You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------000----------

MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MAC-LÊNIN

TIỂU LUẬN

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MAC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ


VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hằng

SVTH: 1.Mai Thanh Phương – 22146376


2.Đinh Xuân Nam – 22146353
3.Lâm Quốc Qui – 22146386
4.Đinh Đồng Sơn – 22146390
5.Lê Hoàng Quân – 22146381

TP.Hồ Chí Minh, 12/2022

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh đất nước ta bước vào thế kỉ 21, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vẫn còn đang dang dở. Khi ấy các hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã làm cho các tư tưởng
tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự phát triển của Việt Nam dễ đi đến sự phủ
nhận vai trò, khả năng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Phát triển con người toàn diện là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại, đây chính là
động lực và là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà nước ta đang tiến
hành. Đặc biệt là trong bối cảnh thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế thì đất nước ta cũng đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa, đến năm 2020 nước ta thực hiện thành công và trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Sự thành công ấy chính nhờ sự sáng suốt trong vai trò
lãnh đạo của Đảng, tại nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa”.
Chính vì sự cấp bách ấy, ta phải xem xét kỹ lưỡng rằng nguồn nhân lực hiện nay của đất
nước ta đang bộc lộ những ưu điểm, khuyết điểm gì và cách khắc phục ra sao để có thể
xây dựng và nâng cao chất lượng, phát huy được nhân tố con người để có thể phục vụ tốt
nhất cho công cuộc đổi mới đất nước

Do bản thân nhận thức được tầm quan trọng về con người trong công cuộc công nghiệp
hóa-hiện đại hóa. Vì vậy nhóm em xin chọn chủ đề: “Quan điểm của triết học Mác- Lênin
về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta”. Mục tiêu của đề tài là đưa ra cái nhìn tổng quát về thực trạng
nguồn lực con người ở Việt Nam hiện tại và từ đó đề xuất ra những giải pháp để phát huy
thế mạnh và khắc phục những hạn chế còn tồn tại để nâng cao chất lượng nguồn phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------------------------1
MỤC LỤC----------------------------------------------------------------------------------------2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI-----------------------------------------------------------3
2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI--------------------------4
1.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội-------4
1.2 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội---------------------------5
1.3 Bản chất con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại.------------6
CHƯƠNG 2: NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG NGUỒN LỰC
2. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY----------------------------7
2.1 Quan điểm của đảng về nhân tố con người---------------------------------------------7
2.2 Con người là nhân tố quan trọng trong việc đổi mới đất nước-------------------11
2.3 Một số hạn chế còn hiện hữu về nguồn lực con người ở Việt Nam.--------------14
3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC PHỤC VỤ SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC--------------------16
3.1 Những thánh thức của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa------------------16
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực giúp đáp ứng thời kì công nghệ hóa
hiện đại hóa đất nước.--------------------------------------------------------------------------17
3.2.1 Đối với nhà nước------------------------------------------------------------------------17
3.2.2 Đối với các cơ sở giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực------------------------------18
3.2.3 Đối với đơn vị sử dụng lao động------------------------------------------------------19
KẾT LUẬN-------------------------------------------------------------------------------------20
TÀI LIỆU THAM KHẢO-------------------------------------------------------------------21

2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI
Có bao giờ bạn thắc mắc về sự tồn tại của con người chúng ta trong tự nhiên. Liệu cuộc
đời của chúng ta có ý nghĩa gì trong vũ trụ, hay chỉ đơn giản cũng nhỏ bé và vô nghĩa? Tự
nhiên là nơi chứa đựng và cũng là nền tảng của sự hình thành, tồn tại và phát triển của
con người. Có thể nói con người là một sản phẩm của tự nhiên nhưng lại là sản phẩm cao
cấp nhất. Chính vì thế mà việc nghiên cứu khoa học, khám phá về nguồn gốc tự nhiên và
cấu tạo tự nhiên của con người rất được chú trọng. Nó góp phần giúp loài người hiểu rõ
hơn về bản thân mình từ đó làm chủ bản thân trong mọi hành vi cũng như hoạt động sáng
tạo ra lịch sử của mình.

Con người thực chất là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Mang trong mình
sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Bản chất của con
người đã được ghi chép và có nhiều quan niệm trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Nhưng những quan niệm đó thường khá phiến diện, trừu tượng. Bản chất(bản tính) con
người chúng ta nói ở đây không phải về khía cạnh triết học, mà là về khía cạnh tâm lý,
tâm linh. Mỗi con người đều có bản chất riêng và đặc trưng nhất. Đây là thứ quyết định
cách thức tư duy, điều khiển hành động và phản ứng của chúng ta trước những sự vật, sự
việc tác động lên bản thân. Bản chất của chúng ta khác với của các loài tạo vật khác là bởi
chúng ta có thể suy nghĩ và cảm nhận. Khi phải đối mặt với các sự kiện xảy ra trong cuộc
sống mỗi hành động và ứng phó của chúng ta khi đối mặt với chúng để chịu sự thiệt hại,
mất mát thì mới được xem là bản chất.

