You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TIỂU LUẬN

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ


XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

GVHD: Ths. Lê Quang Chung


SVTH: MSSV
Phạm Văn Chiến 19142285
Đặng Hoài Như Ngọc 19104030
Phan Nhật Nguyệt 19137012
Dương Hoàng Trung 19142407
Lớp thứ 4 - Tiết 01
Mã lớp: LLCT220514_24

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021


ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ NỘI DUNG TRÌNH BÀY TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

Ký tên

Ths. Lê Quang Chung


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

THỨ
HỌ TÊN NHIỆM VỤ KẾT QUẢ KÝ TÊN
TỰ

1 Phạm Văn Chiến Nội dung chương 2 Hoàn thành tốt

2 Đặng Hoài Như Ngọc Tổng hợp Word Hoàn thành tốt

3 Phan Nhật Nguyệt Nội dung chương 3 Hoàn thành tốt

4 Dương Hoàng Trung Nội dung chương 1 Hoàn thành tốt


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................................2
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................2
5. Ý nghĩa khoa học thực tiễn ..........................................................................................3
6. Kết cấu của tiểu luận ...................................................................................................3
Chương 1 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ...........4
1.1 Vị trí của Đảng trong hệ thống chính trị ...................................................................4
1.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị ...............................6
Chương 2 NỘI DUNG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI .........................................................................................................8
2.1 Nội dung đổi mới từ đại hội VI đến đại hội VIII ......................................................8
2.2 Nội dung đổi mới từ đại hội IX đến đại hội XIII ....................................................11
Chương 3 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VỀ VIỆC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG THỜI KÌ
ĐỔI MỚI .......................................................................................................................15
3.1 Thành tựu .................................................................................................................15
3.2 Hạn chế ....................................................................................................................16
3.3 Giải pháp..................................................................................................................17
KẾT LUẬN ...................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................20
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng đã chấm dứt sự khủng
hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, mở ra một bước ngoặt lịch sử cho cách mạng
Việt Nam. Nhờ vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Việt Nam đã giành thắng
lợi trong những cuộc chiến đấu với những kẻ thù lớn mạnh như thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ, phátxít Nhật,... Từ đó chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam đã kéo dài hàng
chục năm và gây ra lầm than và đau khổ khôn siết cho nhân dân Việt Nam.
Trong thời kì hòa bình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nắm vị trí, vai trò quan
trọng trong hệ thống chính trị của đất nước cũng như việc lãnh đạo đất nước phát triển,
đi lên từ một nước đói nghèo, lạc hậu sau chiến tranh cho đến một nước có nền kinh tế
phát triển vượt bậc trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để có được những thành công như hiện tại; trong suốt những năm tháng lãnh đạo
đất nước từ chiến tranh cho đến khi hòa bình, độc lập; Đảng ta đã gặp không ít khó
khăn, thách thức. Để khắc phục những khó khăn đó, cuối năm 1986, từ đại hội Đảng
lần thứ VI, Đảng đã có những quyết định mang tính đột phá, đổi mới về tư duy cũng
như phương thức lãnh đạo, để thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc. Và từ
cuối năm 1986 đến nay còn được gọi là “thời kỳ đổi mới”.
Đến nay, trải qua 35 năm thực hiện đổi mới, Đảng đã gặt hái được không ít
những thành tựu, làm cho đất nước thoát khỏi sự nghèo đói, lạc hậu, dần trở thành một
đất nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á nói riêng cũng như Châu Á nói chung về
kinh tế, văn hóa,...
Bên cạnh đó, Đảng cũng gặp không ít những khó khăn, hạn chế. Từ đó, Đảng đã
rút ra được những bài học sâu sắc, quý báu về tổ chức xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong
sạch, vững mạch để xứng đáng là tổ chức lãnh đạo của nhân dân.
Với mục đích nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ vị trí, vai trò của Đảng trong hệ
thống chính trị và đặc biệt là làm rõ những nhận thức của Đảng về xây dựng Đảng
trong thời kỳ đổi mới, nhóm 9 đã chọn đề tài: “Nội dung nhận thức về xây dựng Đảng
trong thời kì đổi mới của Đảng” làm tiểu luận kết thúc môn học Lịch sử Đảng.

