You are on page 1of 33

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI: Em hãy nêu quan điểm Triết học Mác Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và nêu rõ vai trò xây dựng con người
trong giai đoạn đổi mới hiện nay.

Học viên: Lê Hồng Phong


Ngành/chuyên ngành: Phương pháp lý luận và dạy học Âm nhạc
Khoá: K21
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Lê Quang Vinh
Hà Nội, 2024
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1: Tìm hiểu lý luận về con người........................................................3
1.1. Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người.........................................3
1.1.1. Những điểm trước triểt học Mác - Lênin về bản chất con người............3
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và nhân tố con
người..................................................................................................................4
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người....................6
1.2.1.Hồ Chí Minh tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người
và bản chất con người........................................................................................6
1.2.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bản chất con người và phát triển nhân tố
con người...........................................................................................................6
1.3. Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người và
chiến lược phát triển con người.........................................................................7
1.3.1. Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người.........8
1.3.2.Các chủ trương chính sách của Đảng về chiến lược con người...............9
Chương 2: Thực tiễn và một số thành tựu đạt được........................................13
2.1. Một số thành tựu đã đạt được và hạn chế trong xây dựng và phát triển con
người trong nước.............................................................................................13
2.2. Hệ quả từ công cuộc xây dựng và phát triển con người trong các lĩnh vực
.........................................................................................................................17
2.3. Đề xuất ý kiến cá nhân.............................................................................23
KẾT LUẬN....................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................28
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.

Vấn để con người tuy là cổ xưa, nhưng lại luôn mới mẻ, thu hút sự chú ý
và thảo luận của nhiều nhà khoa học, nhiều nghành khoa học vì con người là
chủ thể của hoạt động sáng tạo, con người sáng tạo ra mọi của cải vật chất để
nuôi sống mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội, duy trì nòi giống và
lực lượng cải tạo xã hội

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định con người là một thực thể tự nhiên,
đồng thời là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội. Do vậy, con người
chịu sự chi phối bởi các quy luật tự nhiên, đồng thời, với tư cách là một thực
thể xã hội, con người chịu sự tác động của quy luật xã hội. Bởi vậy, theo
C.Mác, xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người cũng tạo ra xã hội
ở mức độ đó.

Kế thừa những thành tựu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người
và xây dựng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” và
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”.

Từ việc năm vững lý luận về con người, về vị trí tầm quan trọng của nhân
tố con người, cho nên trong sự nghiệp đổi mới toàn diện hiện nay, Đảng và
Nhà Nước ta chủ trương đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển,
là chiến lược trung tâm "Chiến lược của mọi chiến lược" và mọi chiến lược
phát triển kinh tế xã hội là nhằm phát huy nhân tố con người, tạo điều kiện
cho con người phát triển hài hoà, có trí tuệ và sức khoẻ. Để làm được như vậy
cần nhận thức được vai trò của các yếu tổ sinh học xã hội trong qua trình hình
thành và phát triển của con người, để từ đó làm cơ sở lý luận và thực tiền
trong việc để ra những chủ trương chính sách kip thời nhằm bồi dưỡng phát
huy nhân tổ con người nói chung để con người thật sự trở thành chủ thế của
quá trình xây dựng xã hội mới.

2. Mục đích nghiên cứu.

Tìm hiểu và phân tích lý luận về con người của triết học Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Từ đó đưa ra giải pháp để xây dựng
con người, cho thấy sự ảnh hưởng cửa triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với việc xây dựng con người trong bối cảnh xã hội đương đại

3. Phạm vi nghiên cứu.

Phạm vi nội dung cụ thể về quan điểm triết học của Mác - Lênin và tư
tưởng của Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người trong giai đoạn
đổi mới

4. Phương pháp nghiên cứu.

Kết hợp nhiều phương pháp: Phân tích, tổng hợp, khái quát, điều tra, xã
hội học, logic và lịch sử, so sánh…
NỘI DUNG
Chương 1:Tìm hiểu lý luận về con người

1.1 Quan điểm triết học Mác - Lênin về bản chất con người
1.1.1 Những điểm trước triểt học Mác - Lênin về bản chất con người.

Hệ thống các quan điểm triết học trước Mác về bản chất con người, vãi
trò, vị trí của con người trong thế giới được thể hiện với hàng loạt các quan
điểm duy vật có, duy tâm có, và thậm trí có cả những quan niệm nhị nguyên.

Quan điểm duy tâm về bản chất con người. Quy đặc trưng bản chất con
người vào lĩnh vực ý thức, tư tưởng hoặc xem bản chất con người là cái gì đó
được quy định sẵn từ lực lượng siêu nhiên.
Theo Khổng Tử, thì ngay từ khi được sinh ra, con người đã bẩm sinh cái thiện
tính, do tác động của ngoại cảnh tính động sinh ra tình (tình cảm), nếu không
kìm chế được cái tình làm cho con người ta trở nên ác.

Theo Platon, con người ta ra dời dã mang bản chất khác nhau và được
chia làm ba loại phù hợp với những chức năng xã hội khác nhau. Chỉ huy,
thực hành và phục tùng.
Theo quan niệm của Epiquya đại biểu tiêu biểu nhất của triết học duy
vật đã bảo vệ chủ nghĩa duy vật ông cho rằng: “Muốn có hạnh phúc phải
mạnh dạn chống lại tư tưởng sợ chết thần thánh”…
Vấn đề con người như theo Khổng Tử, theo Platon được xem xét và giải
quyết theo các quan niệm duy tâm, theo Epiquya lại xem xét và giải quyết
theo quan niệm duy vật….Nhưng về bản chất các nhà triết học đã xây dựng
nên cái nền triết học hết sức phong phú, đa dạng, đánh dấu bước chuyển quan
trọng trong việc đánh giá và nhìn nhận con người, bản chất con người trong tư
tưởng nhân loại.
Các quan điểm triết học cơ bản về con người và bản chất con người có
quan niệm duy tâm, có quan niệm duy vật và cũng có những quan niệm duy
vật không triệt để. DIều đó nói nên tính phức tạp của con người. Nhưng tất cả
những quan niệm đó mới chỉ dừng lại ở những suy nghĩ, mong muốn chưa bắt
tay vào hành động khám phá.
Tất cả do hạn chế của lịch sử, của điều kiện kinh tế - xã hội chưa chín
muồi để có thể khẳng định một cách đúng đắn về con người, bản chất và vai
trò của con người. Nhưng chúng ta luôn thừa nhận hệ thống triết học trước
Mác là kho báu khổng lồ vô giá của nhân loại, là cơ sở lý luận trực tiếp cho
các quan niệm duy vật triệt để về con người của chủ nghĩa Mác ra đời.

