You are on page 1of 14

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN TRIẾT HỌC MÁC -LÊNIN

BÀI BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC


Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác- Lê-nin về con người và
việc xây dựng bản chất con người Việt Nam trong thời đại cách
mạng 4.0 hiện nay”

Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Trí


Sinh viên thực hiện: nhóm 5
Nhóm trưởng: Lê Huỳnh Thịnh
Lớp: DHOT19B

Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2024


2

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3
I. Khái niệm về con người............................................................................4
1. Bản tính tự nhiên của con người............................................................4
2. Bản tính xã hội của con người...............................................................4
II. Bản chất của con người............................................................................5
1. Con người là thực thể sinh học - xã hội.................................................5
2. Con người là sản phẩm lịch sử và của chính bản thân con người.........7
3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử và là sản phẩm của lịch sử.........7
4. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội..........................8
5. Ý nghĩa lý luận từ quan điểm trên.........................................................8
a. Về lý luận............................................................................................8
b. Về thực tiễn........................................................................................9
III.Quan điểm xây dựng phẩm chất con người trong giai đoạn hiện nay...10
IV. Ý nghĩa của việc xây dựng phẩm chất con người.................................12
KẾT LUẬN.................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................14
3

LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử triết học trước Mác đã hình thành nhiều quan niệm về con người,
đa phần mang tính duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Tuy triết học duy vật
trước Mác đã thừa nhận con người là thực thể tự nhiên - xã hội, nhưng họ
vẫn chưa vượt qua được hạn chế siêu hình, thậm chí duy tâm, do quy đặc
trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa một trong hai
thuộc tính: tự nhiên hoặc xã hội. Họ cũng chưa nhận thức được vai trò then
chốt của hoạt động thực tiễn xã hội trong việc hình thành con người.
Hệ thống thế giới quan tôn giáo lại coi con người như một thực thể nhị
nguyên, gồm tinh thần và thể xác, trong đó linh hồn mang tính vĩnh cửu và
tuyệt đối. Tuy vậy, một số trường phái triết học đã đạt được những thành
tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính và xác lập các
giá trị nhân bản học, hướng con người đến tự do. Những thành tựu này
chính là tiền đề quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về con người trong
triết học Mác - Lênin.
Vấn đề con người luôn là chủ đề lớn trong lịch sử triết học nhân loại, bao
gồm các câu hỏi: "Con người là gì?", "Bản chất con người là gì?", "Mối
quan hệ giữa con người và thế giới?", "Con người có thể làm gì để giải
phóng bản thân và đạt tới tự do?". Chính những câu hỏi này đã thôi thúc
chúng em chọn chủ đề "Quan điểm về con người và bản chất con người
trong triết học Mác - Lênin" cho bài tiểu luận này.
Mặc dù thời gian học tập môn triết học ngắn ngủi, nhưng nhờ sự hướng
dẫn tận tình của thầy Nguyễn Thành Trí, chúng em đã hoàn thành bài tiểu
luận này. Chúng em mong nhận được ý kiến và góp ý của thầy để bài viết
được hoàn thiện hơn nữa. Xin chân thành cảm ơn thầy!
4

I. Khái niệm về con người


1. Bản tính tự nhiên của con người
Con người là một người thực sự có thể tự động mang lại đặc tính xã hội
bằng bằng chứng minh bạch nhất giữa hai phương tiện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên được định hình thành, tồn tại và phát triển của con
người chính là giới hạn tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong
những cơ sở dữ liệu tiếp theo của con người, loài người. Do đó, việc nghiên
cứu, khám phá khoa học về cấu hình tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của
con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người biết về chính bản
thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành động và hoạt
động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả của quá trình hóa học vàphát triển lâu
dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của bài luận này đã được chứng minh
là có bộ phát triển toàn diện về chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc
biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới
tự nhiên cũng là "cơ thể vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của
giới tự nhiên và tác động của luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường
xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi
trường trao đổi vật chất giữa con người và giới hạn tự nhiên; ngược lại,
biến đổi và hoạt động của con người, loài này luôn hoạt động trở lại môi
trường một cách tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối
quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các loài
tồn tại khác của giới tự nhiên.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự
nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi người và tư cách là" người"
chính là xét nghiệm trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các
cộng đồng gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại. ư.Vì vậy, bản
tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người,
hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
2. Bản tính xã hội của con người
Bản tính xã hội của người được phân tích từ các giá trị sau đây:
Một là, bình luận từ Độ gốc hình thành, người không phải chỉ có nguồn
gốc từ sự tiến hóa, phát triển vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội
của nó, mà trước đó đã hết và cơ sở tối thiểu là nhân tố lao động. Chính
giúp lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa
và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ
nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó có thể hoàn thành thành học thuyết về nguồn gốc
của loài mà tất cảcác học thuyết trong lịch sử đều chưa có câu trả lời đúng
và đầy đủ.
5

Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của những người
luôn được phân phối bởi các nhân tố xã hội và luật xã hội. Xã hội biến đổi
thì mỗi người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của
mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ
xà hội thì mỗi người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật trí tuệ,
không thể là "con người"with it đầy đủ ý nghĩa.
Hai phương pháp tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong hệ
thống nhất, quy định hỗn hợp, phối hợp giữa nhau, tạo ra các biến thể trộn
lẫn với nhau, nhờ đó tạo ra khả năng hoạt động sáng tạo của con người
trong quá trình tạo lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý do giải bản tính sáng
tạo của con người đơn thuần chỉ từ Giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ
bản tính xã hội thì đều là cứng rắn, không cần thiết để và nhất là cuối cùng
sẽ dẫn đến những kết nối thảo luận sai trong nhận thức và thực tiễn.

II. Bản chất của con người


Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển
cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo
nên tất cả các Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình
độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch
sử, sáng tạo nên tất cả các thành phần của văn bản minh và văn bản bản
hóa.
1. Con người là thực thể sinh học - xã hội
Tiếp theo một cách tính toán phán đoán những quan điểm có tính hợp
lý và giải quyết những khái niệm còn thiếu thời hạn chế độ về con người.
Trong lịch lịch sử học trước đó, sạch học Mác khẳng định con người hiện
thực là thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người
không phải là cái gì đó đồng nhất tuyệt đối về chất, – đó là sự đồng nhất
bao chức năng trong sự thật khác của mìnhđặc biệt giữa hai yếu tố lập luận
cùng nhau con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên , là sự phát
triển tiếp tục của giới tựtự nhiên, một mặt con người khác là một thực tế xã
hội có thể được phân tách như một nguồn lực tạo ra các thiết lập đối với
giới hạn tự nhiên, sự hợp tác giữa sinh học và xã hội tạo ra thành người.
Thứ nhất, Con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên.
Đó là quá trình tạo ra các tiện ích sinh học và khả năng sung mãn những
nhu cầu sinh học như ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu sinh sản của con
người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, con người tự
nhiên là con người mang tất cả các bản tính sinh học, đặc tính. Yếu tố sinh
học yếu kém trong con người, trước hết là cơ sở chức năng và mối quan hệ
của nó có thể với tự nhiên, là những thuộc tính, những đặc điểm sinh học,
quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát hiện, các cách phát triển khác nhau
có thể tạo ra chất liệu sinh học của cá nhân.
Con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống,
phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển.
6

