You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA CHÍNH TRỊ & LUẬT


MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TIỂU LUẬN

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH THỜI KỲ ĐỔI MỚI

GVHD: Ths. Lê Quang Chung

SVTH: MSSV

Hồ Kim Trí 22110252

Phan Hùng Anh 22110102

Trần Phan Tiến Anh 22110103

Võ Hoàng Anh 22110104

Lê Minh Phương 22110206

Dương Đình Vũ 22110269

Lớp thứ 4 - Tiết 45

Mã lớp: LLCT220514_23_1_16CLC

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022


ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ NỘI DUNG TRÌNH BÀY TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT

...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

Ký tên

Ths. Lê Quang Chung


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

THỨ TỰ HỌ TÊN NHIỆM VỤ KẾT QUẢ KÝ TÊN

1 Hồ Kim Trí Nội dung chương 1 Hoàn thành tốt

2 Phan Hùng Anh Nội dung chương 1 Hoàn thành tốt

3 Trần Phan Tiến Anh Nội dung chương 3 Hoàn thành tốt

4 Võ Hoàng Anh Nội dung chương 2 Hoàn thành tốt

5 Lê Minh Phương Nội dung chương 2 Hoàn thành tốt

6 Dương Đình Vũ Nội dung chương 3 Hoàn thành tốt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1

Chương 1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG
SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC.......................................................4
1.1. Khái niệm quốc phòng an ninh............................................................................4

1.2. Vai trò quốc phòng an ninh trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc...............5

Chương 2. QUAN ĐIỂM VỀ QUỐC PHÒNG AN NINH CỦA ĐẢNG CỘNG


SẢN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI........................................................................7
2.1. Quan điểm về quốc phòng an ninh từ Đại hội VI đến Đại hội IX........................7

2.2. Quan điểm về quốc phòng an ninh từ Đại hội X đến Đại hội XIII......................9

Chương 3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VỀ XÂY DỰNG QUỐC PHÒNG AN


NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TRONG XÂY DỰNG QUỐC PHÒNG AN NINH.........................................11
3.1. Đánh giá và phân tích những thành tựu và thách thức trong công tác
xây dựng quốc phòng an ninh của Việt Nam từ năm 1986 đến hiện tại, đặc
biệt trong bối cảnh thời kỳ đổi mới...........................................................................11

3.1.1. Thành tựu trong công tác xây dựng quốc phòng an ninh của Việt
Nam từ năm 1986 đến hiện tại, đặc biệt trong bối cảnh thời kỳ đổi mới..............11

3.1.2. Khó khăn trong công tác xây dựng quốc phòng an ninh của Việt
Nam từ năm 1986 đến hiện tại, đặc biệt trong bối cảnh thời kỳ đổi mới..............12

3.2. Những giải pháp, chính sách và hướng đi mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra để nâng cao hiệu quả công tác quốc phòng an ninh trong thời
kỳ đổi mới, bảo đảm an ninh và phát triển bền vững của đất nước...........................13

KẾT LUẬN..................................................................................................................17

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................19


MỞ ĐẦU

Việt Nam là một quốc gia có truyền thống chống ngoại xâm và bảo vệ độc
lập, chủ quyền. Trải qua những năm chiến tranh đau thương, quốc phòng và an ninh
luôn được coi là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra những quan điểm và
chủ trương chiến lược nhằm xây dựng và bảo vệ quốc phòng, an ninh đất nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rằng quốc phòng, an ninh là yếu tố quan
trọng và không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng việc tạo dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh và hệ thống
an ninh đảm bảo trật tự, an toàn cho quốc gia. Quốc phòng và an ninh được xem như
nền tảng bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước và sự tiến bộ của nhân
dân.

Trên cơ sở hiểu rõ tầm quan trọng của quốc phòng, an ninh, Đảng và Nhà
nước đã xác định các mục tiêu, chủ trương và nhiệm vụ cụ thể. Quốc phòng và an
ninh được đặt trong bối cảnh toàn diện, chiến lược, bảo đảm an ninh chính trị, an
ninh biên giới, an ninh thông tin, an ninh môi trường, an ninh kinh tế, an ninh xã hội
và an ninh quốc gia. Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng nhấn mạnh sự quan trọng
của việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc hợp tác, học tập và trao đổi kinh nghiệm với cộng đồng quốc tế.