1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và
nhân tố con người

Với quan niệm của chủ nghĩa Mác – lênin về con người và nhân tố con
người. Với quan niệm triệt để và phương pháp luận biện chứng, triết học Mác
giúp chúng ta đi đến nhận thức đầy đủ bản chất con người với những biểu
hiện thực sinh động của nó. Mác – Ănghen khi bàn về con người đã khẳng
định: ‘’Con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội’’.
Tức là trong một con người bao giờ cũng gồm có hai phần: Phần con đó là
tính tộc loại, tính du truyền như chúng ta thấy con người sinh ra, lớn lên,
trưởng thành, già cỗi và chết đi. Trong quá trình đó con người phải tuân thủ
những quy luật của tự nhiên như quá trình trao đổi chất, quá trình đồng hóa,
dị hóa, di truyền, biến dị… Còn phần người mang tính xã hội được hình thành
từ quá trình lao động sản xuất. Chính vì con người là động vật duy nhất biết
lao động, có ý thức nên đã tách ra khỏi tình trạng động vật.
Trong khi thực hiện và phát triển quan điểm của Mác, không ít người
không thưc sự hgiểu Mác trong quan điểm của ông: “Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hện xã hội. Ở đây,
Mác nói đến một con người cụ thể. Theo Mác, ta có thể hiểu được bản chất
con người thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua những mối quan hệ xã
hội mà con người ấy tham gia. Mệnh đề “tổng hòa các mối quan hệ xã hội” ở
đây không chỉ đơn thuần là “Tổng hòa” các quan hện kinh tế với chính trị,
văn hóa, đạo đức và pháp quyền, mà con là mặt vật chất, mặt tinh thần, mặt
không gian và thời gian.

Từ luận điểm trên của Mác khiến chúng ta phải để ý đến mặt cá thể, cá
tính và những phẩm chất bẩm sinh đồng thời nó là cái được tạo thành bởi các
quan hệ, nên khi nghiên cứu về nhân tố con người chính là tìm cách tiếp cận
mối quan hệ giữa con người với môi trường xã hội và sự tác động trở lại của
môi trường đối với con người. Đây chính là giá trị cách mạng khiến cho chủ
sở hữu Mác vượt lên tất cả các luận điểm của trường phái triết học trước và
cùng thời với Mác khi nghiên cứu về con người.

Đến đây ta thấy ý nghĩa lớn nhất của việc nghiên cứu bản chất con người,
phân tích rạch ròi thực chất của các yếu tố cấu thành nên bản chất con người,
cũng như mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố đó (sinh học và xã hội)
trong con người, đẻ đúng ta có cơ sở cho việc phát huy nhân tố con người
trong một đội ngũ mà về mặt sinh học cũng như yêu cầu xã hội đang đòi hỏi
và đáp ứng. Luận điểm “thực thể tự nhiên” “thực thể xã hội” là hai yếu tố tồn
tại đan xen nhau, hỗ trợ nhau, bổ xung cho nhau, thâm nhập vào nhau và để
lại dấu ấn trên toàn bộ hoạt động của đời sống con người. Như vậy trong một
hệ thống các luận điểm về con người có cả các quan niệm duy tâm các quan
niệm nhị nguyên và đặc biệt là các quan niệm duy vật về con người nhưng có
lẽ là chưa đầy đủ như mệnh đề: “Con người là động vật chính trị” là quan
niệm của Aristots, hay quan niệm của Fran Klin coi: “Con người là động vật
biết chế tạo công cụ lao động”. Chỉ đến Mác mới có một quan niệm đầy đủ và
chính xác về con người đó là: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội”. Tất cả những quan điểm, quan niệm nêu trên đều là do con người tìm
tòi, học hỏi, nghiên cứu mà có và do ý thức của con người phát triển trong
quá trình lao động, sản xuất. Bản thân mỗi con người chỉ có thể khẳng định
bản chất của mình, chỉ có thể vươn lên hoàn thiện mình khi thấm nhuần chủ
nghĩaMác – Lênin. Chỉ có như vậy thì con người mới có và ngày càng khẳng
định vai trò chủ thể trong hoạt động sáng tạo của mình.

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người
1.2.1.Hồ Chí Minh tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin về con
người và bản chất con người

Hồ Chí Minh sau khi trở thành người cộng sản, người trực tiếp đọc các
bản thảo của Các Mác – Ănghen – Lênin và tiếp cận các đại hội quốc tế cộng
sản. Người đã nhận thức sâu sắc hơn về bản chất cách mạng khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc, giai cấp...để rồi Người đã đưa ra các
khái niệm như: “Người cùng khổ”, “Người bị bóc lột”...ta thấy rõ Hồ Chí
Minh luôn xem xét con người trong các mối quan hệ với cộng đồng và những
điều kiện lịch sử cụ thể. Từ đó người khẳng định vai trò to lớn của con người
là chủ thể của cách mạng XHCN, người nói: “Muốn xây dựng CNXH trước
hết cần có những con người XHCN”.

1.2.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bản chất con người và phát triển nhân
tố con người

Theo người, để xây dựng con người mới cần phải đánh giá đúng con
người về cả “lý” và “tình” về cả “đức” và “tài” trên 5 phương diện cơ bản.
Thứ nhất là bồi dưỡng con người về chí tuệ, vì Người cho rằng: “dốt
cũng là một kẻ địch” dịch dốt nát giúp cho giặc ngoại xâm, dịch dốt nát tấn
công ta về tinh thần cũng như địch ngoại xâm tấn công ta bằng vũ khí. Cách
mạng là sự nghiệp vĩ đại nên con người XHCN phải có trí tuệ cao, có kiến
thức toàn diện, sâu sắc thì mới có lập trường tư tưởng vững càng và làm chủ
được xã hội mới.

Thứ hai là bồi dưỡng về đạo đức vì người cho rằng đạo đức là cái gốc
“cũng như sông thì có nguồn” và “muốn xây dựng XHCN phải có con người
thấm nhuần đạo đức XHCN”, khi có đạo đức thì dù có khó khăn gian khổ con
người cũng không sợ khi thuận lợi thành công con người vẫn khiêm tốn.

Thứ ba là xây dựng mục đích và lối sống mới, vì lối sống xã hội chủ
nghĩa tạo cho con người có lý tưởng hoài bão, bản lĩnh, tạo ra cho con người
ý chí đúng đắn “thắng không kiêu, bại không nản”.

Thứ tư là bồi dưỡng năng lực hoạt động thực tiễn, vì theo Hồ Chí Minh
con người mới phải là con người vừa “hông” vừa “Chuyên” tức là bên cạnh
đạo đức là tài năng con người “có đức mà không có tài thì vô dụng”.

Thứ năm là chăm lo lợi ích và đời sống vậy chất của con người, vì theo
Người con người là một thực thể xã hội, tức là mặt xã hội có thể phát triển
nên một cơ thể khỏe mạnh (cơ sở vật chất, yếu tố sinh học, mặt sinh học)
Những nhu cầu vật chất giúp con người hoàn thiện cả về thể lực, trí lực. Khi
thể lực hoàn thiện là cơ sở cho trí lực tiếp tục hoàn thiện.

1.3. Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người và
chiến lược phát triển con người
1.3.1. Quan điểm của Đảng ta về tầm quan trọng của nhân tố con người
Chúng ta biết rằng, có một nội dung bao chứa rộng lớn cả về lý luận và
thực tiễn nằm xây dựng chế độ mới và giải phóng con người, vì con người ở
trong kho tàng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng ta, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh
Cách mạng, minh triết đó không chỉ đã trở thànhphương châm hành động mà
còn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Trong công trình
nghiên cứu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhấn
mạnh:“Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển
văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách
hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí
để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành
mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ,
văn minh”. Do đó, chúng ta thấy rằng, muốn xây dựng một xã hội đương đại
thì yếu tố con người luôn luôn đóng vai trò then chốt bởi vì những con người
tiêu biểu đại diện cho sự phát triển xã hội của nó. Lịch sử thường gọi nó là
“thời đại” và “con người của thời đại”.