Đây được xem là một cái cảm tính cố chấp dù biết có thể sẽ hại nhưng vẫn làm. Nó đi
ngược lại với sự nhận xét đánh giá sự việc một cách sáng suốt rồi mới phản úng hay hành
động chính xác dem lại lợi ích cho bản thân. Chúng ta rất có thể sẽ nhầm lẫn bản chất(bản
tính) là cái vốn có từ khi sinh ra. Điều này không đúng vì cái đã có sẵn vẫn có khả năng bị
thay đổi hoặc loại bỏ, còn bản chất thì có thể dễ dàng được hình thành trong quá trình
chúng ta sống và tồn tại.

3
Khi cách tư duy của mỗi người thay đổi và phát hoặc chúng ta hiểu rõ về bản chất, thì
nó có thể được biến đổi hay thậm chí là loại bỏ hoàn toàn. Bản chất(bản tính) mỗi người
là khác nhau. Tuy nhiên không thể dùng nó để phân biệt giữa người này và người
khác,mà chúng dùng để nói về sự giới hạn trong lối tư duy, hành xử, hành động và phản
ứng của mỗi người.

2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI


Trong lịch sử triết học từ xa xưa đến hiện nay con người vẫn luôn là chủ đề trung tâm
của các nhà triêt học. Khi đề cập tới vấn đề này các nhà triết học vẫn luôn tự hỏi: Thực
chất con người là gì, họ phải giải quyết nhiều mâu thuẫn trong chính con người để tìm ra
câu trả lời. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại xem xét con người là một thực thể nhỏ
bé trong thế giới rộng lớn, là một tiểu vũ trụ bản chất con người chính là bản chất vũ trụ.
Con người là chúa tể của muôn loài và cao quý nhất trong các loài, chỉ đứng sau thần lin,
Con người gồm phần xác lẫn phần hồn. Theo chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo: Thượng đế
sinh ra phần hồn, phần hồn quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác và linh hồn
con người tồn tại mãi mãi. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật cho rằng phần xác quyết định và
chi phối phần hồn, linh hồn không bất tử, và quá trình nhận thức đó không ngừng được
phát hiện. Theo triết học Mác bản chất con người được nhìn nhận từ ba góc độ sau đây:
1.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
Vì là một sản phẩm của tự nhiên, con người cũng như những loài vật khác đều có nhu
cầu về sinh lí và không hoàn toàn tách thoát ly khỏi các hoạt động bản năng: phải đi tìm
thức ăn, khát phải uống… Như vậy có thể nói con người là một sinh vật , là một thực thể
sinh học-xã hội.
Mặt tự nhiên và mặt xã hội luôn thống nhất trong con người. Mặt tự nhiên chính là
“nền” cho con người còn mặt xã hội nâng mặt tự nhiên của con người lên trên động vật.
Điều khiến chúng ta trở nên khác biệt so với các loài sinh vật nằm ở sư tư duy và hoạt
động có mục đích. Theo Mác, mặt xã hội của con người chính là điểm nổi bật và là cách
phân biệt với động vật. Con người có hoạt động lao động sản xuất vật chất và chính nhờ

4
sự lao động đã tạo ra ranh giới giữa con người và cá sinh vật khác, giúp chúng ta tiến hóa
và phát triển để rồi hình thành nên xã hội ngày nay.
Con người là thể thống nhất giữa hai mặt tự nhiên và xã hội, luôn chịu ảnh hưởng dưới
sự chi phối của ba hệ thống quy luật : hệ thống quy luật tự nhiên, quy luật tâm lí ý thức và
quy luật xã hội.
Như vậy có thể thấy rằng con người là một chỉnh thể thống nhất có sự kết hợp giữa mặt
tự nhiên và mặt xã hội. Tự nhiên luôn gắn liền với đời sống thể xác lẫn tinh thần của con
người. Trong quá trình lao động của mình, con người tác động làm biến đổi tự nhiên từ đó
tạo ra bản chất xã hội. Hai mặt này luôn tồn tại đối lập nhau, chúng quy định, ràng buộc
và làm tiền đề cho nhau. Trong đó, mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn
mặt xã hội quyết định bản chất con người.
1.2 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơbắc
(1845): “Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội"
Tất cả các mối quan hệ xã hội quy định nên bản chất con người, tức là bị ràng buộc bởi
các mối quan hệ giữa người với người. Sự tác động lẫn nhau giữa con người trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị... đều có ảnh hưởng tới bản chất mỗi người.
Bản chất con người phải đặt cùng với tổng quan hệ cộng đồng và cá nhân. Con người
phải hòa nhập vào cộng đồng để có thể củng cố thêm sự phong phú và thể hiện bản sắc cá
nhân. Chỉ có ở trong xã hội, chúng ta mới thể hiện được bản chất cả tự nhiên lẫn xã hội
của mình từ đó hình thành nên mối quan hệ khăng khít . Nếu cá nhân bị đặt riêng lẻ tách
biệt khỏi các mối quan hệ xã hội chỉ sẽ là một sinh vật tồn tại đơn giản như bao loài khác
chứ không phải “con người” đúng nghĩa.