Để thực hiện chủ trương về quốc phòng, an ninh, Đảng và Nhà nước đã triển
khai nhiều biện pháp và chính sách. Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ
quốc phòng, nâng cao năng lực quốc phòng, đào tạo và nâng cao trình độ chuyên
môn cho lực lượng vũ trang, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ mạnh mẽ là các
hoạt động được ưu tiên. Đồng thời, việc xây dựng và nâng cao hiệu quả hệ thống an
ninh, đảm bảo trật tự, an toàn trong xã hội cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm
và thực hiện một cách triệt để.

Qua các nỗ lực đồng bộ và sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, quốc
phòng và an ninh đã đạt được những thành tựu đáng kể. Việt Nam ngày càng tăng

1
cường độ hiện đại hóa và chuyển đổi cơ cấu quân sự, nâng cao khả năng tự vệ và
phòng thủ. Đồng thời, hệ thống an ninh đã được củng cố và nâng cao, đảm bảo trật
tự, an toàn và ổn định trong xã hội.

Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhận thức rằng quá trình xây dựng
và bảo vệ quốc phòng, an ninh vẫn còn nhiều thách thức và khó khăn. Sự biến đổi
toàn cầu, phức tạp hóa an ninh, các mối đe dọa truyền thống và chưa truyền thống,
phát triển không cân đối kinh tế - xã hội, và sự bất ổn trong khu vực đều đòi hỏi sự
nhạy bén, đề phòng và phản ứng linh hoạt của Việt Nam.

Để đối phó với những thách thức trên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang
đề ra những chính sách và biện pháp cụ thể. Đầu tiên, quốc phòng và an ninh được
coi là một phần không thể tách rời của sự phát triển toàn diện, bền vững của đất
nước. Đảng và Nhà nước đề cao vai trò của quốc phòng, an ninh trong việc duy trì
ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ lợi ích quốc gia.

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực quốc phòng, an ninh. Việt Nam xem việc hợp tác với các quốc gia và tổ chức
quốc tế là một phần quan trọng để xây dựng và bảo vệ quốc phòng, an ninh. Qua
việc tham gia các hiệp định, diễn đàn quốc tế và trao đổi kinh nghiệm, Việt Nam
mong muốn nâng cao năng lực quốc phòng, an ninh và đóng góp tích cực vào hòa
bình, ổn định và phát triển khu vực và thế giới.

Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đề cao sự phát triển bền vững và
công bằng, xây dựng một xã hội văn minh, an ninh, và hạnh phúc. Đảng và Nhà
nước quan tâm đến việc đảm bảo an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi
trường và thông tin, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đất nước
và hạnh phúc của nhân dân.

Tổng quan, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng quốc phòng, an ninh và đặt
nó trong bối cảnh toàn diện, chiến lược. Việt Nam đang nỗ lực xây dựng và bảo vệ
quốc phòng, an ninh với mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, ổn định chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội và hạnh phúc của nhân dân.

2
3
Chương 1

KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC

1.1. Khái niệm quốc phòng an ninh

Quốc phòng là công cuộc giữ nước của quốc gia độc lập có chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, là hoạt động của cả nước, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt nhằm giữ
vững hòa bình, răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động chống phá của kẻ thù, đồng
thời sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô.

Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất vì dân, do dân, của dân
phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và
ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lí, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ
vững hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và
bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động ; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

An ninh là trạng thái bình yên của xã hội, của nhà nước, sự ổn định vững chắc
của chế độ chính trị xã hội. An ninh quốc gia bao gồm an ninh đối nội, an ninh đối
ngoại, an ninh về tất cả các lĩnh vực chính trị kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội,…
trong đó chủ yếu có an ninh chủ quyền độc lập, an ninh lãnh thổ

Nền an ninh là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống
dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt.

An ninh quốc gia là là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

4
1.2. Vai trò quốc phòng an ninh trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc

Bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ: Quốc phòng và an ninh đảm bảo an toàn và bảo
vệ chủ quyền của quốc gia khỏi bất kỳ sự xâm lược nào từ bên ngoài. Điều này bao
gồm việc đảm bảo an ninh biên giới, giám sát không gian mặt đất, không gian hàng
không và không gian biển, cũng như chống lại bất kỳ mối đe dọa nào đối với lãnh thổ
quốc gia.

