You are on page 1of 13

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG


KHOA LUẬT VÀ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÀI BÁO CÁO

HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


Chủ đề báo cáo
QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Thành viên nhóm 09


1. Huỳnh Ngọc Ái – DKT212856 11. Nguyễn Thị Yến Nhi – DKT212976
2. Trần Thị Mỹ Duyên – DKT212873 12. Phạm Thị Thanh Thanh – DKT213016
3. Võ Ngọc Gia Hân – DKT212897 13. Nguyễn Lê Thanh Thảo – DKT213020
4. Nguyễn Thị Ngọc Hiền – DKT212900 14. Đặng Đăng Thư – DKT213030
5. Nguyễn Thị Thanh Hiền – DKT212901 15. Nguyễn Minh Thư – DKT213032
6. Vương Lê Ivy – DKQ211475 16. Võ Thị Thùy Trang – DKT213045
7. Nguyễn Thị Kiều Lan – DKQ211479 17. Võ Ngọc Trân – DKT213054
8. Nguyễn Thị Thúy Nga – DKT212941 18. Diệp Thị Ngọc Thuần – DKQ211541
9. Cao Kim Ngân – DKT212942 19. Nguyễn Thị Tú Uyên – DKT213067
10. Võ Thị Bảo Ngọc – DKT212968 20. Hà Thị Mỹ Vàng – DKT213068

AN GIANG, NGÀY 17 THÁNG 4 NĂM 2022


CHỦ ĐỀ 09
QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
“Bán anh em xa, mua láng giềng gần”.
Anh/chị vận dụng bản chất con người theo chủ nghĩa duy vật lịch sử để lý giải
câu nói trên. Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra định hướng gì để xây dựng con
người Việt Nam hiện nay?
MỤC LỤC
CHỦ ĐỀ 9....................................................................................................................................
1. BẢN CHẤT VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN:..................... 1
1.1 Sơ lược về C.Mác và khái niệm bản chất con người trong triết học Mác-Lênin: .. 1
1.2 Con người là thực thể sinh học – xã hội: .................................................................... 1
1.3 Con người là là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người: ............... 3
1.4 Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử: ....................... 3
1.5 Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội: ................................................. 4
1.6 Sự hình thành và phát triển con người gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất: ...... 5
2. VẬN DỤNG BẢN CHẤT CON NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
ĐỂ LÍ GIẢI CÂU NÓI: “BÁN ANH EM XA, MUA LÁNG GIỀNG GẦN”. ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐƯA RA ĐỊNH HƯỚNG GÌ ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY? ......................................................................................................... 6
2.1 Khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử: ...................................................................... 6
2.2 Lí giải câu nói “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”: ............................................. 6
2.3 Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra định hướng gì để xây dựng con người Việt Nam
hiện nay? ............................................................................................................................ 7
1. BẢN CHẤT VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN:
1.1 Sơ lược về C.Mác và khái niệm bản chất con người trong triết học Mác-Lênin:
C.Mác sinh ngày 5/5/1818 tại Trier tỉnh Rhine của nước Đức, cha là người Do Thái.Năm
1835, C. Mác tốt nghiệp trung học và vào học luật tại đại học tổng hợp Bon. Trong thời gian
là sinh viên C. Mác say sưa ghiên cứu triết học và gia nhập nhóm “Heghel trẻ” sau đó trờ thành
một trong người lãnh đạo của nhóm này.

Năm 1841, C. Mác học xong đại học. Từ 1842, C. Mác bắt đầu cuộc đời hoạt động sôi
nổi đấu tranh cách mạng đầy sáng tạo và vinh quang của ông. Năm 1844, C. Mác gặp Ăngghen
tại Pari, tình bạn vĩ đại và cuộc đấu tranh chung của hai người cho sự nghiệp của giai cấp công
nhân bắt đầu từ. C. Mác và Ph. Ăngghen tích cực tham gia sinh hoạt với các nhóm cách mạng
ở Pa-ri, hai ông đấu tranh quyết liệt chống mọi thứ học thuyết của chủ nghĩa xã hội tư sản và
tiểu tư sản, đồng thời sáng lập ra lý luận của chủ nghĩa xã hội vô sản cách mạng, hay là chủ
nghĩa cộng sản.