5
1.3 Bản chất con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại.
Luận đề khẳng định bản chất con người của Mác không phủ nhận mặt tự nhiên của con
người mà muốn nhấn mạnh sự khác biệt của con người và các loài sinh vật. Chủ thể và
sản phẩm của lịch sử là con người. Vì thế, xét từ giác độ bản chất xã hội chính là sản
phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con nguời lại
cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa
con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định
bởi chính lịch sử đó.
Con người tồn tại dựa trên hai bản tính xã hội và tự nhiên chúng quy định, ràng buộc và
tác động lẫn nhau làm biến đổi nhau. Tức là nếu không có thế giới tự nhiên, không có lịch
sử xã hội thì đơn giản không có sự tồn tại của con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm
của lịch sử, là kết quả của sự tiến hoá lâu dài trên giới hữu sinh. Bên cạnh đó, điều quan
trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
Cuộc sống con người luôn vận hành, chúng ta hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên
làm biến đổi tự nhiên, xã hội đồng thời biến đổi bản thân mình từ đó thúc đẩy sự vận
động, phát triển và tạo nên lịch sử xã hội loài người.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Trong tác phẩm Biện chứng của
tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử
nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay
của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng
có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu".

6
CHƯƠNG 2: NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC

2. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


2.1 Quan điểm của đảng về nhân tố con người
Đầu tiên, coi con người là trung tâm và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn
diện. Đảng ta nêu chủ trương: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể,
nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người
Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm phát triển bền vững; phải có
cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng,
Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của
Nhân dân”. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tư tưởng “lấy dân làm gốc”
được đúc kết thành bài học kinh nghiệm, đặt ra những nguyên tắc cơ bản định hướng mọi
công việc, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sau này. Nghị quyết của Quốc
hội tiếp tục khẳng định lại những giá trị và nội dung cốt lõi của Đạo lý “Nguồn gốc Dân
tộc”. Khái niệm “Cội nguồn Dân tộc” luôn được quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán.
Bài học “lấy dân làm gốc” càng sâu sắc và ý nghĩa hơn khi được triển khai hiệu quả, phát
huy tối đa nhân lực Việt Nam. Quan điểm nhất quán của Đảng là coi trọng nguồn nhân
lực, bảo vệ yếu tố con người, lấy con người làm trung tâm của chiến lược phát triển. Để
thực hiện chủ trương trên, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với
bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”, ngoài ra cần thực hiện phương châm: “Đào tạo
con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội;
có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy
sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”. Con người chính là động lực của sự
7
phát triển, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định con người và nền văn hóa Việt Nam thực sự
sẽ trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Mác-Lê nin từng nêu quan điểm:

“Con người là thực thể sinh học xã hội. Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa
là sản phẩm cao nhất trong qua trình tiến hóa của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể
sáng tạo mọi thành tựu văn hóa trên Trái Đất.”

Để tiếp tục giúp đất nước ta có những sự tiến bộ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Ta cần phải coi trọng giáo dục, đào tạo để phát triển con người đáp ứng yêu cầu
mới của sự nghiệp cách mạng đất nước, đặc biệt giáo dục thế hệ trẻ. Tại Đại hội XIII
Đảng cũng nhấn mạnh về việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa với chủ
trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội
ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực
số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản
lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”. Đề ra định hướng: “ưu tiên nguồn
nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo
bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ
chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Ngoài những chủ trương, biện pháp về kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, tại Đại hội
XIII của Đảng còn khẳng định vai trò của khoa học trong vấn đề phát triển nguồn lực con
người. Đảng nêu rõ: “Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần
tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền
8
tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt
Nam và bảo vệ Tổ quốc”, cần phải thực hiện “Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa
học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người”.