Bảo vệ an ninh quốc gia: Quốc phòng và an ninh đảm bảo an ninh và sự bình
yên của quốc gia. Các lực lượng quốc phòng và an ninh thực hiện các hoạt động tình
báo, giám sát và ngăn chặn các hoạt động chống đối của các thế lực phản động, thù
địch

Bảo vệ an ninh chính trị và xã hội: Quốc phòng và an ninh có trách nhiệm bảo
vệ an ninh chính trị và xã hội bên trong quốc gia. Điều này bao gồm việc ngăn chặn
các hoạt động khủng bố, phản bội, nổi dậy và các hoạt động phá hoại khác nhằm đảm
bảo sự ổn định và an ninh chính trị trong quốc gia.

Bảo vệ an ninh kinh tế: Quốc phòng và an ninh đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ an toàn và ổn định của hệ thống kinh tế quốc gia. Điều này bao gồm bảo
vệ cơ sở hạ tầng kinh tế, các nguồn tài nguyên chiến lược, đảm bảo an toàn trong hoạt
động kinh doanh và thương mại quốc tế, và ngăn chặn các hành vi tấn công kinh tế từ
các thế lực thù địch.

Duy trì, thiết lập môi trường trật tự, kỷ cương cho toàn dân làm theo: Lực lượng
quân đội và cảnh sát được đào tạo để thực thi pháp luật, tuần tra địa bàn, và ngăn chặn
các hành vi vi phạm trật tự. Điều này giúp tạo ra một môi trường an toàn, tạo đà cho sự
phát triển kinh tế và xã hội bền vững.

Xây dựng và phát triển quân đội, lực lượng an ninh quốc phòng: Quốc phòng
và an ninh đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng quân đội đảm bảo rằng quốc
gia có khả năng tự vệ và đáp ứng được các mối đe dọa an ninh. Quốc phòng và an ninh
thúc đẩy sự phát triển công nghệ trong nhiều lĩnh vực, bao gồm viễn thông, vũ khí, an

5
ninh mạng và năng lượng. Các nghiên cứu và đầu tư trong lĩnh vực này không chỉ
cung cấp những ưu thế quân sự và an ninh, mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế
và xã hội chung của quốc gia.

Bảo vệ an ninh trong không gian mạng: Với sự phát triển của công nghệ thông
tin và viễn thông, an ninh mạng trở thành một thách thức ngày càng lớn. Quốc phòng
và an ninh tham gia vào việc bảo vệ không chỉ hệ thống mạng quốc gia mà còn bảo vệ
thông tin quan trọng, dữ liệu và hệ thống điều khiển trọng yếu khỏi các cuộc tấn công
mạng.

Giáo dục và nâng cao nhận thức về an ninh: Quốc phòng và an ninh cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc giáo dục và nâng cao nhận thức của cộng đồng về an
ninh. Điều này bao gồm việc tổ chức các chương trình giáo dục, tuyên truyền và đào
tạo để tăng cường nhận thức về các mối đe dọa an ninh, kỹ năng tự bảo vệ và bảo vệ
cộng đồng.

Tăng cường hợp tác quốc tế: Quốc phòng và an ninh đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ
với cộng đồng quốc tế. Việc này bao gồm việc tham gia vào các tổ chức quốc tế, ký
kết các hiệp ước và thỏa thuận quốc tế để tăng cường sức mạnh và ổn định toàn cầu.

6
Chương 2

QUAN ĐIỂM VỀ QUỐC PHÒNG AN NINH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI

2.1. Quan điểm về quốc phòng an ninh từ Đại hội VI đến Đại hội IX

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (12/1986):
Đại hội chủ trương về xây dựng nền quốc phòng toàn dân được xác định một cách cụ
thể trong mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng đất nước: Phát huy sức mạnh
của cả hệ thống chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc
phòng với kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, và hậu phương ngày càng vững mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991):
Trong khi quan tâm đến việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên bình diện rộng,
trên toàn bộ lãnh thổ, để chủ động bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền quốc gia
trong mọi tình huống, Đảng ta còn nhấn mạnh tới việc xây dựng các khu phòng thủ ở
các địa phương; sự cần thiết phải xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm,
không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang,
xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, với
cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý: "Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân với chất
lượng ngày càng cao. Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, từng bước
hiện đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996):
Đại hội đã đề ra những quan điểm chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:

- Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Thứ hai, kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế.

