You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ


=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON


NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

HỌ VÀ TÊN : Trịnh Ngọc Linh


MÃ SINH VIÊN : 2014250205
LỚP TÍN CHỈ : TRIE114CLC.1
STT : 62
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : TS. Đào Thị Trang

Hà Nội – 3/2021
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................2
1. Con người trong Triết học Mác-Lênin..........................................................2
1.1. Khái niệm chung về con người......................................................................2
1.2. Con người là một thực thể sinh học – xã hội..................................................3
1.3. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội........................................................................................................4
2. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.........................................................................6
2.1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.......................................6
2.2. Thực trạng lực lượng lao động Việt Nam và một số vấn đề đặt ra................7
2.3. Chiến lược con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam.....................................................................................................................10
KẾT LUẬN........................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................13
PHẦN MỞ ĐẦU

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm
chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự
biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực
được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có
tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong
nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những
con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí
là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật
chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện
chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả
thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của GDĐT là đưa con người đạt đến những giá trị
phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người
Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới của nước ta cũng như xu hướng phát
triển kinh tế nói chung trên thế giới. Xuất phát từ thực tiễn đó, em quyết định
chọn để tài: “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề xây
dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay” để viết tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn cô Đào Thị Trang đã giúp đỡ em trong quá trình
tìm hiểu môn học Triết học Mác – Lênin và thực hiện đề tài này.

1
PHẦN NỘI DUNG

Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi: Con
người là gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt
tới sự hiểu biết về con người "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết quả, rốt
cuộc là chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người và về đời
sống xã hội.
Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con người mới được xem xét một cách nhất
quán, đầy đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập trường của duy vật triệt để.

1. Con người trong Triết học Mác-Lênin


1.1. Khái niệm chung về con người
Trong xã hôi không một ai nhầm lẫn con người với loài động vật, song
không phải vì thế mà câu hỏi “con người là gì” bị trở thành đơn giản, vì câu hỏi
chỉ là chân thực khi con người có khả năng tách ra khỏi bản thân mình để nhận
thức mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động, sinh thành. Từ thời
cổ đại đến nay vấn đề con người luôn giữ một vị trí quan trọng trong các học
thuyết triết học. Các nhà triết học đưa ra rất nhiều các quan điểm khác nhau về
con người nhưng nhìn chung các quan điểm triết học nói trên đều xem xét con
người một cách trừu tượng, do đó đã đi đến những cách lý giải cực đoan phiến
diện.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế và đồng thời
phát triển những quan niệm hạn chế về con người đã có trong các học thuyết
trước đây để đi đến những quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt
động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người hiện thực,
con người vừa là sản phẩm của tự nmhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải
tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con người
như một thực thể sinh học - xã hội.

2
1.2. Con người là một thực thể sinh học – xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài
của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh học.
Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá
trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại của con người.
Song con ngươì không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác mà là
một động vật có tính chất xã hội với nôị dung văn hoá lịch sử của nó. Con người
là sản phẩm của xã hội, là con người xã hội mang bản tính xã hội. Con người
chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải
vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết
định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã
hội của con ngưòi, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự
hình thành cá nhân và nhân cách. Vì con ngươi là sản phẩm cuả tự nhiên và xã
hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các
quy luật biến đổi của chúng.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con người
sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người
chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên song con
người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo các quy luật của
bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là
chủ thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng taọ ra toàn bộ
nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo
quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luôn luôn xuất
phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do
đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp
với nhu cầu và mục đích của mình.
Như vậy con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội vừa là chủ thể cải taọ
tự nhiên và xã hội. Con ngưòi là thực thể thống nhất sinh học - xã hội.