1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài: “Nội dung nhận thức về xây dựng Đảng trong thời kì đổi
mới của Đảng” nhằm mục đích nêu lên tầm quan trọng của Đảng trong hệ thống chính
trị cũng như làm sáng tỏ những đổi mới trong tư duy, trong mới trong phương thức
lãnh đạo cũng như tìm hiểu về những bước đột phá mang tính cách mạng của Đảng
trong thời kì đổi mới. Trên cơ sở đó, nêu lên những thành tựu cũng như đưa ra những
hạn chế và rút kinh nghiệm...
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, tiểu luận cần đạt được những nhiệm vụ:
- Trình bày đầy đủ và có hệ thống những nội dung liên quan đến vị trí, vai trò của
Đảng trong hệ thống chính trị, những nội dung về nhận thức của Đảng về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế về quá trình nhận thức cũng như xây
dựng tổ chức của Đảng trong suốt 35 năm đổi mới ( từ 1986 đến nay).
- Nêu ý kiến, góp ý để góp phần nâng cao hiệu quả về vấn đề nhận thức và xây
dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về những nhận thức của Đảng Cộng Sản Việt
Nam về việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về nhận thức và sự lãnh đạo của Đảng trong thời
kỳ đổi mới, bắt đầu từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề nhận thức và xây
dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Phương pháp nghiên cứu

2
Trong quá trình thực hiện tiểu luận, nhóm tác giả đã sử dụng hai phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, nhóm tác
giả còn sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.
5. Ý nghĩa khoa học thực tiễn
Ý nghĩa khoa học
- Tiểu luận góp phần cung cấp và làm rõ hơn những nội dung về vị trí, vai trò của
Đảng trong hệ thống chính trị.
- Tiểu luận góp phần cung cấp và làm rõ hơn những nội dung trong vấn đề quá
trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối xây dựng Đảng trong thời
kỳ đổi mới.
Ý nghĩa thực tiễn
- Tiểu luận trình bày đầy đủ, có hệ thống những nội dung về vấn đề nhận thức
của Đảng Cộng sản Việt Nam,...
- Đánh giá, tổng kết quá trình nhận thức và thực hiện xây dựng tổ chức của Đảng
sau 35 năm đổi mới. Từ đó nêu lên một số góp ý để nâng cao hiệu quả của việc xây
dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Ngoài ra, tiểu luận còn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về hệ
thống chính trị; vị trí và vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị cũng như quá trình
nhận thức và đổi mới về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, từ 1986 đến nay.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia làm 3
chương:
Chương 1: Vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị
Chương 2: Nội dung nhận thức của Đảng về xây dựng Đảng trong thời kì đổi mới
Chương 3: Đánh giá kết quả về việc xây dựng Đảng trong thời kì đổi mới.

3
Chương 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1.1 Vị trí của Đảng trong hệ thống chính trị


Chính trị được hiểu theo một cách khái quát là một lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ giữa các chủ thể trong đời
sống xã hội liên quan đến việc nhận diện và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã
hội, nhất là những vấn đề có tính tranh chấp, xung đột mang tính phổ biến trong các
mối quan hệ xã hội. Để có thể giải quyết được các vấn đề trên, Nhà nước được tổ chức
để thực thi một quyền lực chung mà quyền lực này được thiết lập có sức mạnh cưỡng
chế nhằm duy trì trật tự, hòa bình và công lý trong xã hội, đảm bảo các quyền, tự do
của công dân. Do vậy, quyền lực Nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân.
Trong các xã hội có giai cấp, các giai cấp tùy vào khả năng và tương quan lực
lượng của mình đều tìm cách để giành quyền lực nhà nước để hiện thực hóa lợi ích của
giai cấp mình, trên cơ sở và nhân danh thực hiện mục tiêu chung của xã hội. Chính vì
vậy, ở cách tiếp cận này, chính trị được khái quát là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng
lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Từ đó có thể hiểu, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp
pháp trong xã hội, bao gồm các Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội được liên kết với nhau trong một hệ thống cấu trúc, chức năng với các cơ chế vận
hành và mối quan hệ giữa chúng nhằm thực thi quyền lực chính trị.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay gồm có:
- Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội gồm có: Công
đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam [2].
Từ thực tiễn và kết quả công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong thời
gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

