Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3
I. Khái niệm về con người............................................................................4
1. Bản tính tự nhiên của con người............................................................4
2. Bản tính xã hội của con người...............................................................4
II. Bản chất của con người............................................................................5
1. Con người là thực thể sinh học - xã hội.................................................5
2. Con người là sản phẩm lịch sử và của chính bản thân con người.........7
3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử và là sản phẩm của lịch sử.........7
4. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội..........................8
5. Ý nghĩa lý luận từ quan điểm trên.........................................................8
a. Về lý luận............................................................................................8
b. Về thực tiễn........................................................................................9
III.Quan điểm xây dựng phẩm chất con người trong giai đoạn hiện nay...10
IV. Ý nghĩa của việc xây dựng phẩm chất con người.................................12
KẾT LUẬN.................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................14
3
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử triết học trước Mác đã hình thành nhiều quan niệm về con người,
đa phần mang tính duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Tuy triết học duy vật
trước Mác đã thừa nhận con người là thực thể tự nhiên - xã hội, nhưng họ
vẫn chưa vượt qua được hạn chế siêu hình, thậm chí duy tâm, do quy đặc
trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa một trong hai
thuộc tính: tự nhiên hoặc xã hội. Họ cũng chưa nhận thức được vai trò then
chốt của hoạt động thực tiễn xã hội trong việc hình thành con người.
Hệ thống thế giới quan tôn giáo lại coi con người như một thực thể nhị
nguyên, gồm tinh thần và thể xác, trong đó linh hồn mang tính vĩnh cửu và
tuyệt đối. Tuy vậy, một số trường phái triết học đã đạt được những thành
tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính và xác lập các
giá trị nhân bản học, hướng con người đến tự do. Những thành tựu này
chính là tiền đề quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về con người trong
triết học Mác - Lênin.
Vấn đề con người luôn là chủ đề lớn trong lịch sử triết học nhân loại, bao
gồm các câu hỏi: "Con người là gì?", "Bản chất con người là gì?", "Mối
quan hệ giữa con người và thế giới?", "Con người có thể làm gì để giải
phóng bản thân và đạt tới tự do?". Chính những câu hỏi này đã thôi thúc
chúng em chọn chủ đề "Quan điểm về con người và bản chất con người
trong triết học Mác - Lênin" cho bài tiểu luận này.
Mặc dù thời gian học tập môn triết học ngắn ngủi, nhưng nhờ sự hướng
dẫn tận tình của thầy Nguyễn Thành Trí, chúng em đã hoàn thành bài tiểu
luận này. Chúng em mong nhận được ý kiến và góp ý của thầy để bài viết
được hoàn thiện hơn nữa. Xin chân thành cảm ơn thầy!
4
Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của những người
luôn được phân phối bởi các nhân tố xã hội và luật xã hội. Xã hội biến đổi
thì mỗi người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của
mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ
xà hội thì mỗi người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật trí tuệ,
không thể là "con người"with it đầy đủ ý nghĩa.
Hai phương pháp tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong hệ
thống nhất, quy định hỗn hợp, phối hợp giữa nhau, tạo ra các biến thể trộn
lẫn với nhau, nhờ đó tạo ra khả năng hoạt động sáng tạo của con người
trong quá trình tạo lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý do giải bản tính sáng
tạo của con người đơn thuần chỉ từ Giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ
bản tính xã hội thì đều là cứng rắn, không cần thiết để và nhất là cuối cùng
sẽ dẫn đến những kết nối thảo luận sai trong nhận thức và thực tiễn.
Nhưng điều đó không được tuyệt đối hóa. Không phải đặc tính sinh học,
bản năng sinh học, sự tồn tại có thể xác định là cái duy nhất được tạo ra nên
bản chất của con người, mà con người vẫn là một thực thể xã hội. Khi xem
xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách
rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương
diện đặc biệt, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Thứ hai, Con người còn là sản phẩm của lịch sử xã hội và lao động
chính là nhân tố giữ trò chơi quyết định quá trình hình thành con người,
khẳng định con người có tính xã hội. Trong lịch sử học trước Mác đã có
nhiều quan niệm khác nhau phân biệt con người với thế giới loài vật, như
con người là động vật biết sử dụng công cụ lao động, hoặc con người có tư
duy, v.v… Nhưng, nhưng quan khái niệm đó cũng chỉ nhấn mạnh một khía
cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con
người thì tái sinh sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của người
biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra cải vật
chất và tinh thần để phục vụ cuộc sống của mình, hình thành phát triển
ngôn ngữ và tư duy, xác lập các quan hệ thống xã hội.