3
1.3. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội
Xuất phát từ con người hiện thực, Mác đã nhận thấy lao động đóng vai trò
quyết định trong việc phân chia ranh giới giữa con người và động vật. Vì lao
động là hoạt động xã hội nên mọi sự khác biệt giữa con người và động vật đều là
kết quả của cuộc sống con người trong xã hội. Cá nhân là thực thể xã hội và bản
chất con người có tính lịch sử cụ thể. Điều đó quy định sự khác nhau của con
người trong các thời đại khác nhau, sự khác nhau này tuỳ thuộc vào sự phát triển
của xã hội, sự thay đổi các quan hệ xã và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con người
là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, không chỉ tổng hoà các mối quan hệ trong
hiện taị mà cả trong quá khứ. Luận điểm trên thể hiện những quan điểm sau:
- Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có
nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người,
nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác
đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và
chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con
người trong giai đoạn lịch sử đó.
Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái đặc
thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người). Do đó,
khi bàn đến bản chát chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai cấp
của các tầng lớp khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các tầng
lớp khác nhau không được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ đó
quy bản chất con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động của
con người đều được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất quan
điểm macxít về bản chất con người. Đây là một quan hệ không thể tách biệt của
các thứ bậc về bản chất trong con người.
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã hội
riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế
độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại)
4
vừa theo chiêù dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao
gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử
của mình con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người
vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống "đè nặng lên những con người
đang sống". Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời hiện tại
và quá khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong
chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con
người có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả
những gì của con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con người
cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy định
những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những
hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản
chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường
thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa
cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước
mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức giữa di truyền tự
nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thuẫn đó, bản chất thể hiện
ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng
đó.
Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất nhất của con người là tổng hoà
các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và cả
trong quá khứ. Bản thân của con người không phải là cố định, bất biến mà có
tính lịch sử cụ thể. Chúng ta không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

5
2. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
2.1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Năm 1996, Đại hội VIII nhận định: Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu
của thời kỳ quá đô ̣ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành
cho phép chuyển sang thời kỳ mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tại Đại hội VIII, Đảng ta xác định: Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta
trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vê ̣ tổ quốc mà nhiệm vụ trung
tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ở đây công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo quan niệm hiện đại mà Đảng ta xác định là: Quá trình
chuyển đổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghê, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao.
Từ quan niệm trên, Đảng ta xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hê ̣ sản xuất tiến bô ̣phù hợp với trình đô ̣phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đồng thời,
Đại hội VIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2020 là ra sức phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp với các tiêu chí chủ yếu sau:
- Lực lượng sản xuất đạt trình đô ̣ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ
công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được
thực hiện trong cả nước. Năng suất lao động xã hội và hiệu quả kinh tế cao hơn
nhiều so với hiện nay. GDP tăng từ 8-10 lần so với năm 1990. Trong cơ cấu
kinh tế tuy nông nghiệp phát triển mạnh song công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ
trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội.

6
- Khoa học tự nhiên và khoa học công nghê ̣ có khả năng nắm bắt và vận
dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công
nghê. Khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng
hình thái ý thức xã hội mới. Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ
cho việc hoạch định các chính sách chiến lược và quy hoạch phát triển.
- Về quan hê ̣ sản xuất và chế đô ̣ quản lý và chế đô ̣ phân phối gắn kết với
nhau phát huy được các nguồn lực tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai
trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng trong nền kinh tế.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Kinh tế
tư bản Nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.
- Về đời sống vật chất và văn hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở
tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi để đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức
hưởng thụ văn hóa khá. Quan hê ̣ xã hội lành mạnh, có lối sống văn minh, gia
đình hạnh phúc.
2.2. Thực trạng lực lượng lao động Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
a. Thực trạng lực lượng lao động ở nước ta
Việt Nam là nước có quy mô dân số lớn, tháp dân số tương đối trẻ và bắt
đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào nhất từ
trước đến nay. Tính đến hết năm 2017, dân số nước ta đạt 96,02 triệu người,
trong đó nữ chiếm khoảng 48,94%. Gia tăng dân số trong những năm qua kéo
theo gia tăng về lực lượng lao động. Nhìn chung, mỗi năm Việt Nam có khoảng
gần 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, đây là một lợi thế cạnh tranh quan
trọng của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài góp phần phát triển
kinh tế - xã hội.
Xét cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính, tỷ lệ lao động nam lại nhiều
hơn nữ với trên 50% lao động là nam giới. Tuy nhiên, sự chênh lệch này không
đáng kể và cho thấy lao động nữ chiếm một lượng đông đảo. Tỷ lệ thất nghiệp
của lao động nữ khá cao so với lao động nam do hạn chế về sức khỏe, những

