You are on page 1of 19

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Khoa Du lịch và Khách sạn

Tiểu luận: Triết học Mác Lênin

Đề tài: : Lý luận Mác-xít về con người và vấn đề con người trong sự


nghiệp CNH-HĐH đất nước Việt Nam hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông


Sinh viên thực hiện: Quách Thị Ánh
Mã sinh viên: 11220749
Lớp học phần: LLNL1105(222)_33

Hà Nội 2023

1
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa Du lịch và Khách sạn

Tiểu luận: Triết học Mác Lênin

Đề tài: Lý luận Mác-xít về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước Việt Nam hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông


Sinh viên thực hiện: Quách Thị Ánh
Mã sinh viên: 11220749
Lớp học phần: LLNL1105(222)_33

2
Hà Nội 2023
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 4
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................ 5
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI ....................................................................... 6
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 7
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................................ 7
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người ............................................ 7
2. Sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước ........................... 8
II. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI
HÓA ĐẤT NƯỚC ........................................................................................ 10
1. Tính tất yếu, khách quan của Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất
nước .......................................................................................................... 10
2. Mục tiêu con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
đất nước .................................................................................................... 11
3. Thực trạng nguồn nhân lực con người hiện nay ở nước ta ............... 13
4. Giải pháp vấn đề con người trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa đất nước ....................................................................................... 15
KẾT LUẬN .................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 19

3
LỜI CẢM ƠN
Một sản phẩm nghiên cứu khoa học chân chính là sản phẩm được đúc kết dựa trên
những có sở tri thức đúng đắn và sự tâm huyết nghiên cứu say mê. Bên cạnh đó không
thể thiếu vai trò vô cùng quan trọng của người hướng dẫn. Trong quá trình làm tiểu
luận nhờ có sự hướng dẫn của thầy mà em đã nhận được những kiến thức, phương
pháp nghiên cứu và kinh nghiệm quý báu. Em cảm thấy may mắn và tự hào khi được
học tập và làm việc dưới sự hướng dẫn của giảng viên có tâm và có tầm như thế. Em
sẽ luôn ghi nhớ và trân trọng những kiến thức và kinh nghiệm mà thầy đã truyền đạt
cho em để có thể áp dụng và phát triển trong công việc và cuộc sống. Em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến TS Lê Ngọc Thông – thầy giảng viên bộ môn “Triết học Mác
– Lênin” – đã giúp đỡ và hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu. Kính chúc thầy
luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, bình an đồng thời gặt hái được nhiều thành công hơn nữa
trong sự nghiệp trồng người.
Với vốn kiến thức bản thân có hạn và khả năng nghiên cứu khoa học còn hạn chế, để
thực hiện đề tài tiểu luận triết học này tôi đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì vật, bài tiểu
luận của tôi sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và nội dung còn hạn chế, rất mong
nhận được sự thông cảm của quý Thầy!

4
PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ trước tới nay vấn đề con người vẫn luôn là một vấn đề quan trọng của thế giới.
Con người luôn là đối tượng được quan tâm và nghiên cứu sâu sắc trong lịch sử
Triết học. Con người theo quan niệm của Mác – xít là một thực thể trong sự thống
nhất biện chứng giữa tự nhiên và xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên tuân theo
các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn
tại và phát triển của xã hội. Xã hội càng phát triển, công nghệ càng hiện đại thì của
cải vật chất ngày càng nhiều, năng suất lao động ngày càng cao, đòi hỏi con người
cần phải tân tiến hơn cả về tư duy cũng như là thể lực. Điều quý giá nhất, đặc biệt
nhất của con người, phân biệt con người với các sinh vật sống khác nằm ở trí tuệ.
Con người có thể tận dụng trí tuệ, sự thông minh của mình để làm được mọi thứ.
Vì vậy có thể nói con người là nguồn nhân lực chính của bất kì quốc gia nào, đóng
góp trực tiếp vào công cuộc Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước.
Các nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được nhiều thành tựu tuyệt vời
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đóng góp cho nền khoa học và công nghệ của thế
giới. Chúng ta có thể thấy rõ sự tiến bộ trong y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật,
công nghệ thông tin và nhiều lĩnh vực khác. Những thành tựu này đã tạo ra những
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người, cải thiện chất lượng cuộc sống và
giảm thiểu những khó khăn và thách thức đối với con người. Một vài thành tựu của
Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đã thay đổi hoàn toàn lối sống của con người. Nhờ
đó, con người có thể nhận thấy được tầm quan trọng, vai trò của công cuộc Công
nghiệp hóa- Hiện đại hóa đối với một đất nước.
Vậy đối với một đất nước đang phát triển như Việt Nam ta thì Công nghiệp hóa-
Hiện đại hóa có vai trò gì? Trước tiên ta cần phải biết rằng công cuộc Công nghiệp
hóa- Hiện đại hóa đất nước đã được Đảng ta đề xướng từ đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III (9/1960). Từ đó đến nay, Việt Nam ta vẫn là một nước nghèo đang
cố gắng để phát triển vươn lên, hội nhập với thế giới. Khoảng cách kinh tế giữa
nước ta với các nước phát triển vẫn là rất lớn, đời sống của con người đã được cải
thiện xong vẫn còn rất nhiều khó khăn. Nước ta có nguồn tài nguyên rất phong
phú, được ví như” rừng vàng biển bạc” xong vẫn cho có những biện pháp để tận
dụng nguồn tài nguyên đó một cách hiệu quả. Vậy nguyên nhân nước ta vẫn kém
phát triển sau nhiều năm như vậy là từ đâu? Phải chăng là do vấn đề con người và
cách sử dụng nhân lực, đào tạo nhân lực chưa được hợp lý trong thời kì Công
nghiệp hóa- Hiện đại hóa này?
Đó chính là lý do tại sao tôi đã chọn đề tài Lý luận Mác-xít về con người và vấn
đề con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước Việt Nam hiện nay. Tôi hy