Từ khi Đảng thành lập (3-2-1930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con
người là vốn quý nhất chăm lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất
của chế độ ta". Trên thực tế trong suốt những năm tháng lãnh đạo của Đảng đã giúp đất
nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng ta đã tốn nhiều công sức làm việc theo
hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có được nhiều thành công như
mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người lao động còn
thấp, nhưng phần nào đó đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người lao
động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân. “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" chính là nhiệm vụ mà Đảng ta đặt lên vị trí
hàng đầu và luôn coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công
việc đối với con người, nó là mục tiêu quan trọng trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của đời ông. Khát khao cháy bỏng của Bác là làm sao giúp cho con người được
hưởng đầy đủ quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong Di chúc, Bác
đã đề cập đến công việc đầu tiên đối với con người, Bác luôn dành sự quan tâm sâu sắc
tới mọi đối tượng trong xã hội, mọi tầng lớp nhân dân, vì theo Bác con người vừa là mục
tiêu vừa là động lực của cách mạng, xây dựng con người luôn là chiến lược hàng đầu của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, Đảng và Nhà nước phải có
những chủ trương, kế hoạch đúng đắn để phát huy hết nhân tố con người, để dùng con
người mà làm lợi cho con người. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" đã trở thành câu nói mà dường như ai là
học sinh đều đã được nghe qua và "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa" khi đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền mọi chủ trương, chính
sách và đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy tốt nhân
tố con người.
9
Trong tiêu luận "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" Đảng ta chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con
người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết
hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập
thể và cộng đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó là thể hiện tư tưởng vì
con người với mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện trong công cuộc xây
dựng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, Con
người luôn là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người chính là mục tiêu phấn đấu
cao nhất của chế độ ta. Đảng ta luôn coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
triển nguồn lực to lớn của con người Việt Nam, là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khẳng định con người Việt Nam có khả năng phát triển
toàn diện cả về thể lực, trí lực, khả năng lao động, năng động, sáng tạo và tính tích cực
chính trị-xã hội, kể cả về đạo đức, tâm hồn, và tình cảm luôn là mục tiêu, là động lực của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa...Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước đều giúp quán triệt tư tưởng chăm lo, bồi dưỡng và phát huy
nhân tố con người, hướng tới mục tiêu con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Ta có thể thấy, nhờ vào khả năng lãnh đạo của Đảng đã giúp cho sự nghiệp cách mạng
và phát triển đất nước ngày một hoàn thiện hơn. Và trong mô hình phát triển ấy, con
người là mục tiêu nhưng cũng là động lực quan trọng của sự phát triển. Vị trí của nhân tố
con người đã trở thành trung tâm của sự phát triển kinh tế nói riêng và quá trình phát triển
toàn diện nói chung, đó chính là nhờ sự nhất quán xuyên suốt trong tiến trình lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng quan điểm của Đảng tại
Đại hội XIII về xây dựng, phát triển con người có ý nghĩa quan trọng, là yêu cầu thiết yếu
và cấp thiết ở các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thống nhất nhận thức và
hành động của cả hệ thống chính trị và tầng lớp Nhân dân trong việc triển khai thực hiện,
nhất là phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần thiết thực đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
10
2.2 Con người là nhân tố quan trọng trong việc đổi mới đất nước

Để trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nền kinh tế Việt Nam cần phải có
mức tăng trưởng cao và bền vững. Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế
giới qua nhiều giai đoạn lịch sử, các lý thuyết tăng trưởng đã chỉ ra rằng nguồn nhân lực
được coi là yếu tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố như máy móc, thiết
bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất muốn phát huy tối đa hiệu quả thì vẫn cần con
người có trình độ chuyện môn, kỹ thuật. Lý thuyết tăng trưởng của C.Mác cho rằng việc
sử dụng tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) bởi các nhà tư bản phải
mua tư bản bất biến với giá trị bằng giá trị tư bản bất biến đó sẽ tạo ra. Chỉ có tư bản khả
biến mới đem lại giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động có đặc điểm đặc biệt trong qua trình sử dụng nó tạo ra
một giá trị mới (v+m) lớn hơn giá trị bản thân nó. Vì thế, trong lực lượng sản xuất, yếu tố
con người là yếu tố tích cực, chủ động, sáng tạo và là yếu tố quyết định các yếu tố khác.
C.Mac cũng chỉ ra năng lượng giá trị của hàng hóa có mối liên hệ mật thiết với mức độ
phức tạp của lao động. Lao động phức tạp sẽ tạo ra giá trị nhiều hơn so với lao động giản
đơn. Điều đó có nghĩa chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì lượng giá trị của hàng hóa
càng tăng lên, tức là tăng trưởng kinh tế sẽ càng mạnh mẽ.

Frederik Harbison thì nói rằng nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu tạo ra của cải. Tiền
vốn và các tài nguyên thiên nhiên chỉ là những nhân tố thụ động trong sản xuất là những
nhân tố thụ động trong sản xuất, còn con người là những nhân tố tích cực, chủ động tích
lũy vốn, khai thác thiên nhiên, xây dựng các tổ chức xã hội, kinh tế, chính trị và đưa sự
nghiệp đất nước tiến lên. Vì vậy các ông cho rằng nước nào bất lực trong việc phát triển
tay nghề và kiến thức cho người dân và không sử dụng nó một cách hiện hữu trong nền
kinh tế quốc dân thì nền kinh tế đó sẽ không thể phát triển bất cứ thứ gì.

