You are on page 1of 35

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI



BÀI THẢO LUẬN


MÔN TRIẾT HỌC

Đề tài:

LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ SỰ VẬN DỤNG


CỦA LÝ LUẬN NÀY Ở VIỆT NAM

Hà Nội, tháng 11 năm 2021

1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................................ 3

Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN.....4


I. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI..........................................................................4
1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác....................................................................4
a) Quan niệm về con người trong triết học phương Đông........................................................4
b) Quan niệm về con người trong triết học phương Tây..........................................................6
2. Quan niệm về con người trong triết học Mác-Lênin...................................................................7
a) Con người là thực thể sinh học - xã hội................................................................................7
b) Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình........................................................................................................................8
c) Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người..................................9
d) Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.....................................10
e) Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội........................................................12
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI...............................................................................14
1. Khái niệm cá nhân và nhân cách.................................................................................................14
2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội............................................................................................14
III. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ LÃNH TỤ TRONG LỊCH SỬ................16
1. Vai trò của quần chúng nhân dân................................................................................................16
2. Vai trò của lãnh tụ.......................................................................................................................18
IV. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN...........................................................................................21

Chương 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MAC-
LENIN Ở VIỆT NAM...................................................................................................22
I. KHÁI NIỆM.................................................................................................................................22
1. Khái niệm về nguồn lực con người ............................................................................................22
2. Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa............................................................................22
II. THỰC TRẠNG, MỤC TIÊU, VAI TRÒ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY................................................................................................................22
1. Thực trạng...................................................................................................................................22
2. Mục tiêu trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta............................................24
3. Vai trò của con người đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam.................................................25
4. Vấn đề xây dựng con người trong thời kì Công nghiệp hóa, hiện đại hóa .............................27
III. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO, SỬ DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
.......................................................................................................................................................28
1. Ưu điểm.......................................................................................................................................28
2. Hạn chế........................................................................................................................................29
3. Giải pháp phát triển nguồn lực con người trong tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay........30
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................33
KẾT LUẬN...........................................................................................................................................34

2
Lời nói đầu
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó. Bởi vậy, con người là một trong những vấn đề
quan trọng nhất của triết học, được các nhà khoa học nghiên cứu theo nhiều khía cạnh khác
nhau. Nhưng Mác thì khác, ông đã nghiên cứu con người với tư cách là một thực thể tự nhiên -
xã hội, tồn tại và phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên và xã hội loài người; chịu
sự tác động, nhưng không phải là sản phẩm thụ động của tự nhiên và các quan hệ xã hội mà là
chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, giữ vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển
của thế giới và của chính mình.
Đối với mỗi quốc gia, nhân tố quan trọng nhất để đất nước có thể phát triển lớn mạnh về
kinh tế, chính trị, xã hội… là con người. Điển hình như Mỹ, Nhật Bản, các nước Tây Âu đều sở
hữu những nhân tố con người có trình độ học vấn, tri thức cao để đáp ứng mọi nhu cầu phát
triển, hiện đại hóa đất nước. Còn đối với các quốc gia đang phát triển thì nhân tố con người lại
càng giữ vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước (ví dụ như
Việt Nam). Để nâng cao, phát triển thì việc tìm hiểu nghiên cứu về con người là một nhiệm vụ
cần thiết đối với Đảng và Nhà nước ta. Thông qua những lý luận về vấn đề con người trong triết
học Mác-Lênin thì vấn đề đặt ra là cách Đảng và Nhà nước ta vận dụng để phát huy con người
Việt Nam hiện nay.
Chuyên đề này chỉ ra các quan niệm về con người trong triết học Mác-Lênin, các mối quan
hệ cá nhân và xã hội, vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Qua đó rút ra ý
nghĩa của phương pháp lập luận này. Mặt khác, nhờ việc kế thừa và học hỏi tư tưởng lý luận của
Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng và Nhà nước chú ý đến tiềm lực của con người và
“Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân tố con
người, coi con người là trung tâm, chủ thể nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát
triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo
đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước;
mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
và hạnh phúc của Nhân dân” (Trích trong “Những điểm đổi mới trong các Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng”).

