Professional Documents
Culture Documents
Câu 1: Phân tích lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất con
người. Bản thân cần làm gì để phát triển toàn diện bản thân góp phần hình thành giá trị
mới của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Con người và bản chất con người
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng
nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động
mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” . Nếu các động vật khác phải sống dựa hoàn
toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động
sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Nhờ có lao động sản xuất mà về mặt sinh học con người có thể trở thành thực thể xã hội,
thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã
góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở thành con người
đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện tiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình
thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
2.Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình
“Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ
cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức
cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con
người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” .
“Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vượn may
mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất. Chỉ riêng sự khác biệt duy nhất nhưng
cơ bản ấy cũng khiến ta không thể chuyển - nếu không kèm theo những điều kiện tương ứng -
các quy luật của các xã hội loài vật sang xã hội loài người” .
3.Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của Feuerbach đã xem
xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ, xem xét con
người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có hoạt động thực tiễn. Feuerbach đã
không nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã
hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, Feuerbach đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người với
người. Hơn nữa, đó cũng không phải là tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được lý tưởng
hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach và của các nhà tư tưởng khác về con người,
kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu
của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài
của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con
người. C. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản
xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn
tại. Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con
người, khác với các động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con
người còn là chủ thể của lịch sử.
4.Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là
chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con người. Con
người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động
vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng
cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong
chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng
không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con
vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của
mình một cách có ý thức bấy nhiêu” .
Câu 2. Phân tích định nghĩa giai cấp của Lênin từ đó rút ra ý nghĩa. Vận dụng để xác
định vị trí,vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
2.1. Phân tích định nghĩa giai cấp của Lênin từ đó rút ra ý nghĩa
Định nghĩa giai cấp của Lênin
Trong lịch sử, hầu hết các nhà triết học và xã hội học trước C.Mác, đặc biệt là các nhà triết học
và xã hội học tư sản đều thừa nhận sự tồn tại thực tế của các giai cấp. Tuy nhiên, do hạn chế về
nhiều mặt, nhất là về nhận thức và vị trí giai cấp nên họ đã không thể lý giải một cách khoa học
hiện tượng lịch sử phức tạp này. Theo họ, giai cấp là tập hợp những người có cùng chức năng xã
hội, cùng lối sống hoặc mức sống, địa vị và uy tín xã hội như nhau, v.v...
Các Mác đi nghiên cứu về giai cấp từ việc phân tích kết cấu phương thức sản xuất đã có cách
tiếp cận khoa học lấy lý luận về hình thái kinh tế - xã hội làm cơ sở nghiên cứu xã hội. Mác đã đi
tìm cái gốc của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó là kinh tế.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ
đại”, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa khoa học về giai cấp. “Người ta gọi là giai cấp,
những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những
quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn
này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau
trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”.
Vd:
+ Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối lập nhau trong xã hội cổ đại.
+ Phong kiến và nông nô (có cách gọi khác là địa chủ và tá điền) là hai giai cấp trong xã
hội trung cổ.
+ Tư sản và vô sản là hai giai cấp đối lập trong xã họi cận đại và đương đại.
+Đặc trưng thứ nhất: giai cấp là những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong hệ thống
sản xuất nhất định mỗi giai cấp gắn liền với một phương thức sản xuất nhất định. Địa vị của
mỗi giai cấp trong phương thức sản xuất là do vai trò của họ quyết định.
+Đặc trưng thứ hai: các giai cấp có mối quan hệ khác nhau về quyền sở hữu đối với tư liệu
sản xuất. Đây là đặc trưng cơ bản và quyết định các đặc trưng khác của giai cấp.
+Đặc trưng thứ ba: các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức phân công lao động xã
hội do đặc trưng thứ hai quyết định ai nắm dữ tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội người đó
sẽ có vai trò lãnh đạo và làm chủ quá trình sản xuất.
+Đặc trưng thứ tư: các giai cấp có phương tưức và quy mô thu nhập khác nhau về của cải
xã hội. Do đặc trưng thứ hai quyết định.
Bốn đặc trưng trên của giai cấp gắn bó chặt chẽ với nhau và nó cũng là 4 tiêu chuẩn của sự
phân chia xã hội thành giai cấp trong đó tiêu chuẩn khác nhau về quyền sở hữu đối với tư liệu
sản xuất là tiêu chuẩn quan trọng nhất và chính nó là nguyên nhân cho sự phân công xã hội
thành các giai cấp khác nhau.