4
nghĩa xã hội, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
là những vấn đề căn cốt của đổi mới chính trị, liên quan sống còn đến chế độ chính trị,
phải trên cơ sở kiên định những vấn đề nguyên tắc mà vận dụng và đổi mới sáng tạo.
Kiên định nguyên tắc, lập trường tư tưởng phải đi đôi với đấu tranh chống bảo thủ, trì
trệ; đổi mới sáng tạo phải gắn liền với chống cơ hội chính trị.
Hai là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, giữa
đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nội dung
cốt yếu của đổi mới chính trị, liên quan trực tiếp đến giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tác động đến mọi mặt đời sống, quyết định tiền đồ sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy,
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải được tiến hành bài bản, thận trọng, tránh
nóng vội, chủ quan, nhưng khi đã có căn cứ vững chắc, cần có quyết tâm cao, nỗ lực
lớn, hành động quyết liệt.
Ba là, kết hợp giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản,
lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. “Xây” là công việc thường xuyên,
cơ bản, lâu dài, xuất phát từ nhu cầu không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm cho Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền
Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. “Chống” là nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách, bởi trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch và tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phải có giải pháp đủ mạnh, kiên quyết để ngăn
chặn, đẩy lùi, tạo môi trường cho phát triển bền vững. Dù “xây” hay “chống” đều phải
tiến hành thận trọng, bài bản, chắc chắc, không được để các thế lực thù địch lợi dụng
chống phá, gây mất ổn định chính trị.
Bốn là, đi đôi với giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải tôn trọng,
phát huy đầy đủ tính tích cực của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Giữ
vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố
quyết định bảo đảm thành công của xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng là hạt
nhân lãnh đạo các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, nhưng không bao biện,
làm thay, mà phải coi trọng phát huy vai trò chủ động, tích cực trong quản lý, điều
hành của Nhà nước và giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
tổ chức chính trị - xã hội.

5
Năm là, huy động, lôi cuốn, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị, phải “đưa chính trị vào giữa dân gian”. Cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị không phải là việc riêng của cán bộ, đảng viên, mà phải huy động, lôi cuốn nhân
dân tham gia bằng những cơ chế, mô hình phù hợp, từ đóng góp trí tuệ đến nguồn lực,
từ tham gia quản lý nhà nước đến kiểm tra, giám sát. Có nhiều kênh phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, trong đó cần đặc biệt coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội [8].
1.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một tổ chức
thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là hạt nhân
lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Vai trò lãnh đạo của Đảng xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Cộng sản
theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất đó được
hình thành từ 3 yếu tố quan trọng. Thứ nhất, Đảng Cộng sản khác về chất với các đảng
chính trị hiện có (đảng tư sản) ở chỗ: luôn đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng
của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động, đấu tranh và phấn đấu cho mục tiêu giải
phóng con người, xóa bỏ bất công và áp bức trong xã hội, xây dựng một xã hội vì con
người, vì sự phát triển và hoàn thiện các khả năng của con người. Thứ hai, Đảng Cộng
sản là tổ chức của những người cộng sản tiêu biểu về mặt trí tuệ, đồng thời luôn thu
hút và tập hợp được những người tài giỏi nhất của giai cấp và xã hội. Thứ ba, Đảng
Cộng sản còn có tính tiền phong, tiêu biểu cho những giá trị, tiến bộ và văn minh của
nhân loại [1].
Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong
từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Vai trò
cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước khác với sự lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Sự
mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất
nước, hoặc là Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức hóa Nhà nước và hệ thống
chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của
Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.

6
Vai trò lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới,
đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát
huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị,
Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường
mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan
trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng [3].