5
vọng nghiên cứu này sẽ đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về triết lý của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, đồng thời chỉ ra những bất cập còn gặp phải cũng như đề ra một
số phương pháp để giải quyết vấn đề con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa-
Hiện đại hóa.

II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI


Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người
và vấn đề con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước Việt
Nam hiện nay. Từ đó, hiểu biết được tầm quan trọng của công cuộc Công nghiệp
hóa- Hiện đại hóa đối với các quốc gia đặc biệt là Việt Nam chúng ta để phần nào
làm rõ, chỉ ra những bất cập còn gặp phải cũng như đề ra một số phương pháp để
giải quyết vấn đề con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa.

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết: dựa trên giáo trình “triết học Mác –
Lênin” phân tích và tổng hợp, phân loại tìm ra cơ sở lí luận.
Phương pháp phân loại và hệ thống hoá kiến thức: sắp xếp các tài liệu khoa học
thành một hệ thống, một mô hình lý thuyết làm cơ sở cho sự hiểu biết về đối tượng
đầy đủ hơn.
Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm: nghiên cứu và xem xét lại những
thành quả thực tiễn trong quá khứ để rút ra tóm lại bổ ích cho thực tiễn và khoa
học.

6
PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1. Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người


1.1. Con người là thực thể sinh học - xã hội
Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao
nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất
cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là
một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. Quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng khi xem xét con người, không thể tách rời
hai phương diện sinh học và xã hội. Không chỉ vậy, con người còn là một bộ phận
của giới tự nhiên. Đặc biệt, con người có thể tự biến đổi bản thân mình cũng như
giới tự nhiên thông qua những quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt
mấu chốt, phân biệt con người với các thực thể sinh học khác. Xét trên khía cạnh
xã hội thì con người là động vật có tính xã hội, con người là sản phẩm của xã hội,
mang bản tính xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động
và chính lao động sản xuất là điều kiện tiên quyết, chủ yếu để phát triển con người
về cả phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội. Con người chỉ có tính xã hội
khi ở trong xã hội loài người đồng nghĩa với việc con người không thể tách rời
khỏi xã hội và đây là sự khác biệt cơ bản của con người với các sinh vật khác.
Trong quá trình lao động, qua sự đòi hỏi của thực tế, khả năng giao tiếp và ngôn
ngữ dần xuất hiện, đặt nền móng cho sự phát triển ý thức xã hội và tư duy của con
người.
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình
“Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo,nói chung
bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình – đó là
một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất
của mình.”.
Những loài vật khác phải phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên để sống và tồn tại, chỉ
có con người dựa vào tự nhiên để sống và tồn tại. Con người từ lao động sản xuất
đã dần hình thành ý thức và ngôn ngữ sau đó là các mối quan hệ xã hội. Như loài
vượn chúng đã có hành vi hái lượm nhưng vì thiếu đi nhu cầu và sự đột phá nên
không thể có được bước tiến như loài người
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người