7
- Thứ ba, gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai nhiệm vụ đó có
liên quan chặt chẽ với nhau trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc; phối hợp chặt chẽ hoạt
động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.

- Thứ tư, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của cả hệ thống chính trị.

- Thứ năm, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ Tổ quốc; thể chế hoá các chủ
trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh.

- Thứ sáu, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội và công an, đối với củng cố quốc phòng và an ninh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam (4/2001):
Đại hội đề ra chủ trương lớn về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ
mới: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc”; nhấn mạnh tới nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc
phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám, khoá IX đề ra 6 quan điểm chỉ đạo:

- Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

- Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc
giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất
của Tổ quốc.

- Ba là, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

8
- Bốn là, xây dựng sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc, lấy lực lượng vũ
trang làm nòng cốt.

- Năm là, ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nhằm khai thác mọi
thuận lợi ở bên ngoài, quán triệt đường lối độc lập tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại
mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá.

- Sáu là, chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên
trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.

2.2. Quan điểm về quốc phòng an ninh từ Đại hội X đến Đại hội XIII

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) xác định: Tiếp tục đổi mới tư duy
lý luận, làm rõ quan điểm nhận thức về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; sức mạnh
tổng hợp của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới; Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân phải lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt, xây dựng củng cố quốc phòng là trọng yếu, thường xuyên;
Thống nhất đánh giá đối tượng, đối tác trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; Chủ
động dự báo đúng các tình huống chiến lược, trên cơ sở nắm vững âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch, những biến động của tình hình thế giới và trong nước tác
động đến nhiệm vụ quốc phòng.

Từ những yêu cầu mới đó, Nghị quyết Đại hội đã đề ra những giải pháp chủ yếu
để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bao gồm: Một là, Tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước trong xây dựng nền quốc
phòng toàn dân. Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực quốc
phòng. Ba là, đẩy nhanh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Bốn là, đẩy mạnh xây
dựng lực lượng quốc phòng, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo yêu
cầu mới. Năm là, phối hợp các lực lượng, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động
ngăn ngừa và đối phó hiệu quả mọi tình huống.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) tiếp tục xác định: Tăng cường
quốc phòng an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của

9
toàn dân, trong đó quân đội nhân dân, công an nhân dân là nòng cốt: "Tăng cường tiềm
lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự, an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt
động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế".

Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc là
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Bảo
vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; Giữ vững ổn định chính trị,
trật tự, an toàn xã hội; Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Bảo
vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và toàn dân: "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc, độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội..."

Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) khẳng định: "Tiếp tục giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý
tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ
trang... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
để phát triển đất nước”.

Điểm mới của Đại hội XIII là đã đề cập đến một số khía cạnh nổi bật, cũng là
những yếu tố tạo nên bức tranh tổng thể trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh: tư duy về
quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển và ngày càng hoàn thiện, sự
kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa và đối ngoại ngày càng hiệu
quả.

10
Chương 3

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VỀ XÂY DỰNG QUỐC PHÒNG AN NINH TỪ NĂM
1986 ĐẾN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG XÂY DỰNG
QUỐC PHÒNG AN NINH

3.1. Đánh giá và phân tích những thành tựu và thách thức trong công tác
xây dựng quốc phòng an ninh của Việt Nam từ năm 1986 đến hiện tại, đặc biệt
trong bối cảnh thời kỳ đổi mới

3.1.1. Thành tựu trong công tác xây dựng quốc phòng an ninh của Việt Nam từ
năm 1986 đến hiện tại, đặc biệt trong bối cảnh thời kỳ đổi mới

Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới trong lĩnh vực quốc phòng và an
ninh Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trên nhiều mặt. Điều đặc biệt
đáng chú ý là trong việc điều chỉnh và cải thiện tổ chức, biên chế lực lượng quân đội,
xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc và tăng cường thế trận quốc phòng và an
ninh. Việc tiến hành chấn chỉnh tổ chức và biên chế lực lượng thường trực theo hướng
tinh gọn, mạnh, đồng bộ, chính quy đã tạo ra một quân đội hiện đại, có khả năng đáp
ứng các yêu cầu của thời đại.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tiến hành xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố vững chắc, tăng cường thế trận quốc phòng và an ninh. Việc xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và gắn kết với xây dựng nền an ninh nhân dân kết hợp kinh tế đã
tạo ra một sự đan xen, tương đồng giữa quốc phòng và phát triển kinh tế. Điều này
đồng thời đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đảm bảo an ninh và ổn định trong quốc gia.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, Quân đội
nhân dân Việt Nam đã luôn kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, vững vàng chính trị
tư tưởng, nỗ lực phấn đấu và thực hiện tốt chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân
công tác và đội quân lao động sản xuất. Quân đội đã thực sự trở thành lực lượng nòng