Thứ ba, mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, không chỉ khẳng
định nguồn gốc, bản chất sinh vật và xã hội của con người mà khẳng định
vai trò quyết định của hệ thống các quy luật khách hàng đối đấu quá trình
hình thành và phát triển con người. Đó là hệ thống các quy luật tự nhiên
như quy luật môi trường, quy luật trao đổi chất, về di truyền, biến dịch, tiến
hóa, vv quy định phương pháp sinh học của con người. Hệ thống các quy
luật tâm lý, ý thức hình thành vận động trên nền tảng sinh học của con
người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin trống, ý chí,vv hệ
thống các quy luật xã hội quy định các quan hệ xã hội giữa người với
người.
Ba hệ thống luật pháp cùng hoạt động, tạo nên thể thống nhất hoàn
thiện nhất trong cuộc sống con người bao gồm các mặt sinh vật và xã hội.
Bởi vì, con người chỉ có thể tồn tại khi đồng mãn những nhu cầu sinh học,
nhưng không phải bất cứ một sản phẩm vật chất nào cũng có sẵn trong tự
nhiên mà chủ yếu đều do quá trình sáng tạo của con người thông qua lao
động. Xã hội không phải là một thực thể tồn tại độc lập bên ngoài mặt sinh
học, cũng không có cái xã hội và cái sinh học trí tuệ tồn tại độc lập với
nhau, chúng có quan hệ biện minh chứng tác động qua lại lẫn nhau trong
các hệ thống xã hội. By xã hội là phương pháp cho con người hạnh phúc tốt
hơn những nhu cầu sinh học ngày càng có tính hợp lý và văn minh hơn.
Chính vì vậy, con người ngày càng quan tâm đến quá trình cải tiến hiện
thực khách quan, cũng như chính lợi ích của cá nhân, tập thể, giai cấp hay
của toàn bộ xã hội, không phải làm ý thức chủ quan của con người làm
chính điều kiện khách quan và các quy luật khách sạn.
7
2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con
người
Cạnh bên là sản phẩm của tự nhiên, con người còn là sản phẩm của lịch
sử và đồng thời là sản phẩm chủ yếu của lịch sử.
Xem xét vị trí của con người trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, C.
Mác đi đến quan niệm rằng, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển
sử dụng lịch nhân loại được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản
xuất- “kết quả của nghị luận lực thực tiễn của con người”. Hoạt động thực
tiễn này, đến như nó, lại được quy định bởi những điều kiện sinh thái tồn
tại của con người, bởi “một hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có năng
lực sản xuất nó”. Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng nhận được những sản
phẩm có năng lực sản xuất thế hệ trước khi tạo ra và sử dụng chúng làm
phương tiện tiện lợi cho hoạt động sản xuất sản phẩm mới. Nhờ chuyển
giao năng lượng sản xuất này mà con người đã “hình thành nên mối liên hệ
trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản xuất
và làm đó, cả quan hệ sản xuất- quan hệ xã hội của con người, ngày càng
phát triển thì “lịch sử đó càng trở thành lịch sử loài người”. Với quan niệm
này, C. Mác kết luận “xã hội. là sản phẩm của sự hoạt động qua lại giữa
những người con người” và “lịch sử xã hội của con người luôn là lịch sử
của sự phát triển cá nhân của những người con người”.
Kết luận này cho thấy, trong quan niệm của C. Mác, con người không
chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất sản phẩm, mà còn là chủ thể của hoạt
động lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Bằng hoạt động thực tiễn, con người đã
tạo ra dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, cải
thiện đời sống xã hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện chính bản thân mình.
Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử
con người làm nên lịch sử của chính mình và do đó, lịch sử là lịch sử của
con người, làm con người và vì con người.
3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người là nhà phát triển sản phẩm của tự nhiên và lịch sử phát triển
xã hội. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn là chủ thể của lịch
sử xã hội. Với tính năng chủ yếu của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn,
con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội và bản thân mình.