7
Để tìm hiểu về bản chất của con người ta phải tìm hiểu từ bên trong chứ không thể
chỉ tìm hiểu bên ngoài đời sống thực của con người. Ta sẽ không hiểu được thực
chất của con người nếu cứ đứng trên góc độ của sinh vật học. Từ khi quá trình
nguồn gốc của con người kết thúc thì những biến đổi trong cơ thể đều ảnh hưởng
bởi quyết định của văn hóa. Những quan điểm về thẩm mỹ, vẻ đẹp, cách cư xử,
tính cách, cảm xúc, tình yêu… những điều đó không được coi là đặc tính cơ thể
của con người mà nó được hình thành dựa trên quá trình lịch sử, thực tiễn xã hội,
trong quá trình lao động, kiếm ăn, giao lưu… và là đặc tính riêng của từng cá thể
riêng biệt không giống nhau. Con người đã không ngừng cải thiện bản thân, tạo ra
lịch sử của chính con người, con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài
của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản
thân con người.
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội nhưng đồng thời
lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính của xã hội tối cao
của con người. Khi nghiên cứu về quá trình hình thành, lịch sử của động vật là sự
hình thành cho đến hiện tại nhưng lịch sử đấy không do chúng tự muốn làm ra,
chúng không hề biết. Còn lịch sử loài người do con người tự làm ra lịch sử của
mình. Nhờ công cụ lao động mà con người tách ra khỏi con vật, tách khỏi tự nhiên
trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn của xã hội. So với môi trường tự nhiên thì
môi trường xã hội có tác động trực tiếp đến hành vi chủ thể con người. Môi trường
xã hội cũng như môi trường cá nhân có quan hệ với môi trường tự nhiên tác động
qua lại với nhau, chi phối quyết định lẫn nhau.
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Bản chất con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện
thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Tất cả các quan hệ đó đều góp
phần hình thành nên bản chất con người. Các quan hệ này không kết hợp với nhau
qua phép cộng, mà chúng là tổng hòa có nghĩa là chúng có vị trí và vai trò khác
nhau nhưng không tách rời nhau mà tác động qua lại với nhau, thâm nhập vào
nhau. Bản chất của con người chỉ có thể được hình thành và được nhận thức thông
qua các quan hệ xã hội của nó. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ,
quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tình thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ
gián tiếp, quan hệ tất nhiên hoặc ngẫu nhiên…Tất cả các mối quan hệ vật chất và
tinh thần đều góp phần vào việc hình thành bản chất con người, trong đó quan hệ
sản xuất đóng vai trò quyết định nhất. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính
xã hội” ( C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.200.). Khía cạnh thực thể
sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.

2. Sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước


2.1. Khái niệm

8
Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) đã đưa ra định
nghĩa về công nghiệp hóa và hiện đại hóa vào năm 1963. Theo họ, công nghiệp
hóa là quá trình phát triển kinh tế. Trong quá trình này, một bộ phận ngày căng
tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều
ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này đó
chính là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất
và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với
nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế và xã hội.
Hiện đại hóa, theo cách hiểu phổ biến hiện nay là quá trình chuyển biến từ cách tổ
chức truyền thống cũ sang trình độ hiện đại, tiên tiến. Đây là quá trình chuyển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã
hội dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động
hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao.
Tuy nhiên, cho đến nay, có rất nhiều cách để diễn đạt về quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa. Đảng ta đã xác định rằng thực chất của công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa chính là “Quá trình thực tiễn cách mạng khoa học kỹ thuật, thực sự phân
công về lao động xã hội và quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng
thực hiện tái sản xuất mở rộng”. Còn theo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ tám ban chấp hành trung ương khóa VIII, công nghiệp hóa - hiện đại hóa lại
được coi là “ Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thử công là chính sang
sử dụng phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra
năng suất lao động cao”.
2.2. Vai trò của Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước
2.2.1. Bối cảnh trong và ngoài nước
Nền kinh tế Việt Nam ta trong quá trình phát triển đối mặt với vô vàn khó khăn.
Ta bắt đầu tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa sau một loạt nước
trong khu vực và cũng như là trên toàn thế giới. Đó quả là một khó khăn và thiệt
thòi lớn đối với Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó cũng tạo ra cho chúng ta một số
những thuận lợi nhất định. Về mặt khó khăn, trang thiết bị của chúng ta đã bị lạc
hậu đến khoảng 40, 50 năm so với các nước tiên tiến toàn cầu. Còn đối với thuận
lợi, Việt Nam ta lại có cơ hội được chiêm nghiệm những kinh nghiệm thành công
và cũng như là thất bại của các nước bạn trong cùng khu vực và trên thế giới. Nhờ
việc đó, ta có thể rút ra được vô số những bài học bổ ích cho sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước.
2.2.2. Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa là điều tất yếu trong sự nghiệp phát triển
và xây dựng đất nước

9
Về cơ bản, để giảm thiểu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, nước ta phải xác
định được cơ cấu kinh tế hợp lý, nâng cấp trang thiết bị trở nên hiện đại cung cấp
cho các ngành kinh tế, quá trình này gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Tuy
nhiên, nước ta lại là một nước nông nghiệp được đánh giá là lạc hậu và phát triển
chậm chạp, mang tính nhỏ lẻ, tự phát,... Do đó để tiến hành sản xuất lớn, để trở
nên hiện đại hơn, nước ta phải thực hiện quá trình công nghiệp hóa. Đây được coi
là một bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất và của khoa học kĩ thuật. Trong thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng lẫn chất lượng, chủng loại và cả quy mô. Nó là yếu tố làm thay đổi cách
thức sản xuất đồng thời làm tăng năng suất lao động, số lượng sản phẩm được sản
xuất ngày càng nhiều, đa dạng và phong phú hơn, đáp ứng tốt các như cầu sản xuất
và cả về mặt đời sống nhân dân. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa có nhiệm vụ đưa
nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất quy mô nhỏ lên sản xuất quy mô lớn. Quá trình
này giúp đảm bảo và tạo điều kiện cho sự thay đổi về nền sản xuất xã hội, làm tăng
năng suất lao động. Từ đó giúp củng cố và cải thiện đời sống của nhân dân. Như
vậy, để xây dựng một đất nước Việt Nam hiện đại hơn với nhiều kĩ thuật tiên tiến,
với quốc phòng vững mạnh, cuộc sống văn minh hạnh phúc, chúng ta phải tiến
hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

II. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
ĐẤT NƯỚC

1. Tính tất yếu, khách quan của Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa là xu thế của các nước trên thế giới và đó cũng là
điều tất yếu để Việt Nam hướng tới để phát triển đất nước ngày một giàu mạnh,
công bằng văn minh hơn. Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa không phải chỉ biến đổi
nền kinh tế mà nó còn thay đổi sâu sắc làm cho xã hội phát triển. Quá trình này
thành công hay không phải đòi hỏi rất nhiều yếu tố như nguồn nhân lực con người,
tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất,… Các yếu tố này phải liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau mới khiến cho quá trình này thành công, đặc biệt là nguồn
nhân lực con người. Theo chủ nghĩa Mác- Lênin con người là điểm khởi đầu cũng
là điểm kết thúc và còn là trung tâm của mọi sự thay đổi, tạo nên lịch sử cho chính
bản thân mình. Con người là trung tâm của mọi sự thay đổi. Con người với những
đặc điểm chăm chỉ, cần cù, trung thực đã góp phần giải phóng dân tộc, khôi phục
nền kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên ta có thể thấy sự hạn chế trong công cuộc
xây dựng đất nước theo Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa do chúng ta vẫn còn những
sự lạc hậu. Con người chính là chủ thể của quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại
hóa đất nước. Nhắc đến nguồn nhân lực là nói đến chủ thể khách quan tham gia
vào quá trình này và đóng vai trò quan trọng, trung tâm không ai khác chính là con
người, tập hợp này bao gồm không chỉ là những hay nhiều con người mà là tập
hợp những con người có cùng phẩm chất, mục tiêu, chí hướng lại với nhau. Để
phát triển được Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa thì ta có thể nói những phẩm chất
trên là những phẩm chất tốt, mang tính tích cực được con người, chủ thể thể hiện
10
ra trong quá trình tiến hành Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy quá
trình này đi lên một cách tích cực và hạn chế tối đa những mặt tiêu cực.
Khi so sánh nguồn nhân lực con người với các nguồn nhân lực khác sẽ cho ta thấy
con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
đất nước. Ta sẽ đặt nó so sánh với các nguồn nhân lực khác dựa trên mức độ chi
phối của nó đến sự thành công hay thất bại của sự phát triển. Ta có thể thấy ngày
nay lao động trí tuệ ngày càng tăng, các nguồn nhân lực khác như tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở kỹ thuật,… nếu không có sự tác động của con người thì nó chẳng thể
nào tác động được vào các quá trình. Các năng lượng như gió, nước, mặt trời,…
nếu không có sự tác động con người cũng chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Con
người đã dùng trí tuệ của mình đề kết nối các nguồn năng lượng lại với nhau, để
chúng từ nguồn nhân lực tiềm năng trở thành nguồn nhân lực thực thụ tác động
vào trong quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa. Các nguồn nhân lực khác là có
hạn và có thể cạn kiệt khi khai thác chỉ có nguồn nhân lực về trí tuệ và con người
là vô hạn. Trí tuệ con người không chỉ có khả năng tự tái sinh mà còn có khả năng
sản sinh. Vì vậy trong các yếu tố nguồn nhân lực thì con người chính là yếu tố
quan trọng nhất, giúp biến đổi, cải tạo, phát triển các nguồn nhân lực khác, kết nối
chúng lại với nhau để quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa thành công. Thành
công và hoàn thiện quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa có vô cùng to lớn đối
với nhân loại nói chung cũng như Việt nam nói riêng. Nó làm thay đổi căn bản
trong tư duy, kỹ thuật, tăng năng suất lao động,… không chỉ vậy nó còn giúp đời
sống xã hội, vật chất tinh thần đi lên phát triển theo hướng tích cực, năng suất lao
động tăng, sản phẩm chất lượng đáp ứng nhu cầu của xã hội.Ngoài ra, Công
nghiệp hóa- Hiện đại hóa còn phát triển sự liên hệ về kinh tế giữa các ngành với
nhau từ đó đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt, quản lý thông minh, bao quát, tích lũy
cao của các nhà quản lý để mở rộng quy mô sản xuất, phát triển đất nước. Theo
kinh nghiệm của nhiều nước và chính thực tiễn của chúng ta có thể thấy sự thành
công của quá trình này phụ thuộc vào việc áp dụng đường lối rõ ràng, vận dụng
linh hoạt và điều đó cũng phụ thuộc vào trí tuệ, sự trải nghiệm thực tiễn của con
người. Ngoài ra, nó còn nâng cao giá trị, phẩm chất của mỗi con người.
Từ đó, ta có thể thấy được Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa là vấn đề tất yếu
khách quan trong sự nghiệp phát triển đất nước Việt Nam cũng như các nước khác
và con người chính là nguồn nhân lực quan trọng nhất, chủ chốt để quá trình này
diễn ra thành công và phát triển.