7
mâu thuẫn giữa sinh đẻ và làm việc, cơ hội tìm được việc làm vừa ý sau khi sinh
là thấp.
Hiện nay, lực lượng lao động vẫn tập trung đông nhất ở khu vực Đồng bằng
sông Hồng (chiếm trên 22%), tiếp đến là khu vực Bắc trung bộ, Duyên hải miền
Trung (trên 21%) và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là các khu vực có diện
tích đất rộng, tập trung nhiều thành phố lớn, khu đô thị và nhiều khu công
nghiệp, thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh nên thu hút đông đảo lao động
tập trung ở những khu vực này. Những khu vực chiếm tỷ lệ thấp, là những khu
vực có diện tích đất hẹp, nhiều đồi núi, ít khu đô thị và khu công nghiệp nên
không thu hút nhiều lao động đến đây.
Cơ cấu lực lượng lao động phân theo 2 khu vực thành thị và nông thôn cũng
có sự chênh lệch lớn. Nhìn chung, lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu tập
trung ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng gần 70%. Con số này có xu hướng
giảm qua các năm nhưng vẫn ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17 triệu thanh
niên nông thôn có độ tuổi từ 15-30, chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động
nông thôn. Tuy nhiên, 80% trong số này chưa qua đào tạo chuyên môn. Đặc
điểm này là trở ngại lớn cho lao động nông thôn trong tìm kiếm việc làm. Tính
đến năm 2017, dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là hơn 72,04 triệu
người (chiếm khoảng 75% tổng dân số cả nước), trong đó, tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động đạt 75,5%, với 54,4 triệu người. So với năm 2010 (tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động là 75%), lực lượng lao động tính đến năm 2017 tăng cả về tỷ
lệ và số lượng tuyệt đối.
b. Một số vấn đề đặt ra
Thời gian qua, mặc dù lực lượng lao động tăng cả về số lượng và trình độ
chuyên môn, song vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với lực lượng lao động Việt
Nam hiện nay, cụ thể:
Một là, lao động phân bổ không đều giữa các vùng: Các vùng đất rộng có tỷ
trọng lao động thấp (vùng trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,8% lực
lượng lao động, Tây Nguyên chiếm 6,5% lực lượng lao động), phân bổ lao động

8
chưa tạo điều kiện phát huy lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho người lao động
và tác động tích cực đến sự di chuyển lao động từ các vùng nông thôn ra thành
thị. Năm 2017, lực lượng lao động chủ yếu tập trung ở các vùng Đồng bằng
Sông Hồng (21,8%), Đồng bằng Sông Cửu Long (19,1%), Bắc Trung bộ và
Duyên hải miền Trung (21,6%), các vùng còn lại chiếm 17,2%.
Hai là, chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông
thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: Nguồn cung lao động ở Việt Nam
hiện nay luôn xảy ra tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ
cao, lao động một số ngành dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thông tin viễn thông,
du lịch…) và công nghiệp mới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ
năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động công nghiệp còn yếu nên khả năng
cạnh tranh thấp. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình
kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng
được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo
tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn
người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn
lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang nặng tác phong sản xuất
của một nền nông nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao
động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có
khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh
nghiệm làm việc.
Ba là, còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động: Phần lớn lao
động di cư chỉ đăng ký tạm trú, không có hộ khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học
tập, chữa bệnh... trình độ học vấn của lao động di cư thấp và phần đông chưa
qua đào tạo nghề. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất – nơi sử dụng
đến 30% lao động di cư không có dịch vụ hạ tầng xã hội (ký túc xá, nhà trẻ, nhà
văn hóa, đào tạo nghề, tham gia bảo hiểm xã hội…), lao động di cư ít có cơ hội
tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Tình trạng trên dẫn tới hậu quả là nguồn