Tháng 2-1845, C. Mác bị trục xuất khỏi Pa-ri và bị coi là một nhà cách mạng nguy hiểm.
C. Mác sang Bruy-xen, thủ đô nước Bỉ. Tháng 1-1847, C. Mác và Ph. Ăngghen gia nhập Liên
đoàn những người cộng sản. Tháng 3-1848, C. Mác bị trục xuất khỏi nước Bỉ và về ở Pa-ri, rồi
sau đó trở về Đức, xuất bản Báo Rai-nơ mới. Bị truy tố trước tòa án, tháng 6-1849, C. Mác bị
trục xuất khỏi nước Đức và sang ở Pa-ri. Tháng 8- 1849, C. Mác lại bị trục xuất khỏi Pa-ri và
sang Luân Đôn cho đến khi mất. Cuộc đời và hoạt động của Mác đã đi vào lịch sử nhân loại
với vị trí nổi bật trong hàng ngũ những vĩ nhân, đúng như Ăngghen nói: “Tên tuổi Người, sự
nghiệp của Người sống mãi nghìn thu!”.

Khái niệm bản chất con người trong triết học Mác Lênin: trong quan niệm của triết học
Mác Lênin con người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và xã
hội. Con người sinh ra từ cái tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn
tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bản chất con người trong triết
học Mác Lênin: Con người là một thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
nhưng yếu xã hội mới là bản chất đích thực của con người.

1.2 Con người là thực thể sinh học – xã hội:


Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu
sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh học. Tính sinh học trong con
người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người là điều
kiện quyết định sự tồn tại của con người. Con người là sản phẩm của xã hội, là con người xã
hội mang bản tính xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao
động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là
yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã
hội của con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá
nhân và nhân cách. Vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi
phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng.

1
Khi dựa trên những thành tựu khoa học, triết học Mác – Lênin coi con người là sản phẩm
tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, tức là kết quả của quá trình vận động vật chất từ vô sinh đến
hữu sinh, từ thực vật đến động vật, từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao, rồi đến “động
vật có lý tính” - con người. Như vậy, quan niệm này trước hết coi con người là một thực thể
sinh học. Cũng như tất cả những thực thể sinh học khác, con người “với tất cả xương thịt, máu
mủ… đều thuộc về giới tự nhiên”, và mãi mãi phải sống dựa vào giới tự nhiên. Giới tự nhiên
là “thân thể vô cơ của con người”, con người là một bộ phận của giới tự nhiên. Như vậy, con
người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ
chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc
điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh
học của cá nhân con người. Song, con người trở thành con người không phải ở chỗ nó chỉ sống
dựa vào giới tự nhiên. Mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất qui định bản chất con người.
Đặc trưng qui định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Ăngghen đã
chỉ ra rằng, bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ quá trình lao động. Hoạt động mang
tính xã hội này đã nối dài bàn tay và các giác quan của con người, hình thành ngôn ngữ và ý
thức, giúp con người làm biến dạng giới tự nhiên để làm ra những vật phẩm mà giới tự nhiên
không có sẵn. Lao động đã tạo ra con người với tư cách là một sản phẩm của xã hội - một sản
phẩm do quá trình tiến hoá của giới tự nhiên nhưng đối lập với giới tự nhiên bởi những hành
động của nó là cải biến giới tự nhiên. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm
thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên. “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người
thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Lao động không chỉ cải biến giới tự nhiên, tạo ra của
cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống con người mà lao động còn làm cho ngôn ngữ và tư
duy được hình thành và phát triển, giúp xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời là yếu tố quyết định quá trình
hình thành nhân cách của mỗi cá nhân con người trong cộng đồng xã hội. Nếu con người vừa
là sản phẩm của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội thì trong con người cũng có hai mặt
không tách rời nhau: mặt tự nhiên và mặt xã hội. Sự thống nhất giữa hai mặt này cho phép
chúng ta hiểu con người là một thực thể sinh học –xã hội. Là một thực thể sinh học – xã hội,
con người chịu sự chi phối của các qui luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống
các qui luật sinh học (như qui luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, qui luật về sự trao đổi
chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá, tình dục…) qui định phương diện sinh học của con người.
Hệ thống các qui luật tâm lý – ý thức, được hình thành trên nền tảng sinh học của con người,
chi phối quá trình hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội
quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Trong đời sống hiện thực của mỗi con người cụ
thể, hệ thống qui luật trên không tách rời nhau mà hoà quyện vào nhau, thể hiện tác động của
chúng trong toàn bộ cuộc sống của con người. Điều đó cho thấy trong mỗi con người, quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học (như ăn, mặc, ở) và nhu cầu xã hội
(nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu tự khẳng định mình, nhu cầu thẩm mỹ
và hưởng thụ các giá trị tinh thần) … đều có sự thống nhất với nhau. Trong đó, mặt sinh học là
cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con
người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hoá” để mang giá trị văn minh; và đến
2
lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống
nhất với nhau để tạo thành con người với tính cách là một thực thể sinh học – xã hội.