Nhưng điều đó không được tuyệt đối hóa. Không phải đặc tính sinh học,
bản năng sinh học, sự tồn tại có thể xác định là cái duy nhất được tạo ra nên
bản chất của con người, mà con người vẫn là một thực thể xã hội. Khi xem
xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách
rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương
diện đặc biệt, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Thứ hai, Con người còn là sản phẩm của lịch sử xã hội và lao động
chính là nhân tố giữ trò chơi quyết định quá trình hình thành con người,
khẳng định con người có tính xã hội. Trong lịch sử học trước Mác đã có
nhiều quan niệm khác nhau phân biệt con người với thế giới loài vật, như
con người là động vật biết sử dụng công cụ lao động, hoặc con người có tư
duy, v.v… Nhưng, nhưng quan khái niệm đó cũng chỉ nhấn mạnh một khía
cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con
người thì tái sinh sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của người
biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra cải vật
chất và tinh thần để phục vụ cuộc sống của mình, hình thành phát triển
ngôn ngữ và tư duy, xác lập các quan hệ thống xã hội.
Thứ ba, mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, không chỉ khẳng
định nguồn gốc, bản chất sinh vật và xã hội của con người mà khẳng định
vai trò quyết định của hệ thống các quy luật khách hàng đối đấu quá trình
hình thành và phát triển con người. Đó là hệ thống các quy luật tự nhiên
như quy luật môi trường, quy luật trao đổi chất, về di truyền, biến dịch, tiến
hóa, vv quy định phương pháp sinh học của con người. Hệ thống các quy
luật tâm lý, ý thức hình thành vận động trên nền tảng sinh học của con
người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin trống, ý chí,vv hệ
thống các quy luật xã hội quy định các quan hệ xã hội giữa người với
người.
Ba hệ thống luật pháp cùng hoạt động, tạo nên thể thống nhất hoàn
thiện nhất trong cuộc sống con người bao gồm các mặt sinh vật và xã hội.
Bởi vì, con người chỉ có thể tồn tại khi đồng mãn những nhu cầu sinh học,
nhưng không phải bất cứ một sản phẩm vật chất nào cũng có sẵn trong tự
nhiên mà chủ yếu đều do quá trình sáng tạo của con người thông qua lao
động. Xã hội không phải là một thực thể tồn tại độc lập bên ngoài mặt sinh
học, cũng không có cái xã hội và cái sinh học trí tuệ tồn tại độc lập với
nhau, chúng có quan hệ biện minh chứng tác động qua lại lẫn nhau trong
các hệ thống xã hội. By xã hội là phương pháp cho con người hạnh phúc tốt
hơn những nhu cầu sinh học ngày càng có tính hợp lý và văn minh hơn.
Chính vì vậy, con người ngày càng quan tâm đến quá trình cải tiến hiện
thực khách quan, cũng như chính lợi ích của cá nhân, tập thể, giai cấp hay
của toàn bộ xã hội, không phải làm ý thức chủ quan của con người làm
chính điều kiện khách quan và các quy luật khách sạn.
7

2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con
người
Cạnh bên là sản phẩm của tự nhiên, con người còn là sản phẩm của lịch
sử và đồng thời là sản phẩm chủ yếu của lịch sử.
Xem xét vị trí của con người trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, C.
Mác đi đến quan niệm rằng, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển
sử dụng lịch nhân loại được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản
xuất- “kết quả của nghị luận lực thực tiễn của con người”. Hoạt động thực
tiễn này, đến như nó, lại được quy định bởi những điều kiện sinh thái tồn
tại của con người, bởi “một hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có năng
lực sản xuất nó”. Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng nhận được những sản
phẩm có năng lực sản xuất thế hệ trước khi tạo ra và sử dụng chúng làm
phương tiện tiện lợi cho hoạt động sản xuất sản phẩm mới. Nhờ chuyển
giao năng lượng sản xuất này mà con người đã “hình thành nên mối liên hệ
trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản xuất
và làm đó, cả quan hệ sản xuất- quan hệ xã hội của con người, ngày càng
phát triển thì “lịch sử đó càng trở thành lịch sử loài người”. Với quan niệm
này, C. Mác kết luận “xã hội. là sản phẩm của sự hoạt động qua lại giữa
những người con người” và “lịch sử xã hội của con người luôn là lịch sử
của sự phát triển cá nhân của những người con người”.
Kết luận này cho thấy, trong quan niệm của C. Mác, con người không
chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất sản phẩm, mà còn là chủ thể của hoạt
động lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Bằng hoạt động thực tiễn, con người đã
tạo ra dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, cải
thiện đời sống xã hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện chính bản thân mình.
Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử
con người làm nên lịch sử của chính mình và do đó, lịch sử là lịch sử của
con người, làm con người và vì con người.
3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người là nhà phát triển sản phẩm của tự nhiên và lịch sử phát triển
xã hội. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn là chủ thể của lịch
sử xã hội. Với tính năng chủ yếu của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn,
con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội và bản thân mình.
Trong quá trình cải tiến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử
của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ nhân
có thể sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động sản xuất vật chất vừa phải là điều kiện
thuận lợi cho sự tồn tại của con người, vừa là phương pháp dẫn đến sự biến
đổi xã hội. Đó là quá trình nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan
để khẳng định lịch sử vận động phát triển xã hội là lịch sử phát triển các
phương thức sản xuất vật chất khác nhau, vv
Không có con người biểu tượng, con người là công cụ trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử và bản chất của con người trong tính
hiện thực của nó là tổng hòa những mối quan hệ hệ xã hội. Bản chất con
8

