văn phòng hội đồng Bộ trưởng, là cơ quan tương đương với các ban của
Đảng, tương đương Bộ và có chức năng tổ chức nghiên cứu-tổng hợp, phục
vụ Trung ương Đảng như là Bộ chính trị, Ban bí thư Trung ương Đảng và
Tổng bí thư; phục vụ Hội đồng Bộ trưởng như là Ban thường trực Hội đồng
Bộ trưởng và Thủ tướng Chính Phủ, góp phần bảo đảm kết quả sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước ngày càng phát triển.

Sau khi đại hội V của Đảng, cơ cấu tổ chức bộ máy Trung ương Đảng
và Hội đồng Bộ trưởng đã có sự thay đổi. Năm 1992, văn phòng Trung ương
Đảng và Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng đã có sự điều chỉnh, đã chia tách hai
văn phòng theo hướng điều chỉnh, bố trí lại tổ chức bộ máy của Đảng và Nhà
nước các cấp phù hợp với yêu cầu đổi mới; đã quy định và phân công rõ ràng
về phương thức lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý nhà nước cho đến nay;
làm cho tổ chức bộ máy của Văn phòng Trung ương Đảng thay đổi theo
hướng tích cực và có sự ổn định, các cục (vụ), sở, phòng…đã quy định rõ về
việc tổ chức và hoạt động, lề lối làm việc phù hợp, có sự phân công, phân
trách nhiệm cụ thể, rõ ràng. Việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ cũng từng bước
đổi mới; tạo được đội ngũ cán bộ có trình độ kiến thức về chuyên môn và lý
luận chính trị, phẩm chất đaọ đức cách mạng, trung thành với Đảng, với nước
và nhân dân, có tư tưởng vững vàng; duy trì lập trường giai cấp. Phần lớn cán
bộ, đảng viên ở Văn phòng Trung ương Đảng đều tin tưởng và yên tâm trong
quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, không lung lay trước sự biến động; có
39

kinh nghiệm và khả năng tổ chức triển khai công tác chuyên môn nhất định,
góp phần giúp Trung ương Đảng nâng cao chất lượng lãnh đạo trong sự
nghiệp đổi mới và việc tổ chức thực hiện triển khai chủ trương, đường lối của
đại hội VIII và đại hội IX của Đảng đề ra.

2.1.1. Những thành tựu việc thực hiện chức năng tham mưu của
Văn phòng Trung ương Đảng

- Công tác chính trị - tư tưởng


Giữ vững lập trường của Đảng, coi công tác chính trị tư tưởng là cái
gốc và liên quan đến mọi lĩnh vực, cũng như trên cơ sở thực hiện 4 khâu đột
phá của Đảng là nhiệm vụ quan trọng của Văn phòng Trung ương Đảng. Văn
phòng Trung ương Đảng đã tập trung vào việc giáo dục chính trị tư tưởng,
quán triệt chủ trưởng, đường lối, nghị quyết, chỉ thi và các quy chế của đảng,
pháp luật của Nhà nước như: nghị quyết đại hội VIII, IX của Đảng nhân dân
cách mạng Lào, các nghị quyết của ban chấp hành Trung ương Đảng, học tập
đạo đức cách mạng của Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Han, Chủ tịch Su Pha Nu
Vông và các văn bản quan trọng khác trong những ngày lễ trọng đại lịch sử
của Đảng, Nhà nước, tổ chức đoàn thể… Tiến hành tổ chức sinh hoạt chính trị
mỗi năm nhằm mục tiêu giáo dục chính trị tư tưởng, kiểm tra đánh giá, xếp
loại cán bộ, đảng viên, tham khảo ý kiến quần chúng về uy tín của cán bộ lãnh
đạo, quản lý; đồng thời thực hiện thường xuyên việc hội hợp, nghe báo cáo
của cơ sở Đảng, của các cục, sở và các tổ chức đoàn thể mỗi tháng. Đặc biệt
Văn phòng Trung ương Đảng đã thành công việc tổ chức nghiên cứu và viết
cuốn lịch sử truyền thống của mình; đồng thời Chính phủ đã trao tặng huân
chương tự do hạng I cho Văn phòng Trung ưong Đảng nhân dịp 55 năm, kỷ
niệm ngày thành lập Văn phòng Trung ương Đảng (1995-2010); đây chính là
nguồn động viên lớn lao về tinh thần cách mạng và tự hào của cán bộ, đảng
40

viên Văn phòng Trung ương Đảng. Ngoài ra đã tập trung xây dựng phòng
truyền thống của Đảng cũng như của Văn phòng Trung ương Đảng; trong đó
có một số cục đã xây dựng phòng truyền thống của cục nhằm giáo dục cán bộ,
đảng viên hiểu biết và phát huy truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết yêu
thương, sự thống nhất về ý chí và thực tiễn. Trên cơ sở đó đã làm cho cán bộ,
đảng viên có tư tưởng lập trường vững vàng, nắm chắc chủ trưởng, đường lối
của đảng trong từng giai đoạn, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và mục
tiêu tiến lên của đất nước, chủ động thực hiện tốt nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên.

- Công tác chính đốn và xây dựng Đảng về mặt tổ chức


Văn phòng Trung ương Đảng đã tập trung chỉ đạo việc chỉnh đốn, xây
dựng Đảng, coi chất lượng là chủ yếu, số lượng là cái quan trọng, nhằm xây
dựng và giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng là cái gốc, nâng cao
tinh thần trung thực, trung thành trước sự lãnh đạo của Đảng và nhân dân; hạn
chế và chống tiêu cực bằng cách phê bình và tự phê bình một cách thường
xuyên, gắn với việc tiến hành sinh hoạt chính trị; tạo điều kiện cho quần
chúng tham gia vào quá trình xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ gắn bó với cơ sở
và trưởng thành từ thực tế; thực hiện nghiêm nguyên tắc xây dựng và phát
triển tổ chức Đảng bằng cách kết nạp những người đủ điều kiện vào Đảng;
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng gắn liền với việc xây dựng đảng
vững mạnh-biết lãnh đạo toàn diện, làm cho cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên
thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong hệ thống chính trị của Văn phòng
Trung ương Đảng.

Năm 2015, Đảng ủy Văn phòng Trung ương Đảng gồm có 10 tổ chức
cơ sở Đảng, so với năm 2010 tăng lên 4 tổ chức cơ sở; có 192 đảng viên,
trong đó 70 đồng chí đảng viên nữ; 20 đảng viên dự bị, nữ 7 đồng chí (so với
41

năm 2010 tăng lên 83 đồng chí, nữ 38 đồng chí). Tổ chức chuyển giao thể
đảng viên 3 lần, với 155 đồng chí, thực hiện đúng theo mục đích yêu cầu đặt
ra và sẽ tiếp tục tổ chức thực hiện tốt trong những năm tới. Đồng thời cũng
đã tập trung chỉ đạo cải cách bộ máy Nhà nước, nghiên cứu điều chỉnh hoàn
thiện các chức danh, quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các vụ,
sở và các đơn vị, đổi mới lề lối làm việc phù hợp, có sự phân công, phân chia
trách nhiệm rõ ràng; làm cho bộ máy hoạt động vững mạnh theo hướng gọn
nhẹ, phù hợp và hiệu quả đáp ứng với vai trò tham mưu trong điều kiện mới.

- Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ


Đứng trên lập trường của đảng: Cán bộ có vai trò quyết định sự thành
bại trong việc tổ chức thực hiện đường lối của đảng. Trong thời gian qua Văn
phòng Trung ương Đảng thường xuyên quan tâm trong việc đào tạo bồi
dưỡng, quản lý, vận dụng và kiểm tra giám sát việc tổ chức thực hiện nhiệm
vụ chính trị của cán bộ. Tập trung đào tạo bồi dưỡng thông qua việc rèn luyện
và thử thách trong quá trình thực tế, gắn liền với cử cán bộ đi học theo
chương trình ngắn hạn, dài hạn ở trong và ngoài nước; tổ chức bồi dưỡng lý
luận chính trị Mác-Lênin 45 ngày, tổ chức thảo luận, bồi dưỡng công tác văn
phòng, công tác IT…tất cả các hoạt động trên đã làm cho đội ngũ cán bộ
vững vàng về phẩm chất chính trị và vững mạnh về chuyên môn, có năng lực,
trẻ hóa; rất nhiều đồng chí đã trưởng thành và là cán bộ nòng cốt trong văn
phòng trung ương Đảng.

Tháng 2 năm 2015, tổng số cán bộ ở Văn phòng Trung ương Đảng
gồm 213 đồng chí, nữ 78 đồng chí (so với năm 2010 tăng lên 44 đồng chí, nữ
1 đồng chí); trong đó trình độ tiến sĩ 11 đồng chí, nữ 1 đồng chí (tăng lền 4
đồng chí, nữ 1 đồng chí); trình độ thạc sĩ 40 đồng chí, nữ 7 đồng chí (tăng lên
14 đồng chí, nữ 2 đồng chí); trình độ cử nhân 111 đồng chí, nữ 32 đồng chí
42

(tăng lên 46 đồng chí, nữ 17 đồng chí); trình độ cao đẳng 25 đồng chí, nữ 12
đồng chí (tăng lên 1 đồng chí nữ); trình độ trung cấp 7 đồng chí, nữ 3 đồng
chí (giảm xuống 15 đồng chí); trình độ sơ cấp 15 đồng chí, nữ 4 đồng chí
(giảm xuống 4 đồng chí); không có bằng cấp 4 đồng chí, nữ 2 đồng chí(giảm
xuống 3 đồng chí). Trong tổng số cán bộ nêu trên, có 95 đồng chí đã qua lớp
đào tạo bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị từ chương trình 45 ngày cho đến
trình độ tiến sĩ [28, 34].

- Công tác chuyên môn


Văn phòng Trung ương Đảng đã quan tâm và coi trọng việc nâng cao
chất lượng công tác tham mưu phục vụ lãnh đạo một cách tích cực theo
hướng chất lượng, nhanh chóng, hiện đại; đã tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng
hợp thực tiễn về công tác văn phòng nói chúng và công tác tham mưu nói
riêng, từ đó rút ra kinh nghiệm để phục vụ chương trình bồi dưỡng do Văn
phòng Trung ương Đảng tổ chức; đã thực hiện bồi dưỡng kiến thức cho cán
bộ công chức trong Văn phòng Trung ương Đảng, văn phòng của các bộ, cơ
quan và văn phòng hành chính cấp tỉnh và một số huyện (đang trong giai đoạn
thí điểm-rút kinh nghiêm để chuẩn bị tổ chức triển khai mở rộng) nhằm nâng
cao trình độ chuyên môn nghiên cứu tổng hợp và tạo kỹ năng viết cho cán bộ
văn phòng các cấp. Điều quan trọng đã chủ động tổ chức phối hợp với các
văn phòng cấp trung ương và các văn phòng ở địa phương, chuẩn bị và tiến
hành hội nghị công tác văn phòng cả nước lần thứ VI vào tháng 10 năm 2010
để nghiên cứu và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cải cách công tác văn phòng
nhằm mục đích làm cho các văn phòng ở Trung ương, văn phòng ở các bộ,
các cơ quan và văn phòng hành chính địa phương trở thành lực lượng tham
mưu có đủ khả năng giúp việc cấp ủy đảng trong quá trình lãnh đạo giải quyết
vấn đề đúng đắn, kịp thời và chất lượng. Góp phần nâng cao chất lượng lãnh
đạo của đảng; đổi mới công tác tham mưu đáp ứng với yêu cầu lãnh đạo cấp
43

ủy đảng trong điều kiện mới; nhất là trong việc lãnh đạo tổ chức thực hiện
nghị quyết đại hội IX của Đảng trở thành hiện thực; cải cách tổ chức bộ máy,
xây dựng đảng, đào tạo cán bộ của Văn phòng các cấp một cách có hệ thống
và đảm bảo sự ổn định trong việc nâng cao kiến thức của cán bộ làm công tác
tham mưu.