11
Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển một cách
vượt bậc, thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan...phần lớn là
nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Như vậy cả về mặt lý thuyết và thực tiễn ở nhiều nước đều cho thấy phát triển nguồn
nhân lực, tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật và khả
năng thích ứng nhanh với những thay đổi trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển thần kỳ
của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... phần lớn là nhờ vào nguồn
nhân lực có chất lượng cao. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động
có học vấn, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao và khả năng thích ứng nhanh với những
thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất chính là một yếu tố then chốt cho sự tăng
trưởng và phát triển bền vững.

Nắm vững quan điểm đó, Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là một trong những nhân
tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng dạy rằng:“Có tài phải có đức, có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho
nhà nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích được ai”.
Con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu đi tri
thức, kiến thức khoa học, tức là chỉ có đức mà không có tài, thì chẳng khác gì một ông bụt
ngồi trên tòa sen, không làm việc gì xấu nhưng cũng không làm điều gì có lợi cho đời. Tri
thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết thực của mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc
đẩy con người hành động đều phải thông qua trí tuệ.

Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giời, người lao động còn cần phải biết chủ
nhập hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là hành động chủ quan,
có chủ đích của con người giúp khai thác nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường sức mạnh
cho đất nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là ta chấp nhận cạnh tranh với thế
giới bên ngoài, “hòa nhập nhưng không hòa tan”, vẫn bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc
mình và nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc. Trong điều kiện như vậy, người lao

12
động, ngoài bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức dân tộc cao, còn cần có trình độ trí tuệ
ngang tầm.

Có thể nói Việt Nam đang có nguồn nhân lực dồi dào với quy mô dân số lớn-đứng thứ
13 thế giới,với mật độ dân số 263 người/km2-gấp 5 lần mật độ dân số trung bình của thế
giới và bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” chỉ
diễn ra trong chu kỳ nhất định và thường kéo dài khoảng thời gian từ 15-40 năm, đây
được coi là cơ hội vàng để nền kinh tế bứt phá, phát triển.

Tình trạng thể lực của người Việt Nam đã được cải thiện đáng kể sau 25 năm đổi mới.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động những năm qua đang không ngừng tăng lên: ở
Việt Nam thì cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp
chuyên nghiệp và 0,92 công nhân kỹ thuật; cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học. Đây là
một trong những điều kiện quan trọng và là chỉ báo về nâng chất lượng nguồn nhân lực.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đụng chạm đến nhiều vấn đề phức tạp trong
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó đòi hỏi con người phải có hiểu biết và có trách
nhiệm trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường thiên nhiên hướng tới sự phát triển bền
vững, có văn hóa sinh thái. Song con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, bảo vệ môi phải được nâng lên thành văn hóa sinh thái: con người cần có nhận
thức, thái độ, cách ứng xử đúng đắn của con người đối với tự nhiên cả về phòng ngừa,
ngăn chặn, xử lý hậu quả do sản xuất gây ra; cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn thiên
nhiên, thích nghi với tự nhiên và đấu tranh chống lại việc tàn phá tự nhiên.

Nguồn nhân lực chất lượng của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là “những
con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động , về tính cực chính
trị-xã hội, về đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng ứng dụng tri
thức vào hoạt động thực tiễn...đó chính là những nhân tố tạo nên chất lượng nguồn nhân
lực nói chung chất lượng nguồn nhân lực cũng trở thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục,
đào tạo. Không thể có nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu không thông qua giáo dục.
13
2.3 Một số hạn chế còn hiện hữu về nguồn lực con người ở Việt Nam.
- Thiếu đội ngũ nhân lực có chất lượng cao:

Dựa theo nghiên cứu của Viện Khoa học, Lao động và Xã hội (2016) cho ta thấy mức độ
đáp ứng về kỹ năng do thay đổi công nghệ của lao động trong các doanh nghiệp điện tử
và may rất thấp. Ngoài kỹ năng an toàn và tuân thủ kỷ luật lao động có tỷ lệ khảo sát đánh
giá là đạt yêu cầu, đáp ứng được kỹ năng của lao động so với yêu cầu công nghệ mới nổi
khá cao (72% với ngành điện tử và 50% với ngành may mặc), nhưng những kỹ năng còn
lại có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá chất lượng tốt còn khá thấp, nhất là đối với ngành may
mặc. Mặc dù có xu hương phát triển nhưng quy mô lao động trình độ tay nghề cao vẫn
còn rất thấp so với yêu cầu của quá trình đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập với quốc tế.