3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
I. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác
a) Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Từ xa xưa, các trường phái triết học phương Đông luôn cố gắng lý giải các vấn đề thuộc về
bản chất con người, đó là mối quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh. Do rất nhiều
yếu tố nói chung, điều kiện kinh tế-xã hội và đặc điểm lịch sử của triết học phương Đông nói
riêng, việc lý giải các vấn đề của con người luôn phải dựa trên thế giới quan duy tâm hay những
tôn giáo huyền bí, và qua năm tháng, thời gian, những ký giải về về con người ấy đã được chia
làm 3 khái niệm về quan điểm của triết học phương Đông trước Mác về con người.
 Con người trong triết học Phật giáo:
Có lẽ không mấy ai biết rằng người sáng lập Phật giáo quan tâm rất sâu sắc đến vấn đề của
con người và để lý giải cho điều này, phải chăng căn bản con người là vấn đề trung tâm của mọi
khoa học, nhất là triết học và các khoa học nhân văn. Vì vậy sự quan tâm đến những vấn đề của
con người của Hiện sinh hay triết học Phật giáo không phải là điều quá kỳ lạ.
Triết học Mác đã kế thừa những quan điểm về con người trong lịch sử, đồng thời còn khẳng
định con người hiện thực là sự thống nhất giữa hai yếu tố sinh học và xã hội. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội và con người là sản phẩm
của lịch sử. Nhưng trước triết học Mác, triết học của Phật giáo lại tiếp cận con người từ góc độ
khác. Tìm hiểu về con người, bản chất và mục đích giải phóng con người nói chung và theo
quan điểm của triết học Phật giáo nói riêng có một ý nghĩa và giá trị rất thiết thực. Tất cả cho
con người và vì con người, ngày hôm nay cũng như thế hệ mai sau.

Tư tưởng triết học của Phật giáo


 Con người trong triết học Nho giáo và Lão giáo:
Trường phái nho giáo chỉ là một chi trong rất nhiều trường phái thời cổ Trung Quốc, nó là
một tư tưởng triết học chứ không phải là tôn giáo, chẳng qua là do được coi là tư tưởng chính
thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và có ảnh hưởng tới một số

4
nước ở châu Á sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh
của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liền với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh văn hóa,
Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát triển và mở rộng
của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát triển của văn hóa.
Trong triết học Nho giáo, Khổng Tử cho rằng trong xã hội có hai loại người: người quân tử
và kẻ tiểu nhân và Nho gia luôn đề cao người quân tử và luôn coi thường kẻ tiểu nhân. Khổng tử
còn quan niệm “sinh ra là người quân tử thì mãi mãi là người quân tử, còn sinh ra là kẻ tiểu nhân
thì mãi mãi là kẻ tiểu nhân, là người quân tử có thể sẽ làm điều bất nhân nhưng là kẻ tiểu nhân
thì đừng mong ở họ có những hành động có nhân”.
Về vấn đề bản tính con người thì các nhà Nho cũng có các cách nhìn nhận khác nhau. Là
một nhà triết học, một nhà giáo dục lớn, lúc sinh thời Khổng tử có cho rằng nếu con người hoạt
động theo bản tính tự nhiên thì sẽ dẫn đến tước đoạt, vô luân. Vì vậy cần phải có lễ nghĩa, khuôn
phép, hình phạt để giáo dục và ngăn ngừa.

Triết lý của Khổng Tử


 Quan niềm về con người trong triết học Tuân Tử
Theo quan niệm của Tuân Tử: “Tính” là cái trời sinh ra đã có, vốn thế, không thể học cũng
không thể làm ra được. Đó là bản tính tự nhiên của mỗi con người. Tính thì ai cũng như ai, đều
ác cả: tính của thánh nhân cũng như tính người thường. Ông bà ta cũng thường nói “cha mẹ sinh
con trời sinh tánh” để nói đến cái gì đó bên trong con người không thể thay thế hoặc làm ra. Bên
cạnh đó, ông còn nói thêm tính của con người tự nhiên là ích kỷ, quy về mình mình, ham muốn
hưởng thụ. Chất của tính là tình; phản ứng hay biểu hiện của tình là dục. Ông nói: “Dục vọng
của con người ta thường muốn ăn ngon, mặc đẹp, đi thì muốn lên xe xuống ngựa. Ai cũng muốn
giàu có tích lũy của cải dư thừa. Vậy mà suốt đời không biết thế nào là đủ.”
Nhưng liệu con người có phải hoàn toàn theo khuynh hướng ác? Theo Khương Tử, mọi thứ
không hẳn là như vậy, trong con người, bản chất vốn có từ thuở mới sanh đã có “khuynh hướng
xấu” nhưng nơi con người còn có yếu tố giúp bản thân họ hướng đến sự lương thiện, ông nhận
thấy con người vẫn có thể hướng thiện ngang qua tâm. Chữ “tâm” theo Tuân Tử là “quan năng
của tri, của sự hiểu biết, là ý thức. Hiểu biết là tác dụng tự nhiên của tâm, cũng “không thể học,