người không phải là một hệ thống khép kín mà là hệ thống mở tương thích
với điều kiện lịch sử của con người. Vì vậy, có thể nói rằng, sự phát triển
và vận động của lịch sử sẽ quyết định sự tương thích với hoạt động vận
động và phát triển của bản chất con người thông qua những mối quan hệ xã
hội trong lịch sử.
4. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã được trình bày ở trên, chúng tôi thấy rằng, con
người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan
hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối
quan hệ khác và mọi hoạt động ở mức độ liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C. Mác đã nêu
lên luận đề nổi tiếng trong Luận cương về Phoiơbắc Bản chất con người
không phải là một vật vật cố hữu của cá nhân đặc biệt. Trong quá trình thực
hiện của nó, bản chất con người là tổng hợp các quan hệ xã hội.
Luận đề khẳng định rằng, không có vật thể thoát ly trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn có thể, xác định cuộc sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất, một thời điểm nhất định. Trong điều kiện
lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển năng lực và tư duy trí
tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó(như quan hệ giai cấp, dân
tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội.)
con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của chính mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước
hết là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để giải quyết sự thiếu sót của các
nhà sạch học trước Mác không được tìm thấy bản chất xã hội hội của con
người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính
pháp luật không thể là duy cái duy nhất. Cần phải tìm thấy các biểu hiện
riêng biệt, phong phú và đa dạng của từng cá nhân về cả phong cách, nhu
cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
5. Ý nghĩa lí luận từ quan điểm trên
a. Về lí luận
Chủ nghĩa Mác- Lênin là chính sách phát triển con người và xã hội,
được quy định bởi thiếu kinh tế và xã hội. Yếu tố kinh tế trong các mối
quan hệ kinh tế sản phẩm chất của con người được quy định trong mọi thời
đại khác nhau sẽ có những quy định khác nhau cụ thể trong mọi thời đại
con người sẽ có những lợi ích riêng gắn với lợi ích chung trong xã hội giải
quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và ích lợi xã hội. Khi đánh giá bản
chất của con người phải xem xét đồng thời ở cả hai phương diện bản tính tự
9

nhiên và bản tính xã hội. Trong đó cần phải xem quan trọng hơn việc xem
xét con người từ phương diện xã hội. Hơn nữa, cần xây dựng, rèn luyện
thái độ sống có sự hòa hợp giữa nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội. Tránh
rơi vào vòng lập vô nghĩa khi cứ mãi chạy theo nhu cầu bảng năng tầm
thường.
Xã hội chính là nguồn gốc, là gốc hình thành nên bản chất con người vì
vậy cần phải xây dựng một môi trường xã hội cùng với những mối mối
quan hệ tốt đẹp. Xã hội được định nghĩa bởi những yếu tố văn hóa. Các yếu
tố văn hóa như thế giới quan, thẩm mĩ, lý tưởng, pháp luật, đạo đức cũng
quy định nên sự hình thành con người. Trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn phải chú ý giải quyết tính đúng mối quan hệ xã hội – cá nhân, tránh
việc đề cao quá một cá nhân. Hơn nữa là tạo ra những giá trị mới, nghĩa là
trong quá trình tồn tại, con người cần có sự hòa hợp đất đai, cân bằng giữa
“tài” và “đức”.
b. Về thực tiễn
Không chỉ giải thích thế giới mà còn cải thiện thế giới, tinh học Mác-
Lênin là cơ sở cho doanh nghiệp giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột,
các chế độ độc tài. Thiết lập một xã hội nhân quyền, độc lập, tự làm. Ta có
thể tìm thấy quan điểm trên thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh – một nhà tư tưởng lỗi
lạc, chảy những bài học sâu sắc từ học Mác- Lênin. Hồ Chí Minh tâm
tưởng quần chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi sáng tạo
và mọi phong trào trào lưu. Chính vì thế câu ngôn “lấy dân làm gốc” xuyên
suốt là sợi tư tưởng móc nối các chủ thể cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng
định, đoàn kết toàn dân tộclà một chiến lược lược nhất quán, lâu dài, là vấn
đề sống còn, quyết định thành công của cáchmạng. Tiếp nhận bài học sâu
sắc từ Cách mạng tháng mười Nga cộng hưởng cùng tinh thần học Mác-
Lênin, dựa vào hậu cảnh lịch sử quốc gia Người đã đưa ra cách mạng đến
bến thành công theo xu hướng vô sản xích vòng lại hòa bình tự do cho dân
tộc. Triết học Mác- lênin còn là cơ sở cho chính sách nâng cao cao bài hát
chất lượng nguồn lực quốc gia. Bài hát với đó là việc làm nâng cao chất
lượng cuộc sống, giáo dục, sức khỏe và đạo đức con người. Tìm hiểu tầm
quan trọng của việc phát triển nhân tố con người, kế thừa quan điểm của
Mác- Lênin, Đảng ta khẳng định nguồn lực quý giá nhất, có vai trò quyết
định nhất là con người; nhân tố con người chính là sức mạnh nội sinh của
dân tộc Việt Nam. Hiện nay, với mục tiêu đổi mới Đảng và nhà nước đã đề
ra chiến lược Kinh tế xã hội 2011 – 2020 xác định công việc đổi mới và
hoàn thiện nền tảng giáo dục quốc gia gia phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Cùng với đó, Đại hội XI của Đảng và Nhà nước cũng đề xuất
các sách chính xác nhất để đạt được mức cân bằng giữa kinh tế quốc gia và
văn hóa xã hội. Ngoài ra, Đại hội cũng đề xuất đưa ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng đời sống nhân dân điển hình là cải thiện thu nhập,
giảm phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch khả năng sống giữa nông thôn
10