Văn phòng Trung ương Đảng có nhiều cố gắng trong quá trình tổ chức
lãnh đạo, hiện đại hóa công tác trong lĩnh vực tham mưu bằng cách nghiên
cứu và xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử; nhất là trong việc thu thập thông tin và
xử lý thông tin có hiệu quả, góp phần đảm bảo việc tổ chức công tác tham
mưu vững chắc, có căn cứ khoa học và sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu:
nhanh chóng, kịp thời, chính xác và phù hợp với thực tế khách quan nhất là
công tác chuẩn bị các văn bản chủ trương, đường lối, cũng như hướng chỉ đạo
của cấp trên như: dự thảo báo cáo chính trị, nghị quyết, chỉ thị, tài liệu nghiên
cứu, bài phát biểu, bài chất vấn ý kiến tổng hợp…vừa đảm bảo về mặt pháp
lý, bí mật và quy chế thủ tục. Đồng thời đã hoàn thiện tổ chức hệ thống kết
nối bên trong (LAN) để vận dụng vào việc tổ chức phối hợp ở bên trong văn
phòng trung ương Đảng; gắn liền với chương trình hỗ trợ của các cơ quan
trực thuộc Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong việc sử dụng
cộng nghệ thông tin từ trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, làm cho việc
gửi-nhận thông tin giữa các vụ, các phòng, cũng như giữa các vụ với ban lãnh
đạo Văn phòng Trung ương Đảng được tổ chức thực hiện thông qua mạng
lưới máy tính.

- Về phương thức làm việc


Văn phòng Trung ương Đảng đã quan tâm đổi mới phương thức làm
việc, thực hiện vai trò là cơ quan trọng tâm phối hợp với các bộ, cơ quan và
địa phương, cũng như các tổ chức khác, để tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm
44

việc tổ chức lãnh đạo của trung ương đảng được tiến hành thành công thông
suốt, nhất là trong việc lập kế hoạch hoạt động của lãnh đạo, khâu chuẩn bị tổ
chức hội nghị và các văn bản phục vụ các hội nghị của lãnh đạo, việc tổ chức
hoạt động ở địa phương và nước ngoài của lãnh đạo…

- Về quan hệ hợp tác với văn phòng trung ương đảng của các đảng
bạn
Tiếp tục phát huy mối quan hệ hợp tác hai bên, có truyền thống với
văn phòng trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, văn phòng trung ương Đảng
Trung Quốc đi vào chiều sâu và có hiệu quả. Mỗi năm đã tổ chức đoàn đại
biểu hai bên sang thăm lẫn nhau mỗi đợt 10 đồng chí để trao đổi kinh nghiệm
trong việc tổ chức thực hiện chức năng tham mưu của văn phòng trung ương
đảng và một số lĩnh vực khác; có trao đổi cán bộ sang thăm, nghỉ mát lẫn
nhau; tổ chức hoạt động giao lưu văn hóa văn nghệ và thể thao, bồi dưỡng
công tác văn bản, công tác IT…một cách thường xuyên. Ngoài ra Văn phòng
Trung ương Đảng đã chủ động mời các chuyên gia của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đến để tập huấn công
tác văn phòng, trao đổi kinh nghiệm lý luận- thực tiễn về xây dựng chủ nghĩa
xã hội và các vấn đề khác cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo Trung ương Đảng. Từ
mối quan hệ đó có thể đem lại những bài học kinh nghiệm về công tác tham
mưu của Văn phòng Trung ương Đảng các nước bạn chiến lược để điều chỉnh
và vận dụng vào thực tế ở Văn phòng Trung ương Đảng một cách có chọn
lọc, sáng tạo và phù hợp với đặc điểm của đất nước mình, tạo điều kiện cho
việc thực hiện chức năng tham mưu cũng như trình độ kiến thức của cán bộ
tham mưu từng bước được nâng cao.

Từ thực trạng hoạt động nêu trên đã thúc đẩy và tác động tích cực đến
công tác tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng, thể hiện như sau:
45

1. Văn phòng Trung ương Đảng đã tham gia tích cực trong việc chuẩn
bị nội dung đại hội 3 cấp của đảng trong nhiệm kỳ VIII, nhất là việc chuẩn bị
nội dung đại hội của đảng ủy 10 tỉnh và 4 Bộ, cơ quan; đồng thời được giao
trách nhiệm tham gia chuẩn bị nội dung đại hội của đảng, được bổ nhiệm làm
công tác chuyên môn giúp việc và là văn phòng thường trực của Ban thư ký
nội dung đại hội VIII, IX và X của Đảng, tổ chức hoàn thành tốt nhiệm vụ đã
được giao, làm cho đại hội của Đảng có sự thành công tốt đẹp. Hiện nay đang
tham gia vào quá trình chuẩn bị nội dung dự thảo văn kiện đại hội X của
Đảng, thực hiện nhiệm vụ thu thập thông tin, tổ chức hội thảo khoa học, trưng
cầu ý kiến, sang trao đổi kinh nghiệm với Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng
Cộng Sản Trung Quốc. Đồng thời đã tham gia chuẩn bị nội dung giúp 7 tỉnh
trong việc tổ chức đại hội đảng ủy cấp tỉnh.

2. Chủ động phối kết hợp với các thành phần liên quan để giúp trung
ương Đảng nghiên cứu, lập kế hoạch tổ chức triển khai nội dung tinh thần đại
hội VIII, IX của Đảng; nhất là trong việc lập kế hoạch tổ chức và họat động
của ban chấp hành Trung ương Đảng trong suốt nhiệm kỳ VIII, IX, lập quy
chế về phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc của ban chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ chính trị và Ban bí thư Trung ương Đảng nhiệm kỳ VIII, IX;
và lập kế hoạch họat động công tác một năm, 6 tháng và một tháng của Bộ
chính trị và Ban bí thư Trung ương Đảng và đã theo dõi giám sát, khuyến
khích tổ chức thực hiện chương trình đó trong thực tế, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự chỉ đạo hướng dẫn của lãnh đạo, vừa là trụ cột vững chắc đối với các
bộ, ngành và thành phần liên quan trong việc chuẩn bị các văn bản, thông tin
và các ý kiến đóng góp vào các ngành, lĩnh vực để làm cơ sở trình báo cáo lên
Bộ chính trị, Ban bí thư Trung ương Đảng xem xét chỉ đạo. Ngoài ra, Văn
phòng Trung ương Đảng đã chuẩn bị và phục vụ hội nghị ban chấp hành
Trung ương Đảng nhiệm kỳ đại hội VIII, 13 lần, nhiệm ký đại hội IX, 10 lần,
46

mỗi lần đều có sự chuẩn bị những nôi dung như: bài phát biểu khai mạc, đặt
ra các câu hỏi và tổng hợp ý kiến, bài phát biểu bế mạc của Tổng bí thư đối
với các vấn đề đã xem xét thông qua trong hội nghị, nghị quyết, bài báo cáo
kết quả tiến hành hội nghị, nhật ký hội nghị, báo cáo đánh giá sự thành công
của các hội nghị, mỗi lần khoảng 7 - 8 văn bản [42, 10].

Về chất lượng của việc chuẩn bị nội dung hội nghị Bộ chính trị và Ban
bí thư trung ương Đảng đã từng bước được nâng cao. Trong giai đoạn 2006-
2011, đã tham gia việc chuẩn bị nội dung hội nghị Bộ chính trị và Ban bí thư
Trung ương Đảng với hơn 130 lần, bao gồm các câu hỏi thảo luận, bài phát
biểu đóng góp ý kiến hơn 500 bài. Trong giai đoạn 2012-2014 đã tham gia
việc chuẩn bị nội dung phục vụ hội nghị với 36 lần, bao gồm các câu hỏi thảo
luận và 177 bài phát biểu đóng góp ý kiến. Đồng thời đã tham gia vào việc
theo dõi giám sát trong việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương cũng như
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện nghị
quyết Trung ương Đảng ở các Bộ, cơ quan ngang bộ, các tỉnh thành trên cả
nước đối với các lĩnh vực liên quan đến trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp của
Trung ương Đảng.

Ngoài ra, cũng đã tiếp tục điều chỉnh quy chế thực hiện nhiệm vụ ở
các cơ sở để kiểm tra giám sát việc xây dựng cơ sở chính trị, xây bản và cụm
bản phát triển theo hướng dẫn số 09/BCT, của Bộ chính trị; Nghị quyết 03 về
việc thực hiện chương trình 3 xây, khuyến khích quá trình cải cách, xây dựng
hệ thống quản lý nhà nước, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương
cũng như việc cải cách hệ thống chính trị dân chủ nhân dân tại các địa
phương, báo cáo lên Trung ương Đảng và xin ý kiến chỉ đạo kịp thời nhằm
xây dựng các cấp chính quyền địa phương vững chắc, vững mạnh, ổn định và
phát triển.
47

3. Văn phòng Trung ương Đảng đã tập trung nhiều vào việc nghiên
cứu tổng hợp, đánh giá, phân tích các vấn đề của các bộ, cơ quan ngang bộ và
chính quyền địa phương đề nghị lên Trung ương; có cách nhìn nhận cụ thể,
khoa học dựa trên cơ sở chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng
trong việc nghiên cứu các vấn đề, đề ra các phương hướng, đề xuất các giải
pháp phù hợp, báo cáo lên cấp trên chỉ đạo hoặc quyết định đúng đắn, phù
hợp với điều kiện thực tế hơn. Năm 2006-2011 có các văn bản gửi tới Văn
phòng Trung ương Đảng hơn 25000 văn bản khác nhau. Trong đó, đã được
nghiên cứu báo cáo xin ý kiến Bộ chính trị và Ban bí thư Trung ương Đảng
khoảng hơn 12000 văn bản; năm 2012-2014, Văn phòng Trung ương Đảng
nhận được 16.277 văn bản gửi tới, trong đó đã nghiên cứu báo cáo lên cấp
trên khoảng hơn 2000 văn bản. Trong năm 2012, 2013, Văn phòng Trung
ương Đảng đã phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc nghiên cứu xem
xét và có ý kiến đối với các đơn thư, tố cáo của các cán bộ và nhân dân gửi tới
văn phòng trung ương Đảng cũng như lãnh đạo Trung ương Đảng khoảng 909
văn bản; năm 2014 đã nghiên cứu, chuẩn bị nội dung và đóng góp ý kiến điều
chỉnh nội dung 11 bài phát biểu, bài diễn văn của các cán bộ lãnh đạo.

Ngoài ra, trong thời gian qua Văn phòng Trung ương Đảng rất chủ
động trong việc thực hiện trách nhiệm trước Trung ương Đảng, chủ động
nghiên cứu và đóng góp ý kiến điều chỉnh nội dung một số văn bản quan
trọng của Trung ương Đảng như: Hướng dẫn của Bộ chính trị Trung ương
Đảng về xây dựng bản trở thành đơn vị phát triển, xây dựng bản lớn thành đô
thị nhỏ ở nông thôn; Nghị quyết của Bộ chính trị Trung ương Đảng về xây
tỉnh trở thành đơn vị chiến lược, xây huyện trở thành đơn vị vững mạnh toàn
diện, xây bản trở thành đơn vị phát triển; Chỉ thị của Ban bí thư Trung ương
Đảng về việc chuẩn bị tổ chức hội nghị đảng ủy các bộ, cơ quan ngang bộ và
chính quyền địa phương trên cả nước; Nghị quyết Bộ chính trị Trung ương
48

Đảng về cải cải và xây dựng các doanh nghiệp trong thời đại mới; dự thảo
nghị quyết của Bộ chính trị Trung ương Đảng về chuyển hóa tài sản thành
vốn; hướng dẫn của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc chuẩn bị chào mừng
ngày lễ lịch sử trọng đại của Đảng và Nhà nước trong năm 2015.

4. Văn phòng Trung ương Đảng đã quan tâm đến việc cải cách hệ
thống mạng lưới điện tử, chế độ báo cáo và cơ chế cung cấp thông tin giữa
văn phòng Trung ương Đảng với các Bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền
địa phương; thường xuyên thực hiện nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp, phân tích
đánh giá sự biến động của tình hình trong và ngoài nước để phục vụ các cấp
lãnh đạo; tổng kết được sự kiện nổi bật trong một ngày, một tuần, một tháng
để báo cáo Trung ương Đảng, Bộ chính trị và Ban bí thư Trung ương Đảng có
chất lượng, nhanh chóng, chính xác và kịp thời. Năm 2006-2011 đã tổng kết
và cung cấp thông tin trong một ngày, một tuần, một tháng cho các cấp lãnh
đạo khoảng hơn 900 thông tin khác nhau; năm 2012-214, khoảng 641 thông
tin khác nhau.