Kể từ khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và nhiều nước Đông Âu


sụp đổ thì vấn đề tiến lên xã hội chủ nghĩa lại trở thành tâm điểm của nhiều
cuộc bàn luận, thảo luận. Rất nhiều ý kiến tranh luận, thậm chí tranh cãi gay
gắt được đưa ra. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, cực đoan đã thừa cơ
xuyên tạc, công kích, bội nhọ, bài trừ, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của đất nước ta. Mặc dù lịch sử đã chứng minh rằng: việc lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng đắn, do nhân dân Việt Nam lựa
chọn, nhưng vẫn còn có một bộ phận còn có “tư tưởng xét lại”, nghi ngờ
thành quả của Cách mạng Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng, tư bản chủ
nghĩa tuy có đạt được rất nhiều thành tựu lớn nhưng cũng có rất nhiều thiếu
sót, đặc biệt về sự phân hóa giàu/nghèo, các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính
trị và cả khủng hoảng y tế dưới tác động của những điễn biến phức tạp trong
các đợt bùng phát đại dịch Covid-19. Theo học thuyết Marx-Lenin thì chủ
nghĩa xã hội là xã hội tốt đẹp, nằm ở nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản. Vì vậy, việc định hướng và xác định con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là cần thiếtvà chúng ta cần phải kiên định với con đường đã
chọn. Do đó, con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người được đào tạo
bài bản, sống có lý tưởng Cách mạng, tư tưởng chính trị, lập trường vững
vàng, sẵn sàng chung tay, vững bước cùng xây dựng đất nước Việt Nam giàu
mạnh.

1.3.2.Các chủ trương chính sách của Đảng về chiến lược con người

Lãnh thổ đất liền của đất nước chúng ta trải dài trên khoảng 15 vĩ độ,
trên đó có 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Quy mô dân số nước ta là hơn
97 triệu dân. Theo UNFPA, Việt Nam chúng ta hưởng thời kỳ “cơ cấu dân số
vàng” và sẽ kết thúc vào năm 2040. Mặt khác, cùng với cuộc cách mạng công
nghệ lần thứ tư, không chỉ Việt Nam chúng ta mà tất cả các nước trên thế giới
cùng đang vận động và thay đổi từng ngày. Với thời kỳ cơ cấu dân số vàng,
không khó có thể nhận ra rằng Việt Nam đang đứng trước một cơ hội chưa
từng có để có thể thực hiện những bước chuyển mình nhanh chóng về các
mặt: kinh tế – xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục,… Do đó, chúng ta phải
tận dụng thời cơ này một cách triệt để để thu hẹp lại khoảng cách với các
cường quốc trên thế giới.

Trong giai đoạn từ nay đến khi kết thúc thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”,
đất nước chúng ta sẽ hướng tới những ngày lễ kỷ niệm lớn như 100 năm ngày
thành lập Đảng vào năm 2030, xa hơn nữa là 100 ngày thành lập nước vào
năm 2045.Vì vậy, để công cuộc đổi mới, con đường lên xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đạt được những thành quả như kỳ vọng, nói cách khác, tất cả những
tiềm năng đang có của đất nước ta có phát huy và tỏa sáng rực rỡ được hay
không thì công tác chú trọng tới thế hệ trẻ phải được chuẩn bị ngay từ bây
giờ.

Đứng trước“giai đoạn vàng” này, chúng ta đã có đầy đủ trong tay tất cả
về mặt thời điểm cũng như cơ hội, nhưng yếu tố con người luôn đóng vai trò
quan trọng nhất. Như lời Bác Hồ kính yêu đã căn dặn:“Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, nếu không có sự
đào tạo, chuẩn bị thì chúng ta sẽ mất đi một lực lượng kế cận, một nguồn chất
xám cần thiết để xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, trong cuộc Cách
mạng công nghệ lần thứ tư hiện nay, tất cả mọi thứ đều phát triển và thay đổi
rất nhanh và đòi hỏi chúng ta phải thích ứng kịp thời với thời đại. Bên cạnh
đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng thời gian không trừ một ai
và trong tương lai ngắn, thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa
này sẽ trực tiếp nắm trong tay vận mệnh đất nước, cùng nhau chèo lái con
thuyền Việt Nam vượt qua khó khăn, sóng gió, vững bước trên con đường chủ
nghĩa xã hội đã được lựa chọn. Vậy nên, cần khẳng định rằng công tác xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa hiện nay nắm vai trò cực kỳ quan trọng,
bởi vì những hạt giống tốt thôi chưa đủ, chúng cần phải được ươm mầm, vun
vén và chăm sóc kỹ càng thì mới có thể phát triển tốt, đủ sức chống chọi với
những mầm bệnh.

Thực trạng xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phục vụ sự
nghiệp phát triển đất nước - từ góc nhìn đào tạo thế hệ trẻ. Như đã phân tích ở
trên, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải dựa trên nền tảng là đào
tạo ra một lớp thế hệ trẻ kế cận được trang bị một cách toàn diện. Đây cũng
mục tiêu giáo dục con người không chỉ ở Việt Nam mà còn là ở tất cả các
nước trên toàn thế giới. Việc phát triển con người một cách toàn diện thực
chất là xây dựng con người mới có đủ năng lực làm chủ bản thân và xã hội.
Tư tưởng coi trọng nhân tố con người này của Đảng ta đã được cụ thể hóa
trong các văn kiện, có thể ví dụ như:

Nghị quyết 33 (Số 33-NQ/TW) về Định hướng xây dựng và phát triển
văn hóa, con người đã xác định rõ mục tiêu là “Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.

Vấn đề “phát triển con người toàn diện” trong các văn kiện của Đại hội
XII được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển
đất nước 5 năm 2016-2020,đó là xây dựng “con người Việt Nam phát triển
toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa”.

Trong văn kiện của Đại hội XIII của Đảng, khi đề cập đến quan điểm
về văn hóa, Đảng ta luôn nhấn mạnh việc phát huy vai trò con người, xây
dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.

Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư cũng đã khẳng định: con người là
một khối tổng hòa của các yếu tố tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm
mỹ và con người mới xã hội chủ nghĩa phải được trang bị đầy đủ các yếu tố
đó. Nếu thiếu đi một yếu tố nào đó thì vấn đề phát triển toàn diện sẽ không
còn được đảm bảo. Những yếu tố trên sẽ được phân tích dưới đây:

Một là, yếu tố tri thức đóng vai trò quan trọng bởi tri thức là sức mạnh.
Việc tiếp thu, lĩnh hội các văn minh, tiến bộ của nhân loại là điều cần thiết bởi
đó là hành trang cho con người mới xã hội chủ nghĩa có tri thức, khoa học,
công nghệ tự tin sánh đưa đất nước ngang các nước phát triển. Nói cách khác,
tri thức là chìa khóa giúp con người bước ra thế giới bên ngoài. Như nhà vật
lý thiên tài Albert Einstein đã nói:“Khi chúng ta hiểu biết càng nhiều thì cái
tôi cá nhân càng bé lại”, khi đó mong muốn tiếp thu tri thức của con người
mới xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng mạnh và những tri thức đó sẽ được vận
dụng để đóng góp không chỉ để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa mà còn cho cả cộng đồng nhân loại thế giới. Hơn nữa, trí lực có tốt thì
con người mới đủ tỉnh táo để chống lại mọi thông tin giả, không đúng sự thật
và phản bác lại được những luận điệu sai trái, thù địch.