11
cốt và đóng góp quan trọng trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận
an ninh nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ngoài ra, Quân đội cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
duy trì môi trường hòa bình và ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực quốc phòng an ninh cùng với những
thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ngoại giao đã góp
phần quan trọng trong việc nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Điều này đã tạo động lực mới để Việt Nam tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kỳ hội nhập. Bằng cách tổng kết những kết quả đã đạt được và đối mặt với
những thách thức trong công tác xây dựng quốc phòng và an ninh, Việt Nam đã tạo ra
một động lực mới để tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.

3.1.2. Khó khăn trong công tác xây dựng quốc phòng an ninh của Việt Nam từ
năm 1986 đến hiện tại, đặc biệt trong bối cảnh thời kỳ đổi mới

Tuy nhiên, công tác xây dựng quốc phòng an ninh không chỉ đạt được những
thành tựu, mà còn đối mặt với những thách thức phức tạp. Trong bối cảnh thế giới
đang chịu ảnh hưởng của các vụ xung đột và sự leo thang căng thẳng quốc tế, Việt
Nam phải đối mặt với những thách thức an ninh mới, bao gồm an ninh biên giới, an
ninh thông tin, an ninh mạng và an ninh biển đảo.

Việt Nam cũng cần đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng
bố, tội phạm chuyên nghiệp, buôn lậu, và tác động của các yếu tố phi quân sự như biến
đổi khí hậu và tài nguyên. Đặc biệt, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và sự
gia tăng sự chú ý của các bên liên quan tới khu vực này đặt ra những thách thức lớn
đối với quốc phòng và an ninh của Việt Nam.

Ngoài ra, việc đảm bảo an ninh quốc gia không chỉ phụ thuộc vào sự quyết tâm
và nỗ lực của quân đội mà còn yêu cầu sự tham gia và ủng hộ của toàn thể quần chúng.
Vì vậy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nâng cao nhận thức về an ninh quốc gia
trong cộng đồng là một phần quan trọng của chiến lược quốc phòng.

12
3.2. Những giải pháp, chính sách và hướng đi mà Đảng Cộng sản Việt Nam
đề ra để nâng cao hiệu quả công tác quốc phòng an ninh trong thời kỳ đổi mới,
bảo đảm an ninh và phát triển bền vững của đất nước

Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả quan điểm, chủ trương của Đảng về tăng cường tiềm lực quốc phòng, với nhiều
giải pháp đồng bộ, phù hợp, nhằm gia tăng sức mạnh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Trong đó, tập trung vào một số giải pháp căn bản sau:

Một là, tăng cường và bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối của Đảng, hiệu
lực quản lý của Nhà nước đối với xây dựng, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Bởi lẽ, tiềm lực quốc phòng là bộ phận quan trọng của tiềm lực quốc gia, nhưng không
phải là tổng tiềm lực của các lĩnh vực, mà là tổng hòa các phần tiềm lực ở mỗi lĩnh vực
có thể huy động để sử dụng cho nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với từng ngành, lĩnh
vực và toàn cục là vấn đề quan trọng hàng đầu, quyết định đến chất lượng, hiệu quả
tăng cường tiềm lực quốc phòng. Để làm được điều đó, các cấp, ngành, lĩnh vực từ
Trung ương đến địa phương cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; các kế hoạch, phương án
động viên quốc phòng, sẵn sàng động viên khi có chiến tranh. Quân ủy Trung ương,
Bộ Quốc phòng cần chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương,
chính sách tăng cường cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với sự nghiệp quốc phòng, đặc biệt
là nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân. Phối hợp với
các ban, ngành ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương ban hành, triển khai
thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án, đề tài về xây dựng, tăng
cường tiềm lực quốc phòng với các mục tiêu, chỉ tiêu, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ,...
cụ thể, phù hợp với khả năng, nguồn lực địa phương, yêu cầu bảo vệ địa bàn, khu vực
phòng thủ, phương hướng xây dựng tiềm lực quốc gia; trong đó, chú trọng đến các địa
bàn chiến lược, trọng điểm.