1.3 Con người là là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người:
Phê phán quan niệm sai lầm, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân
loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sản
phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người
và của chính bản thân con người.

Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là
sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người.

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy,
trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Song,
điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử – xã hội.

C. Mác đã khẳng định: trong tác phẩm hệ tư tưởng Đức rằng tiền đề của lý luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất
và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho học trở thành những con người như đang tồn tại.

Cần lưu ý rằng còn người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người nhưng con
người khác với các động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình thấy đổi mà còn người
còn là chủ thể của lịch sử.

1.4 Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử:
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử của xã hội nhưng đồng thời lại
là chủ thể của lịch sử bởi con người tự sáng tạo ra lịch sử của chính mình lịch sử loài người
được hình thành khi con người biết chế tạo công cụ lao động từ đó không còn lệ thuộc vào tự
nhiên tách mình ra khỏi thế giới loài vật chuyển sang thế giới loài người và lịch sử thế giới bất
đầu. con người còn sáng tạo nên các giá trị vật chất tinh thần của xã hội, để tồn tại và phát triển
con người đã lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân mình và xã hội và sản xuất ra
của cải vật chất là đặc trưng riêng chỉ có ở con người đó là quá trình lao động có mục đích và
không ngừng sáng tạo của con người, tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại của xã hội
và thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng con người còn sáng tạo nên các giá trị tinh thần của
xã hội, đời sống con người là nguồn đề tài vô tận cho các cuộc phát minh khoa học các cảm
hứng sáng tạo văn học, nghệ thuật và chính con người là tác giả của các công trình khoa học,
các tác phẩm văn học nghệ thuật,… không những thế con người còn là động lực của các cuộc
cách mạng xã hội nhu cầu về một cuộc sống tốt đẹp là động lực để thúc đẩy con người không
ngừng vươn lên đấu tranh để cải thiện xã hội biểu hiện cụ thể cho ta thấy đó chính là các cuộc
đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao đó chính là cuộc cách mạng xã hội dẫn đến sự xuất hiện của
các phương thức sản xuất mới thúc đẩy sự biến đổi về mọi mặt đời sống xã hội.

3
Không có thế giới tự nhiên không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. bởi vậy
con người không những là chủ thể của lịch sử mà bên cạnh đó con người còn là sản phẩm của
lịch sử của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. C. Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy
vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục… cái học
thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục
cũng cần phải được giáo dục”. Ph. Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính
là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện
nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng
tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không thề biết và không phải
do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ
này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu”. Như vậy với tư cách là một thực thể xã hội con người hoạt động thực tiễn tác động vào
tự nhiên cải biến giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội và
trong quá trình cải biến tự nhiên con người đã làm ra lịch sử của mình con người là sản phẩm
của lịch sử đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người, không có hoạt
động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội và do đó không có sự tồn tại của toàn
bộ lịch sử xã hội loại người, không có con người trừu tượng chỉ có con người cụ thể trong mỗi
giai đoạn phát triẻn nhất định của xã hội.