Hai là, Bác Hồ đã nói:“Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Bác
căn dặn muốn trở thành người giúp ích cho xã hôi, đất nước thì phải có đạo
đức tốt. Trong cuộc sống, chúng ta đã thấy có những cá nhân biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa; có
hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho cộng đồng, xã hội, bức xúc trong
dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân vào quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.Vì vậy, người có tài mà
không có đức, không đặt lợi ích quốc gia dân tộc trên lợi ích cá nhân sẽ là
nguy cơ gây ra những hậu quả khôn lường, nghiêm trọng; không chỉ cho bản
thân mà còn cho cả cộng đồng.

Ba là, thể lực tốt và lối sống lành mạnh sẽ giúp cho con người mới xã
hội chủ nghĩa có đủ tỉnh táo để chống lại mọi cám dỗ của cuộc sống, tránh xa
các tệ nạn xã hội. Rèn luyện thể lực là không ngừng chú trọng tập luyện, nâng
cao thể chất, vóc dáng, sức mạnh của con người. Mọi người lao động dù ở bất
kỳ ngành nghề nào đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí
tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức
mạnh vật chất. Hơn nữa, cần phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm
tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau
và trong những thử thách hết sức khó khăn và khắc nghiệt. Vậy, muốn có thể
lực tốt thì ngoài việc rèn luyện thể thao thường xuyên, cũng cần có một chế
độ sống, lối sống hợp lý, tránh xa các chất kích thích gây tổn hại cho cơ thể
và hệ thần kinh.
Bốn là, tính thẩm mỹ cao mang lại cái đẹp cho con người, mang lại
nhiều vẻ đẹp cho xã hội. Tính thẩm mỹ ở đây không đơn thuần là vẻ đẹp bên
ngoai mà còn là tính nhân văn, nhân đạo của con người. Vẻ đẹp trong cuộc
sống luôn có muôn sắc thái khác nhau và được thể hiện ra trong từng hành
động, từng lời nói, từng cử chỉ của con người trong các mối quan hệ, giao tiếp
xã hội. Như lúc sinh thời, Bác Hồ cũng đã dặn dò:“Mỗi người tốt, mỗi việc
tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Để xã hội tốt
hơn, chất lượng cuộc sống cao hơn thì thẩm mỹ của con người cũng cần chú
trọng.

Chương 2: Thực tiễn và một số thành tựu đạt được

2.1. Một số thành tựu đã đạt được và hạn chế trong xây dựng và phát
triển con người trong nước.

Xét tới hiện nay thì công cuộc đào tạo thế hệ trẻ - những con người mới
xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta đã có thành quả đáng khích lệ. Tuy chưa có
điều kiện để đảm bảo giáo dục miễn phí cho tất cả các cấp học nhưng Việt
Nam tập trung hoàn thành xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục và có tới 95%
người lớn biết đọc, biết viết. Số sinh viên học cao đẳng, đại học và sau đại
học tăng lên hằng năm với chất lượng ngày càng được cải thiện. Cơ sở vật
chất của các cơ sở đào tạo ngày càng được mở rộng, nâng cấp và cải thiện.
Các chương trình hợp tác quốc tế mở ra tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên
dễ dàng tiếp cận được với tri thức nước ngoài. Đội ngũ giảng viên được đào
tạo bài bản ở trong và ngoài nước, nắm chắc chuyên môn, có những phương
pháp đào tạo khoa học đã cải thiện đáng kể chất lượng sinh viên Việt Nam, rất
nhiều sinh viên Việt Nam đi du học và tỏa sáng rực rỡ trên đất bạn. Về mặt
thể chất thì sức vóc người Việt có sự cải thiện đáng kể. Chúng ta dần có nhiều
những thành tích cao trên đầu trường thể thao quốc tế. Điều đó cho thấy rằng
công cuộc giáo dục con người đã được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm và
chú trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng còn có nhiều điểm cần cải
thiện, đặc biệt vấn đề phân hóa, chênh lệch trình độ giữa các vùng miền trên
Tổ quốc bởi với hơn 60% dân số sống nước ta ở nông thôn. Tóm lại, nhìn
chung tất cả những gì chúng ta đã, đang có là cơ sở tiền đề tốt, vững chắc để
có thể đáp ứng được công cuộc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo thế hệ trẻ góp phần
hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng công nghệ
lần thứ tư hiện nay, Việt Nam không thể là một đất nước đứng ngoài cuộc.
Việc ứng dụng các giải pháp công nghệ cao hiện nay vào cuộc sống đã giải
phóng sức lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm thời gian cũng
như tiền bạc. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã len lỏi vào mọi góc cạnh
của cuộc sống khiến chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể. Người dân
được tiếp cận nhanh, dễ dàng với những gì mình muốn, vì vậy chúng ta cần
tiếp tục phát huy những gì đang có và đổi mới, sáng tạo vì cuộc sống chất
lượng hơn.

Bên cạnh đó, những nghiên cứu mang tính ứng dụng nên được đầu tư
mạnh mẽ. Mô hình nghiên cứu 5 nhà bao gồm : nhà trường - nhà khoa học -
nhà đầu tư - nhà kinh doanh - nhà nước sẽ góp phần đẩy mạnh sự phát triển
khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở đất nước ta. Mô hình liên kết này
đã được trình bày và giới thiệu ở Diễn đàn Trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu lần
thứ 3 năm 2020 do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức.

Bài toán nguồn lực cũng là bài toán hóc búa bởi lực lượng trí thức trẻ -
những con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ là nhân tố quan trọng trong việc vận
dụng và thực hiện các hoạt động đưa Việt Nam vững bước trên con đường xã
hội chủ nghĩa. Phát triển nguồn lực chất lượng và lâu dài là điều kiện cần thiết
bởi nội lực có mạnh thì đất nước mới phát triển mạnh. Các quốc gia trên thế
giới như Nhật Bản, Israel,… trở nên giàu có nhờ họ đã xây dựng được lực
lượng thế hệ trẻ chất lượng.

Ngoài nguồn nhân lực trong nước thì những người Việt Nam ở nước
ngoài (lực lượng kiều bào) cũng là nguồn lực không thể bỏ qua. Người Việt
Nam sống ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, rất nhiều nhà khoa học, học
giả, nhà kinh doanh,… người Việt trên thế giới luôn sẵn sàng góp công sức, ý
kiến của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Họ cũng truyền cho thế hệ
người Việt sau khi sinh ra ở nước ngoài tinh thần hướng về nguồn cội cha
ông. Vì vậy, đất nước ta phát triển được sẽ có phần không nhỏ từ khối đại
đoàn kết dân tộc và lực lượng này cũng sẽ góp phần quảng bá hình ảnh Việt
Nam ra ngoài thế giới.