7
Chương 2
NỘI DUNG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI

2.1 Nội dung đổi mới từ đại hội VI đến đại hội VIII
Từ Đại hội VI (tháng 12-1986) đến Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng, nhân
dân ta đã trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới.
Mười năm trước, Việt Nam ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng. Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhân dân ta đã
giành được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng về cả kinh tế, xã hội, chính trị, đối
nội, đối ngoại. Kiên trì đường lối đổi mới, quyết tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII
và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, toàn Đảng, toàn dân đã vượt qua
mọi thử thách, tiếp tục vươn lên giành nhiều thắng lợi to lớn trên nhiều mặt. Nhiệm vụ
do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã hoàn thành về cơ bản. Đời sống vật chất
của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân
dân đối với chế độ và tiền đồ của đất nước, với Đảng và Nhà nước được khẳng định.
Ổn định chính trị - xã hội được giữ vững. Quốc phòng, an ninh được củng cố. Quan hệ
đối ngoại phát triển mạnh mẽ; phá được thế bị bao vây, cô lập; tham gia tích cực vào
đời sống cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta vẫn còn một số khuyết điểm,
yếu kém trên nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh lịch sử đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng được triệu tập.
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII,
đi sâu tổng kết 10 năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải
pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2000 và năm 2020;
kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vạch ra phương hướng xây dựng Đảng, sửa đổi Điều
lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương mới.
Trong quá trình chuẩn bị Đại hội, đảng bộ các cấp, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể, các tổ chức chính trị - xã hội và đông đảo nhân dân trong cả nước và đồng bào
sinh sống ở nước ngoài đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để bổ sung vào dự thảo các

8
văn kiện của Đại hội. Các văn kiện trình Đại hội là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn
dân Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã họp nội bộ từ ngày 22 đến
ngày 26-6-1996 và họp công khai từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên cùng các đồng chí cố
vấn Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí đại diện lão thành cách mạng, đại diện
các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân sĩ trí thức tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh và
sức mạnh đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân. Dự Đại hội còn có gần 40 đoàn đại biểu
quốc tế đại diện các đảng anh em và bầu bạn trên thế giới. Chủ đề của Đại hội
là: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội”.
Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện quan trọng: Báo cáo chính trị,
Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-
2000 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).
Kiểm điểm, đánh giá kết quả của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng
kết 10 năm đổi mới, Đại hội đã kết luận tổng quát như sau:
“Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII, đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những
hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn
vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.
Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được
hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

9
Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về
cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy trong quá trình thực hiện
có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này
hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác” [5].
Những thành tựu đã đạt được trên là kết quả của một quá trình tìm tòi, đổi mới;
bám sát thực tiễn, nhạy bén với thời cuộc; phê phán những lệch lạc về tư tưởng chính
trị đa nguyên chớm nở trong nội bộ Đảng; sự phấn đấu gian khổ của toàn Đảng và toàn
dân ta. Tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, có thể rút ra sáu bài học chủ yếu sau:
(1) Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới;
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (2) Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị (3) Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái (4) Mở rộng và tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc (5) Mở rộng hợp
tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại (6) Tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt [5].
Để đề ra mục tiêu đến năm 2000 và năm 2020, Đại hội đã phân tích bối cảnh
chung, đặc điểm tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng
những yếu tố khó lường tác động sâu sắc đến các mặt đời sống xã hội nước ta, đưa đến
những thuận lợi, đồng thời cũng xuất hiện những thách thức lớn. Thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Vì thế, chúng ta phải chủ động nắm thời cơ,
vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới; đồng thời luôn luôn tỉnh
táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục nguy cơ, kể cả nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm
phát triển đúng hướng.
Căn cứ tình hình nêu trên và Cương lĩnh của Đảng, Đại hội khẳng định cần “tiếp
tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

10
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp” [5].
Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định: “Giai đoạn từ nay
đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực
lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách
toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn
đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với
giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời
sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho
bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau” [5] .
Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2 Nội dung đổi mới từ đại hội IX đến đại hội XIII
Nhiệm vụ chính của đại hội IX là phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội "Trí tuệ,
Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới”, là Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, thể hiện ý chí
kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đánh dấu chặng đường 15
năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế - xã hội 1991-2000, là Đại hội
đầu tiên của Đảng trong thế kỷ XXI.