và thành thị. Nhìn chung những chính sách của Đảng và Nhà nước xem con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cuộc đổi mới phát triển đất
nước.

III. Quan điểm xây dựng phẩm chất con người trong giai
đoạn hiện nay:
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng đang mở ra những cơ hội to
lớn cho đất nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức to lớn về phát
triển nguồn nhân lực. Việc xây dựng phẩm chất con người ngày càng trở
nên cấp thiết, là chìa khóa cho sự phát triển bền vững của xã hội. Dựa trên
khái niệm Bản chất con người của triết học Mác – Lê-nin, quan điểm xây
dựng phẩm chất con người trong giai đoạn hiện nay cần chú trọng vào
những yếu tố sau:
Đầu tiên, nhận thức rõ bản chất con người là chìa khóa để mỗi cá nhân
phát triển toàn diện và góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
Khi hiểu rõ bản chất xã hội của con người, mỗi cá nhân sẽ ý thức được vai
trò và trách nhiệm của bản thân đối với cộng đồng và xã hội, qua đó khơi
dậy niềm tự hào dân tộc, thúc đẩy tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ lẫn
nhau trong xã hội. Nâng cao nhận thức về bản chất con người là một quá
trình giáo dục lâu dài và cần sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường
và xã hội.
Rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp: Đạo đức là kim chỉ nam
cho cuộc sống, là nền tảng cho sự phát triển của mỗi cá nhân và xã hội. Rèn
luyện phẩm chất đạo đức tốt đẹp là trách nhiệm của mỗi người, góp phần
xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết,
lòng nhân ái, tính trung thực và tinh thần trách nhiệm là những phẩm chất
đạo đức cốt lõi cần được rèn luyện. Mỗi cá nhân cần ý thức được tầm quan
trọng của việc rèn luyện phẩm chất đạo đức để góp phần xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn. Hãy biến những phẩm chất đạo đức tốt đẹp thành hành
động thiết thực để lan tỏa giá trị tích cực đến cộng đồng.
Nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn: Trên dòng chảy tri
thức, việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn đóng vai trò
then chốt cho thành công của mỗi cá nhân và xã hội. Học tập là con đường
duy nhất dẫn đến kho tàng tri thức phong phú, là chìa khóa vàng mở ra
cánh cửa thành công trong cuộc sống. Kiến thức thu thập được từ học tập
giúp ta hiểu rõ bản thân, thế giới xung quanh, trau dồi tư duy phản biện,
giải quyết vấn đề hiệu quả và thích nghi với nhịp sống hiện đại. Kỹ năng
chuyên môn là chìa khóa để chinh phục thành công trong sự nghiệp. Nắm
vững kỹ năng chuyên môn giúp ta hoàn thành tốt công việc, tạo dựng chỗ
đứng vững vàng trong xã hội và góp phần vào sự phát triển chung. Nâng
cao trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn là khoản đầu tư vô giá cho
bản thân. Nó giúp ta có được thu nhập cao, nâng cao chất lượng cuộc sống,
đồng thời góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Hãy biến việc
11