Cuối cùng là nên tạo cơ hội để các bạn trẻ có chuyên môn, có năng lực
được cống hiến, dấn thân, đảm nhận công việc và có môi trường để phát triển
toàn diện. Việc này sẽ giải quyết đồng thời hai vấn đề: kế thừa và phát huy.
Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ kế thừa những thành quả, lĩnh hội những kinh nghiệm,
bài học quý báu do thế hệ trước truyền lại. Cùng với đó, những năng lực của
bản thân, tri thức cũng như đạo đức đã được trau dồi, những người trẻ sẽ phát
huy được những tiềm năng của bản thân và sẵn sàng đảm nhiệm vai trò làm
chủ đất nước, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dân tộc Việt Nam
quyết tâm hiện thực hóa khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Dựa vào những phân tích trên, mục tiêu chúng ta phấn đấu là xây dựng
được một thế hệ thanh niên Việt Nam sống có tri thức, có đạo đức phẩm chất
tốt đẹp, lối sống văn minh, lành mạnh, vóc dáng đẹp và có nét đẹp về tâm
hồn, sống nhân văn. Đó cũng là động lực để chúng ta hiện thực hóa mục tiêu
này bởi vì tương lai của đất nước chính là tương lai của mỗi con người chúng
ta, và công việc này cần sự chung tay, đoan kết của tất cả mọi người chứ
không phải riêng mình ai. Vì vậy, có thể nói rằng việc xây dựng một đội ngũ
con người mới xã hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên là mục tiêu, cũng là
động lực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Việc xây dựng, phát huy và phát triển hệ giá trị và chuẩn mực con
người ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh mới cả trên phương diện quốc
tế lẫn trong nước. Thứ nhất, nền kinh tế thị trường thế giới đã bước sang giai
đoạn phát triển mới với nhiều đặc điểm, tính chất khác trước, trên nền tảng
công nghiệp và các công nghệ mới. Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ đang diễn ra mạnh mẽ làm thay đổi nhanh chóng các lực lượng sản xuất
toàn cầu, các quan hệ xã hội từ cấp vĩ mô toàn cầu đến cấp vi mô trong từng
gia đình. Thứ ba, quá trình toàn cầu hóa, dù vài năm gần đây xu hướng dân
tộc chủ nghĩa trỗi dậy, vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, không thể đảo ngược,
đang tác động mạnh đến sự phát triển của các quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển, cả về phương diện cơ hội lẫn thách thức. Thứ tư, những vấn đề
toàn cầu ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia và toàn nhân loại,
vừa đang có thêm những nội dung và biểu hiện mới. Đại dịch COVID-19 làm
đảo lộn nền kinh tế của nhiều quốc gia và của thế giới chỉ là một ví dụ. Thứ
năm, hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng, cuộc
đấu tranh giành quyền ảnh hưởng giữa các cường quốc, các quan hệ quốc tế
diễn biến phức tạp, khó lường, cũng có thêm nhiều nội dung và biểu hiện mới.
Tất cả những quá trình đó đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp phát triển
con người và xã hội ở nước ta.

Trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới và phát triển, nền kinh tế thị
trường đã có những bước phát triển nhanh và mạnh với nhiều đặc điểm khác
trước. Kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của
nền kinh tế được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; lạm phát
luôn được kiểm soát ở mức thấp; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang
chiều sâu; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng
được cải thiện. Dịch bệnh và các nhân tố khác có ảnh hưởng lớn đến nền kinh
tế và nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhưng không thể thay đổi đà phát triển
của nó. Thế và lực của nước ta vững mạnh chưa từng có, nhưng cũng đang
gặp phải nhiều thách thức khó vượt qua. Hội nhập kinh tế quốc tế được triển
khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được sự
hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp
độ, đa dạng về hình thức, song phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập
khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước. Vị thế, uy tín, vai trò của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao.

2.2. Một số thành tựu đã đạt được và hạn chế trong xây dựng và phát
triển con người trong các lĩnh vực

Hơn 35 năm qua, phát triển xã hội, văn hoá, con người cũng đã đạt
nhiều kết quả quan trọng. Tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh chóng; đội ngũ
trí thức đông đảo chưa từng có trong lịch sử. Văn hoá phát triển ngày càng đa
dạng về các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt
của đời sống xã hội. Các giá trị quốc gia, văn hoá, gia đình, con người, cộng
đồng tiếp tục được được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Các giá trị văn hoá và
con người trong lĩnh vực chính trị và kinh tế được coi trọng và bước đầu phát
huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về
kinh tế, văn hoá không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu. Công cuộc xây
dựng và phát triển con người có nhiều thành tựu vượt bậc. Những điển hình,
tiên tiến, những tấm gương sáng trên tất cả các lĩnh vực học tập, lao động,
chiến đấu, phục vụ Tổ quốc, nhân dân, chống dịch bệnh, khắc phục thiên tai,
bão, lũ, trên khắp mọi miền đất nước trong những năm qua là những minh
chứng phong phú, đa dạng về sự củng cố, phát huy và phát triển các giá trị
con người Việt Nam trong thực tiễn.

Hệ giá trị con người là một cấu thành đặc biệt quan trọng trong hệ
thống nhiều hệ giá trị Việt Nam khác nhau cùng tồn tại trong giai đoạn lịch sử
hiện nay của đất nước. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử , dân tộc Việt Nam đã
tạo nên một hệ thống nhiều hệ giá trị khác nhau như: hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hội, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng, hệ
giá trị tộc người, hệ giá trị đạo đức, hệ giá trị chính trị. v.v.. Tùy thuộc vào
lĩnh vực, đối tượng, chủ thể, góc độ xem xét, mà mỗi một hệ giá trị đó lại bao
hàm những giá trị khác nhau và có những cơ cấu, trình tự thứ bậc khác nhau.
Nhưng trong hệ thống các hệ giá trị đó thì hệ giá trị con người bao giờ cũng là
hệ giá trị trung tâm. Trong mối quan hệ với các hệ giá trị cơ bản như hệ giá trị
quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng,… thì hệ
giá trị con người còn thể hiện là hệ giá trị cốt lõi với nhiều giá trị xuyên suốt
các hệ giá trị khác. Hệ giá trị con người ẩn chứa, kết tinh, thấm đẫm, trong
nhiều mặt, nhiều nội dung của các hệ giá trị khác.