9
cung lao động không có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của các
vùng, các khu công nghiệp, khu chế xuất.
2.3. Chiến lược con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã hội
mới. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo lối "vựot trước, đi tắt, đón đầu"
nhất thiết gắn liền với phát triển con người và coi con người là nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta khẳng định lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững..
Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế
thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, nó tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước. Thực chất
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức vừa
dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn chứng minh, những
chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong gần 20 năm đổi mới vừa qua
đã tạo nên động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc đẩy kinh tế
phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng con người Việt Nam mới.
Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ. Bất kỳ một quốc gia dân tộc
nào, dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định chính trị - xã hội. Bởi vì,
đó là tiền đề để phát triển và tiến bộ xã hội. Ổn định chính trị, trước hết thể hiện
sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị hoàn chỉnh. Ở
Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng được đặt ra giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp ngay từ đầu, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới chính trị, nhằm làm cho hệ

10
thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó cũng là quá trình củng cố và phát triển hệ thống chính trị từ
nền tảng kinh tế của nó. Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện
tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Ba là, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục. Ngày nay, cùng với việc đổi
mới công nghệ, phải chú ý đổi mới công tác giáo dục, với phương châm: "Giáo
dục cái mà đất nước cần, chứ không phải giáo dục cái mà ta có". Mặc khác, giáo
dục toàn diện: giáo dục chính trị, giáo dục lao động nghề nghiệp, giáo dục đạo
đức, phải sử dụng nhiều hình thức giáo dục đào tạo đa dạng phong phú, tạo điều
kiện cho con người tự giác, tự giáo dục, chủ động sáng tạo. Đầu tư cho giáo dục
được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản xuất sức lao động, đầu tư cho tương
lai Không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều nước trên thế giới, trong kế hoạch phát
triển đất nước, các quốc gia này đều đặt giáo vào hệ thống ba chiến lược: giáo
dục khoa học và mở cửa.
Có thể nói, ngày nay, sự lạc hậu về giáo dục sẽ phải trả giá đắt trong cuộc
chạy đua ở thế kỷ XXI mà thực chất là chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục
trong cách mạng khoa học và công nghệ.
Bốn là, mở rộng giao lực quốc tế, Để tạo điều kiện cho con người Việt Nam
sáng tạo tránh được những sai lầm quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến kịp trên
con đường tiến hoá của nhân loại đòi hỏi phải kết hợp việc tổng kết kinh nghiệm
trong nước và kinh nghiệm của thế giới. Không chỉ tìm phương thức, hình thức
xây dựng chủ nghĩa xã hội nội bộ nước mình, dân tộc mình, các nước xã hội
chủ nghĩa mà còn tìm ngay trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tiếp thu có phê
phán chọn lọc những giá trị phong phú của loài người sẽ tạo thành một động lực
mạnh mẽ để hình thành từng bước một chủ thể mới của lịch sử - con người Việt
Nam mới vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa đại biểu cho sự phát triển
của dân tộc. Và chắc chắn rằng "Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục
giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng với các nước phát triển trên thế giới".

11
12
KẾT LUẬN
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần đi
đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi
liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân tố
quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có
đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu
bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội
nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi của chính con
người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với chiến lược
giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí tuệ và phẩm chất của
con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song không
tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá
của cô để em rút kinh nghiệm trong những bài sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
2. PGS.TS Đoàn Văn Khái, PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Giáo trình Lôgic
học và phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nxb
Chính trị quốc gia, 2001.
4. Ngô Đình Giao (chủ biên), Suy nghĩ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, 1996.
5. PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó trưởng ban Thường trực, Ban Tư
Tưởng –Văn hóa Trung ương, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải là một
nội dung quan trọng trong chủ đề của Báo cáo chính tri.
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-can-
phai-la-mot-noi-dung-quan-trong-trong-chu-de-cua-bao-cao-chinh-tri-
567635.html
6. Tổng cục Thống kê (2017), Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt
Nam,
NXB Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
7. Phạm Thị Bạch Tuyết (2014), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với
lao động ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Đại học Khoa học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh số 60/2014.
8. Thanh Nhung (2017), Lao động cả nước năm 2017 ước đạt 54,8 triệu
người, Báo Dân sinh.

14

You might also like