Đồng thời, đã quy định rõ về chế độ báo cáo của các đảng ủy cấp
Trung ưong và được tổ chức thực hiện thường xuyên. Năm 2011-2014 Văn
phòng Trung ương Đảng đã chủ động phối hợp và chuẩn bi giúp Ban bí thư
Trung ương Đảng tổ chức cuộc họp nghe báo cáo 23 lần và dựa vào kết quả
cuộc hợp báo cáo trên, văn phòng Trung ương Đảng tổ chức thông báo tóm
tắt kết quả báo cáo gửi tới các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, các đồng
chí chịu trách nhiệm trong các ngành, lĩnh vực, bí thư tỉnh ủy và thành ủy để
biết và giải quyết các vấn đề thuộc trách nhiệm của mình, làm cho công tác
kiểm tra giám sát đảng ủy của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa
phương trong việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ
thị, hướng chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với các lĩnh vực thành công tốt
49

đẹp. Còn các vấn đề vướng mắc cũng thường xuyên được xem xét và xin ý
kiến chỉ đạo của cấp trên, làm cho các vấn đề thực tế đặt ra trong các ngành,
lĩnh vực được giải quyết kịp thời và hiệu quả.

5. Đối với việc tổ chức phối hợp thì Văn phòng Trung ương Đảng đã
tích cực phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Văn phòng chủ tịch nước và
Văn phòng Quốc Hội, các ngành lĩnh vực và địa phương để bảo đảm việc lập
kế hoạch tổ chức hoạt động của lãnh đạo đảng-nhà nước cả ở Trung ương và
địa phương và nước ngoài được tiến hành thông suốt, nhanh chóng và hiệu
quả. Đồng thời tổ chức phổ biến ý kiến chỉ đạo của Trung ương Đảng tới với
các thành phần liên quan để tổ chức thực hiện. Năm 2010-2014, Văn phòng
Trung ương Đảng đã tổ chức báo cáo 450 văn bản về hướng chỉ đạo, cũng
như nghị quyết của Bộ chính trị và Ban bí thư Trung ương Đảng tới các Bộ,
cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương.

Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn. Thời
gian qua, Văn phòng Trung ương Đảng đã tập trung cải cải tổ chức bộ máy
theo hướng: vững mạnh, gọn nhẹ và hiệu quả; đào tạo được đội ngũ cán bộ có
phẩm chất chính trị, giữ vững lập trường giai cấp, có đạo đức cách mạng, có
đủ năng lực, kinh nghiệm thực tế góp phần thực hiện thành công chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm đã được giao. Hiện nay, Văn phòng Trung ương Đảng
ngày càng lớn mạnh, nhiều việc phải làm, chất lượng trong việc tổ chức và
hoạt động từng bước được cải thiện và nhận được sự tin tưởng từ các cấp lãnh
đạo. Kết quả đạt được nêu trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
có một số nguyên nhân chủ yếu:

Một là, có chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy chế…làm
căn cứ vững chắc cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ và nhận được sự chỉ
đạo gần gũi của Bộ chính trị, Ban bí thư trung ương Đảng, nhất là đồng chí
50

Tổng bí thư và các đồng chí thường trực ban bí thư trung ương Đảng luôn
luôn quan tâm, theo dõi, chỉ đạo sát sao đối với Văn phòng Trung ương Đảng.

Hai là, Đảng ủy Văn phòng Trung ương Đảng là trụ cột vững chắc
cho việc tập hợp sự đoàn kết thống nhất; chịu khó cố gắng chỉ đạo thường
xuyên tổ chức hoạt động trong thực tế và cải cách công tác tham mưu.

Ba là, đội ngũ cán bộ, đảng viên phần lớn phát huy đồng đều truyền
thống cách mạng của Văn phòng Trung ương Đảng, tích cực trải qua thử
thách, làm việc với tinh thần cách mạng và trách nhiệm cao.

Bốn là, các văn phong cấp Trung ương, các Bộ, cơ quan ngang bộ và
chính quyền địa phương cũng như các thành phần kinh tế, các tổ chức chính
trị xã hội đã hỗ trợ giúp đỡ và phối hợp chặt chẽ vào quá trình thực hiện
nhiệm vụ của Văn phòng Trung ương Đảng.

Năm là, nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ quý báu về kiến thức, kinh
nghiệm và vật chất từ Văn phòng Trung ương Đảng các nước láng giềng
chiến lược.

Sự thành công của Văn phòng Trung ương Đảng đều gắn liền với sự
thành công trong việc chỉ đạo của Trung ương Đảng, nhất là trong việc chuẩn
bị hội nghị 3 cấp của Đảng, cũng như chuẩn bị và tiến hành thành công tốt
đẹp đại hội VIII, IX của Đảng; chỉ đạo tổ chức triển khai nghị quyết đại hội
VIII, IX của Đảng và kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước
gắn liền với việc thực hiện chương trình 3 xây, phát triển nông thôn và xóa
đói giảm nghèo, đã tạo cơ sở và điều kiện mới cho việc tiếp tục phát triển đi
đúng hướng và mục tiêu đề ra; góp phần quan trọng giúp Trung ương Đảng
chỉ đạo xây dựng, chỉnh đốn đảng về mặt chính trị tư tưởng, về tổ chức và lề
lối làm việc trong sạch, vững mạnh, là lực lượng chính trị vững chắc lãnh đạo
toàn xã hội tiếp tục thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược trong sự
51

nghiệp đổi mới đất nước; góp phần giữ vững độc lập dân tộc, quyền dân chủ
và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội trật tự
bình yên tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, nhân
dân yêu tâm làm ăn nâng cao đời sống, phát triển que hương ngày càng giàu
đẹp; kinh tế vĩ mô có sự ổn định, kinh tế quốc dân có mức tăng trưởng nhanh
và liên tục; hệ thống chính trị dân chủ nhân dân ổn định bền vững và đi theo
hướng xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân; vị trí và vai trò của đất
nước ngày càng được các trong khu vực và quốc tế biết đến.

Tóm lại, từ việc kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang
của Đảng trong thời gian qua Văn phòng Trung ương Đảng đã tích cực tổ
chức thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp Trung ương Đảng với tinh thần hy
sinh, năng động, sáng tạo và hiệu quả. Các thế hệ cán bộ, đảng viên đều giữ
vững lập trường Chủ nghĩa Mác- Lênin và phát huy tính giai cấp, tính chủ
đạo, tính đấu tranh của Đảng, đoàn kết chặc chẽ một lòng một dạ, trung thành,
trung thực với sự nghiệp cách mạng và lý tưởng cao cả của Đảng, không sợ
hãi lung lay trước khó khăn thách thức, say mê làm việc không biết mệt mỏi,
chăm chỉ cố gắng vượt qua khó khăn gian khổ và hoàn thành tốt nhiệm vụ
trung ương Đảng giao phó.

Để ghi nhận thành tích và kết qủa hy sinh của đội ngũ cán bộ Văn
phòng Trung ương Đảng trong suốt thời gian qua. Bộ chính trị Trung ương
Đảng và Chính phủ đã quyết định trao tặng Huân chương tự do hạng I cho
Văn phòng Trung ương Đảng nhân dịp lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Văn
phòng Trung ương Đảng (24/03/1955-24/03/2010); thể hiện sự quan tâm, tin
tưởng của Trung ương Đảng, Chính phủ và nhân dân các bộ tộc đối với văn
phòng Trung ương Đảng có nhiều thành tích quý báu trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; hơn nữa, là nguồn động viên khuyến khích tinh thần
52

lớn lao của Đảng, Chính phủ và nhân dân đối với công tác văn phòng giúp
việc các cấp lãnh đạo. Việc trạo tăng huân chương tự do hạng I của Đảng và
Chính phủ cho Văn phòng Trung ương Đảng là ghi nhận thành tích và đánh
giá cao việc hy sinh của các cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng, đã góp
phần vào sự nghiệp cách mạng; đã trở thành truyền thống vẻ vang và tự hào
của đội ngũ cán bộ làm công tác văn phòng nói chung, những người làm công
tác tham mưu nói riêng, tích cực góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng cũng như quá trình cải cách và phát triển Văn phòng Trung ương Đảng
ngày càng vững mạnh, không ngừng vươn lên.

2.1.2. Những hạn chế - yếu kém và những vấn đề đặt ra trong việc
thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng

* Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân


- Những hạn chế, yếu kém
Một là, Tổ chức bộ máy các vụ công tác tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng còn cồng kềnh, nhiều khâu dẫn đến tình trạng giải quyết
công việc chậm trễ.

Hai là, Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Văn phòng
Trung ương Đảng còn bất cập trong việc quản lý, bố trí và sử dụng đúng
người, đúng việc.

Ba là, Một số vụ của Văn phòng Trung ương Đảng chưa thực hiện tốt
nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn và phương thức làm việc.

Bốn là, Còn thiếu về hệ thống văn bản, pháp lý để mở rộng quan hệ
hợp tác với các tổ chức chính trị và các nước trong điều kiện toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế hiện nay.

- Nguyên nhân của những hạn chế


53

Một là, Mặc dù giành được sự lãnh đạo - chỉ đạo trong công tác tham
mưu của Đảng ủy, lãnh đạo các vụ trong thực hiện công việc tham mưu,
nhưng do một số ít cán bộ còn thờ ơ, chậm triển khai công việc dẫn đến tình
trạng giải quyết không kịp thời.

Hai là, Tính chủ động trong việc theo dõi, nắm tình hình và thúc đẩy
các tổ chức của Đảng trong việc thực hiện chủ trương, đường lối đại hội Đảng
đề ra cũng như việc tổ chức thực hiện các Nghị quyết, văn bản và thông tư...
của lãnh đạo cấp trên chưa thật tốt và thường xuyên.

Ba là, Công tác kiểm tra, tổng kết thực tiễn, báo cáo, phản ánh, xin ý
kiến cấp trên trong việc tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng chưa
được thường xuyên, không có kế hoạch và không có trọng điểm trong từng
giai đoạn.

* Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chức năng tham mưu
của Văn phòng Trung ương Đảng

Bước sang thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn quân và nhân dân các bộc tộc
Lào trên cả nước đang nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX theo tinh thần “Nâng cao năng lực lãnh đạo và chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển trong năm 2020”
vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội đoàn kết hài hòa, dân chủ, công
băng và văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu cao cả đó đòi hỏi sự lãnh đạo
của Đảng phải được tăng cường về nhiều mặt, với những yêu cầu rất cao mà
yêu cầu hàng đầu là phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; từ đó, cũng đặt ra cho Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ quan
tham mưu, giúp việc của Đảng những yêu cầu ở tầm cao mới.
54

Trong báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về các
văn kiện Đại hội X đã chỉ rõ muốn đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và chiến đấu của Đảng thì phải thực hiện 5 nhiệm vụ cơ bản,
quan trọng sau đây:

Trước hết, phải nâng cao bản lĩnh chính trị và thái độ trí tuệ của Đảng,
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống tốt đẹp của Đảng, mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong
thực tiễn hoạt động của Đảng.

Hai là, kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Ba là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng;
tăng cường quan hệ gắn bố giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác kiểm tra.

Bốn là, đổi mới tổ chức bộ máy và công tác cán bộ.

Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó tập trung
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo
Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hóa,
cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên
kiểm tra việc tổ chức thực hiện.

Để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện có hiệu quả sự nghiệp cách mạng của đất nước, với tư cách
là một cơ quan tham mưu, giúp việc Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ
chức, điều hành công việc lãnh đạo của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng
có vai trò rất quan trọng trong việc thực thi các nhiệm vụ to lớn nói trên.
Đồng thời với những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
55

dân tộc cũng đặt ra với Văn phòng Trung ương Đảng những nhiệm vụ nặng
nề hơn, yêu cầu Văn phòng Trung ương Đảng phải tự lực vươn lên về mọi
mặt cao hơn nữa mới đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ mới.

Từ tình hình và yêu cầu nói trên, đặt ra cho Văn phòng Trung ương
Đảng cần có những tư duy đổi mới, nhạy bén, sáng tạo và tổ chức thực hiện
có hiệu quả những vấn đề cốt lõi trong công tác tham mưu trên các lĩnh vực
công tác sau đây:

Một là, tiếp tục hoàn thiện nền nếp, nâng cao hơn nữa chất lượng công
tác xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện chương trình làm việc của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, góp phần giúp cơ quan
lãnh đạo cao nhất của Đảng bàn và ra quyết định chính xác, kịp thời những
vấn đề cơ bản và đột xuất của đất nước và của Đảng theo đúng Quy chế làm
việc; đóng góp tích cực và thiết thực hơn nữa vào việc tiếp tục đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một Đảng cầm
quyền, dân chủ hóa ngày càng sâu rộng trong đời sống xã hội, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế.