- Công tác đào tạo chưa phù hợp:

Chất lượng đào tạo và giảng dạy ở các trường hạn chế lý thuyết đi đôi với thực hành. Với
chương trình đào tạo hiện nay của các trường đại học, cao đẳng, sinh viên mới ra trường
tại Việt Nam đa phần thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng mềm và chưa được đào tạo gắn
liền trực tiếp với công việc tại các doanh nghiệp. Dựa theo khảo sát của tổ chức lao động
quốc tế (2016) phần lớn sinh viên Việt Nam thích học nhóm ngành kinh tế hơn nhóm
ngành kỹ thuật, nhưng nhóm ngành kĩ thuật lại có nhu cầu lao động rất lớn lại không được
sinh viên lựa chọn nhiều. Các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học chỉ được
23% sinh viên nam và 9% sinh viên nữ ở Việt Nam lựa chọn. Dựa theo số liệu ta có thể
thấy đối với ngành căn bản tạo năng lực sản xuất dài hạn như nhóm ngành khoa học, kĩ
thuật, công nghệ và toán học thì phần lớn sinh viên Việt Nam lại ít quan tâm tới và tỷ lệ
này thấp hơn khá nhiều khi so sánh với mặt bằng chung trong khu vực ASEAN là 28%
sinh viên nam và 17% sinh viên nữ. Điều này cho thấy thị trường lao động Việt Nam
đang dần phát triển lệch hướng khi mà phần đông chỉ hướng đến các nhóm ngành liên
quan đến dịch vụ mà chưa phát triển mạnh các ngành thuộc khoa học, kỹ thuật, công nghệ

14
để tạo ra giá trị gia tăng căn bản cho nền kinh tế và làm hạn chế nguồn động lực giúp Việt
Nam công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Thiếu định hướng nghề nghiệp:

Theo thống kê, năm 2021, số sinh viên tốt nghiệp làm đúng ngành đào tạo là 56%, số còn
lại chỉ liên quan đến ngành đào tạo là 25%, thậm chí không liên quan đến ngành đào tạo là
19%. Dựa vào số liệu ta có thể thấy sinh viên hiện nay vẫn còn thiếu định hướng nghề
nghiệp. Điều này sẽ dẫn đến việc chọn ngành nghề không phù hợp với bản thân. Sẽ dễ
gây ra tình trạng chán nản, chần chừ không muốn tìm việc làm vì không thấy công nào là
phù hợp với mình, công việc như mong muốn.

- Trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp:

Việt Nam có nguồn lao động vô cùng dồi dào nhưng chất lượng thì chưa cao. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa đồng thời khoa học công nghệ phát triển thì trình độ chuyên môn kỹ
thuật của người lao động Việt chưa đủ đạt yêu cầu. Có những công việc yêu cầu về trình
độ đào tạo cũng như đào tạo chuyên môn cao và một bộ phận lớn người lao động không
đáp ứng được. Nhìn chung lao động Việt Nam còn khá yếu về ngoại ngữ, thiếu hiểu biết
về luật pháp văn hóa của quốc gia đến làm việc cao.

- Máy móc, thiết bị hiện đại thay thế con người:

Trong cách mạng 4.0, khi mà các máy móc hiện đại được áp dụng rộng rãi thì các doanh
nghiệp thường sẽ không phải quản lí quá chặt chẽ như khi sử dụng nhân công là con
người, không phải thưởng thêm, chi trả bảo hiểm,…Nhưng năng suất mà máy móc tạo ra
chắc chắn sẽ cao hơn con người. Đó là vẫn đề mà đa số doanh nghiệp quan tâm. Vì thế
khi có công đoạn nào có thể thay thế bắng máy móc thì doanh nghiệp sẽ thay và một bộ
phận người lao động lại thất nghiệp.

15
3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC PHỤC VỤ SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
3.1 Những thánh thức của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
Khi ta muốn đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chúng ta cần
phải nhận thức một cách sâu sắc về những gía trị cốt lõi và các yếu tố quyết định lên nó.
Nhân tố con người chính là yếu tố quan trọng nhất. Ta phải có được sự thay đổi sâu sắc về
cách nghĩ hay hành động của con người, coi việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người như một cuộc cách mạng lớn. Ngoài ra tính tất yếu khách quan của sự nghiêp xây
dựng đất nước và cách mạng con người là 2 yếu tố thống nhất, không thể tách rời.
Dù rằng sở hữu một lực lượng dồi dào nhưng ta lại thiếu hụt nhân lực có tay nghề cao,
năng xuất lao động của công nhân còn thấp. Dù Việt Nam hiện có diện tích thuộc nhóm
trung bình của thế giới và đặc biệt đang có nhiều thuận lợi về dân số (quy mô, độ tuổi lao
động), tuy nhiên năng suất lao động của Việt Nam nói chung, và ngành công nghiệp nói
riêng vẫn đang ở mức độ thấp, khi so với các nước phát triển. Cho ta thấy, nền kinh tế
Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới, để có thể bắt kịp mức
năng suất lao động của các nước trong khu vực, và trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng là một thiệt thòi của Việt Nam khi mà năng
lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức trung bình và có vị trí
tăng/giảm không ổn định trong thời gian vừa qua. Một báo cáo đáng buồn là trong 5 năm
qua thứ hạng của Việt Nam không có nhiều thay đổi và vẫn còn một khoảng cách khá xa,
so với các nước đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á. Vì thế nếu muốn nâng cao năng
lực cạnh tranh thì yếu tố đầu tiên mà ta phải thực hiện được là nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện,
chưa được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của một nước công nghiệp. Thực hiện
công nghệ hóa, hiện đại hóa chưa bằng thể chế của nền kinh tế thị trường, tuân theo các
quy luật khách quan của cơ chế thị trường.