13
Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, các tổ chức, lực
lượng và toàn dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân nhằm tăng cường tiềm lực quốc
phòng.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà
nước ta, nhằm huy động mọi nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực cho nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc. Vấn đề này liên quan trực tiếp đến cách thức, biện pháp chuẩn bị đất nước
toàn diện về nhân lực, vật lực, trí lực, tài lực, tinh thần và huy động các nguồn lực ở
nước ngoài, tạo thành sức mạnh tổng thể quốc gia, sẵn sàng động viên cho quốc phòng
khi cần thiết. Vì vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm, sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt
của hệ thống chính trị, các tổ chức, lực lượng và toàn dân, nòng cốt là Quân đội theo
tinh thần: “Củng cố quốc phòng,... bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và
toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân... là nòng cốt”. Theo đó, cấp ủy, chính quyền,
người đứng đầu các cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương cần nhận thức sâu sắc, coi đây là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện bằng
những chủ trương, giải pháp khoa học, phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ,
khả năng của ngành, lĩnh vực, địa phương mà mình phụ trách. Tập trung xây dựng,
phát triển toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội; chú trọng đầu tư phát triển một
số lĩnh vực trực tiếp liên quan đến xây dựng tiềm lực quốc phòng, như chính trị - tinh
thần, “thế trận lòng dân”, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, quân sự,...
Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội ở
địa phương và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực hiện chủ trương, cơ chế, biện pháp
xây dựng, huy động nguồn lực các lĩnh vực cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các cấp.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tự giác tham gia hoạt động quân
sự, quốc phòng và cống hiến sức người, sức của, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng, an ninh, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng tiềm lực quốc phòng.

14
Thực tiễn cho thấy, kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo ra nguồn lực vật chất, tài
chính quan trọng để tăng cường tiềm lực quốc phòng; ngược lại, tiềm lực quốc phòng
mạnh sẽ gia tăng sức mạnh quốc gia, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và sẵn
sàng đánh thắng kẻ thù nếu xảy ra chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, kiến tạo
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Các cấp, ngành, địa
phương, lực lượng vũ trang cần “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng,
địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”. Trong đó,
cần chú trọng gắn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện các
chiến lược quốc phòng, quân sự, bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ Tổ quốc trên không
gian mạng,... Trong quá trình thực hiện, cần coi trọng phát triển các ngành kinh tế biển
gắn với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; các ngành công nghiệp cơ bản, lưỡng dụng, công
nghệ mũi nhọn..., tạo nền tảng sẵn sàng chuyển hóa để bảo đảm nhu cầu trang bị ngày
càng hiện đại của lực lượng vũ trang. Tập trung nghiên cứu nội dung, phương thức
nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế với quốc phòng, bảo đảm yêu cầu cân đối, hài hòa,
hỗ trợ nhau cùng phát triển. Xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp liên thông, đồng bộ,
phối hợp giữa các ban, ngành ở Trung ương với địa phương, giữa các vùng kinh tế
trọng điểm với các khu vực phòng thủ, khu kinh tế - quốc phòng, phù hợp với đặc
điểm, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ địa bàn, tiềm năng, thế mạnh của địa phương và quy
hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng trên từng vùng,
miền và cả nước.

Bốn là, đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, trực tiếp là hợp tác và đối ngoại
quốc phòng, thu hút các nguồn lực bên ngoài vào tăng cường tiềm lực quốc phòng.

Đây là vấn đề lớn, mang tầm chiến lược, bao gồm nhiều thành tố khác nhau,
trên nhiều lĩnh vực và không chỉ diễn ra trong “một sớm, một chiều” khi nguồn lực của
đất nước còn hạn hẹp. Vì vậy, để việc tăng cường tiềm lực quốc phòng đạt hiệu quả,
phải gắn phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại thông qua đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, trực tiếp là hợp tác và

15
đối ngoại quốc phòng. Để làm điều đó, cần vận dụng đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo
quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về đối ngoại quốc phòng phù hợp với tình
hình mới. Trước hết, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đối
ngoại quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và các nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế
hoạch, đề án về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, bảo đảm đối ngoại quốc
phòng là một trọng tâm của ba trụ cột ngoại giao (đối ngoại đảng, ngoại giao nhà
nước, đối ngoại nhân dân).