11
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết
thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan
xen với nhiều thách thức lớn.
Đại hội nhận định: Khả năng duy trì hoà bình ổn định trên thế giới và khu vực
cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi
hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có
thể xảy ra.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế
và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai
trò ngày càng quan trọng.
Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao
trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc
gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống
tội phạm, thiên tai và các đại dịch...
Tình hình đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó,
chúng ta còn phải đối phó với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng
quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là
vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX diễn ra trong hoàn cảnh đó, phải hoạch định đường lối đúng đắn cho sự phát
triển của đất nước trong những năm 2001- 2005 và 2001-2010.
Về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), Báo cáo Chính
trị khẳng định 5 nhóm thành tựu quan trọng sau: kinh tế tăng trưởng khá; văn hoá, xã
hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã
hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không

12
ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều
kết quả tốt.
Bên cạnh khẳng định những thành tựu đó, Đại hội IX đánh giá quá trình thực
hiện Nghị quyết Đại hội VIII còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điển: Nền kinh tế phát
triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; Một số vấn đề văn hoá - xã hội
bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết; Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa
tạo động lực mạnh để phát triển; Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2000”. Đại hội đánh giá tổng quát: phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế
có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế
quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội
không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập
tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chủ đề Đại hội XIII của Đảng là: "Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát
huy ý chí, sức mạnhđại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tiếp tục
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.So với chủ đề Đại hội
XII, chủ đề Đại hội XIII có nhiều điểm mới, cụ thể là:
Bổ sung “chỉnh đốn” và “hệ thống chính trị” vào nội dung "tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" để thành "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh". Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam 90 năm qua, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước
ta trong 35 năm đổi mới vừa qua và cũng sẽ là yếu tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của đất nước ta,
nhân dân ta trong những năm tới. Tới đây, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta

13
đứng trước nhiều thời cơ và khó khăn, thách thức to lớn, đặt ra nhiều vấn đề mới đòi
hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Bởi vậy, trong tiêu đề Báo cáo chính trị Đại hội X và Đại hội XI của Đảng đều có nội
dung“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”.
Bổ sung “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí” và "kết hợp với
sức mạnh thời đại"vào nội dung"phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc" để trở
thành "khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại...". Cùng với sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, trong mọi giai đoạn cách mạng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn luôn là
nguồn sức mạnh to lớn để đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đạt được
những thắng lợi vẻ vang. Bởi vậy, “phát huy sức mạnh toàn dân tộc" luôn là một nội
dung quan trọng trong đường lối của Đảng, được nêu trong tiêu đề Báo cáo chính trị
của nhiều Đại hội Đảng (trong chủ đề và cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị Đại hội
XI, XII đều có nội dung này). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đưa nội dung "phát huy
sức mạnh toàn dân tộc" vào chủ đề Đại hội.
Xác định mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thành tố cuối trong chủ đề Đại hội XI của
Đảng xác định mục tiêu "tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”, của Đại hội XII là “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đề ra mục
tiêu đến giữa thế kỷ XXI “phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Theo truyền thống ấy,
thành tố cuối trong chủ đề Đại hội XIII xác định mục tiêu "phấn đấu đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"; trong đó
nội dung "theo định hướng xã hội chủ nghĩa" đã được khẳng định trong nhiều văn kiện
của Đảng; điểm mới là "nước ta trở thành nước phát triển".