Trong quá trình cải tiến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử
của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ nhân
có thể sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động sản xuất vật chất vừa phải là điều kiện
thuận lợi cho sự tồn tại của con người, vừa là phương pháp dẫn đến sự biến
đổi xã hội. Đó là quá trình nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan
để khẳng định lịch sử vận động phát triển xã hội là lịch sử phát triển các
phương thức sản xuất vật chất khác nhau, vv
Không có con người biểu tượng, con người là công cụ trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử và bản chất của con người trong tính
hiện thực của nó là tổng hòa những mối quan hệ hệ xã hội. Bản chất con
8
người không phải là một hệ thống khép kín mà là hệ thống mở tương thích
với điều kiện lịch sử của con người. Vì vậy, có thể nói rằng, sự phát triển
và vận động của lịch sử sẽ quyết định sự tương thích với hoạt động vận
động và phát triển của bản chất con người thông qua những mối quan hệ xã
hội trong lịch sử.
4. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã được trình bày ở trên, chúng tôi thấy rằng, con
người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan
hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối
quan hệ khác và mọi hoạt động ở mức độ liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C. Mác đã nêu
lên luận đề nổi tiếng trong Luận cương về Phoiơbắc Bản chất con người
không phải là một vật vật cố hữu của cá nhân đặc biệt. Trong quá trình thực
hiện của nó, bản chất con người là tổng hợp các quan hệ xã hội.
Luận đề khẳng định rằng, không có vật thể thoát ly trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn có thể, xác định cuộc sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất, một thời điểm nhất định. Trong điều kiện
lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển năng lực và tư duy trí
tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó(như quan hệ giai cấp, dân
tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội.)
con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của chính mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước
hết là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để giải quyết sự thiếu sót của các
nhà sạch học trước Mác không được tìm thấy bản chất xã hội hội của con
người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính
pháp luật không thể là duy cái duy nhất. Cần phải tìm thấy các biểu hiện
riêng biệt, phong phú và đa dạng của từng cá nhân về cả phong cách, nhu
cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
5. Ý nghĩa lí luận từ quan điểm trên
a. Về lí luận
Chủ nghĩa Mác- Lênin là chính sách phát triển con người và xã hội,
được quy định bởi thiếu kinh tế và xã hội. Yếu tố kinh tế trong các mối
quan hệ kinh tế sản phẩm chất của con người được quy định trong mọi thời
đại khác nhau sẽ có những quy định khác nhau cụ thể trong mọi thời đại
con người sẽ có những lợi ích riêng gắn với lợi ích chung trong xã hội giải
quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và ích lợi xã hội. Khi đánh giá bản
chất của con người phải xem xét đồng thời ở cả hai phương diện bản tính tự
9
nhiên và bản tính xã hội. Trong đó cần phải xem quan trọng hơn việc xem
xét con người từ phương diện xã hội. Hơn nữa, cần xây dựng, rèn luyện
thái độ sống có sự hòa hợp giữa nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội. Tránh
rơi vào vòng lập vô nghĩa khi cứ mãi chạy theo nhu cầu bảng năng tầm
thường.
Xã hội chính là nguồn gốc, là gốc hình thành nên bản chất con người vì
vậy cần phải xây dựng một môi trường xã hội cùng với những mối mối
quan hệ tốt đẹp. Xã hội được định nghĩa bởi những yếu tố văn hóa. Các yếu
tố văn hóa như thế giới quan, thẩm mĩ, lý tưởng, pháp luật, đạo đức cũng
quy định nên sự hình thành con người. Trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn phải chú ý giải quyết tính đúng mối quan hệ xã hội – cá nhân, tránh
việc đề cao quá một cá nhân. Hơn nữa là tạo ra những giá trị mới, nghĩa là
trong quá trình tồn tại, con người cần có sự hòa hợp đất đai, cân bằng giữa
“tài” và “đức”.