5
cũng không thể làm ra được. Tâm sinh ra là có biết (tâm sinh nhi hữu tri).” Bên cạnh tri, “tâm
còn có những tác dụng khác là: Lự (suy tính, cân nhắc, tư lự), Trạch (lựa chọn) và Năng (động
thực hiện và hợp với điều tâm lựa chọn).” Ở đây, Tuân Tử nhấn mạnh thêm, tri và năng của tâm
còn có nghĩa là lí trí giúp con người nhận ra những điều hay lẽ phải và có ý chí để tiết chế để
không buông theo những đòi hỏi của dục vọng. Điều này cho thấy, con người có thể biển đổi để
trở nên tốt hơn. Nói tóm lại, giáo dục không những giúp con người ý thức được bản năng khao
khát tham vọng trong mình để người có thể chế ngự mà còn giúp con người hướng đến người
khác, hướng đến sự thanh cao.
Như vậy, Tuân Tử đã bàn về “khuynh hướng bản ác” trong con người, những cũng nói về
yếu tố thiện trong con người, ông còn đưa ra những cách thức để chế ngự “khuynh hướng bản
ác” nơi con người, giúp con người hướng đến sự thiện.
b) Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Trước Mác, triết học phương Tây có nhiều quan niệm khác nhau về con người với các trường
phái khác nhau:
 Trường phái triết học tôn giáo phương Tây
Khi nói về quan điểm trước Mác về con người không thể không kể đến các trường phái triết
học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Ki tô giáo. Theo Ki tô giáo, cuộc sống con người do đấng
tối cao an bài, sắp đặt. Bản chất con người là kẻ có tội. Con người gồm hai phần là thể xác và
linh hồn, trong đó, linh hồn là thứ có giá trị cao nhất trong con người và tồn tại vĩnh cửu. Ki tô
giáo khuyên con người cần nuôi dưỡng linh hồn để hướng đến nơi Thiên đường.
Ta thấy, triết học tôn giáo phương Tây còn nhận thức vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan
duy tâm thần bí.
 Triết học Hy Lạp cổ đại
Khác với Ki tô giáo, triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng con người là điểm khởi nguồn của tư
duy triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Chẳng hạn
như Arixtốt có quan niệm rằng chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ thuật là
làm cho con người nổi bật lên, con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ.
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân biệt con người với tự nhiên. Tuy
nhiên, sự hiểu biết về con người mới chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài.
 Triết học Tây Âu trung cổ
Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo. Thượng đế
chi phối, sắp xếp đối với số phận của con người, kể cả niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi. Theo đó,
ý chí của Thượng đế là tối thượng, trí tuệ con người thấp hơn lý chí anh minh của Thượng đế.
 Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại
Triết học thời kỳ này đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là
một thực thể có trí tuệ.