Hai là, cải tiến, đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình và nâng cao
chất lượng công tác theo dõi, nắm tình hình các ngành, địa phương theo phạm
vi chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm phản ánh kịp thời, chính xác và
có đề xuất cụ thể các giải pháp với các đồng chí lãnh đạo Đảng.

Ba là, thường xuyên bám sát các trọng tâm công tác lãnh đạo của
Đảng trong từng thời kỳ để định hướng, nâng cao chất lượng và tăng cường
hiệu quả công tác thông tin phục vụ Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt chế độ báo cáo và thông tin phục vụ Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
56

Bốn là, cải tiến, đối mới nội dung, phương pháp, hợp lý hóa các quy
trình, nghiệp vụ văn thư, lưu trữ, cơ yếu, bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt chế
độ bảo vệ bí mật của Đảng, quản lý chặt chẽ công văn, tài liệu của Trung
ương và Văn phòng Trung ương; cải tiến, nâng cao chất lượng công tác thư từ
tiếp dân; gương mẫu đi đầu trong việc hiện đại hóa hầu hết các khâu công tác
văn phòng.

Năm là, tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của cơ quan, xây dựng
cơ quan trong sạch, vững mạnh, có đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với
Đảng, tận tụy, chu đáo, có trình độ chuyên môn cao để đáp ứng được các yếu
cầu và nhiệm vụ mới.

2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THAM


MƯU CỦA VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH
MẠNG LÀO TRONG THỜI GIAN TỚI

2.2.1. Nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, cán bộ làm công tác văn
phòng từ Trung ương đến địa phương về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của Văn phòng Trung ương Đảng

Như đã trình bày ở phần mở đầu của Chương 1, với 76 năm ra đời
cùng với Đảng, với 56 năm kể từ ngày Ban Thường vụ Trung ương Đảng
quyết định thành lập, trải qua hai cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc, từ
những năm tháng gian khổ trong thời chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược đến những ngày cơ quan đóng tại Thủ đô Viêng Chăn, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã nhiều lần ra quyết định xác định chức năng, nhiệm
vụ, vị trí, vai trò của Văn phòng Trung ương Đảng cho phù hợp với nhiệm vụ
cách mạng của mỗi thời kỳ.

Dù có sự thay đổi nói trên, nhưng suốt cả chặng đường hình thành và
phát triển, vị trí, vai trò của Văn phòng Trung ương Đảng càng ngày được
57

hoàn thiện. Nét nổi bật xuyên suốt là Văn phòng Trung ương Đảng là cơ quan
có chức năng tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tổ chức, điều hành công việc của Đảng,
đồng thời là một trung tâm thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng. Đây là
hai chức năng quan trọng nhất, gắn bó mật thiết với nhau và thực hiện tốt hai
chức năng nói trên là nhiệm vụ hàng đầu của Văn phòng Trung ương Đảng.
Càng về sau này, Bộ Chính trị càng xác định vai trò tham mưu, phối hợp công
tác của các cơ quan tham mưu của Đảng, của Văn phòng Trung ương Đảng
càng có vị trí lớn hơn, rõ ràng hơn.

Ngày nay, với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và yêu cầu đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng ta, việc nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của Văn phòng Trung ương Đảng có ý nghĩa to lớn đối với
việc thực hiện nhiệm vụ sắp tới. Chỉ có trên cơ sở nhận thức đúng vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ mới có thể xác định đúng nội dung và phương thức
hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng, mới đem lại hiệu quả trong việc
thực thi các nhiệm vụ.

Để thực hiện nhiệm vụ này, cần làm từ hai phía: một là, trong nội bộ
Văn phòng Trung ương, từ các đồng chí lãnh đạo Văn phòng đến các cục, vụ,
phòng, các đồng chí cán bộ, đảng viên, nhân viên cần nghiên cứu và hiểu thấu
đáo vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Trung ương Đảng
trong thời kỳ mới, từ đó thấy được niềm tự hào, vinh dự của cơ quan, đồng
thời xác định được trách nhiệm ngày càng nặng nề của mỗi cán bộ, nhân viên
trước yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị, Ban
Bí thư; hai là, bằng nhiều biện pháp thích hợp để tuyên truyền làm cho các
cấp ủy Đảng, các ban, ngành Trung ương, các cán bộ làm công tác văn phòng
từ Trung ương đến địa phương hiểu sâu sắc hơn vị trí, vai trò, chức năng,
58

nhiệm vụ của Văn phòng Trung ương Đảng, tạo điều kiện để Văn phòng
Trung ương phối hợp công tác tốt, trong một phạm vi nhất định nào đó, cũng
để nhân dân biết về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Trung
ương Đảng.

2.2.2. Xác định rõ các yêu cầu và nội dung tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng trên một số mặt công tác chủ yếu

- Về xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế và chương trình làm việc
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư

+ Khi xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế và chương trình công tác
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc, Điều lệ Đảng hiện hành, Quy chế làm việc và chương trình toàn khóa
của Ban Chấp hành Trung ương và những vấn đề cần giải quyết do diễn biến
của tình hình trong và ngoài nước phát sinh.

+ Vấn đề quan trọng nhất khi xây dựng quy chế làm việc của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư là xác định đúng nội dung và cơ chế phân công, phân
cấp xử lý công việc giữa Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí
thư phù hợp với trách nhiệm, quyền hạn của từng tổ chức theo Điều lệ của
Đảng. Đồng thời phải phân biệt rõ những việc gì thuộc phạm vi giải quyết của
Đảng, việc gì thuộc phạm vi giải quyết của Nhà nước, mức độ và tầm xử lý ở
cấp cao, để đề xuất cho đúng theo phân công, phân cấp xử lý công việc của
từng cấp.

+ Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có chương trình
hàng năm, hàng quý, hàng tháng, hàng tuần. Các chương trình cần được bổ trí
cân đối, hợp lý giữa các mặt, các lĩnh vực công tác cần sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cần ghi rõ biện pháp thực hiện và thời hạn chỉ
đạo hoàn thành từng nhiệm vụ.
59

+ Để việc xây dựng và thực hiện Quy chế làm việc và chương trình
công tác của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đạt hiệu suất cao đòi hỏi cần có sự lãnh
đạo cụ thể sâu sát của Thường trực Ban Bí thư, lãnh đạo Văn phòng và sự
phối hợp chặt chẽ, có trách nhiệm cao giữa Vụ Tổng hợp, Vụ Thư ký, Vụ Văn
thư và các cục, vụ khác trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị.

+ Đối với quy chế làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ngay sau
Đại hội, căn cứ vào Điều lệ Đảng do Đại hội Đảng toàn quốc thông qua và có
ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư, Văn phòng Trung ương Đảng chú trì phối hợp
với Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các ban đảng
có liên quan xây dựng dự thảo Quy chế làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, gửi các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc góp ý,
bổ sung và gửi trả Văn phòng Trun gương để tổng hợp báo cáo và trình Bộ
Chính trị xem xét, quyết định.

Quy chế phải thể hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của Đảng; giữ vai trò lãnh đạo ủa Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng thời đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng với bước đi thích hợp theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phát
huy dân chủ, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm, cả của tập thể và cá
nhân người đứng đầu; giảm bớt hội họp, làm tốt công tá chuẩn bị, nâng cao
chất lượng các hội nghị, bám sát thực tiễn, hướng về cơ sở, tăng cường công
tác kiểm tra đôn đốc thực hiện, công tá sơ kết, tổng kết, tăng cường sử dụng
công nghệ thông tin vào công tác lãnh đạo, điều hành, xử lý công việc.

+ Đối với chương trình làm việc năm, tháng, tuần của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư. Trên cơ sở các kiến nghị về nội dung công việc đưa vào chương
trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong năm, quý, tháng, tuần thông
qua các báo cáo định kỳ hoặc bất thường của các tổ chức đảng trực thuộc gửi;
60

theo chỉ đạo của lãnh đạo Văn phòng, Vụ Tổng hợp lựa chọn xây dựng dự
thảo chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Các chuyên viên phụ trách từng lĩnh vực chịu trách nhiệm kiến nghị
về chương trình làm việc nêu trên cần nắm chắc tình hình chuẩn bị các đề án
của cơ quan chủ đề án, các thông tin, các vấn đề liên quan đề án, nêu cụ thể
về nội dung cần bàn, cấp họp bàn, thời gian, cơ quan chủ đề án.

Trong quá trình lựa chọn, cân đối chương trình chung, nếu những vấn
đề do các cơ quan đề nghị xét thay đổi cho phù hợp, Vụ Tổng hợp phải trình
với lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng trao đổi lại với các đơn vị để thống
nhất đưa vào dự thảo chương trình để Thường trực Ban Bí thư quyết định.

Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải cụ thể hóa,
triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, của đất nước, của Đảng, giải quyết kịp thời những
vấn đề bức xúc, quan trọng nhất đặt ra theo đúng chức năng, thẩm quyền.

Để thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Văn phòng Trung ương Đảng cần thực hiện tốt các yếu tố sau đây về xây
dựng chương trình công tác của Bộ Chính trị, Ban Bí thư:

Một là, Văn phòng Trung ương Đảng cần chủ động xin ý kiến các
đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách lĩnh vực những vấn đề cần trình tập
thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét trong năm theo đúng quy định tại Quy
chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hai là, Trên cơ sở ý kiến tổng thể nêu trên, Văn phòng Trung ương dự
kiến công tác hàng năm của Bộ Chính trị phù hợp với chương trình hành động
toàn khóa. Xây dựng chương trình công tác hàng năm của Bộ Chính trị là sự
61

cân nhắc, lựa chọn những vấn đề cơ bản, quan trọng của chương trình công
tác toàn khóa mà Trung ương đã thông qua, có sự bổ sung những việc lớn, đột
xuất, cấp bách. Việc xây dựng chương trình ngoài ý kiến của các đồng chí Bộ
Chính trị, cần phải phối hợp với 4 văn phòng, các bộ, ngành, đoàn thể, các
ban của Trung ương Đảng có liên quan và chú ý những vấn đề cấp bách mới
nảy sinh. Chương trình công tác năm là “cốt” quan trọng để xác định chương
trình công tác quý, tháng, tuần.

Xây dựng chương trình phải xác định rõ, cụ thể về thời gian (tháng,
quý, tuần và ngày cụ thể…); nội dung công việc cần bàn; chủ đề án, cơ quan
thẩm định đề án trước khi trình.

Ba là, Văn phòng Trung ương Đảng cần chú ý phối hợp với 4 Văn
phòng đề án xác định chương trình phù hợp với hoạt động của Quốc hội,
Chính phủ về Chủ tịch nước. Hướng chung là giảm dẫn các phiên họp của Bộ
Chính trị, mỗi tháng Bộ Chính trị chỉ họp 2 phiên, mỗi phiên 1 - 2 ngày, theo
đúng quý chế đã đề ra; Ban Bí thư họp bình quân mỗi tháng 2 - 3 phiên, mỗi
phiên 1 ngày. Để thực hiện đúng việc này, yêu cầu xác định công việc của
Đảng phải chính xác và thực hiện nghiêm túc sự phân cấp giải quyết công
việc đã được quy định đối với các Ủy viên Bộ Chính trị.

Bốn là, Văn phòng Trung ương Đảng chi xếp lịch họp của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư khi có đề án để thẩm định trực tiếp theo đúng quy chế đề án
họp Bộ Chính trị trước 5 ngày, đề án họp Ban Bí thư gửi trước 3 ngày. Nên
tránh tình trạng xếp lịch họp theo thông báo đề án bằng miệng và sau đó
không thực hiện đúng chương trình đề ra, làm bị động các đồng chí Bộ Chính
trị và các cơ quan liên quan khác.

Khi xây dựng dự thảo lịch họp hàng tuần của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Vụ Tổng hợp thẩm định các đề án yêu cầu, phạm vi, thể thức và nội dung
62

(nếu thấy đủ điều kiện); đồng thời cần phối hợp với Vụ Thư ký, Vụ Văn thư
tính tới khả năng dự họp của các đồng chí trực tiếp liên quan.

Năm là, Tiếp tục hoàn thiện và cải tiến quy trình tổ chức các cuộc họp
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đảm bảo khoa học, chu đáo theo hướng nâng cao
hiệu quả các cuộc họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, giảm bớt thời gian họp,
phân cấp nhiều hơn cho cấp dưới và cá nhân từng đồng chí Bộ Chính trị, Ban
Bí thư giải quyết công việc.