b. Về thực tiễn
Không chỉ giải thích thế giới mà còn cải thiện thế giới, tinh học Mác-
Lênin là cơ sở cho doanh nghiệp giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột,
các chế độ độc tài. Thiết lập một xã hội nhân quyền, độc lập, tự làm. Ta có
thể tìm thấy quan điểm trên thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh – một nhà tư tưởng lỗi
lạc, chảy những bài học sâu sắc từ học Mác- Lênin. Hồ Chí Minh tâm
tưởng quần chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi sáng tạo
và mọi phong trào trào lưu. Chính vì thế câu ngôn “lấy dân làm gốc” xuyên
suốt là sợi tư tưởng móc nối các chủ thể cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng
định, đoàn kết toàn dân tộclà một chiến lược lược nhất quán, lâu dài, là vấn
đề sống còn, quyết định thành công của cáchmạng. Tiếp nhận bài học sâu
sắc từ Cách mạng tháng mười Nga cộng hưởng cùng tinh thần học Mác-
Lênin, dựa vào hậu cảnh lịch sử quốc gia Người đã đưa ra cách mạng đến
bến thành công theo xu hướng vô sản xích vòng lại hòa bình tự do cho dân
tộc. Triết học Mác- lênin còn là cơ sở cho chính sách nâng cao cao bài hát
chất lượng nguồn lực quốc gia. Bài hát với đó là việc làm nâng cao chất
lượng cuộc sống, giáo dục, sức khỏe và đạo đức con người. Tìm hiểu tầm
quan trọng của việc phát triển nhân tố con người, kế thừa quan điểm của
Mác- Lênin, Đảng ta khẳng định nguồn lực quý giá nhất, có vai trò quyết
định nhất là con người; nhân tố con người chính là sức mạnh nội sinh của
dân tộc Việt Nam. Hiện nay, với mục tiêu đổi mới Đảng và nhà nước đã đề
ra chiến lược Kinh tế xã hội 2011 – 2020 xác định công việc đổi mới và
hoàn thiện nền tảng giáo dục quốc gia gia phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Cùng với đó, Đại hội XI của Đảng và Nhà nước cũng đề xuất
các sách chính xác nhất để đạt được mức cân bằng giữa kinh tế quốc gia và
văn hóa xã hội. Ngoài ra, Đại hội cũng đề xuất đưa ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng đời sống nhân dân điển hình là cải thiện thu nhập,
giảm phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch khả năng sống giữa nông thôn
10
và thành thị. Nhìn chung những chính sách của Đảng và Nhà nước xem con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cuộc đổi mới phát triển đất
nước.
III. Quan điểm xây dựng phẩm chất con người trong giai
đoạn hiện nay:
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng đang mở ra những cơ hội to
lớn cho đất nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức to lớn về phát
triển nguồn nhân lực. Việc xây dựng phẩm chất con người ngày càng trở
nên cấp thiết, là chìa khóa cho sự phát triển bền vững của xã hội. Dựa trên
khái niệm Bản chất con người của triết học Mác – Lê-nin, quan điểm xây
dựng phẩm chất con người trong giai đoạn hiện nay cần chú trọng vào
những yếu tố sau:
Đầu tiên, nhận thức rõ bản chất con người là chìa khóa để mỗi cá nhân
phát triển toàn diện và góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
Khi hiểu rõ bản chất xã hội của con người, mỗi cá nhân sẽ ý thức được vai
trò và trách nhiệm của bản thân đối với cộng đồng và xã hội, qua đó khơi
dậy niềm tự hào dân tộc, thúc đẩy tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ lẫn
nhau trong xã hội. Nâng cao nhận thức về bản chất con người là một quá
trình giáo dục lâu dài và cần sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường
và xã hội.
Rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp: Đạo đức là kim chỉ nam
cho cuộc sống, là nền tảng cho sự phát triển của mỗi cá nhân và xã hội. Rèn
luyện phẩm chất đạo đức tốt đẹp là trách nhiệm của mỗi người, góp phần
xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết,
lòng nhân ái, tính trung thực và tinh thần trách nhiệm là những phẩm chất
đạo đức cốt lõi cần được rèn luyện. Mỗi cá nhân cần ý thức được tầm quan
trọng của việc rèn luyện phẩm chất đạo đức để góp phần xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn. Hãy biến những phẩm chất đạo đức tốt đẹp thành hành
động thiết thực để lan tỏa giá trị tích cực đến cộng đồng.
Nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn: Trên dòng chảy tri
thức, việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn đóng vai trò
then chốt cho thành công của mỗi cá nhân và xã hội. Học tập là con đường
duy nhất dẫn đến kho tàng tri thức phong phú, là chìa khóa vàng mở ra
cánh cửa thành công trong cuộc sống. Kiến thức thu thập được từ học tập
giúp ta hiểu rõ bản thân, thế giới xung quanh, trau dồi tư duy phản biện,
giải quyết vấn đề hiệu quả và thích nghi với nhịp sống hiện đại. Kỹ năng
chuyên môn là chìa khóa để chinh phục thành công trong sự nghiệp. Nắm
vững kỹ năng chuyên môn giúp ta hoàn thành tốt công việc, tạo dựng chỗ
đứng vững vàng trong xã hội và góp phần vào sự phát triển chung. Nâng
cao trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn là khoản đầu tư vô giá cho
bản thân. Nó giúp ta có được thu nhập cao, nâng cao chất lượng cuộc sống,
đồng thời góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Hãy biến việc
11
học tập và rèn luyện kỹ năng thành thói quen thường xuyên. Hãy chủ động
nắm bắt cơ hội học tập, trau dồi kiến thức và kỹ năng để phát triển bản thân
và đóng góp cho cộng đồng.
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống: Đạo đức và lối sống là những
phẩm chất cốt lõi, định hình con người và góp phần xây dựng một xã hội
văn minh, tiến bộ. Nhận thức được vai trò quan trọng này, việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là trách nhiệm chung của gia đình, nhà
trường và xã hội. Gia đình là môi trường đầu tiên nuôi dưỡng và giáo dục
con người. Cha mẹ cần làm gương cho con về đạo đức, lối sống, đồng thời
quan tâm, giáo dục con từ nhỏ về những giá trị đạo đức tốt đẹp. Nhà trường
cần đổi mới phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh thông qua các hoạt động học tập và rèn luyện. Xã hội cần tạo
môi trường lành mạnh, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về lối sống lành
mạnh, đồng thời có các biện pháp mạnh mẽ để phòng chống tệ nạn xã hội.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là một quá trình lâu dài và cần sự
chung tay góp sức của cả cộng đồng.
Phát huy vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội: Gia đình, nhà
trường và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và phát triển
thế hệ trẻ. Gia đình là môi trường đầu tiên nuôi dưỡng và giáo dục con cái.
Cha mẹ là những người thầy đầu tiên, đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành nhân cách và đạo đức cho con. Cha mẹ cần làm gương tốt cho
con về lối sống, đạo đức, đồng thời quan tâm, giáo dục con từ nhỏ về
những giá trị truyền thống tốt đẹp. Nhà trường là nơi bồi dưỡng tri thức, kỹ
năng và đạo đức cho học sinh. Nhà trường cần đổi mới phương pháp giáo
dục, chú trọng giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh bên cạnh việc
truyền thụ kiến thức. Giáo dục đạo đức giúp học sinh hình thành nhân cách
tốt đẹp, biết yêu thương, chia sẻ, sống có trách nhiệm. Giáo dục kỹ năng
sống giúp học sinh rèn luyện những kỹ năng cần thiết để thích nghi với
cuộc sống, tự tin giải quyết các vấn đề và phát triển bản thân một cách toàn
diện.
Phát triển toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến đời sống con người: Con
người là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các yếu tố về trí tuệ, thể chất,
đạo đức và thẩm mỹ. Phát triển toàn diện các yếu tố này là chìa khóa cho
một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc. Về trí tuệ: Cần không ngừng học hỏi,
trau dồi kiến thức để nâng cao hiểu biết về mọi mặt trong đời sống. Kiến
thức là sức mạnh, giúp ta giải quyết vấn đề hiệu quả, thích nghi với những
thay đổi của xã hội và gặt hái thành công trong cuộc sống. Về thể chất: Rèn
luyện sức khỏe để có một cơ thể khỏe mạnh, dẻo dai là điều vô cùng quan
trọng. Sức khỏe tốt giúp ta có đủ năng lượng để học tập, làm việc và tận
hưởng cuộc sống. Về đạo đức: Rèn luyện đạo đức để trở thành người có ích
cho xã hội. Sống có đạo đức giúp ta được mọi người yêu quý, kính trọng và
có một tâm hồn thanh thản. Về thẩm mỹ: Bồi dưỡng tâm hồn để có một đời
sống tinh thần phong phú. Cảm thụ cái đẹp trong nghệ thuật, thiên nhiên và
cuộc sống giúp ta có một tâm hồn thanh tao, giàu cảm xúc và sống lạc
12
quan, yêu đời. Phát triển toàn diện là một quá trình lâu dài, cần sự nỗ lực
không ngừng của mỗi cá nhân. Hãy biến việc học hỏi, rèn luyện trở thành
thói quen hàng ngày để hoàn thiện bản thân và hướng đến một cuộc sống
tốt đẹp hơn.