16
KẾT LUẬN

Trong thời kỳ đổi mới, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quốc phòng
an ninh đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định, an ninh và
phát triển bền vững của đất nước. Đảng đã xác định rõ tầm quan trọng của việc xây
dựng một hệ thống quốc phòng vững mạnh, hiện đại và đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
đổi mới, nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh, sự phát triển và sự thịnh vượng của Tổ
quốc.

Trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung nỗ lực vào việc nâng cao
năng lực quốc phòng, xây dựng một quân đội nhân dân vững mạnh, hiện đại và đáp
ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh biên giới và thành tựu
cách mạng. Qua đó, Đảng đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến công tác quốc phòng
an ninh, đồng thời định hướng đúng đắn và đồng bộ trong việc xây dựng và phát triển
lực lượng vũ trang.

Ngoài ra, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã nhận thức rõ tầm quan trọng của
việc tham gia quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng an ninh. Việc đẩy
mạnh quan hệ đối ngoại, thúc đẩy hợp tác quốc tế và tham gia các tổ chức quốc tế liên
quan đã giúp đảm bảo an ninh và tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đất
nước. Đồng thời, việc học tập và trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia khác cũng đã
góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác quốc phòng an ninh.

Tuy nhiên, việc đảm bảo quốc phòng an ninh trong thời kỳ đổi mới vẫn đối mặt
với nhiều thách thức và biến đổi phức tạp. Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục nắm
bắt đúng xu hướng phát triển của thế giới, đổi mới và hoàn thiện hệ thống quốc phòng
an ninh, nâng cao năng lực phòng ngự, đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả trong công tác
này. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác giao dục, tuyên truyền và nâng cao ý thức quốc
phòng an ninh của toàn dân, đưa quốc phòng an ninh trở thành một trụ cột quan trọng
và bền vững trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước.

Trên cơ sở những quan điểm và biện pháp đã được triển khai, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã phân tích và trình bày một cách chi tiết và logic về quan điểm của mình

17
về quốc phòng an ninh trong thời kỳ đổi mới. Đảng nhận thức rõ rằng bảo vệ quốc
phòng an ninh là nhiệm vụ cốt lõi, đảm bảo sự tồn vong và phát triển của đất nước,
xây dựng và bảo vệ môi trường an ninh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển toàn diện của đất nước.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS Võ Tiến Trung, Những nội dung cơ bản về quốc phòng, an ninh , Báo
Điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-
lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/nhung-noi-dung-co-ban-ve-quoc-phong-an-
ninh-trung-tuong-ts-vo-tien-trung-960, 4/11/2023

2. Bùi Tuấn An ,An ninh là gì? Quốc phòng an ninh là gì? Vị trí, vai trò quốc
phòng an ninh, Luật Minh Khuê, https://luatminhkhue.vn/an-ninh-la-gi-quoc-phong-
an-ninh-la-gi.aspx ,4/11/2023

3. ThS. Nguyễn Tấn Thời, Quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thực hiện nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc từ Đại hội VI đến nay, Trường Chính Trị
Tôn Đức Thắng Tỉnh An Giang,
https://truongchinhtri.angiang.gov.vn/wps/portal/Home/trang-chu/trang-tin-chi-tiet/,
4/11/2023.

4. Duy Hồng - Tiến Đạt: Thành tựu và kinh nghiệm sau 30 năm đổi mới quân
sự, quốc phòng, Báo Quân đội nhân dân,
https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/xay-dung-quan-doi/thanh-tuu-va-kinh-
nghiem-sau-30-nam-doi-moi-quan-su-quoc-phong-495153 3/11/2023

5. PSG.TS Nguyễn Đức Hải, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá
trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong bối cảnh hiện nay, Tạp chí Cộng sản
điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/827671/tang-cuong-su-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-qua-trinh-xay-dung-
nen-quoc-phong-toan-dan-trong-boi-canh-quoc-te-hien-nay.aspx#, 3/11/2023.

19

You might also like