14
Chương 3
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VỀ VIỆC
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI

3.1 Thành tựu


Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng hơn.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng đã tạo được sự chuyển biến nhất định
trong việc ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên; bước đầu khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán
bộ và thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Hai là, công tác tư tưởng, lý luận có bước tiến mới.
Về công tác lý luận: đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
của công cuộc đổi mới; bước đầu làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và
thời đại; đã tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Đảng, góp phần làm sáng tỏ
nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng: nhiệm vụ xây dựng chuẩn
mực, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cán bộ, đảng viên gắn với nhiệm vụ xây
dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng. Công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái
của các thế lực thù địch đã chủ động hơn.
Ba là, công tác tổ chức, cán bộ được triển khai tương đối đồng bộ.
Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước được sắp xếp, kiện toàn theo hướng
tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở vùng núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và các loại hình doanh nghiệp.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành. Nhiều chủ
trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hóa thành các quy
chế, quy định. Các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí,
sử dụng, thực hiện chính sách cán bộ đã được triển khai đồng bộ. Đội ngũ cán bộ được

15
bổ sung về số lượng, chú trọng nâng cao chất lượng. Trình độ lý luận, chuyên môn,
nghiệp vụ; năng lực lãnh đạo, tổ chức, điều hành công việc... ngày càng được nâng cao.
Công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của
Điều lệ Đảng được coi trọng.
Bốn là, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng cao.
Năng lực lãnh đạo thể hiện ở việc hoạch định đường lối, nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn đúng đắn, sát với thực tế phát triển của đất nước. Sức chiến đấu của Đảng
được nâng cao thể hiện ở chỗ làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp ủy
đảng có ý chí vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn
luyện phẩm chất, đạo đức, dũng cảm đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan;
kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
Năm là, phương thức lãnh đạo của Đảng có bước đổi mới.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị từ
Trung ương đến địa phương đã có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan
trọng. Phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng và đảng viên đã được đổi mới
theo hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát cơ sở hơn. Đồng thời, phát huy mạnh mẽ
vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị,
nhất là vai trò của Nhà nước [7].
3.2 Hạn chế
Những hạn chế, khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng qua 20 năm đổi mới
(1986 - 2006) đến nay vẫn tồn tại, cụ thể:
Một là, chưa thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng, để những yếu kém, khuyết
điểm tồn đọng qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục. Việc chỉ đạo
thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng thiếu quyết liệt, tình trạng “đầu voi,
đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi” vẫn còn.
Hai là, các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự
phê bình và phê bình chưa được nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thực hiện nghiêm. Dân
chủ hình thức và bệnh thành tích khá phổ biến ở các tổ chức đảng và đảng viên.
Ba là, công tác tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng được
yêu cầu, chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra; chất lượng các sản phẩm

16
nghiên cứu lý luận chưa cao, lý luận chưa làm tốt chức năng định hướng cho hoạt
động thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Bốn là, bộ máy tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị -
xã hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả. Công tác cán bộ còn nhiều kẽ hở vẫn còn tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy bằng cấp...
Năm là, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp,
quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người
đứng đầu. Đội ngũ đảng viên đông nhưng không mạnh.
Sáu là, nhiều cấp ủy đảng, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật đảng. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Bảy là, một số tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa
quan tâm đổi mới công tác dân vận. Phương thức vận động nhân dân chậm đổi mới,
còn mang nặng tính hành chính.
Tám là, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân còn chậm đổi mới. Phong cách, lề lối làm việc còn nặng tính
hành chính. Các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, như nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình... ở một số tổ chức đảng còn bị vi phạm. Phương thức cầm
quyền chưa được xác định rõ, hiệu lực, hiệu quả cầm quyền còn hạn chế.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thực sự trong sạch,
vững mạnh, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, liên quan đến
sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
3.3 Giải pháp
Để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, cần thực hiện tốt các giải pháp
chủ yếu sau:
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Tình hình mới đòi hỏi vừa phải
kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ, hoặc chủ quan, nóng vội,
đổi mới vô nguyên tắc, vừa phải tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển đường lối xây dựng
chủ nghĩa xã hội; đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; đường lối xây dựng Ðảng; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.