16
Dù là nước sở hữu nguồn nhân lực dồi dào nhưng Việt Nam cũng là nước có tốc độ già
hóa dân số cao và nước ta đã bắt đầu bước vào giai đoạn này từ năm 2011, dự báo tới năm
2030 tỉ lệ người cao tuổi sẽ tăng lên 17%. Quá trình già hóa sẽ gây ảnh hưởng lớn đến
năng xuất lao động của nền kinh tế và gây ra tác động lâu dài đến toàn bộ lĩnh vực của đời
sống.
Chính sách xuất khẩu hàng hóa vẫn chưa thực sự được chú trọng, còn khá nhiều hạn chế
ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Sở hữu tỉ lệ tăng trưởng nhanh nhưng chưa ổn định.
Độ mở cửa nền kinh tế khá lớn nhưng chưa tiếp cận được nhiều thị trường “khó tính”, quy
mô xuất khẩu còn nhỏ. Còn phụ thuộc vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu). Chính điều đó khiến ta khó khăn trong việc chủ động
phát triển các ngành công nghiệp trong dài hạn, vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có thể bỏ đi bất cứ lúc nào khi họ bắt được một thị trường lao động tốt hơn.
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực giúp đáp ứng thời kì công nghệ
hóa hiện đại hóa đất nước.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực có trí tuệ, có tay nghề và năng lực tốt.
Họ được đào tạo cơ bản, chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn đất
nước, của thị trường lao động hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được
xem là một trong những yếu tố quan trọng, nòng cốt nhằm bảo đảm cho nền kinh tế phát
triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, ổn định trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế tri
thức thời đại mới. Trong khoảng thời gian tới, để sớm đạt được mục tiêu đưa Việt Nam
trở thành nước công nghiệp vào năm 2030 và là nước phát triển thu nhập trung bình cao
vào năm 2045, thì ta cần xác định rõ nhận thức xuyên suốt của Đảng về vai trò của nguồn
nhân lực chất lượng cao, những kết quả đạt được khi triển khai thực trong thực tế, những
vấn đề đặt ra cần phải giải quyết để từ đó đề ra các giải pháp sát thực với thực tế, hoàn
thành mục tiêu đề ra.

17
3.2.1 Đối với nhà nước
Hệ thống cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng và nó có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp nhằm tạo động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế -
xã hội nói chung và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng.
Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao cần phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như giáo
dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, môi trường làm việc, các chính sách việc làm, thu nhập,
an sinh xã hội, bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, chính sách phát triển thị trường lao động,
các điều kiện sinh hoạt, sinh sống, định cư,... Trong đó, trước hết ta cần coi trọng việc tạo
lập các cơ chế, chính sách nhằm thu hút, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng
cao. Việc đổi mới các chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng các nguồn nhân lực chất
lượng cao thì cần phải được triển khai theo hướng công khai, công tâm, khách quan, chính
xác và dựa trên các cơ sở phẩm chất, năng lực thực chất. Đặc biệt, Đảng và các nhà lãnh
đạo, quản lý cần mạnh dạn sử dụng những nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao, lôi cuốn họ
nỗ lực thực hiện các kiến thức, chuyên môn đã được tích lũy, được đào tạo thông qua
những chính sách sử dụng hợp lý.
Như vậy, để nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghệ hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030. Đòi hỏi quyết tâm chính trị, sự thống nhất
ý chí và các hành động của các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương trong đó quan
trọng nhất là vai trò hoạch định đường lối, chính sách của các nhà lãnh đạo đứng đầu
Đảng, Nhà nước, họ nắm giữ tính chất quyết định. Thực hiện tốt các giải pháp để khắc
phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng nguồn nhân lực, bất hợp lý về cơ cấu nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay.
3.2.2 Đối với các cơ sở giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu của việc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Theo đó, ta
cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân
tầng, phân luồng, cần phải tổ chức và sắp xếp lại hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục đại
học và dạy nghề giúp cho các học sinh sinh viên có phương hướng về việc làm mong
18
muốn chính xác hơn, khắc phục các bất hợp lý về cơ cấu trình độ ngành, nghề , qui mô
đào tạo ngành và cơ cấu vùng, miền, ta cần gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng
dụng công nghệ nhằm thu hút thêm nguồn nhân lực cho các ngành nghề kĩ thuật. Chú
trọng nhiều hơn nữa phát triển các ngành tự động hóa, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu
sâu về các lĩnh vực kỹ thuật số, lĩnh vực về dữ liệu, công nghệ thông tin, công nghệ phần
mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, công nghệ sinh học và
cần sự hài hòa, tích hợp được chúng.
Đồng thời, cần xác định đúng khả năng và nhu cầu đào tạo, tăng cường thêm chất lượng
công tác thành lập các phòng ban chuyên về lập kế hoạch, dự báo thường xuyên và cung
cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã hội. Thực hiện tốt các cơ chế, chính sách, pháp
luật về phát triển giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, coi trọng đào tạo đại học và sau
đại học, cao đẳng và dạy nghề theo tiêu chuẩn quốc tế. Tạo ra các chuyển biến nhanh và
rõ nét trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các
ngành, lĩnh vực có lợi thế và tiềm năng phát triển mạnh mẽ.
3.2.3 Đối với đơn vị sử dụng lao động
Cần tập trung tạo ra động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm đúng mức tới lợi
ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc. Thay đổi các tiêu chí tuyển
dụng, đãi ngộ, thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong việc tuyển dụng, sử dụng và
đãi ngộ nhân lực chất lượng cao và không phân biệt chủng tộc màu da tôn giáo. - Chú
trọng đào tạo, tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao
trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực
chất lượng cao tại doanh nghiệp.