Nếu hiểu theo nghĩa rộng, chung nhất, có thể coi hệ giá trị con người là
những yếu tố tích cực, những phẩm chất, đặc tính, tính cách người, các nội
dung, yêu cầu trong các quan hệ xã hội, thể hiện thực chất những quan hệ
người (với tự nhiên, với người khác, với cộng đồng, với xã hội) được hình
thành và trao truyền trong quá trình sinh tồn, phát triển có ý nghĩa tích cực, tốt
đẹp, hữu ích, thúc đẩy sự phát triển con người và xã hội. Hệ giá trị con người
còn là sản phẩm quá trình nhận thức của các chủ thể người khác nhau. Không
có sự nhận thức và đánh giá của các chủ thể người thì các quan hệ người vẫn
tồn tại mà không hề có ý nghĩa, vai trò, nghĩa là không có giá trị với con
người. Nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người càng phát triển thì hệ
giá trị con người càng được khai mở, nội dung càng nhiều thêm, phong phú
thêm, đa dạng hơn. Con người trong xã hội hiện đại đương nhiên biết đến,
hiểu rõ nhiều giá trị hơn con người cổ đại.

Trong đời sống con người có nhiều loại phẩm chất, yếu tố, đặc tính,
quan hệ xã hội khác nhau, từ quan hệ trong gia đình đến quan hệ ngoài xã hội,
từ quan hệ với quá khứ đến quan hệ với hiện tại và tương lai.v.v.. Chính vì
thế, hệ giá trị con người có nhiều giá trị cụ thể với nhiều nội dung khác nhau,
có trật tự, thứ bậc khác nhau. Mỗi giá trị trong hệ giá trị con người, phụ thuộc
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể lại là một biến số. Có giá trị vĩnh hằng, dù vị
trí trong thang bậc cũng không thể cố định, lại có giá trị chỉ là giá trị trong
một giai đoạn lịch sử nào đó của con người. Sự thay đổi, khác biệt về vị trí,
thang bậc trong hệ giá trị con người càng khiến cho việc xác định, xây dựng,
phát huy và phát triển nó càng không dễ dàng.

Hệ giá trị con người được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài, được
sàng lọc, gạt bỏ, bổ sung, tiếp biến và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau. Hệ giá trị dù có biến đổi thường xuyên, liên tục, nhưng cũng có độ
trễ so với những biến đổi của các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có tính
ổn định tương đối, có sự bền vững, bất biến, “trường tồn” ở những mức độ và
phạm vi nhất định. Hệ giá trị con người được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này
qua thế hệ khác, trở thành tài sản, hành trang của các thế hệ, mang suốt cuộc
đời. Nó trở thành thước đo suy nghĩ, hành vi, hoạt động của mỗi con người,
cộng đồng trong xã hội, của từng thời kỳ lịch sử cụ thể, là “khuôn mẫu”,
“chuẩn mực” để mỗi người và cả cộng đồng định hướng cho các suy tư, hành
vi và hoạt động của mình. Nếu các suy tư, hành vi, hành động ấy, dù theo
đúng khuôn mẫu, chuẩn mực ấy, nhưng mang lại hệ quả không tốt, không đáp
ứng lợi ích chung hoặc riêng, không phù hợp với hiện tại hoặc tương lai thì
những khuôn mẫu, chuẩn mực cụ thể, những giá trị đơn lẻ, hoặc những nội
dung xác định của giá trị đó sẽ bị loại bỏ dần.
Hệ giá trị con người gồm nhiều giá trị cấu thành khác nhau. Ở mỗi giai
đoạn phát triển của con người và xã hội thì hệ giá trị con người có những thay
đổi nhất định. Điều đó lại dẫn đến sự thay đổi các chuẩn mực cụ thể trong đời
sống con người và cộng đồng. Điều này không chỉ phụ thuộc vào bối cảnh,
điều kiện khách quan, lĩnh vực nghề nghiệp, mà còn phụ thuộc vào các giai
đoạn phát triển của chủ thể, phụ thuộc vào tiến trình chuyển biến của vòng
đời con người. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tiêu chí, giá trị, chuẩn
mực của thiếu niên và nhi đồng (5 điều Bác Hồ dạy), khác với tiêu chí, giá trị,
chuẩn mực của anh bộ đội, của lực lượng công an nhân dân. Việc xây dựng hệ
giá trị con người trong thời kỳ mới hiện nay phải cụ thể hóa thành các tiêu
chí, chuẩn mực, cho các từng lớp người, các lĩnh vực xã hội, các lứa tuổi khác
nhau, trên cơ sở phương pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đây.

Cho đến nay, cả về phương diện nhận thức lẫn thực tiễn, giới học thuật
chúng ta chưa xác định chính xác được hệ giá trị con người với những chuẩn
mực, tiêu chí cụ thể, được xã hội đồng thuận, để có thể khai thác, phát huy,
phát triển trong thời kỳ mới hiện nay một cách phù hợp, hiệu quả tốt hơn. Một
số học giả, nhà nghiên cứu, trong đó có cả người nước ngoài đã nêu lên một
số nhận định về xã hội, con người Việt Nam - mà họ xem đó là những giá trị
Việt. Nhưng nếu xem xét kỹ lưỡng thì thấy đúng ra đó mới chỉ là những đặc
tính nhất định của con người hoặc xã hội Việt Nam ở một giai đoạn lịch sử
nào đó chứ chưa phải toàn bộ những nội dung mà họ nêu đều đã là những giá
trị Việt hay hệ giá trị con người Việt Nam.

Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, ngày 21/11/2021, Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã đúc kết, khái quát các giá trị con người Việt Nam gồm: Yêu
nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng
tạo. Đây có thể xem là những giá trị cơ bản, chủ yếu, cốt lõi trong hệ giá trị
con người Việt Nam hiện nay. Những giá trị này vừa là kết tinh những truyền
thống tốt đẹp hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất nước, vừa là yêu cầu,
đòi hỏi con người Việt Nam đương đại phải thực hiện, phải tuân thủ, phải
xem là khung khổ, khuôn mẫu, tiêu chí để suy nghĩ và hành động. Không ai
có thể phủ nhận rằng yêu nước là một giá trị của con người Việt Nam, dù đó
là con người Việt Nam trong lịch sử hay con người Việt Nam hiện nay. Đây
là giá trị cốt lõi nhất, cơ bản nhất trong các giá trị cốt lõi, cơ bản của hệ giá trị
con người. Đồng thời, nó cũng là giá trị muôn đời của các thế hệ mai sau.
Cũng tương tự như vậy, các giá trị đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực,
trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo, cũng là những giá trị vừa mang tính truyền
thống, vừa là chuẩn mực, tiêu chí cho suy nghĩ và hành động của mỗi người,
mỗi cộng đồng và cả dân tộc trong cả hiện tại và tương lai. Chắc chắn rằng
đây chưa phải là toàn bộ các giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn đoạn
hiện nay. Hệ giá trị con người Việt Nam còn nhiều giá trị khác nữa: Nhân ái,
khoan dung; Anh hùng, dũng cảm; Hiếu học; Cần cù; Lạc quan; Trọng đạo lý.
v.v..