IV. Ý nghĩa của việc xây dựng phẩm chất con người:
Con người là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm cả thể xác và tinh
thần. Trong đó, phẩm chất con người đóng vai trò vô cùng quan trọng, là
nền tảng cho sự phát triển toàn diện và bền vững của mỗi cá nhân, gia đình
và xã hội. Phẩm chất con người bao gồm những giá trị đạo đức, trí tuệ,
thẩm mỹ và thể chất tốt đẹp. Mỗi phẩm chất đều đóng vai trò riêng biệt,
góp phần tạo nên một con người hoàn thiện.
Phát triển phẩm chất con người là một quá trình lâu dài, cần sự nỗ lực
không ngừng của mỗi cá nhân. Gia đình, nhà trường và xã hội cần chung
tay giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất
cho thế hệ trẻ. Mỗi cá nhân cần ý thức được tầm quan trọng của việc rèn
luyện phẩm chất con người. Hãy biến việc học hỏi, rèn luyện trở thành thói
quen hàng ngày để hoàn thiện bản thân và góp phần xây dựng một xã hội
văn minh, tiến bộ và phát triển bền vững. Hãy nhớ rằng, con người càng
phát triển toàn diện, phẩm chất càng tốt đẹp thì cuộc sống càng trở nên ý
nghĩa và viên mãn hơn!
Nhiều cá nhân có phẩm chất tốt đẹp và trình độ học vấn cao thúc đẩy
sự phát triển của xã hội, tạo nên môi trường sống tốt đẹp. Qua đó nâng cao
vị thế quốc gia với nguồn nhân lực chất lượng cao, đất nước sẽ có sức cạnh
tranh trên trường quốc tế.
13
KẾT LUẬN
Triết học Mác - Lênin đã đưa ra quan điểm khoa học, đúng đắn và đầy đủ
nhất về bản chất con người trên nền tảng biện chứng duy vật. Con người
được nhìn nhận như một thực thể sinh học - xã hội, là chủ thể và đồng thời
là sản phẩm của lịch sử.
Điểm nhấn của triết học Mác - Lênin nằm ở việc chú trọng vào các yếu tố
xã hội trong việc hình thành và phát triển con người. Theo quan điểm này,
con người không chỉ đơn thuần là một sinh vật sinh học, mà còn chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi môi trường xã hội, bởi các mối quan hệ và hoạt động xã
hội. Để phát triển bản chất và hoàn thiện nhân cách, con người cần "nhân
đạo hóa hoàn cảnh", tạo ra môi trường sống phù hợp với bản chất "người".
Điều này đòi hỏi sự nỗ lực chung của toàn xã hội trong việc xây dựng một
xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mỗi cá nhân có cơ hội phát triển toàn diện.
Khi con người thực sự làm chủ tự nhiên và xã hội, họ sẽ đạt đến "vương
quốc của tự do", nơi bản chất con người được phát huy tối đa. Con đường
dẫn đến "vương quốc của tự do" chính là quá trình đấu tranh không ngừng
nghỉ của con người để giải phóng bản thân khỏi ách áp bức, bóc lột, để xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lịch sử đã chứng minh vai
trò to lớn của con người trong việc thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhờ khả năng
lao động, sáng tạo không ngừng, con người đã tạo nên những cuộc cách
mạng oanh liệt, đưa nền văn minh nhân loại từ cổ đại tiến đến hiện đại.
Tóm lại, triết học Mác - Lênin đã cung cấp cho chúng ta một quan điểm
khoa học, đúng đắn về bản chất con người, từ đó định hướng cho việc giáo
dục, rèn luyện và phát triển con người một cách toàn diện. Mỗi cá nhân cần
ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc hoàn thiện bản
thân, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mỗi người có
thể phát huy tối đa tiềm năng của bản thân.
14
2. Bản chất con người trong triết học Mác - Lênin - LyTuong.net
3. Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người - Luận văn, đồ án, đề tài tốt
nghiệp (luanvan.co)
4. Lý luận của triết học Mác - Lênin về con người và sự vận dụng của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay. (saodo.edu.vn)