6
 Triết học cổ điển Đức
Trong Triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Can tơ, Hê ghen đã phát
triển quan niệm con người theo khuynh hướng chủ nghĩa duy tâm.
Hêghen cho rằng con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối hình thành trong
quá trình tự ý thức của tư tưởng con người, quá trình này đưa con người trở về với giá trị tinh
thân, giá trị bản thể và cao nhất trong đời sống con người. Bên cạnh đó, Hêghen còn trình bày
một cách hệ thống các quy luật của quá trình tư duy của con người, làm rõ cơ chế đời sống tinh
thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Từ đó, khẳng định vai trò chủ thể của con
người đối với lịch sử.
Ngược lại, Phoiơbắc lại phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản
chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự vận động của thế
giới vật chất tạo nên. Phoiơbắc đề cao vai trò và trí tuệ của con người với tính cách là những cá
thể người. Từ đó nhằm giải phóng cá nhân con người. Tuy nhiên, quan điểm này cũng bộc lộ
hạn chế, đó là không phản ánh được bản chất xã hội trong đời sống con người, tách con người
khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể.
Qua các quan niệm về con người trong triết học phương Tây thời kỳ trước Mác, mặc dù đã
đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung các quan niệm đều xem xét con người
một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự
nhiên – sinh học mà chưa phản ánh được bản chất xã hội của con người.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước Mác, dù là đứng trên nền tảng thế
giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con
người. Nhìn chung các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt
đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự
nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
2. Quan niệm về con người trong triết học Mác-Lênin
a) Con người là thực thể sinh học-xã hội:
Triết học Mác đã thừa kế quan niệm về con người trong lịch sử triết học và đi tới một quan
niệm toàn diện về con người: con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội tồn tại trong tính thống nhất với nhau, quy định lẫn nhau tạo
thành cơ sở hiện thực cho sự tồn tại của mỗi con người với tư cách là người.
Về phương diện sinh học, con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến
hoá lâu dài của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh học.
Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý
trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại của con người. Những thuộc tính, những đặc
điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh
học của cá nhân con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”,
đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên. Vì vậy, trong con người
luôn có các nhu cầu sinh học, tự nhiên như: ăn, uống, ngủ, duy trì nòi giống, tự vệ… Không chỉ
vậy, con người còn sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên
liệu, áo quần… Nếu thiếu các nhu cầu này thì con người và xã hội loài người không thể tồn tại.
Điều này rất quan trọng đối với chủ nghĩa duy vật, vì đây là điểm xuất phát từ quan điểm “vật

7
chất có trước quyết định ý thức”. Trải qua hàng chục vạn năm tiến hóa từ loài vượn cổ để thành
con người như bây giờ, các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ khi sinh ra
đến lúc mất đi, phát triển và mất đi những bản tính sinh học vốn có. Từ đó ta thấy con người
trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong cá nhân con người và hòa hợp, gắn bó với giới
tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển.
Song con người không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác mà là một động vật
có tính chất xã hội với nội dung văn hoá lịch sử của nó. Con người là sản phẩm của xã hội, là
con người xã hội mang bản tính xã hội. Trong đó “xã hội sản sinh ra con người với tính cách là
con người như thế nào thì con người cũng sản sinh ra xã hội như thế”. Con người chỉ có thể tồn
tại được một khi họ tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học
của mình. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ
xã hội. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao
động đã quy định bản chất xã hội của con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại
quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách. Sự tồn tại xã hội con người gắn liền với sự tồn tại
của ý thức. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội
với nhau, Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn
ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một
trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. Vì con người là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội
cùng các quy luật biến đổi của chúng. Trước hết con người bị chi phối các quy luật tự nhiên sinh
học như: quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật biến dị và di truyền, quy luật
tiến hóa… các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con
người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí hay các quy luật xã hội quy định quan
hệ giữa người với người. Mặc dù bị chi phối bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng chúng lại
tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và xã hội.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra của
cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người chính là chủ thể cải tạo tự
nhiên. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và
tuân theo các quy luật của bản thân giới tự nhiên. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng taọ ra
toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo quy luật
khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luôn luôn xuất phát từ nhu cầu động cơ
và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng
phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và
mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt
sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân
biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của
con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.

8
Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con
người tự nhiên - xã hội.
b) Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình
Con người khác con vật ở cả 3 mặt: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với
bản thân; cả ba mặt quan hệ đó đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ với xã hội là quan hệ bản
chất nhất, chi phối các mặt quan hệ còn lại. Con người là sản phẩm của tự nhiên, song chính con
người lại là tác giả của tất cả những biến đổi to lớn diễn ra trong tự nhiên. Chính con người,
bằng hoạt động lao động của mình đã tạo ra những điều kiện sinh sống tự nhiên và xã hội cho
mình.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người: “Có thể phân biệt con
người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân
con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”.
“Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vượn may
lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất. Chỉ riêng sự khác biệt nhưng cơ bản ấy cũng
khiến ta không thể chuyển – nếu không kèm theo những điều kiện tương ứng - các quy luật của
xã hội”.
Các nhà tư tưởng C.Mác cũng đã có những ý kiến khác nhau về sự khác biệt giữa con người
và các động vật khác với tư cách là những dấu hiệu về nội hàm của khái niệm con người. Chẳng
hạn như quan điểm theo quan niệm của triết học Mác – Lênin về sự khác biệt giữa con người và
các động vật khác thể hiện ở tính duy vật và nhất quán: xác định sự khác biệt đó dựa trên nền
tảng của sản xuất vật chất. Lao động là hình thức sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của con người,
thúc đẩy con người và xã hội phát triển. Đó là là điểm khác biệt căn bản, chi phối các đặc điểm
giữa con người và các động vật khác.
c) Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach và của các nhà tư tưởng khác về con người, kế
thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và những thành tựu của khoa
học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của
giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con
người.
Quan niệm của con người trong triết học Feuerbach “chính là điểm xuất phát cho những lập
luận của Marx về con người và bản chất con người”. Bởi vì, bằng những quan niệm đó, người
khai mở con đường cho chủ nghĩa duy vật nhân bản đã giáng một đòn phá tan mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa duy vật và chỉ nghĩa duy tâm khách quan của Hêgen, “đưa một cách không úp mở chủ
nghĩa duy vật trở lại ngôi vua”, ông đã khẳng định một cách dứt khoát rằng “tự nhiên tồn tại độc