17
Hai là, tăng cường công tác tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lý luận làm
sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, nhất là vấn đề đảng cầm
quyền. Công tác lý luận phải hướng vào những vấn đề cuộc sống đặt ra, phục vụ công
cuộc đổi mới. Đối với vấn đề đảng cầm quyền, phải dự báo các xu hướng phát triển,
góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, làm cho ngày càng sáng tỏ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ba là, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, “lợi
ích nhóm” có hiệu quả; phòng ngừa, loại trừ những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” từ trong Đảng ra và từ trên xuống. Kiên quyết, kiên trì xây dựng một cơ
chế phòng ngừa không thể tham nhũng; một cơ chế trừng trị, răn đe để không dám
tham nhũng; một cơ chế bảo đảm để không có tham nhũng.
Bốn là, xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn,
thẩm quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm việc kê khai và công khai
tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước.
Năm là, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật.
Thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm
để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ
quan, đơn vị.
Sáu là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược,
bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Cho thôi giữ chức vụ,
không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác đối với những cán bộ tín nhiệm thấp, không
hoàn thành nhiệm vụ. Phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy
quyền.
Bảy là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,
Ðảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính
trị. Nghiên cứu làm rõ hơn phương thức cầm quyền của Đảng. Khắc phục cả hai nguy
cơ: lạm quyền và mất quyền.

18
KẾT LUẬN

Nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian tới đặt ra yêu cầu rất cao,
đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, mà trên
hết, trước hết là sự phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng của mỗi cán bộ, đảng viên của
Đảng.Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ, giải pháp quan trọng: “Tiếp tục đẩy mạnh
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh”; “Kết hợp hài hòa, chặt chẽ và có hiệu quả
giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng, giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng”; tập trung
xây dựng Đảng về đạo đức, gắn với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh; đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả đi đôi với việc củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
đảng và đội ngũ đảng viên; nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về
thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng; đổi
mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội... Thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ, giải pháp
trên đây sẽ bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng,
đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đến những thắng lợi vẻ vang [6].

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Công ty TNHH Luật Minh Khuê, Vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng đối với
hệ thốngchính trị Việt Nam, Trang thông tin điện tử Công ty TNHH Luật Minh Khuê,
https://luatminhkhue.vn/vai-tro-hat-nhan-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-he-thong-chinh-
tri-viet-nam.aspx, 22/11/2021.
2. Khuyết danh, Hệ thống Chính trị ở Việt Nam hiện nay, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh tỉnh Bình Phước, https://tinhdoanbinhphuoc.vn/4-bai-ly-luan-chinh-
tri/bai-3-he-thong-chinh-tri-o-viet-nam-hien-nay-4099.html, 22/11/2021.
3. Khuyết danh, Hệ thống chính trị và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay, Đại học Tôn Đức Thắng,
https://student.tdtu.edu.vn/doan-hoi/he-thong-chinh-tri-va-phuong-thuc-lanh-dao-cua-
dang-doi-voi-he-thong-chinh-tri-o-nuoc-ta , 22/11/2021
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Sđd, tập I, 11/03/2021.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 55, 01/11/2013.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII), ngày
26/6/1992, về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, 26/06/1992.
7. Nguyễn Quang Ngọc, Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới, Trang thông tin điện tử tổng hợp ban Nội chính
trung ươnghttps://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202104/qua-trinh-phat-trien-nhan-
thuc-cua-dang-ve-xay-dung-chinh-don-dang-trong-thoi-ky-doi-moi-309370/,
22/11/2021.
8. Võ Văn Thưởng, Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở Việt Nam trong tình
hình mới, Tạp chí Cộng sản, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-
/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/xay-dung-dang-va-he-thong-chinh-tri-o-viet-
nam-trong-tinh-hinh-moi, 22/11/2021.
9. Nguyễn Thanh Tuấn, Vận dụng sáng tạo lý luận về xây dựng Đảng trong thời
kỳ đổi mới, Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
https://vksndtc.gov.vn/tin-vks/van-dung-sang-tao-ly-luan-ve-xay-dung-dang-trong-t-
d6-t3150.html, 22/11/2021.

20

You might also like