Như chúng ta thấy trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm thì nhân dân Việt
Nam ta đã đứng lên chống lại đẩy lùi sự xâm lược của kẻ thù bảo vệ đất nước giúp đất nước
giành lại độc lập tự do như ngày hôm nay đó là minh chứng cho thấy con người là chủ thể tao
nên một trang sử hào hùng cho dân tộc việt Nam. Con người cũng là một phần của sản phẩm
lịch sử chứng kiến cảnh nước nhà lầm than chứng kiến nhân dân ta bị áp bức bóc lột nằng nề,
cuộc sống nghèo khổ khó khăn đó chính là động lực khiến ông cha ta cầm súng đứng lên đấu
tranh giành lại độc lập dân tộc tạo nên những người anh hùng của lịch sử.

1.5 Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội:
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới
loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: Quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan
hệ với chính bản thân con người.

Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động
trong chừng mực liên quan đến con người.

Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C. Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng
trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội”.

4
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch
sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định.

Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.

Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan
hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…), con người mới bộc lộ toàn bộ bản
chất xã hội của mình.

Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt
tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất
với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính
xã hội.

Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta
nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, mặt sinh vật ở con người.

1.6 Sự hình thành và phát triển con người gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất:
Quan niệm của triết học Mác-Lênin về sự khác biệt giữa con người và động vật thể hiện
tính chất duy vật nhất quán: Xác định sự nhất quán đó dựa trên nền tảng của sản xuất vật chất.
Lao động, tức là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, tạo ra con người và xã hội, thúc đẩy con
người và xã hội phát triển. Đây là điểm khác biệt rất căn bản, chi phối các đặc điểm khác biệt
giữa con người với các động vật.

"Có thể phân biệt giữa con người với con vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ thứ gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với con vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến độ tổ chức cơ thể của
con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".

Ph. Ăngghen cho rằng, các loài vật cũng do hoạt động của mình mà cải biến giới tự nhiên
bên ngoài, làm biến đổi môi trường xung quanh chúng. Nhưng chúng tác động đến hoàn cảnh
xung quanh chúng hoàn toàn không có ý định trước về việc đó; tác động ấy chỉ là một việc ngẫu
nhiên mà thôi. Trái lại, lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ lao động. Do đó, loài
người càng cách xa loài vật thì tác động của họ vào giới tự nhiên càng mang tính chất của một
hoạt động có tính toán trước, có kế hoạch hướng vào những mục đích nhất định được biết trước.

Tóm lại, loài vật chỉ lợi dụng giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi nhất định
trong giới tự nhiên, chỉ đơn thuần do sự có mặt của nó thôi, còn con người do đã tạo ra những
biến đổi trong giới tự nhiên một cách có tính toán, có kế hoạch mà bắt nó phải phục vụ những
mục đích của mình và thống trị nó. Đó chính là sự khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa con người
và các loài vật, và một lần nữa, chính cũng là nhờ lao động mà con người mới có được sự khác
nhau đó.

5
2. VẬN DỤNG BẢN CHẤT CON NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ ĐỂ
LÍ GIẢI CÂU NÓI: “BÁN ANH EM XA, MUA LÁNG GIỀNG GẦN”. ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM ĐƯA RA ĐỊNH HƯỚNG GÌ ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY?
2.1 Khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một bộ phận hợp thành nên Triết học Mác- Lênin. Đây là
khoa học triết học về xã hội và giải quyết một cách duy vật các vấn đề cơ bản của triết học khi
vận dụng nó vào lịch sử. Trên cơ sở đó nghiên cứu các quy luật chung về sự phát triển lịch sử
và hình thức thực hiện những quy luật đó trong hoạt động của con người. Hay nói cách khác,
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội, là kết quả của
sự vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào các hiện tượng của
đời sống xã hội, vào nghiên cứu xã hội, nghiên cứu lịch sử xã hội.
Bản chất của chủ nghĩa duy vật lịch sử:

 Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một hệ thống triết học duy vật biện chứng về xã hội, là bộ
phận hợp thành triết học Mác, làm cho triết học Mác trở nên sâu sắc và triệt để. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu xã hội với tính cách của một chỉnh thể, xã hội là một
bộ phận đặc biệt của tự nhiên với nền tảng là mối quan hệ của con người và sự tác động
giữa con người với nhau.
 Những phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử là công cụ nhận thức khoa học về những
quy luật chung nhất và những động lực của sử phát triển xã hội. Những phạm trù và quy
luật đó phản ánh những mặt và những mối liên hệ cơ bản, tất yếu, khách quan của đời
sống xã hội như quan hệ tác động qua lại giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng…
 Nói tóm lại, chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự
phát triển xã hội loài người cũng như bất cứ môn khoa học nào để phản ánh đúng đắn
đối tượng mà mình nghiên cứu.

2.2 Lí giải câu nói “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”:
Ý nghĩa:

● "anh em xa" ở đây không phải là bán anh em ruột thịt mà chỉ những người họ hàng xa
và ở xa nhà chúng ta.
● "láng giềng" là những người có thể không cùng chung máu mủ, huyết thống. Sống cạnh
nhà chúng ta, sống trong một tập thể, quan hệ gần gũi.

Ý nghĩa cả câu: Câu này có ý khuyên răn người ta nên ăn ở có tình có nghĩa, vui vẻ với
hàng xóm láng giềng kề bên. Bởi anh em họ hàng dù là thân tình, máu mủ nhưng ở xa thì nếu
có việc khẩn cấp, nghiêm trọng không thể có mặt nhanh chóng ngay lập tức để giúp đỡ khi ấy
" nước xa thì không cứu được lửa gần" những người hàng xóm tốt bụng cạnh nhà mình được
chính là người giúp đỡ chúng ta khi đó. Tuy nhiên không phải vì thế mà xa lánh anh em ruột

6
thịt của mình. Chính vì thế chúng ta cần vun đắp tình cảm anh em đồng thời xây dựng tình làng
nghĩa xóm thuận hòa, sống chan hòa, tình nghĩa, yêu thương. Tạo nên mối quan hệ tập thể, cộng
đồng, mối quan hệ giữa người với người.

Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có
quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, mỗi quan
hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Cũng như mối
quan hệ anh em và quan hệ láng giềng đều có vai trò và vị trí khác nhau, ở từng thời điểm nhất
định nó đều có ích như nhau, vậy nên không thể phủ nhận một trong hai. Ngoài các mối quan
hệ xã hội đời sống như trên, còn có các quan hệ khác như quan hệ pháp luật, quan hệ vật chất,
tinh thần….ví dụ như giữa người bán – người mua, người buôn bán phải có người sản xuất ra
hàng hóa và người mua mua những món hàng đó, mỗi người đều cần ở người khác để thực hiện
mục đích của mình, cùng hợp tác với nhau để tồn tại trong xã hội.

Có thể nói quan hệ xã hội rất quan trọng, nó không chỉ là yếu tố hình thành nên bản chất
con người mà còn quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con
người không còn thuần túy là một động vật mà là động vật xã hội.

2.3 Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra định hướng gì để xây dựng con người Việt Nam hiện
nay?
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, cần: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và
Tổ quốc”2; thực hiện phương châm: “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ
cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ,
công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế
Vấn đề phát triển con người toàn diện đã được Đại hội IX của Đảng xác định: “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng
lực sáng tạo, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần thần dân tộc, nhân văn, dân chủ,
khoa học...Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường
và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân,có ý thức cộng đồng, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lòng nhân ái, khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Để phát huy sức mạnh nguồn lực con người cần phải hết sức quan tâm cải thiện, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền
lợi của người dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Bảo đảm quyền con người phải là khâu kết
nối cần thiết, không thể thiếu giữa khâu lấy con người làm trung tâm và phát triển con người
toàn diện.
Đồng thời, coi trọng giáo dục, đào tạo để phát triển con người đáp ứng yêu cầu mới của
sự nghiệp cách mạng đất nước, đặc biệt giáo dục thế hệ trẻ.

You might also like