- Về xử lý thông tin phục vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trong công tác
xử lý thông tin, phải kết hợp có hiệu quả giữa tính toàn diện của thông tin và
tính định hướng của thông tin phục vụ lãnh đạo; vừa phải cung cấp đầy đủ,
chính xác, kịp thời những thông tin cần thiết trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; vừa phải cung cấp những thông tin có chọn lọc, có phân tích theo
chuyên đề giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư có được cơ sở cần thiết để xem xét
ra quyết định cụ thể.

Đổi mới công tác thông tin trong Văn phòng Trung ương Đảng, trước
hết phải hợp lý hóa quá trình thông tin, tránh cắt khúc, qua nhiều khâu trung
gian, bảo đảm thông tin có tính kiểm tra cao; đồng thời hiện đại hóa quá trình
thông tin giữa các bộ phận.

Để làm tốt công tác thực hiện chức năng tham mưu này, Văn phòng
Trung ương Đảng cần phải thực hiện một số công việc như:

Một là, Chuyên viên theo dõi ngành, địa phương phải thường xuyên
đôn đốc, nhắc nhở các đơn vị trực thuộc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo
cáo, thỉnh thị theo quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Vụ Tổng hợp và
các Vụ Địa phương định kỳ tổng hợp tình hình thực hiện chế độ báo cáo của
các ban cán sự đảng, đảng đoàn, tỉnh ủy, thành ủy báo cáo Ban Bí thư.
63

Hai là, Văn phòng Trung ương Đảng cần nắm bắt được kịp thời tư
tưởng chỉ đạo của Trung ương về các lĩnh vực theo từng thời gian và trên cơ
sở chương trình làm việc của Trung ương mà xác định định hướng nội dung
công tác thông tin trong từng thời gian (3 tháng, 6 tháng, một năm) đối với
từng lĩnh vực, để phổ biến cho các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
đảng ủy trực thuộc biết dưới nhiều hình thức (thông qua các công văn, văn
bản yêu cầu hướng dẫn, qua tổ chức hội nghị trao đổi phổ biến hay hoạt động
tiếp xúc của lãnh đạo, chuyên viên Văn phòng Trung ương Đảng với lãnh
đạo, chuyên viên các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, tỉnh ủy, thành
ủy…). Thông qua đó, hướng dẫn thông tin của các đơn vị này ngày càng phù
hợp hơn với yêu cầu thông tin của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Ba là, Khi tiếp nhận thông tin, chuyên viên nghiên cứu cần nâng cao
trách nhiệm trong việc phân loại, xác minh độ chính xác, kiểm tra thể thức
văn bản của các thông tin. Căn cứ vào tầm quan trọng và tính cấp bách của
thông tin, vào chức năng, nhiệm vụ của các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng
đoàn, đảng ủy… và quy chế làm việc của Trung ương, để phối hợp trong việc
thẩm định và xử lý bước đầu những vấn đề mà thông tin đó đặt ra, trước khi
trình đồng chí lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng xem xét, quyết định, cụ
thể là:

Đối với những báo cáo định kỳ thông thường, chuyên viên có trách
nhiệm lựa chọn, tổng hợp, biên tập thành các báo cáo điểm tin, báo cáo hàng
tuần, báo cáo hàng tháng, tin tham khảo hoặc sao nguyên văn gửi trực tiếp Bộ
Chính trị, Ban Bí thư (nếu được lãnh đạo đồng ý).

Đối với các báo cáo đột xuất, những kiến nghị, xin ý kiến chỉ đạo kịp
thời của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; những thông tin cấp bách cần xử lý ngay,
chuyên viên nghiên cứu kiến nghị phương pháp xử lý trình lãnh đạo Văn
64

phòng để trình đồng chí Thường trực Ban Bí thư quyết định (hoặc trao đổi với
Tổng Bí thư nếu thấy cần thiết) biện pháp xử lý. Sau khi có ý kiến xử lý của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, chuyên viên
viết dự thảo thông báo ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư,
Thường trực Ban Bí thư trình lãnh đạo quyết định.

Những thông tin kiến nghị về chương trình, về chủ trương, biện pháp
xử lý một số vấn đề mới phát sinh, chuyên viên nghiên cứu, phân loại và kiến
nghị với lãnh đạo Văn phòng về hướng xử lý; sau khi có ý kiến của lãnh đạo,
Vụ Tổng hợp làm dự thảo Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư; nếu kiến nghị của Văn phòng Trung ương Đảng (nếu có) trình đồng chí
Thường trực Ban Bí thư để quyết định đưa vào chương trình nghị sự, hoặc xin
ý kiến bằng văn bản, hoặc để đồng chí Thường trực Ban Bí thư trực tiếp cho ý
kiến xử lý)

Bốn là, Chuyên viên Vụ Tổng hợp, nhất là phòng Địa phương được
trực tiếp khai thác thông tin làm báo cáo cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư những
vấn đề quan trọng phát hiện qua thực tế, làm việc với ban, ngành, các cấp ủy
đảng hoặc phối hợp tổ chức các tổ công tác, các đợt nghiên cứu chuyên đề
làm báo cáo thông tin cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề nổi lên
trong từng thời gian.

Năm là, Giữa các cục, vụ trong Văn phòng Trung ương Đảng phải
định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác thông tin phục vụ Bộ
Chính trị, Ban Bí thư; thống nhất kế hoạch thiết lập mạng máy tính trong nội
bộ Văn phòng Trung ương Đảng, chuẩn hóa quá trình truyền thông tin và các
khâu xử lý thông ti; xây dựng quy chế thông tin của Văn phòng Trung ương
và bồi dưỡng nghiệp vụ công tác thông tin cho lãnh đạo, chuyên viên trong
các đơn vị.
65

2.2.3. Đổi mới, kiện toàn mạnh mẽ về tổ chức của Văn phòng
Trung ương Đảng

1. Đổi mới kiện toàn tổ chức

Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xác định, Văn phòng Trung ương
Đảng đã chú trọng việc sắp xếp tổ chức bộ máy của Văn phòng phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn, đảm bảo sự gọn gàng, nhẹ nhàng
nhưng chất lượng, vận hành thông suốt, có hiệu quả và đủ sức hoàn thành các
nhiệm vụ được giao phó.

Từ ngày chính thức thành lập đến nay, Văn phòng Trung ương Đảng
đã qua nhiều giai đoạn phát triển; chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
Văn phòng cũng đã có nhiều thay đổi, không ngừng được mở rộng và hoàn
thiện. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới trong giai đoạn
hiện nay, cũng cần phải tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức theo các hướng
chủ yếu sau:

- Cần phải xem xét lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của Văn phòng
Trung ương Đảng đã được xác định tại Quyết định số 01/ĐU-VPTWĐ, kiến
nghị những vấn đề cần bổ sung, điều chỉnh để Bộ Chính trị khóa X ra quyết
định thay thế.

- Các đơn vị trực thuộc trong Văn phòng Trung ương Đảng phải ra
soát lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của mình, bổ sung, điều chỉnh những
mặt chưa hợp lý trong từng đơn vị và giữa các đơn vị với nhau, cắt bỏ những
chức năng, nhiệm vụ chồng chéo giữa các đơn vị, bổ sung những nhiệm vụ
mới cho một số đơn vị.

- Cần phải nghiên cứu về việc tổ chức lại các bộ phận chuyên viên
trong các vụ nghiên cứu của Văn phòng Trung ương Đảng theo hướng thành
66

lập các bộ phận hoặc các tổ đủ mạnh để phụ trách, nghiên cứu, nắm tình hình
theo từng lĩnh vực công tác.

- Cần phải xúc tiến nghiên cứu đề án Trung tâm thông tin tổng hợp
của Trung ương Đảng (như: cấp cục, vụ) trực thuộc Văn phòng Trung ương
Đảng để làm chức năng thứ hai của Văn phòng, đó là chăm lo công tác thông
tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng. Từ trước đến nay, công việc này chủ yếu
do các chuyên viên của Vụ Tổng hợp chủ trì cùng các Vụ Địa phương đảm
nhiệm. Đến nay, do nhu cầu thực tế, cần phải nghiên cứu để hình thành một
đơn vị độc lập chuyên lo về công tác thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng.

2. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ

Trong những năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ,
nhân viên, Văn phòng Trung ương Đảng đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của mình. Hàng năm, Văn phòng Trung ương đều tổng kết, rút kinh nghiệm
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nhất là thực hiện chức năng tham mưu
giúp Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ
chức, điều hành công việc lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, hiện nay với yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc đổi mới,
yêu cầu ngày càng cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư đối với các cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó có Văn phòng Trung
ương Đảng trong việc tham mưu, giúp các cơ quan lãnh đạo của Đảng tổ
chức, điều hành công việc lãnh đạo Đảng, lãnh đạo đất nước, Văn phòng
Trung ương cần tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của mình để sẵn
sàng đáp ứng mọi yêu cầu lãnh đạo của Đảng.

Văn phòng Trung ương Đảng cần xác định đúng vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của mình trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Để tiếp tục
67

hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Văn phòng Trung ương Đảng cần
chú trọng làm tốt một số công việc sau đây:

- Quán triệt một cách sau sắc chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng
Trung ương Đảng trong thời kỳ mới đến từng cán bộ, đảng viên, nhân viên
của Văn phòng; làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhân viên hiểu rõ, hiểu thấu
đáo từng nội dung công việc của mình, trên cơ sở đó mà xác định rõ yêu cầu,
nội dung và phương thức thực hiện từng công việc một.

- Rà soát lại Quyết định của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức của Văn phòng Trung ương Đảng, đối chiếu, so sánh với tình hình thực
tế hiện nay để kiến nghị bổ sung hoặc thay đổi những mặt chưa phù hợp; làm
rõ và sâu sắc thêm chức năng tham mưu, phạm vi tham mưu và cách thức
tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng trong điều kiện mới.

- Mười một đơn vị trực thuộc Văn phòng Trung ương chủ động rà soát
lại các chức năng, nhiệm vụ của mình đã nêu trong các quyết định của Văn
phòng về từng lĩnh vực công tác, trên cơ sở đó kiến nghị với lãnh đạo Văn
phòng cho bổ sung, sửa đổi.

- Tiếp tục xem xét lại các quy chế, lề lối làm việc giữa Văn phòng
Trung ương Đảng với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc
Trung ương, với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng
Chính phủ để bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với phương thức lãnh đạo của
Đảng trong điều kiện hiện nay.

- Làm rõ và sâu sắc thêm mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Văn
phòng Trung ương Đảng với các tỉnh ủy, thành ủy, các ban, ngành và các cơ
quan Trung ương.

3. Công tác cán bộ


68

Trong suốt những năm qua, ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù trong điều
kiện Đảng hoạt động công khai hay trong thời kỳ hoạt động bí mật, dù ở Thủ
đô hay phải sơ tán lên rừng núi hoặc về nông thôn… các thế hệ cán bộ, đảng
viên, nhân viên Văn phòng Trung ương Đảng luôn một lòng, một dạ trung
thành tuyệt đối với sự nghiệp cao cả của Đảng, không ngại hy sinh, gian khổ,
luôn tận tụy, sáng tạo trong công việc, đoàn kết chặt chẽ, khắc phục khó khăn,
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ do Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng giao phó.

Từ Văn phòng Trung ương Đảng, nhiều cán bộ đã trưởng thành và giữ
những trọng trách cao trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Nhiều đồng chí
Chánh Văn phòng đã trở thành Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Phó Thủ tướng Chính phủ.

Ngày nay, trong điều kiện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân
các bộ tộc với những yêu cầu mới, đòi hỏi cao hơn, đã đặt ra cho Văn phòng
Trung ương Đảng với những nhiệm vụ rất nặng nề, Để thực hiện và hoàn
thiện tốt những nhiệm vụ khó khăn nhưng vẻ vang đó, đòi hỏi Văn phòng
Trung ương Đảng phải quan tâm đặc biệt đến xây dựng đội ngũ cán bộ, đảm
bảo phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, bao gồm từ khâu xây dựng
tiêu chuẩn cán bộ, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và sắp xếp, bố trí cán bộ… để
tạo nên một đội ngũ cán bộ đủ sức gánh vác nhiệm vụ mới trong điều kiện
hiện nay.

Tiêu chuẩn cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng, trước hết phải căn
cứ vào tiêu chuẩn chung của cán bộ được quy định trong Nghị quyết Trung
ương lần thứ 9 khóa VII về chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
69

đại hóa đất nước, trong đó coi trọng cả phẩm chất và năng lực, phẩm chất là
gốc.