2. Mục tiêu con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất
nước
Mục tiêu “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh giữ
vững, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Đó trước hết là cuộc cách

11
mạng con người vì con người và do con người. Bởi khi chúng ta nói về những ưu
việt của chủ nghĩa xã hội thì những ưu việt đó không do ai đưa đến. Đó phải là kết
quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta với những con người phát
triển cả bề trí lực, về cả khả năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội và đạo
đức tình cảm trong sáng.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập đến nay. Đảng
ta đã nhiều lần khẳng định “con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”. Trên thực tế trong suốt
những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh
phúc con người chưa có nhiều thành công như mong muốn, việc nâng cao đời sống
vật chất và tinh thân cho những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động chăm lo cho hạnh phúc
của nhân dân. “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta
phải hết sức tránh” đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ
trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh – “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì
lợi ích trăm năm trồng người” và “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa” – đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi
chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” Đảng ta chỉ rõ: “Phương hướng lớn của chính
sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công đan kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã
hội”. Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con người,
của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Việc đẩy mạnh
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức
một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố
con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa tinh
thần. Phải có sự thay đổi sau sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con
người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như
một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất,
không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa không
thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể phát triển con người
Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội

12
“công bằng, nhân ái”, “tốt đẹp và toàn diện” để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hóa đất
nước và đời sống xã hội và chúng ta “tăng trưởng nguồn lực con người khi hiện
đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số và kế
hoạch hóa gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống và bản sắc dân tộc”, chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hóa
theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hóa, không xa
rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân
mình trở thành cái bóng của người khác. Nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu phát triển con người toàn diện thì con người ở đây không chỉ hiểu với tư
cách là người lao động sản xuất mà còn với tư cách là công dân xã hội, một cá thể
trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ trước
vận mệnh quốc gia. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất
cao, những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp biết
làm ăn, những nhà quản lý, lãnh đạo có tài mà đó còn là hàng triệu công dân yêu
nước, ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì
sự nghiệp chung.
Qua đây có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển mới – đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản
cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Nếu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vì sự nghiệp phát triển con người thì con
người phải được coi là giá trị tối cao.

3. Thực trạng nguồn nhân lực con người hiện nay ở nước ta
Nước ta có nguồn lao động vô cùng dồi dào, đặc biệt là những lao động trẻ. Theo
số liệu thống kê của Tổng cục thống kê thì đến hết năm 2010 dân số Việt Nam là
gần 87 triệu người. Thế nhưng, dịch Covid-19 xuất hiện từ cuối tháng 01/2020 đã
gây tác động lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh và việc làm của người lao
động, khiến tình trạng tham gia thị trường lao động giảm, thất nghiệp và thiếu việc
làm tăng lên. Kết quả Điều tra lao động việc làm quý I/2020 cho thấy, tỷ lệ tham
gia lực lượng lao động ghi nhận mức thấp kỷ lục trong vòng 10 năm qua với
khoảng 75.4% dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động. Xem xét theo
nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực
nông thôn ở hầu hết các nhóm tuổi, trong đó chênh lệch nhiều nhất được ghi nhận
ở nhóm 15-24 tuổi (thành thị: 41,2%; nông thôn: 48,0%) và nhóm từ 55 tuổi trở
lên (thành thị: 35,0%; nông thôn: 47,9%). Điều này cho thấy, người dân tại khu
vực nông thôn gia nhập thị trường lao động sớm hơn và rời bỏ thị trường muộn
hơn khá nhiều so với khu vực thành thị.