học tập và rèn luyện kỹ năng thành thói quen thường xuyên. Hãy chủ động
nắm bắt cơ hội học tập, trau dồi kiến thức và kỹ năng để phát triển bản thân
và đóng góp cho cộng đồng.
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống: Đạo đức và lối sống là những
phẩm chất cốt lõi, định hình con người và góp phần xây dựng một xã hội
văn minh, tiến bộ. Nhận thức được vai trò quan trọng này, việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là trách nhiệm chung của gia đình, nhà
trường và xã hội. Gia đình là môi trường đầu tiên nuôi dưỡng và giáo dục
con người. Cha mẹ cần làm gương cho con về đạo đức, lối sống, đồng thời
quan tâm, giáo dục con từ nhỏ về những giá trị đạo đức tốt đẹp. Nhà trường
cần đổi mới phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh thông qua các hoạt động học tập và rèn luyện. Xã hội cần tạo
môi trường lành mạnh, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về lối sống lành
mạnh, đồng thời có các biện pháp mạnh mẽ để phòng chống tệ nạn xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là một quá trình lâu dài và cần sự
chung tay góp sức của cả cộng đồng.
Phát huy vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội: Gia đình, nhà
trường và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và phát triển
thế hệ trẻ. Gia đình là môi trường đầu tiên nuôi dưỡng và giáo dục con cái.
Cha mẹ là những người thầy đầu tiên, đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành nhân cách và đạo đức cho con. Cha mẹ cần làm gương tốt cho
con về lối sống, đạo đức, đồng thời quan tâm, giáo dục con từ nhỏ về
những giá trị truyền thống tốt đẹp. Nhà trường là nơi bồi dưỡng tri thức, kỹ
năng và đạo đức cho học sinh. Nhà trường cần đổi mới phương pháp giáo
dục, chú trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh bên cạnh việc
truyền thụ kiến thức. Giáo dục đạo đức giúp học sinh hình thành nhân cách
tốt đẹp, biết yêu thương, chia sẻ, sống có trách nhiệm. Giáo dục kỹ năng
sống giúp học sinh rèn luyện những kỹ năng cần thiết để thích nghi với
cuộc sống, tự tin giải quyết các vấn đề và phát triển bản thân một cách toàn
diện.
Phát triển toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến đời sống con người: Con
người là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các yếu tố về trí tuệ, thể chất,
đạo đức và thẩm mỹ. Phát triển toàn diện các yếu tố này là chìa khóa cho
một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc. Về trí tuệ: Cần không ngừng học hỏi,
trau dồi kiến thức để nâng cao hiểu biết về mọi mặt trong đời sống. Kiến
thức là sức mạnh, giúp ta giải quyết vấn đề hiệu quả, thích nghi với những
thay đổi của xã hội và gặt hái thành công trong cuộc sống. Về thể chất: Rèn
luyện sức khỏe để có một cơ thể khỏe mạnh, dẻo dai là điều vô cùng quan
trọng. Sức khỏe tốt giúp ta có đủ năng lượng để học tập, làm việc và tận
hưởng cuộc sống. Về đạo đức: Rèn luyện đạo đức để trở thành người có ích
cho xã hội. Sống có đạo đức giúp ta được mọi người yêu quý, kính trọng và
có một tâm hồn thanh thản. Về thẩm mỹ: Bồi dưỡng tâm hồn để có một đời
sống tinh thần phong phú. Cảm thụ cái đẹp trong nghệ thuật, thiên nhiên và
cuộc sống giúp ta có một tâm hồn thanh tao, giàu cảm xúc và sống lạc
12

quan, yêu đời. Phát triển toàn diện là một quá trình lâu dài, cần sự nỗ lực
không ngừng của mỗi cá nhân. Hãy biến việc học hỏi, rèn luyện trở thành
thói quen hàng ngày để hoàn thiện bản thân và hướng đến một cuộc sống
tốt đẹp hơn.