Đối với cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng, cần lưu ý và nhấn mạnh
thêm một số tiêu chuẩn sau đây:

- Là những cán bộ được vinh dự làm việc trực tiếp phục vụ Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí lãnh đạo cấp
cao của Đảng, cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng cần có phẩm chất hàng
đầu là bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với mục
tiêu và lý tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối đối
mới của Đảng, suốt đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc.

- Có năng lực, trí tuệ, năng động, sáng tạo, có khả năng tham mưu
giúp việc đắc lực cho các cơ quan lãnh ddaoj cao nhất của Đảng trong việc tổ
chức, điều hành công việc của Đảng, trong việc phối hợp, điều hành các hoạt
động của các cơ quan tham mưu của Trung ương và trong việc tổ chức công
tác thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng.

- Có tư duy và có khả năng tổ chức và thực thi các quy chế làm việc,
chương trình, kế hoạch công tác của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, của các
đồng chí lãnh đạo của Đảng, có khả năng nghiên cứu, tổng hợp và phân tích
tình hình để kiến nghị lãnh đạo hình thức, biện pháp xử lý đối với các vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn công tác; có khả năng biên tập các văn bản, tinh
thông nghiệp vụ công tác văn phòng.

- Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước,
thông thạo công tác hành chính của Đảng nói chung và việc xử lý văn bản nói
riêng.
70

- Có phẩm chất đạo đức trong sáng, gương mẫu trong lối sống, cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư, tận tụy vì công việc chung, giữ vững nguyên
tắc và phương pháp làm việc, chu đáo, tỉ mỉ.

- Có tinh thần đoàn kết, hợp tác, cầu thị, khiêm tốn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Văn phòng Trung ương Đảng
trong những năm sắp tới theo hướng tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ,
chăm lo hơn nữa việc giáo dục, rèn luyện, đào tạo lại và luân chuyển cán bộ;
đồng thời tiếp tục thực hiện có nền nếp việc xây dựng quy hoạch, lựa chọn,
tuyển dụng, bố trí cán bộ theo đúng yêu cầu và các quy định của Đảng, Nhà
nước và của các cơ quan.

Để thực hiện tốt những định hướng cơ bản về công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng ấy, cần thực hiện một số
giải pháp như sau:

Thứ nhất, cần xác định cụ thể tiêu chuẩn chức danh của từng loại cán
bộ trong Văn phòng Trung ương Đảng.

Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ Văn phòng
Trung ương Đảng là cơ sở, chuẩn mực để quy hoạch, đánh giá, lựa chọn cán
bộ đưa đi đào tạo, bồi dưỡng và thuận tiện trong bố trí sử dụng, quản lý cán
bộ. Tiêu chuẩn càng cụ thể chính xác bao nhiêu thì càng thuận lợi cho việc
lựa chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ bấy nhiêu.

Thứ hai, phải có quy hoạch tổng thể về công tác cán bộ và kế hoạch cụ
thể trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Văn phòng Trung ương
Đảng.

Trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng và thực tế
phân tích trình độ cán bộ, phải tiến hành công tác quy hoạch tổng thể đội ngũ
71

cán bộ trong văn phòng. Từ đó, để xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi
dưỡng nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ đủ trình độ, năng lực đáp ứng được
chức năng tham mưu phục vụ sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Thứ ba, tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng các lợp bồi dưỡng
ngắn hạn về nghiệp vụ Văn phòng, đặc biệt đối với số cán bộ, nhân viên mới
về cơ quan.

4. Xây dựng cơ chế làm việc

Một trong những nhân tố thúc đẩy và nêu cao hiệu lực trong việc tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng được cụ thể hóa trên đời sống
thực tế, đó là cần phải có cơ chế, chế độ làm việc và lề lỗi làm việc. Lề lỗi
làm việc là việc tổng hợp các phương thức, biện pháp tổ chức thực hiện được
cho là đúng đắn, phù hợp để tác động vào đối tượng công tác nào đó qua hành
động và hoạt động thực tế có mục tiêm quyết định chất lượng của sự lãnh đạo
của Đảng.

Văn phòng Trung ương Đảng có nếp làm việc nghiêm túc, chặt chẽ ở
khắp các bộ phận. Trong kháng chiến cũng như trong thời bình, nếp làm việc
quy củ, khoa học ấy đã trở thành yếu tố rất quan trọng đảm bảo cho công việc
được giải quyết trôi chảy, nhanh chóng và có hiệu quả.

Lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng thường xuyên quan tâm chỉ
đạo xây dựng và hoàn thiện cơ chế làm việc. Chính nhờ có cơ chế làm việc
đúng đắn nói trên mà trong cơ quan đã phát huy tốt nhất vai trò, vị trí của các
tổ chức đảng, chính quyền, công đoàn, đoàn thanh niên và nữ công cơ quan.

Văn phòng Trung ương Đảng đã có bộ quy chế làm việc bao gồm hơn
50 quyết định, quy định, hướng dẫn, quy ước quy định rất cụ thể về chức
năng, nhiệm vụ và lề lối làm việc của lãnh đạo Văn phòng, của các cục, vụ
72

phòng và các lĩnh vực công tác của Văn phòng, cụ thể như: các quyết định
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Văn phòng Trung ương Đảng và về những
lĩnh vực công tác do Văn phòng Trung ương Đảng đảm nhiệm; các văn bản
về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Văn phòng Trung ương Đảng;
văn bản về chế độ và lề lối làm việc của Văn phòng Trung ương Đảng và các
cục, vụ trực thuộc; văn bản về phối hợp công tác giữa Văn phòng Trung ương
Đảng với các cơ quan khác; văn bản về các lĩnh vực công tác của Văn phòng
Trung ương Đảng…

Quy chế làm việc như một cuốn sách cẩm nang đối với mỗi cán bộ
Văn phòng Trung ương Đảng, nhất là đối với cán bộ, nhân viên mới về công
tác ở Văn phòng Trung ương Đảng mà trong đó đã đề cập rất cụ thể, chi tiết,
cách thức thực hiện các nhiệm vụ của Văn phòng và lề lối, mối quan hệ công
tác giữa các đơn vị trong Văn phòng liên quan đến tất cả lĩnh vực từ tham
mưu phục vụ Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức công việc, đến
việc lưu trữ, tài liệu, sử dụng mạng tin học cơ quan cho đến công tác hậu cần
(mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản, vật tư…).

Trực tiếp xây dựng và hoàn thiện cơ chế làm việc vẫn được coi là
trọng tâm công tác của Văn phòng Trung ương Đảng trong những năm sắp
tới. Cụ thể, Văn phòng Trung ương Đảng cần tiếp tục làm tốt các việc như
sau:

Một là, Tiếp tục nghiên cứu và xây dựng các văn bản pháp lý để hoàn
thiện cơ chế, chế độ phối hợp giữa Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ
quan chức năng tham mưu phục vụ lãnh đạo cấp cao của Đảng - Nhà nước
một cách hài hòa và chặt chẽ để bảo đảm sự thống nhất về mặt quan điểm
đánh giá và đề xuất ý kiến trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của
Đảng, vừa phát huy tính tích cực, trách nhiệm và sự chủ động của mỗi bên
73

nhất là chế độ xin ý kiến, chế độ chỉ đạo và quyết định giải quyết các vấn đề
giữa cấp trên và dưới để phát huy tính tích cực, chủ động của cấp dưới và vừa
bảo đảm việc chỉ đạo sát thực của cấp trên; giải quyết tình huống cấp trên
quyết định, cấp dưới không thực hiện và cấp trên đưa ra mệnh lệnh song
không đúng thực tế; mặt khác là để xác định rõ công việc nào do cấp nào
quyết định và vấn đề nào phải xin ý kiến.

Hai là, Quy định chế độ hội họp giữa Văn phòng Trung ương Đảng và
văn phòng Quốc hội, văn phòng Chủ tịch nước, văn phòng Chính phủ, văn
phòng Ủy ban Quốc phòng - An ninh quốc gia và Thủ đô Viêng Chăn để phản
ánh, bàn bạc, trao đổi ý kiến đối với các vấn đề nổi bật và chuẩn bị nội dung
những vấn đề cần thảo luận trong hội nghị phản ánh ban đảng Trung ương
hàng tháng; đồng thời cũng giám sát, kiểm tra, thúc đẩy việc tổ chức thực
hiện hoặc triển khai các nghị quyết, chỉ thị, chỉ đạo của Trung ương Đảng để
phối hợp trong việc giải quyết các vấn đề đúng với nhiệm vụ, chức năng và
quyền hạn của mỗi cơ quan.

Ba là, Quy đinh chế độ hội họp định kỳ 3 tháng giữa đồng chí Tổng
Bí thư và đồng chí Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng với Văn phòng
Trung ương Đảng để lắng nghe tình hình tổ chức thực hiện chức năng tham
mưu phục vụ Trung ương Đảng từ Văn phòng Trung ương Đảng và việc cho
hướng chỉ đạo của cấp trên. Đồng thời cũng quy định chế độ rõ ràng về vấn
đề thu thập tình hình, những thông tin liên quan ở các địa phương trước khi
tiến hành Hội nghị Trung ương Đảng, hoặc trước khi lãnh đạo xuống kiểm
tra, thúc đẩy và chỉ đạo công việc ở địa phương - cơ sở để bảo đảm tính sát
thực của vấn đề và có hiệu quả.

Bốn là, Quy định chế độ hội họp Trung ương Đảng mở rộng 6 tháng
giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Quốc hội, Thủ tướng - Phó thủ
74

tướng, các Bộ trưởng, Chủ nhiệm cơ quan, Tỉnh trưởng… để thảo luận và chỉ
đạo đối với các vấn đề quan trọng có tính chiến lược trước khi đề nghị hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hoặc trước khi đưa ra thông qua các
cơ quan quyền lực nhà nước xem xét và quyết định trên đúng theo pháp luật.

Năm là, Tăng cường sự phối hợp, phản ánh, báo cáo, cung cấp các
thống tin giữa Văn phòng Trung ương Đảng và các Văn phòng Tỉnh ủy của
các địa phương và Văn phòng của các bộ ngành để theo dõi, thúc đẩy việc tổ
chức thực hiện và triển khai nghị quyết của Đảng hội Đảng, các văn bản pháp
lý và thực hiện hướng chỉ đạo của Trung ương Đảng ở các bộ, ngành và các
địa phương, nhất là để bảo đảm nhiệm vụ, chức năng tham mưu giúp việc Ban
Chấp hành Trung ương, nhất là đồng chí Ủy viên Trung ương trong việc báo
cáo tình hình tổ chức thực hiện công tác từng lĩnh vực công việc đảm nhiệm
chỉ đạo đối với Ủy viên Bộ Chính trị bằng bản báo cáo 6 tháng và một năm
một cách nghiêm túc.

2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các đồng chí Bộ Chính
trị, Ban Bí thư đối với Văn phòng Trung ương Đảng

Để giúp Văn phòng Trung ương Đảng hoàn thành được nhiệm vụ
trong giai đoạn mới, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đối với Văn phòng Trung ương Đảng. Sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Văn phòng Trung ương Đảng thể
hiện trên một số mặt sau đây:

Một là, Các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư, mà thường xuyên, trực
tiếp là đồng chí Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư định kỳ nghe lãnh đạo
Văn phòng Trung ương Đảng báo cáo và chỉ đạo, định hướng những trọng
tâm công tác lớn của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong từng thời
kỳ, tạo điều kiện để Văn phòng Trung ương Đảng nắm bắt được sớm các chủ
75

trương, đường lối. Từ đó, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch để phục
vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Hai là, Đồng chí Thường trực Ban Bí thư định kỳ 2 tháng một lần làm
việc với tập thể lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, nghe lãnh đạo Văn
phòng Trung ương báo cáo về trọng tâm công tác lớn trong từng thời gian; chỉ
đạo, uốn nắn kịp thời những khuyết điểm, sai sót của Văn phòng Trung ương
trong quá trình phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Ba là, Thông qua hoạt động thực tiễn của Văn phòng Trung ương
Đảng và thông qua các cuộc tiếp xúc hàng ngày, các đồng chí Bộ Chính trị,
Ban Bí thư cần yêu cầu cao hơn, đòi hỏi cao hơn đối với các đồng chí lãnh
đạo Văn phòng, các cán bộ chủ chốt của các cục, vụ phòng. Từ đó, bắt buộc
mỗi cán bộ Văn phòng phải tự giác học hỏi, tìm thòi, suy nghĩ, sáng tạo để
vươn lên, đáp ứng được yêu cẩu của công việc; thẳng thắn phê bình, góp ý để
cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng tiến bộ nhanh hơn.