19
KẾT LUẬN
Như vậy với quan điểm của triết học Mác- Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn
lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Ta đã nắm bắt và
vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung và triết học Mác –
Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại đã
dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Những năm gần đây nhà nước càng chú trọng hơn nữa về sự phát triển nguồn nhân
lực do nhận thức và vai trò hết sức quan trọng của nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu khả quan
được ghi nhận và đánh giá cao. Mặc dù vậy nhưng so với nhu cầu chất lượng nguồn nhân
lực ở Việt Nam hiện nay vẫn còn hạn chế về chất lượng. Đây cũng là một trong những
thách thức lớn trong công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam ngày nay.

Tóm lại qua những phân tích đã nêu ở phía trên và đáp ứng được điều đó thì chỉ có tư
tưởng Mác Lê Nin là phù hợp với thực trạng của nước ta hiện nay, chúng ta có thể thấy
rằng tư tưởng Mác Lê Nin hoàn toàn có thể đáp ứng mọi yều cầu được đặt ra và nó cũng
đã được chứng minh qua những thành tựu đã đạt được trong nhiều năm qua. Do đó việc
coi chủ nghãi Mác Lê Nin là kim chỉ nam cho mọi sự phát triển của đất nước vừa là mục
tiêu vừa là nhiệm vụ đặt ra cho nhà nước, chính phủ và mọi công dân Việt Nam. Chỉ có
cách đó thì chúng ta mới có thể hoàn thành được công cuộc đổi mới đất nước và thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu và đưa nước ta vương lên một tầm cao mới và ngang tầm với
những nước phát triển trên thế giới hiện nay.

Nguồn nhân lực con người là một trong những vấn đề rộng với nhiều vấn đề nghiên cứu
nhưng do thời gian nghiên cứu và kinh ngiệm có hạn nên bài làm của nhóm chúng em

20
không thể tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Nhóm chúng em mong nhận được sự
thông cảm, sửa chữa và đóng góp từ cô để bài tiểu luận nhóm em được hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/4199-quan-diem-dai-hoi-
xiii-cua-dang-ve-phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao.html
https://luanvan.co/luan-van/tieu-luan-quan-diem-triet-hoc-mac-lenin-ve-con-
nguoi-va-van-de-xay-dung-nguon-nhan-luc-con-nguoi-trong-su-nghiep-cong-
61095/

https://www.studocu.com/en-us/document/truong-dai-hoc-su-pham-ky-thuat-
thanh-pho-ho-chi-minh/triet-hoc-mac/quan-diem-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-con-
nguoi-va/20333644/download/quan-diem-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-
va.pdf

https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-kinh-te-thanh-pho-ho-
chi-minh/triet-hoc/ban-chat-con-nguoi-va-y-nghia-phuong-phap-luan/20921729

https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/mot-so-giai-phap-nham-phat-trien-
nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-phuc-vu-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-
dat-nuoc-den-nam-2030-tam-nhin-2045--%E2%80%8B.html

https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/mot-so-giai-phap-nham-phat-trien-
nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-phuc-vu-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-
dat-nuoc-den-nam-2030-tam-nhin-2045--%E2%80%8B.html

21
https://tuoitre.vn/huong-nghiep-va-dinh-huong-nghe-nghiep-dang-la-moi-quan-
tam-hang-dau-20221008200339431.htm

22

You might also like