Các hệ giá trị Việt Nam nói chung, hệ giá trị con người nói riêng, là
một trong những nguồn lực nhân văn vĩ đại của quốc gia - dân tộc, là nguồn
lực nội sinh đặc biệt. Các nguồn lực khác như tài nguyên, khoáng sản truyền
thống, khi càng khai thác càng bị cạn kiệt; nếu không khai thác thì vẫn
nguyên vẹn, không hao mòn, không tàn lụi. Các nguồn lực hệ giá trị nói
chung, đặc biệt, nguồn lực hệ giá trị con người nếu không sử dụng, không
khai thác, không khơi dậy và phát huy, nó sẽ không những không phát triển
mà còn dần lu mờ, tàn lụi, suy giảm và mất dần vai trò, sức mạnh. Đó là
nguồn lực rất đặc biệt, nếu liên tục dùng thì không bao giờ hết, không bao giờ
cạn kiệt, nhiều thế hệ, nhiều chủ thể có thể cùng dùng, cùng khai thác. Chúng
càng được khai thác, càng được khơi dậy, càng được phát huy, thì càng trở
nên phát triển, nẩy sinh, phồn thịnh, càng bùng dậy mạnh mẽ. Chính vì thế
các thế hệ, các chủ thể, cả hôm nay và ngày mai cần biết trân trọng, khơi dậy,
khai thác, phát huy và phát triển nguồn lực nội sinh đặc biệt, vô giá này.
Hệ giá trị con người Việt Nam là nội dung cấu thành quan trọng nhất,
quyết định nhất chất lượng nhân lực và nguồn lực con người trong mọi thời
đại. Dù nhận thức và sử dụng có ý thức được vai trò của nó hay không thì đây
vẫn là điều tất yếu. Hệ giá trị con người có mặt trong tất cả các cấu phần của
nguồn lực con người, của nhân lực: thể lực, trí lực, tâm lực và kỹ lực (bao
gồm kỹ năng và kỹ xảo, trong đó có “kỹ năng mềm” được đánh giá cao trong
những thập niên gần đây). Hệ giá trị Việt Nam, đặc biệt là hệ giá trị con
người, luôn tồn tại, tác động vào xã hội thông qua hoạt động của mỗi người,
mỗi cộng đồng, mỗi chủ thể khác nhau trong toàn bộ hệ thống nhân lực và
nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao trước hết là nguồn nhân lực
có hàm lượng hệ giá trị con người và các hệ giá trị Việt Nam rất cao. Nếu
muốn đột phá trong phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng
cao thì không thể không có giáo dục, trao truyền, khơi dậy, phát huy, phát
triển hệ giá trị con người Việt Nam và các hệ giá trị Việt Nam khác.

Chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn 2021-2030 với tầm nhìn
đến 2045 muốn thành công tất yếu phải phát huy cao độ tất cả các nguồn lực
có thể có của dân tộc và thời đại. Trong đó có các nguồn lực nhân văn, mà
đặc biệt quan trọng và quyết định là nguồn lực con người. Trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay thì nguồn lực này càng có ý
nghĩa quyết định.

Khi nói về hệ giá trị con người hay về hệ giá trị Việt Nam theo nghĩa
chung, trong tâm thức mọi người theo thói quen và tập quán, khía cạnh đạo
đức được nhắc đến trước tiên. Trong cách hiểu chung hệ giá trị con người
Việt Nam, các nội dung về đạo đức, về trách nhiệm đối với con người, cộng
đồng luôn được chú trọng hơn. Trong hệ giá trị con người luôn có các giá trị
văn hóa, các giá trị truyền thống, các giá trị đạo đức, các giá trị chung, phổ
quát của nhân loại, của khu vực... Điều này có lẽ không chỉ do tập quán và
thói quen truyền thống mà trong thực chất, thực tế, các giá trị đạo đức trong
hệ giá trị con người Việt Nam có vai trò và có ảnh hưởng to lớn. Đứng ngay
sau các giá trị đạo đức và rộng hơn nó là các giá trị văn hóa. Sức nặng của hệ
giá trị văn hóa trong hệ giá trị con người là rất to lớn, bởi ảnh hưởng và tác
động của nó đến con người và xã hội luôn hiện hữu, quyết định và chi phối sự
biến đổi, phát triển và cả sự tồn vong của dân tộc - quốc gia. Đây chính là nét
đặc thù để chúng ta xem xét và là điểm chúng ta cần hết súc lưu ý khi xây
dựng hệ giá trị con người Việt Nam, cũng như khi khai thác, sử dụng và phát
huy nó để phát triển đất nước, phấn đấu đến giữ thế kỷ XXI nước ta trở thành
nước phát triển theo định hướng XHCN.

Trong hiện thực, nếu các hệ giá trị nói chung, hệ giá trị con người nói
riêng bị biến động, lệch chuẩn, rối loạn thì xã hội đương nhiên là mất phương
hướng, suy giảm niềm tin, bất ổn, rối ren. Sự xung đột giữa các giá trị cũ sắp
bị loại bỏ hoặc bị loại bỏ từng phần với các giá trị mới khiến cho xã hội mất
định hướng giá trị; các hành vi, hoạt động của những con người, bộ phận dân
cư khác nhau sẽ được đánh giá, định vị, theo những chuẩn mực, khung mẫu
khác nhau. Tình hình đó dẫn đến sự xung đột trong định hướng, đánh giá và
niềm tin, tạo nên sự rối loạn của xã hội. Những thang bậc đúng sai, tốt xấu, có
lợi, có hại,… đối với cộng đồng, cá nhân, có thể bị đảo lộn. Trong những thời
đoạn như vậy, vai trò của tầng lớp tinh hoa của xã hội, của truyền thông là rất
quan trọng. Nếu họ không đảm đương được trách nhiệm định hình giá trị, xác
lập, củng cố vai trò các giá trị và hệ giá trị con người, nhanh chóng điều chỉnh
định hướng phù hợp với xu thế phát triển, thì xã hội sẽ rối ren hơn, hệ lụy
nặng nề kéo dài hơn.

2.3. Đề xuất ý kiến cá nhân.

Về thực trạng xây dựng, phát huy và phát triển hệ giá trị con người
trong giai đoạn hiện nay cần lưu ý mấy điểm sau đây. Thứ nhất, từ trước đến
nay, trong các tài liệu, kể cả Văn kiện Đảng những nhiệm kỳ gần đây đều đã
nhấn mạnh điểm nghẽn của sự phát triển đất nước nói chung và của tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hóa là nguồn nhân lực; đột phá của sự phát
triển cũng là nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao - hiện
đang là điểm nghẽn đối với sự phát triển đất nước. “Nghẽn” về khơi dậy, khai
thác, phát huy, phát triển hệ giá trị con người và hệ giá trị Việt Nam, là nội
dung rất quyết định trong phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất
lượng cao, lại chưa được nghiên cứu, chưa được nhận thức, và chưa được thể
hiện thành chính sách, giải pháp cụ thể. Hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây
đã chú ý nhiều hơn, nhưng chưa triển khai được bao nhiêu. Cần nhận thức
rằng đây là khiếm khuyết, thiếu sót chủ quan quan trọng cần được khắc phục
sớm. Nếu không chú ý đến điểm trọng yếu này thì không thể có đột phá trong
phát triển nhân lực và nguồn nhân lực, do vậy đất nước cũng chưa thể có đột
phá trong phát triển.