13
Lực lượng lao động nước ta khá đông đảo nhưng có sự phân bố không đồng đều
giữa thành thị và nông thôn; giữa đồng bằng, ven biển và miền núi; không đồng
đều giữa cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. Hiện nay ở Việt Nam cung về
sức lao động đang vượt quá cầu và sẽ còn tiếp tục vượt trong tương lai, điều đó tạo
ra một áp lực rất lớn về việc làm cho dân cư. Hàng năm cung sức lao động tăng từ
3,2% đến 3,5%, như vậy mỗi năm chúng ta sẽ có thêm khoảng 1,3 đến 1,5 triệu
người đến độ tuổi lao động. Đó là hậu quả của việc bùng nổ dân số trong những
năm vừa qua.
Lao động nước ta cần cù, chịu khó, luôn sáng tạo, có tinh thần ham học hỏi, kinh
nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ (đặc biệt trong các ngành truyền thống như Nông
– lâm – ngư nghiệp). Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao nhờ những
thành tựu phát triển trong văn hóa, giáo dục và y tế, biệt lao động nước ta chủ yếu
lao động trẻ, năng động, nhạy bén và tiếp thu nhanh khoa học kĩ thuật.
Tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế như về mặt sức khỏe, thể lực của người kém
xa so với các nước trong khu vực. Số lượng lao động tham gia ngày càng tăng
song đều có điểm chung là phần lớn đều không được đào tạo nghề chuyên sâu, hầu
như là lao động phi chính thức, lao động phổ thông có tay nghề thấp, chỉ đạt
46/100 điểm (hạng 103 thế giới), kém xa so với nhóm ASEAN – 4. Khi đặt bên
cạnh các lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc sẽ có sự chênh lệch rõ ràng
về trình độ. Nếu không có sự thay đổi, chính lực lượng lao động Việt Nam sẽ phải
chịu sức ép kép từ trong nước lẫn ngoài nước. Mặc dù cả nước có khoảng 1.300
trường cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề nhưng chất lượng đào tạo
chưa đạt chuẩn quốc tế, chương trình giảng dạy không phù hợp, chưa đáp ứng
được yêu cầu cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động.
Hơn nữa có một sự chênh lệch rất lớn giữa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo giữa
thành thị và nông thôn. Trong khi ở thành thị là 30.6% thì ở nông thôn chỉ chiếm
8.5% (năm 2010).
Ngoài tay nghề thì tính chuyên nghiệp của người lao động cũng được quan tâm.
Trong thực tế vẫn còn một bộ phận người lao động chưa được tập huấn một cách
kĩ càng về kỷ luật lao động công nghiệp. Có thể đã tập huấn song thực tế làm việc
thì ít tuân thủ những quy định ấy. Nguyên do có thể là từ xuất thân nông thôn,
mang nặng tác phong sản xuất nông nghiệp tiểu nông.
Bên cạnh đó vấn đề chảy máu chất xám cũng là vấn đề đáng bàn không chỉ của
riêng Việt Nam mà còn của hầu hết các quốc gia đang phát triển. Tình trạng này
hiện đã được cải thiện phần nào nhờ các chính sách của nhà nước tuy nhiên nếu
như không đáp ứng được nhu cầu của những người tài thì thực trạng này sẽ không
bao giờ có thể giải quyết được. Thứ nhất là vấn đề lương thưởng. Mức lương của
những lao động trong doanh nghiệp nhà nước tuy có ngang bằng với xã hội nhưng
chưa xứng với công sức của những nhân sự giỏi. Họ có trí tuệ thì họ cũng sẽ có
những yêu cầu cao hơn để xứng với chất xám, công sức họ bỏ ra. Trong khi đó ở

14
các doanh nghiệp tư nhân hoặc có vốn đầu tư nước ngoài, người lao động có thể đề
đạt về mức lương tương ứng với công sức của họ. Điều này tạo ra sự kém thu hút
đối với doanh nghiệp nhà nước so với các khoanh nghiệp tư nhân khác. Thứ hai là
môi trường làm việc. Nhiều lao động không chọn các doanh nghiệp nhà nước cũng
bởi một phần vì môi trường làm việc. Nếu như ở các doanh nghiệp kinh tế khác họ
sẵn sàng tạo cho lao động một môi trường làm việc tốt, năng động, hiệu quả với
nhiều những đãi ngộ phù hợp thì ở doanh nghiệp nhà nước, do tính chất mô hình
nên chưa thể đáp ứng được như vậy. Vậy nên vấn đề này cũng là một vấn đề nan
giải.
Với những thực trạng hiện tại về lực lượng lao động của nước ta như trên, chúng
ta cần phải cải thiện và đưa ra nhiều biện pháp để cải thiện. Bởi chỉ khi những vấn
đề kia được giải quyết thì quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước mới
có thể thành công bởi con người chính là nhân tố lực lượng chính trong công cuộc
này và nó cũng là nhu cầu của con người, nhu cầu phát triển và hoàn thiện hơn của
mỗi chúng ta và kiến cho đất nước ngày càng phát triển, sánh vai với các nước trên
thế giới.