Bốn là, Quan tâm tạo điều kiện về tinh thần và vật chất để Văn phòng
Trung ương Đảng hoàn thành nhiệm vụ được giao, cổ vũ, động viên, khích lệ
những cố gắng, những thành quả mà Văn phòng Trung ương đạt được, chỉ
bảo, uốn nắn những khuyết điểm, sai sót của cán bộ; đặt niềm tin tưởng và
niềm hy vọng lớn lao vào đội ngũ cán bộ Văn phòng Trung ương để họ mau
chóng trưởng thành, đủ sức gánh vác những nhiệm vụ ngày một phức tạp và
nặng nề hơn.

Năm là, Xây dựng một văn bản chỉ đạo các tỉnh ủy, thành ủy, các ban,
ngành Trung ương phối hợp tốt với Văn phòng Trung ương, tạo điều kiện để
Văn phòng Trung ương Đảng hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được giam
phó.
76

2.2.5. Tăng cường mối quan hệ giữa Văn phòng Trung ương Đảng
với các ban, ngành, đoàn thể Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy

Những thành tích mà Văn phòng Trung ương Đảng đạt được trong
suốt thời gian qua, một mặt là nhờ sự nỗi lực phấn đấu không mệt mỏi của các
thế hệ cán bộ Văn phòng Trung ương; nhờ sự phối hợp chặt chẽ, thường
xuyên, có hiệu quả của các cấp ủy, tổ chức đảng, của văn phòng các cơ quan
Nhà nước và sự đùm học, giúp đỡ của toàn thể nhân dân các bộc tộc. Trong
nhiều năm qua, chính nhờ sự hợp tác, giúp đỡ và mối quan hệ tốt đẹp với các
tỉnh, thành ủy, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, đã tạo điều kiện để Văn
phòng Trung ương Đảng hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Mối
quan hệ đó được thể hiện qua việc cùng hợp tác, sự gắn bố với các ban đảng,
Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ và các
ban, ngành, đoàn thể Trung ương trong việc xây dựng Quy chế làm việc của
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, xây dựng chương trình làm việc của
Trung ương toàn khóa, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư hàng năm, hàng quý và
hàng tuần, thậm chí hàng ngày; trong việc phối hợp để tổ chức các cuộc làm
việc của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, tham mưu
giúp việc tổ chức điều hành công việc của Đảng…; phối hợp với các tỉnh,
thành ủy thực hiện chế độ thông tin đối với Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư. Mối quan hệ ấy còn thể hiện qua các cuộc họp, hội nghị, các cuộc làm
việc tiếp xúc thường xuyên giữa Văn phòng Trung ương Đảng với các tỉnh,
thành, các ban, ngành Trung ương. Một mặt, để trao đổi kinh nghiệm, học hỏi
lẫn nhau trong công tác, mặt khác cũng là dịp để các địa phương, ban, ngành,
đoàn thể Trung ương hiểu Văn phòng Trung ương Đảng hơn, thông cảm và
chia sẻ những khó khăn, thuận lợi, tạo điều kiện cho nhau hoàn thành nhiệm
vụ của mình.
77

Về lầu dài và trong những năm sắp tới, Văn phòng Trung ương Đảng
cần chủ động tăng cường mối quan hệ của mình với các ban, ngành, đoàn thể
Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy. Các công việc cần làm là:

- Văn phòng Trung ương Đảng phải chủ động kiến nghị với Bộ Chính
trị, Ban Bí thư để bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành văn bản mới về mối quan
hệ và lề lối làm việc giữa Văn phòng Trung ương Đảng với các ban, ngành,
đoàn thể Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy. Trước hết là quy chế về quan
hệ công tác giữa Văn phòng Trung ương Đảng với các ban, các đảng đoàn,
ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư;
quy chế về phối hợp công tác giữa Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng
Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ; quy ước phối
hợp công tác giữa Văn phòng Trung ương Đảng với các đồng chí trợ lý, thư
ký của các đồng chi Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư…

- Một trong những chức năng quan trọng của Văn phòng Trung ương
Đảng là giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư phối hợp, điều hòa hoạt động của các
cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng. Vì vậy, Văn phòng Trung ương
Đảng cần chú ý đặc biệt mối quan hệ giữa Văn phòng Trung ương Đảng,
trước hết là với các ban tham mưu của Trung ương Đảng. Việc phối hợp này
thường xuyên diễn ra giữa các đồng chí lãnh đạo Văn phòng và lãnh đạo các
ban, giữa các đồng chí lãnh đao cục, vụ phòng và chuyên viên theo dõi trong
việc thực hiện quy chế, xây dựng chương trình làm việc, phục vụ các hội
nghị, các cuộc họp, thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, nắm tình hình
các ban, ngành và địa phương và các lĩnh vực công tác khác (văn thư, lưu trữ,
cơ yếu, công nghệ thông tin…). Văn phòng Trung ương Đảng cần làm tốt vai
trò là đầu mối của các cơ quan, là nhịp cầu nối liền giữa Bộ Chính trị, Ban Bí
thư với cơ quan Trung ương; chủ động, nhạy bén nắm tình hình, trao đổi trực
78

tiếp với các ban Đảng và kiến nghị hướng xử lý báo cáo kịp thời với Bộ
Chính trị, Ban Bí thư những vấn đề về công tác xây dựng Đảng, an ninh, đối
ngoại, những vấn đề đột xuất…, Lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, các
cục, vụ phòng trong Văn phòng và lãnh đạo các ban đảng, các cục, vụ phòng
tương ứng của các ban đảng định kỳ làm việc trao đổi với nhau để kịp thời rút
kinh nghiệm, phát huy những ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, phục vụ ngày
càng tốt hơn đối với sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

- Tăng cường mối quan hệ với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ
tích nước, Văn phòng Chính phủ. Tiếp tục thực hiện tốt Quy ước phối hợp,
chủ động kiến nghị để sửa đổi, bổ sung quy ước đã hiện hành, nâng thành quy
chế phối hợp cho phù hợp với tình hình mới. Thường xuyên trao đổi với lãnh
đạo 4 Văn phòng, với trợ lý, thư ký các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư
trong việc bố trí sắp xếp chương trình làm việc của các cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng, Nhà nước và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, chủ
động phối hợp và bố trí các chuyến đi làm việc, đi thăm cơ sở và các hoạt
động khác của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Duy trì cuộc gặp mặt
hàng năm giữa lãnh đạo 4 Văn phòng và giữa Văn phòng Trung ương Đảng
với các đồng chí trợ lý, thư ký Bộ Chính trị, Ban Bí thư để rút kinh nghiệm
công tác trong năm và bàn phương hướng phối hợp công tác trong những năm
sắp tới.

Tiếp tục thực hiện quy chế của Bộ Chính trị khóa về quan hệ công tác
giữa Văn phòng Trung ương Đảng với các ban đảng, các đảng đoàn, ban cán
sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương; nghiên cứu để có hình thức tổ chức
sự làm việc và bố trí cán bộ thích hợp để tăng cường công tác nắm tình hình
của các ban, ngành Trung ương và báo cáo kịp thời Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Phối hợp với các cơ quan Trung ương để cử cán bộ của Văn phòng Trung
79

ương tham gia các đoàn kiểm tra của Trung ương đối với các tỉnh, thành và
các cơ sở làm điểm về thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, những
nơi có những vấn đề nổi cộm cần có kết luận, kiểm tra.

- Tăng cường mối quan hệ với các tỉnh ủy, thành ủy, trước hết là với
văn phòng các tỉnh ủy, thành ủy. Thông qua văn phòng các tỉnh ủy, thành ủy
để tạo mối quan hệ gắn bó, thân thiện giữa lãnh đạo Văn phòng Trung ương
với các đồng chí lãnh đạo các tỉnh, thành. Văn phòng Trung ương Đảng tăng
cường đội ngũ chuyên viên có phẩm chất, năng lực để thường xuyên gắn bó
với các địa phương, bám sát cơ sở, nhạy bén nắm tình hình, trao đổi, góp ý
với địa phương và báo cáo kịp thời tình hình địa phương với Bộ Chính trị,
Ban Bí thư. Đồng thời, Văn phòng Trung ương Đảng cần tăng cường chỉ đạo
công tác văn thư, lưu trữ, cơ yếu, tin học, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công
tác văn phòng cho các tỉnh, thành ủy; tăng cường mối giao lưu, gặp gỡ giữa
Văn phòng Trung ương Đảng với cán bộ văn phòng các tỉnh, thành để chia sẻ
kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong công tác nhằm mục đích phục vụ cấp ủy
đảng ngày một tốt hơn, nâng cao hiệu quả công tác của toàn bộ hệ thống văn
phòng cấp ủy, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo chung của
Đảng.

2.2.6. Bảo đảm các phương tiện, điều kiện làm việc, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân viên

Từ một bộ phận làm các nhiệm vụ của công tác văn phòng như: in ấn
tài liệu, liên lạc, chuyển tài liều, lo tài chính, chuẩn bị nơi ăn, ở phục vụ hoạt
động của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của
Đảng trong điều kiện hoạt động bí mật đến khi chính thức thành lập Văn
phòng Trung ương Đảng. Đến nay, Văn phòng Trung ương Đảng đã trải qua
nhiều giai đoạn phát triển và ngày càng lớn mạnh. Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
80

Ban Tài chính – Quản trị Trung ương đã thường xuyên quan tâm đến nhiều
lĩnh vực hoạt động của Văn phòng, trong đó đã tạo mọi điều kiện, đáp ứng
các yêu cầu về phương tiện, điều kiện làm việc của Văn phòng, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, nhân viên Văn phòng Trung ương. Chính
điều đó đã giúp Văn phòng Trung ương hoàn thành được các nhiệm vụ Đảng
giao phó. Ngày nay, trong điều kiện đất nước còn khó khăn, nhưng Văn
phòng Trung ương Đảng đã được bố trí nơi làm việc đạt hiệu quả cao, đặc
biệt Văn phòng Trung ương Đảng là một trong những cơ quan Trung ương
được trang bị phương tiện, máy móc văn phòng hiện đại, có thể đáp ứng được
yêu cầu về in ấn, chuyển tải thông tin một cách nhanh nhất và chính xác nhất.

Từ đòi hỏi và yêu cầu mới với hiệu quả thực hiện chức năng tham
mưu của Văn phòng Trung ương Đảng, để bảo đảm các phương tiện, điều
kiện làm việc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân viên
Trong những năm tới.

TIỂU KẾT
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chức năng tham mưu của
Văn phòng Trung ương Đảng đã được nghiên cứu, giải thích trong bản luận
văn này đã nhấn mạnh rằng, để thực hiện năng chức tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng một cách vững vàng, bền bỉ và bảo đảm cho việc
tham mưu có sự đúng đắn, rõ ràng, nhanh chóng và có hiệu quả cao trong thời
gian tới cần phải nâng cao chất lượng công tác chính trị - tư tưởng, tổ chức và
phương thức làm việc của bộ phận tham mưu có hệ thống và hiện đại; duy
định chế độ chính sách phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ chính trị của công
việc tham mưu ở Văn phòng Trung ương Đảng và phù hợp với điều kiện mới
để tạo động lực cho việc hoạt động công tác có hiệu quả cao; cung cấp ngân
sách trang bị các phương tiện cần thiết và hiện đại trong việc thu tập thông tin
để phục vụ cho việc nghiên cứu vấn đề báo cáo lãnh đạo cấp trên…
81

Tất cả các vấn đề trên là bài học cần được phát huy, vừa là nhiệm vụ
cần phải khắc phục và phát triển công việc thực hiện chức năng tham mưu của
Văn phòng Trung ương Đảng trong thời gian tới để công tác hoạt động công
tác tham mưu có chất lượng và hiệu quả cao.
82

KẾT LUẬN

Chất lượng công tác tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng đối
với sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư trong giai đoạn hiện nay có vị
trí, vai trò vô cùng quan trọng và là một tất yếu khách quan trong quá trình
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng kém phát triển, diễn ra trong bối cảnh quốc tế đang diễn biến
nhanh chóng, phức tạp và khó lường; cùng với tình hình trong nước có nhiều
thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động, sáng tạo, thường
xuyên, kịp thời và sâu sát hơn. Yêu cầu đó cũng đặt ra cho Văn phòng Trung
ương Đảng phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện để đáp ứng được chức năng
tham mưu, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và xây dựng Đảng.
Thực tiễn hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng trong suốt 60
năm qua đã khẳng định: Văn phòng cấp ủy nói chung, Văn phòng Trung ương
Đảng nói riêng luôn giữ vai trò, vị trí rất quan trọng trong hệ thống bộ máy tổ
chức và hoạt động lãnh đạo của cấp ủy đảng, của Ban Chất hành Trung ương,
của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Chất lượng tổ chức và hiệu quả hoạt động,
đặc biệt chất lượng thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung
ương Đảng luôn là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến chất lượng và hoạt
động, hiệu quả làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị và
Ban Bí thư.
83

Tuy nhiên, thực trạng thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng đối với sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng còn
những điều bất cập như đã trình bày ở trên, đã góp phần hạn chế chất lượng,
hiệu quả công tác lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Vì vậy, việc nâng
cao chất lượng thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương
Đảng đã và đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.