Thứ hai, tất cả các chủ trương chính sách về con người và về nguồn
nhân lực, nhân lực cho đến nay vẫn chưa chú ý đến hệ giá trị con người và hệ
giá trị Việt Nam, càng chưa chú ý trực tiếp đến khơi dậy, khai thác, phát huy,
phát triển các hệ giá trị đó trong việc đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, phát triển bền
vững. Đại hội Đảng các kỳ gần đây đếu nhấn mạnh vai trò chủ thể của con
người, xem con người là mục tiêu, động lực, con người là trung tâm, là mục
tiêu của sự phát triển. Nhưng vai trò chủ thể, động lực của con người lại bị
quy định bởi các hệ giá trị mà con người mang trong mình, lại không được
nói đến. Xây dựng và phát triển con người mà không nói đến xây dựng và
phát huy các hệ giá trị nói chung, hệ giá trị con người nói riêng cũng là thiếu
sót quan trọng, rất cần sớm được khắc phục.

Thứ ba, hệ giá trị con người và hệ giá trị Việt Nam là một trong những
nội dung cốt lõi nhất của xây dựng phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực trong giai đoạn hiện nay. Các hệ giá trị đó đều trực tiếp hoặc gián
tiếp tạo ra các sản phẩm có giá trị và có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu. Trong thực tế, giá trị của các sản phẩm không thể không có sự tham gia
của các hệ giá trị Việt Nam, nhất là hệ giá trị con người. Công nghiệp điện
ảnh, du lịch văn hóa, du lịch tâm linh, lịch sử, sinh thái. v.v.. là những ví dụ
về hệ giá trị Việt Nam tạo nên giá trị của cải vật chất. Trong điều kiện kinh tế
thế giới bước sang giai đoạn phát triển mới với đặc tính mới là hao mòn giá
trị, hao mòn vô hình, nhanh hơn hao mòn hữu hình thì sự tham gia của các hệ
giá trị con người, hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị quốc gia có vai trò rất đặc
biệt đối với việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường hiện đại.

Thứ tư, trong hiện thực, chúng ta đang “khủng hoảng” hệ giá trị con
người ở những mức độ khác nhau. Suy thoái về tư tưởng, phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống, tư duy, của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong
thời gian qua là minh chứng rõ ràng cho điều đó. Việc xác định, xây dựng và
phát huy các hệ giá trị văn hóa, con người là rất cần kíp, rất quan trọng, rất có
ý nghĩa đối với việc phòng chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực hiện nay. Xác
lập và xây dựng, phát huy các hệ giá trị sẽ củng cố sự ổn định xã hội, đảm bảo
an ninh con người, “giảm sốc” cho các biến động kinh tế, xã hội, chính trị, tư
tưởng… giúp con người và xã hội “vững vàng”, bản lĩnh hơn, định hướng tốt
hơn, hiệu quả hơn trước mọi biến động, khủng hoảng của đời sống.

Thứ năm, cá nhân, gia đình, nhà trường, xã hội là những chủ thể xã hội
đặc biệt quan trọng trong việc hình thành hệ giá trị con người. Các chủ thể xã
hội này có chức năng, vai trò đặc biệt, to lớn trong việc khơi dậy, trao truyền,
bồi đắp, phát triển, tiếp biến và phát huy, hệ giá trị con người, các hệ giá trị
Việt từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ cá nhân, cộng đồng này qua cá nhân,
cộng đồng khác. Sự kết nối liên hoàn vai trò giáo dục hệ giá trị con người của
các chủ thể cá nhân, gia đình, nhà trường, xã hội đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc tiếp nhận, hình thành, và phát triển các hệ giá trị Việt Nam
nói chung và hệ giá trị con người nói riêng, đặc biệt là giữa các thế hệ trẻ.
Trong quá trình chuyển đổi của đất nước, đang xuất hiện sự “đứt gãy”, gián
đoạn về giáo dục, trao truyền hệ giá trị con người giữa các thế hệ. Trước đây
công việc này, chủ yếu do gia đình đảm nhận. Ngày nay, trẻ em - nhất là trẻ
em ở các thành phố, khu công nghiệp - thời gian ở trường, giao tiếp với cô
thầy, bạn bè, học tập kiến thức nhiều hơn ở nhà với ông bà, bố mẹ, anh chị
em. Trong khi nhà trường chưa sẵn sàng, chủ động với giáo dục các hệ giá trị
thì vai trò, chức năng của gia đình về việc này đang bị rút bỏ. Đây là khuyết
khuyết lớn cần phải nhanh chóng được khắc phục càng sớm càng tốt.

Thứ sáu, trong giai đoạn Đổi mới, mặc dù Đảng đã xác định con người
là mục tiêu, là động lực, là trung tâm của sự phát triển; công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải do con người,
vì con người. Nhưng, trong thực tế, chủ trương đó vẫn chưa được các chủ thể
xã hội khác nhau thực sự xem con người, nhân lực là khâu quyết định; Đảng
chưa có nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển con người, dù tất cả các
nghị quyết đều có nói về con người. Đã đến lúc cần có một nghị quyết chuyền
đề về xây dựng và phát triển con người với đầy đủ các nội dung phong phú về
con người đối với phát triển bền vững đất nước đến 2030 và tầm nhìn đến
2045. Trong đó các hệ giá trị Việt Nam nói chung, hệ giá trị con người Việt
Nam nói riêng, là những nội dung cơ bản không thể thiếu.
KẾT LUẬN
Chiến lược xây dựng và phát triển con người bền vững là một mục tiêu,
động lực quan trọng của sự nghiệp đổi mới, đồng thời thể hiện bản chất ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam bước vào phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đường lối xây dựng và phát triển con
người bền vững là hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới vừa
qua đã góp phần quan trọng vào việc củng cố hệ thống chính trị, phát triển
kinh tế, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế trong bối cảnh cách mạng khoa học
công nghệ 4.0, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Đường lối
này chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta. Những đóng góp
sáng tạo của Đảng về lý luận xây dựng và phát triển con người, phát triển văn
hóa là một bộ phận quan trọng hợp thành lý luận đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay. Đề tài đã tìm hiểu và so sánh quan điểm triết học Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Dù có những điểm chung và
khác biệt, nhưng cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn
chúng ta về tầm quan trọng của con người trong xã hội và cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông tấn xã Việt Nam, Nguồn tin:https://www.vnanet.vn/ (Phỏng vấn ông
Denis Rondepierre, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng cộng sản Pháp) - 08/2021

2. GS. TS. Nguyễn Phú Trọng, Nguồn tin: https://www.moha.gov.vn/ (Bài


viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH) – Truy
cập tháng 08/2021

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ
3, H, 2011, t.13, tr. 66.

4. Tổng cục thống kê, Nguồn tin: https://www.gso.gov.vn/ (Dân số, lao động
và việc làm 2020), Truy cập tháng 08/2021

5. Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) và Viện Nghiên cứu Chiến lược phát
triển Việt Nam 2016, Nguồn tin: https://vietnam.unfpa.org/ (Tác động của
biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến nền kinh tế Việt Nam và đề xuất chính sách),
Truy cập tháng 08/2021.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, BCH
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
NHẬN XÉT TIỂU LUẬN
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Điểm bằng số Điểm bằng chữ

Cán bộ chấm thi thứ nhất Cán bộ chấm thi thứ hai
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên)

You might also like