4. Giải pháp vấn đề con người trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại
hóa đất nước
Để đáp ứng được nhu cầu về lực lượng lao động cho công cuộc Công nghiệp hóa
– Hiện đại hóa, chúng ta cần phải có những giải pháp thiết thực, thực tế nhất có
thể. Trước tiên, để giải quyết vấn đề lực lượng lao động chất lượng chưa cao,
chúng ta cần phải tích cực bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Khoa học và công
nghệ, đặc biệt là tầng lớp đứng đầu, lãnh đạo để có thể là những minh chứng rõ
nhất cho việc đào tạo nhân lực. Chúng ta cần tạo ra các chương trình đào tạo phù
hợp với yêu cầu của các ngành công nghiệp hiện đại, bao gồm cả các chương trình
đào tạo nghề và đào tạo sau đại học. Chúng ta cần tạo ra một môi trường học tập
và làm việc thân thiện với công nghệ, cung cấp cho sinh viên và nhân viên các cơ
hội tiếp cận với công nghệ mới nhất và các thiết bị kỹ thuật hiện đại. Điều này
cũng bao gồm tạo ra các cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu của các ngành công
nghiệp, bao gồm cả các phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu. Hay chúng ta
cần tạo ra các chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và tổ chức
đầu tư vào các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, đồng thời tạo ra các
cơ hội hợp tác giữa các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp để phát triển các sản
phẩm và dịch vụ mới. Cùng với việc đào tạo chất lượng cao, chúng ta cần phải
nâng cao chất lượng giảng dạy ở các bậc dưới. Điều này cần được áp dụng ngay
vào các bậc học từ THCS, THPT, Đại Học... để có thể trực tiếp đào tạo những
mầm non, lực lượng chủ chốt của đất nước trong tương lai.
Một điều cũng ảnh hưởng tới chất lượng lao động của con người chính là về sức
khỏe. Có thể thấy rất nhiều người Việt Nam có trình độ, tay nghề nhưng thể lực
cũng như thể chất chưa tốt nên không thể đáp ứng được nhu cầu công việc. Vì vậy

15
ta cũng cần có những biện pháp để phát triển về mặt thể chất, cần nhiều hơn những
bài giảng cho thấy tầm quan trọng của việc có một cơ thể khỏe mạnh sẽ giúp ích
như thế nào cho chúng ta cũng như cho đất nước.
Ngoài ra cần phải khắc phục tính thiếu chuyên nghiệp trong tác phong làm việc
của người Việt Nam. Điều này trực tiếp liên quan tới lối sống và thói quen hàng
ngày của con người. Con người Việt Nam ta tuy có nhiều phẩm chất tốt đẹp, nhiều
công nhân lao động tay nghề cao tuy nhiên bên cạnh đó phong cách, ý thức làm
việc cũng như cách ứng xử nơi làm việc còn chưa được tốt. Vì vậy để tạo ra một
nền văn hóa làm việc chuyên nghiệp chúng ta cần có những biện pháp thúc đẩy
các giá trị như tận tụy, trung thực, đạo đức nghề nghiệp, tôn trọng thời gian và cam
kết đạt được chất lượng cao trong công việc. Cần phải cho các lao động biết rõ tầm
quan trọng của việc giữ được cái tâm trong nghề, cũng như trách nhiệm của lao
động trong việc phát triển và xây dựng công việc hiệu quả, nghiêm túc, có kết quả
cao. Đó chính là điều sẽ giúp người lao động hoàn thiện được bản thân cũng như
tìm được niềm vui trong công việc của mình. Bên cạnh đó cần đầu tư vào giáo dục
và đào tạo chuyên nghiệp để nâng cao kiến thức và kỹ năng của người lao động.
Điều này bao gồm việc cung cấp chương trình học chất lượng, đào tạo nghề, chứng
chỉ và khóa đào tạo liên quan đến nghề nghiệp và kỹ năng cần thiết cho công việc.
Thứ hai là vấn đề phân bố lực lượng lao động chưa hợp lý, điều này xảy ra chủ
yếu do sự chênh lệch về diện tích đất, điều kiện tự nhiên cũng như về kinh tế giữa
thành thị với nông thôn, giữa đồng bằng với vùng trung du, miền núi hay ven biển.
Do đó chúng ta cần phải có sự quan tâm, hỗ trợ đối với những lao động vùng nông
thôn, vùng sâu vùng xa để tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu hút người lao động ở
lại địa phương. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư vào các ngành kinh tế địa
phương, đặc biệt là các ngành có tiềm năng phát triển như du lịch, nông nghiệp,
chế biến gỗ và thủy sản, để tạo ra nhiều việc làm và thu hút các nhà đầu tư vào địa
phương. Ngoài ra, cần tăng cường hỗ trợ và đào tạo cho các lao động ở các vùng
khó khăn, đặc biệt là các lao động có trình độ học vấn thấp, để tăng cường năng
lực cạnh tranh và giúp họ có thể đáp ứng được yêu cầu của các công việc mới.
Cùng với đó, ta cũng cần khuyến khích các lao động ở thành phố có thể đến các
vùng nông thôn để giúp đỡ, chia sẻ và hướng dẫn cho mọi người về mô hình làm
việc hiệu quả cũng như có thể tận dụng được hết nguồn tài nguyên có thể sử dụng
ở vùng nông thôn. Thứ ba là cần tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để thu
hút các doanh nghiệp và tạo ra nhiều cơ hội việc làm. Điều này bao gồm cải thiện
môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng hạ tầng kỹ thuật và xã hội, đồng thời tạo ra
các chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó
khăn. Ngoài ra, cần tạo ra một môi trường thân thiện với doanh nghiệp, giúp họ
phát triển và mở rộng sản xuất, đồng thời đảm bảo rằng các doanh nghiệp tuân thủ
các quy định về bảo vệ môi trường và quyền lợi của người lao động.Tổng thể, để
giải quyết vấn đề phân bố lao động chưa hợp lý, chúng ta cần có một chiến lược
phát triển kinh tế toàn diện, tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu hút các nhà đầu tư