IV. Ý nghĩa của việc xây dựng phẩm chất con người:
Con người là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm cả thể xác và tinh
thần. Trong đó, phẩm chất con người đóng vai trò vô cùng quan trọng, là
nền tảng cho sự phát triển toàn diện và bền vững của mỗi cá nhân, gia đình
và xã hội. Phẩm chất con người bao gồm những giá trị đạo đức, trí tuệ,
thẩm mỹ và thể chất tốt đẹp. Mỗi phẩm chất đều đóng vai trò riêng biệt,
góp phần tạo nên một con người hoàn thiện.
Phát triển phẩm chất con người là một quá trình lâu dài, cần sự nỗ lực
không ngừng của mỗi cá nhân. Gia đình, nhà trường và xã hội cần chung
tay giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất
cho thế hệ trẻ. Mỗi cá nhân cần ý thức được tầm quan trọng của việc rèn
luyện phẩm chất con người. Hãy biến việc học hỏi, rèn luyện trở thành thói
quen hàng ngày để hoàn thiện bản thân và góp phần xây dựng một xã hội
văn minh, tiến bộ và phát triển bền vững. Hãy nhớ rằng, con người càng
phát triển toàn diện, phẩm chất càng tốt đẹp thì cuộc sống càng trở nên ý
nghĩa và viên mãn hơn!
Nhiều cá nhân có phẩm chất tốt đẹp và trình độ học vấn cao thúc đẩy
sự phát triển của xã hội, tạo nên môi trường sống tốt đẹp. Qua đó nâng cao
vị thế quốc gia với nguồn nhân lực chất lượng cao, đất nước sẽ có sức cạnh
tranh trên trường quốc tế.
13

KẾT LUẬN
Triết học Mác - Lênin đã đưa ra quan điểm khoa học, đúng đắn và đầy đủ
nhất về bản chất con người trên nền tảng biện chứng duy vật. Con người
được nhìn nhận như một thực thể sinh học - xã hội, là chủ thể và đồng thời
là sản phẩm của lịch sử.
Điểm nhấn của triết học Mác - Lênin nằm ở việc chú trọng vào các yếu tố
xã hội trong việc hình thành và phát triển con người. Theo quan điểm này,
con người không chỉ đơn thuần là một sinh vật sinh học, mà còn chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi môi trường xã hội, bởi các mối quan hệ và hoạt động xã
hội. Để phát triển bản chất và hoàn thiện nhân cách, con người cần "nhân
đạo hóa hoàn cảnh", tạo ra môi trường sống phù hợp với bản chất "người".
Điều này đòi hỏi sự nỗ lực chung của toàn xã hội trong việc xây dựng một
xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mỗi cá nhân có cơ hội phát triển toàn diện.
Khi con người thực sự làm chủ tự nhiên và xã hội, họ sẽ đạt đến "vương
quốc của tự do", nơi bản chất con người được phát huy tối đa. Con đường
dẫn đến "vương quốc của tự do" chính là quá trình đấu tranh không ngừng
nghỉ của con người để giải phóng bản thân khỏi ách áp bức, bóc lột, để xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lịch sử đã chứng minh vai
trò to lớn của con người trong việc thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhờ khả năng
lao động, sáng tạo không ngừng, con người đã tạo nên những cuộc cách
mạng oanh liệt, đưa nền văn minh nhân loại từ cổ đại tiến đến hiện đại.
Tóm lại, triết học Mác - Lênin đã cung cấp cho chúng ta một quan điểm
khoa học, đúng đắn về bản chất con người, từ đó định hướng cho việc giáo
dục, rèn luyện và phát triển con người một cách toàn diện. Mỗi cá nhân cần
ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc hoàn thiện bản
thân, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mỗi người có
thể phát huy tối đa tiềm năng của bản thân.
14

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. CVt75S042021022.pdf (thuvienlamdong.org.vn)

2. Bản chất con người trong triết học Mác - Lênin - LyTuong.net

3. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người - Luận văn, đồ án, đề tài tốt
nghiệp (luanvan.co)

4. Lý luận của triết học Mác - Lênin về con người và sự vận dụng của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay. (saodo.edu.vn)

5. Giáo trình Triết học Mác - Lê Nin.pdf - Google Drive

You might also like