Để khắc phục và giải quyết những vấn đề bất cập nêu trên một cách có
hiệu quả, luận văn đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng.

Các giải pháp đã được nêu trong luận văn đã xuất phát từ thực tiễn
hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng. Tác giả cho rằng, các giải pháp
này nếu tổ chức thực hiện tốt sẽ đem lại hiệu quả và góp phần giúp Bộ Chính
trị, Ban Bí thư tổ chức, điều hành công việc của Đảng ngày một nền nếp,
khoa học, đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, việc áp dụng các
giải pháp nói trên phải được thực hiện đồng bộ, tránh tuyệt đối hóa hoặc coi
nhẹ bất cứ một giải pháp nào trong quá trình thực hiện.

Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đổi
mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đối với Nhà nước và toàn xã hội đỏi hỏi Văn phòng
Trung ương Đảng phải vươn lên nhiều hơn nữa, mỗi cán bộ, đảng viên Văn
phòng Trung ương hàng ngày, hàng giờ phải tự trang bị các trí thức tổng hợp,
vừa cơ bản, vừa chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu tham mưu phục vụ sự lãnh
đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng được quyết định trước hết bởi sự vươn lên của chính bản
thân mỗi cán bộ lãnh đạo, chuyên viên nghiên cứu và các cán bộ nghiệp vụ,
84

kỹ thuật khác trong Văn phòng. Song, sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, đặc biệt là của đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Thường trực
Ban Bí thư là một yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển và trưởng thành
của Văn phòng Trung ương Đảng.

Chất lượng thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung
ương Đảng đối với sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong tình hình
hiện nay là một yêu cầu cấp thiết, nhưng là một vấn đề rất lớn và khó. Với
thời gian ngắn, điều kiện hạn chế về ngôn ngữ trong học tập, nghiên cứu và
viết một luận văn. Cho nên sẽ còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Thành quả
nghiên cứu của luận văn mới chỉ là kết quả bước đầu, tác giả hy vọng những
vấn đề nêu ra trong luận văn sẽ còn được tiếp tục được nghiên cứu, mở rộng
và sâu sắc hơn nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng
thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng để phục vụ
một cách đắc lợi và có hiệu quả sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:


1. Hồ Mẫu Ngoạt (2006), Chất lượng tham mưu của Văn phòng Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự lãnh đạo của Bộ Chính
trị và Ban Bí thư trong giai đoạn hiện nay, Học viện Chính trị quốc
gia.
2. Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2003): Lịch sử
Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Quy chế
làm việc của Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1983): Quy định
về tổ chức và chế độ làm việc của Văn phòng Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, số 234/VPTW, ngày 15/11/1983.

Tài liệu tiếng Lào


5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1996), Chỉ thị của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng, đề ngày 2 tháng Bảy năm 1996 về việc tăng cường
sự chỉ đạo công tác Văn phòng của Đảng ủy và cơ quan hành chính
tỉnh, Thủ đô Viêng Chăn.
6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1979), Nghị quyết số
33/BCTTWĐ, tháng Mười năm 1979 về việc thành lập Văn phòng
86

Trung ương Đảng và Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, Thủ đô


Viêng Chăn.
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1989), Nghị quyết số
29/BCTTWĐ, tháng Mười một năm 1989 về công tác tổ chức và
hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng và Hội động Bộ
trưởng, Thủ đô Viêng Chăn.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1989), Nghị quyết số
29/BCTTWĐ, tháng Mười một năm 1989 về công tác tổ chức và
hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng và Hội động Bộ
trưởng, Thủ đô Viêng Chăn.
9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1993), Nghị quyết số
45/BCTTWĐ, tháng Bảy năm 1993 về việc công tác tổ chức của
Văn phòng Trung ương Đảng, Thủ đô Viêng Chăn.
10. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1993), Nghị quyết số
63/BCTTWĐ, tháng Bày năm 1993 về nguyên tắc và quy tắc trong
hợp tác, phối hợp công việc giữa Văn phòng Trung ương Đảng,
Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Thủ tướng và Văn phòng Chủ tích
nước, Thủ đô Viêng Chăn.
11. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1996), Nghị quyết số
63/BCTWĐ, đề ngày 2 tháng Bảy năm 1996 về nguyên tắc và quy
tắc trong hợp tác, phối hợp công việc giữa Văn phòng Trung ương
Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Thủ tướng, Văn phòng Chủ
tích nước, Thủ đô Viêng Chăn.
12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1994), Văn bản hướng dẫn số
02/BCTTWĐ, tháng Tư năm 1994 về việc tăng cường sự chỉ đạo
công tác Văn phòng Trung ương Đảng, Thủ đô Viêng Chăn.
87

13. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012), đề ngày 16 tháng 6 năm
2012, về việc tổ chức và hoạt động của Văn phòng Trung ương
Đảng.
14. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
đất nước 5 năm lần thứ VI năm 2006 – 2010.
15. Bun Chăn SỈ VÔNG PHĂN (2012), Kiện toàn bộ máy tổ chức và
hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị và Hành chính quốc gia Lào.
16. Bua Văn VI LA SẮC (2012), “Nâng cao chất lượng lãnh đạo Đảng
ủy của các cơ quan tham mưu của Đảng cấp Trung ương”, Luận văn
thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia
Lào.
17. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb
Quốc gia, Thủ đô Viêng Chăn.
18. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ V của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb Quốc
gia, Thủ đô Viêng Chăn.
19. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb
Quốc gia, Thủ đô Viêng Chăn.
20. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb
Quốc gia, Thủ đô Viêng Chăn.
88

21. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb
Quốc gia, Thủ đô Viêng Chăn.
22. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb
Quốc gia, Thủ đô Viêng Chăn.
23. Kay Sỏn Phôm Vi Hản (1985), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Quốc gia, Thủ
đô Viêng Chăn.
24. Kay Sỏn Phôm Vi Hản (1997), Tuyển tập, Tập 3, Nxb Quốc gia, Viêng
Chăn.
25. Kay Sỏn Phôm Vi Hản (1989), Hướng về nông thôn và mở rộng sự
hợp tác quốc tế, Nxb Giáo dục, Thủ đô Viêng Chăn.
26. Khăm Bay ĐĂM LẮT (2011), Củng cố tổ chức tham mưu của Đảng
ở tỉnh Khăm Muộn, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị và Hành chính quốc gia Lào.
27. Lốt Cha Na SỈ VI LAY (2013), Củng cố công tác xây dựng cán bộ
chuyên viên của Văn phòng Trung ương Đảng, Luận văn thạc sĩ
Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào.
28. Pha Khăm IN SẺNG (2015), Củng cố công tác tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Luận văn thạc sĩ
Chính trị học, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào.
29. Sỉ Su Phăn THĂN SA MAY (2013), Phát huy Vai trò của Văn phòng
Trung ương Đảng, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính
trị và Hành chính quốc gia Lào.
30. Văn phòng Trung ương Đảng (2011), Báo cáo tổng kết công tác
Văn phòng tại Hội nghị Công tác Văn phòng toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Văn phòng Trung ương Đảng.
89

31. Văn phòng Trung ương Đảng (2012), Báo cáo tổng kết công tác
kiểm tra năm 2012 và phương hướng công tác kiểm tra năm 2013
của Ban Kiểm tra Văn phòng Trung ương Đảng, Nxb Văn phòng
Trung ương Đảng.
32. Văn phòng Trung ương Đảng (2010), Lịch sử và truyền thống 55
năm (1955 - 2010) sự hình thành và trưởng thành của Văn phòng
Trung ương Đảng, Nxb Văn phòng Trung ương Đảng.
33. Văn phòng Trung ương Đảng (2003), Nghị quyết số 305/VPTWĐ,
tháng Mười một năm 2003 về việc tổ chức và hoạt động của Văn
phòng Trung ương Đảng.
34. Văn phòng Trung ương Đảng (2005), Văn bản số 582/VPTWĐ về
quy chế hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng và cơ quan hành
chính, thủ đô.
35. Văn phòng Trung ương Đảng (2003): Quy định về Bộ máy tổ chức và
cơ chế hoạt động của Văn phòng Trung ương Đảng, số
305/VPTWĐ, đề ngày 12 tháng 11 năm 2003.
36. Văn phòng Trung ương Đảng (2007): Quy định về Bộ máy tổ chức và
cơ chế hoạt động của Vụ Thư ký Lãnh đạo, Văn phòng Trung ương
Đảng, số 183/VPTWĐ, đề ngày 16 tháng 15 năm 2007.
37. Văn phòng Trung ương Đảng (2006): Quy định về Bộ máy tổ chức và
cơ chế hoạt động của Vụ Hành chính - Tài chính, Văn phòng Trung
ương Đảng, số 53/VPTWĐ, đề ngày 13 tháng 2 năm 2006.
38. Văn phòng Trung ương Đảng (2007): Quy định về Bộ máy tổ chức và
cơ chế hoạt động của Vụ Tổng hợp, Văn phòng Trung ương Đảng,
số 74/VPTWĐ, đề ngày 26 tháng 2 năm 2007.
90

39. Văn phòng Trung ương Đảng (2008): Quy định về Bộ máy tổ chức và
cơ chế hoạt động của Vụ Tổ chức - Văn phòng, Văn phòng Trung
ương Đảng, số 497/VPTWĐ, đề ngày 31 tháng 12 năm 2008.
40. Văn phòng Trung ương Đảng (2008): Quy định về Bộ máy tổ chức và
cơ chế hoạt động của Vụ Lưu trữ văn thư, Văn phòng Trung ương
Đảng, số 494/VPTWĐ, đề ngày 29 tháng 12 năm 2008.
41. Văn phòng Trung ương Đảng (2002): Quy định về Bộ máy tổ chức và
cơ chế hoạt động của Vụ Xây dựng cơ sở chính trị, Văn phòng
Trung ương Đảng, số 172/VPTWĐ, đề ngày 11 tháng 3 năm 2002.
42. Văn phòng Trung ương Đảng (2011): Quy định về chức năng, quyền
hạn, nhiệm vụ và phương pháp làm việc của Văn phòng Trung
ương Đảng, số 01/ĐU-VPTWĐ, đề ngày 10 tháng 5 năm 2011.
91

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Sau quá trình nghiên cứu, luận văn đã hoàn thành những mục tiêu,
nhiệm vụ đề ra. Từ việc làm rõ các vấn đề liên quan đến chức năng tham mưu
và thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng như:
khai niệm, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như Đảng Nhân
dân cách mạng Lào về chức năng tham mưu, thực hiện chức năng tham mưu
của Văn phòng Trung ương Đảng, tác giả đi sâu phân tích và làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn công tác thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng, từ đó đề xuất những giản pháp nhằm nâng cao chất lượng
thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng trong thời
gian tới.

Có thể khẳng định, đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống
và đồng bộ về chức năng tham mưu, thực hiện chức năng tham mưu của Văn
phòng Trung ương Đảng. Qua đó, tác giả luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chức năng tham mưu của Văn phòng
Trung ương Đảng, góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện chức
năng tham mưu của một cơ quan Đảng. Đồng thời, luận văn còn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo trong các trường đại học, viện nghiên cứu và các
trường chính trị - hành chính tỉnh của Lào; làm tài liệu tham khảo cho cán bộ
trong quá trình hoạt động thực tiễn liên quan đến chức năng tham mưu, thực
hiện chức năng tham mưu của Văn phòng Trung ương Đảng.

Mặc dù đã rất cố gắng và chịu khó thực hiện một công trình nghiên
cưu trong thời gian qua, nhưng do trình độ hiểu biết và khả năng sử dụng
ngôn ngữ còn hạn chế, nội dung luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy, tác giả luận văn rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của
92

các thầy cô và bạn đọc để rút ra những kinh nghiệm quý báu cho bản thân trên
con đường nghiên cứu khoa học cũng như vận dụng kiến thức vào thực tiễn
công tác của mình sau nay.

You might also like