16
vào các vùng khó khăn. Đồng thời, cần tăng cường đào tạo và hỗ trợ cho các lao
động ở các vùng khó khăn, giúp họ có thể đáp ứng được yêu cầu của các công việc
mới và tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường lao động.
Thứ ba là vấn đề thu hút và giữ chân nhân tài từ đó hạn chế vấn đề chảy máu chất
xám. Để đáp ứng nhu cầu về lực lượng lao động, cần tạo ra một môi trường làm
việc hấp dẫn và thu hút người tài. Trước hết cần có những chế độ đãi ngộ, trả
lương xứng đáng cho những lao động giỏi, có những giải pháp để cải thiện đời
sống tinh thần của công nhân như thường xuyên thăm hỏi, động viên lao động...
Hạn chế chính sách lương thưởng chia theo bình quân vì nó chính là lý do làm
giảm đi động lực cũng như tạo ra sự không công bằng giữa những nhân sự giỏi và
những nhân sự còn lại. Tiếp theo, doanh nghiệp nhà nước cần tạo ra một môi
trường tốt, đủ tính cạnh tranh, có tính chuyên nghiệp và văn minh lịch sự. Môi
trường làm việc chính là yếu tố khiến các lao động gắn bó lâu dài với doanh
nghiệp. Vì vậy đây là yếu tố quan trọng không kém để có thể thu hút thêm cũng
như giữ lại những lao động tài năng. Ngoài ra, cần tạo ra các chính sách hỗ trợ cho
nhân tài có năng lực và kinh nghiệm để giữ chân họ lại và phát triển sự nghiệp tại
đất nước. Chỉ khi chúng ta có được nhân tài có năng lực và kinh nghiệm, Việt
Nam mới có thể phát triển bền vững và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cuối
cùng là về chính những người lao động, cần phải có ý thức, trách nhiệm trong việc
phát triển kinh tế, xã hội nước nhà. Họ cần phải biết được tầm quan trọng của mình
trong công cuộc Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước và phấn đấu xây dựng
đất nước thêm giàu mạnh.

17
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối quan hệ
đúng đắn về con người, về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội nói
chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không thể thiếu được
của thế giới quan Mác – Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những cá thể, người như một chỉnh thể, trong sự thống
nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số trước tính sinh học của con người thì không thể giải
thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt hoạt động
có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính trong quá trình
hoạt động đó những quan hệ xã hội được hình thành, có tác động mạnh mẽ tới sự
hình thành nhân cách, bản chất con người. Mác viết “Con người là tổng hòa của
những quan hệ xã hội”.
Lao động sáng tạo là thuộc tính tối cáo của con người, hoạt động sản xuất là hoạt
động lịch sử đầu tiên mang tính sáng tạo, giúp con người tách khỏi loài vật, tách
khỏi tự nhiên để làm chủ thực tiễn, làm ra lịch sử của mình. Con người không sáng
tạo ra lịch sử theo ý muốn chủ quan của mình mà con người vẫn phải tiếp tục các
hoạt động sáng tạo trên những điều kiện lịch sử do thế hệ trước để lại, vừa phải
tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Bởi vậy con
người là lực lượng lao động chính trong công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
đất nước. Chủ nghĩa Mác Lênin về con người đã cho ta cái nhìn rõ ràng về vấn đề
con người trong công cuộc này, giúp ta có những hình dung về vai trò, trách nhiệm
của con người để thông qua đó định hướng được chính xác con đường mà mọi
người cần phải hướng tới. Có thể nói lý luận chủ nghĩa Mác Lênin chính là chiếc la
bàn dẫn lối cho chúng ta, giúp chúng ta thực hiện được nhiệm vụ đất nước ngày
càng phát triển, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu…

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc Gia sự thật.
2. Giáo trình kinh tế chính trị học của NXB giáo dục 1996
3. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI
4. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Tap chí cộng sản
6. Vấn đề con người trong sự ngihệp CNH, HĐH Phạm Minh Hạc NXB chính trị
quốc gia 1996

19

You might also like