9
lập đối với mọi triết học. Nó là cơ sở trên đó con người chúng ta bản thân chúng ta cũng là một
sản phẩm của tự nhiên đã sinh trưởng”. Marx và Engels luôn đánh giá cao triết học của
Feuerbach nói chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng, họ tự thừa nhận mình là
môn đồ của ông, chào đón quan điểm mới đó một cách nhiệt liệt, tin và đi theo Feuerbach với
một tinh thần hào hứng, phấn khởi. Tuy đánh giá cao Feuerbach như vậy, nhưng hai ông cũng
nhận thấy rằng hạn chế cơ bản xuyên suốt toàn bộ triết học nhân bản của Feuerbach là chủ nghĩa
nhân đạo trừu tượng và chủ nghĩa duy tâm về lịch sử. “Lấy con người làm xuất phát điểm, song
ông hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống. Vì vậy con người mà ông nói
luôn là con người trừu tượng… con người đó không ra đời từ trong bụng mẹ, mà lại sinh ra từ
ông thần của các tôn giáo độc thần… con người đó cũng không sống trong thế giới hiện thực”.
Trong đó khi phê phán quan điểm về con người trừu tượng của nhà triết học này, Marx viết:
“Feuerbach hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không
phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Feuerbach đã xem xét con người tách khỏi
điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như là đối tượng
cảm tính, trừu tượng, không có hoạt động thực tiễn. Do vậy, Feuerbach đã tuyệt đối hóa tình yêu
giữa người với người. Hơn nữa, đó cũng không phải là tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được
lý tưởng hóa

Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con
người khác với các động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi mà con
người còn là chủ thể của lịch sử.

Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen đã dành hẳn một chương bàn về triết học
Feuerbach, theo các ông, thì “so với các nhà duy vật “thuần tuý”, Feuerbach có ưu điểm lớn là
ông thấy rằng, con người cũng là một “đối tượng của cảm giác” nhưng ông vẫn còn bám vào lý
luận và không xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều
kiện sinh hoạt… làm cho họ trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại trong thực
tế… nên ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng. Trung tâm thế giới quan mới do Mác và
Ăngghen đặt nền móng là chủ nghĩa duy vật về lịch sử. Theo ý kiến của họ, con người không
phải bước ra từ sâu thẳm của giới tự nhiên thành một sinh thể tự nhiên phổ quát như Feuerbach
nhận định, mà nó trở thành như vậy trong tiến trình lịch sử. Con người khác với động vật trước
hết không phải bởi nó có ý thức như Feuerbach nói, mà bởi sự bắt buộc phải lao động sản xuất
nhằm tạo ra cho mình các phương tiện sống. Trong quá trình sản xuất đó, con người khám phá
ra sức mạnh tự nhiên, chuyển nó thành lực lượng lao động xã hội, tạo nên nội dung của lịch sử
thế giới. Sự khám phá đó được tiến hành bởi các cá nhân có những nhu cầu tự nhiên – xã hội xác
định và những năng lực hoạt động của họ trong phạm vi những hình thái kinh tế – xã hội được
chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác. Với nghĩa như vậy, Mác và Ăngghen viết: “Những
tiền đề xuất phát của chúng tôi, không phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều, đó
là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những
cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ… tiền để
đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người

10
sống. Vì vậy, điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và
mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên”.

d) Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử

Theo triết học Mác-Lênin, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản
phẩm quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên mà con người còn là chủ thể của lịch sử . Lịch
sử hiểu theo nghĩa rộng là những quá trình đan xen nối tiếp nhau với tất cả những bảo tồn và
biến đổi diễn ra trong quá trình ấy. Như vậy, con người có lịch sử và động vật cũng có lịch sử
song lịch sử của con người và lịch sử của động vật khác nhau. C. Mác đã khẳng định: “Cái học
thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo
dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân
nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch
sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng
thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không
phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của
từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu”.

Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến
giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông
qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự
nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra
lịch sử của mình. Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi các động vật khác, có ý
nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức
để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách ra
khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Con người không
thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn bản thân mà phải dựa vào những điều kiện thế hệ trước để
lại. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và
tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con
người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do
đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Không có con người trừu tượng,
chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến
đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với
điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò
tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của
lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản

11
chất con người. Cũng có nghĩa, lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì tương ứng, con
người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy.

Các cá nhân con người chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối với mình, không chịu
khuất phục trước môi trường, điều kiện khách quan, mà chủ động tác động, cải tạo điều kiện
khách quan.

Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường nhất định. Đó là
toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần có quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp đến đời sống của con người xã hội. Đó là những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể
thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người
trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh,
của môi trường, trong đó có môi trường xã hội. Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề
để con người có thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn. Môi
trường xã hội cũng như mỗi cá nhân con người thường xuyên phải có quan hệ với môi trường tự
nhiên và tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau. Do sự phát
triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học và công nghệ, nhiều loại môi trường khác đã và
đang được phát hiện. Tính chất và phạm vi, vai trò và tác động của chúng đến con người là khác
nhau, không giống hoàn toàn như môi trường tự nhiên và xã hội. Chúng là những hiện tượng,
quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội, có tác động ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và
xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.

 Trong quan niệm của Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, mà còn
là chủ thể của hoạt động lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Bằng hoạt động thực tiễn, con người
đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, cải tạo đời sống xã
hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện chính bản thân mình. Con người vừa là chủ thể, vừa là
đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử; con người làm nên lịch sử của chính mình và do
vậy, lịch sử là lịch sử của con người, do con người và vì con người.

Ví dụ: Con người là chủ thể tạo nên lịch sử: Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của
nhân dân ta, nhân dân Việt Nam là những người đã đẩy lùi sự xâm lược của kẻ thù, viết nên lịch
sử nước Việt nam độc lập, tự do như ngày hôm nay.

Con người cũng là sản phẩm của lịch sử: Chứng kiến cảnh nước nhà lầm than, nhân dân
có cuộc sống đau khổ chính là động lực khiến cha ông ta cầm súng đứng lên đấu tranh dành lại
độc lập dân tộc, tạo nên những người anh hùng của lịch sử.

e) Bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội
Khái niệm: Các quan hệ xã hội là những quan hệ giữa những cộng đồng xã hội của con
người, xuất hiện trong quá trình sản sinh và tái sản sinh ra chính bản thân con người với tư cách
là những chủ thể xã hội hoàn chỉnh.
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên,
sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành bản chất của con người. Do đó, để
nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về

12
Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.
Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của lịch sử và xã hội mà khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự
nhiên trong đời sống con người. Trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người
và giới động vật trước hết là bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu xót của những
nhà triết học trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất
với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính quy luật. Vì thế cần phải thấy được các biểu hiện
riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong
cộng đồng xã hội. Vậy nên, khi nói về bản chất con người, quan điểm của Mác được thể hiện cụ
thể:
Bản chất con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Ví dụ: Trong xã hội nguyên thủy, con người tìm ra lửa, chế tác công cụ lao động từ thô sơ đến
chính xác, đa dạng, sử dụng có hiệu quả, luôn luôn cải tiến công cụ lao động, không ngừng cải
thiện đời sống. Khi sản xuất phát triển, con người chủ động với cuộc sống hơn, trồng trọt, chăn
nuôi, dựng lều làm nhà để ở.
Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không phải sự kết hợp giản đơn
hoặc là tổng hợp chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội đều có vị trí,
vai trò khác nhau, có tác động qua lại, và không thể tách rời nhau. Vì theo Mác “Muốn sản xuất
được, người ta phải có mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và sự tác động của họ vào giới
tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội
đó”.
Tất cả các quan hệ xã hội (ví dụ: quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan
hệ tôn giáo, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất/tinh thần,
quan hệ trực tiếp/gián tiếp, quan hệ tất nhiên/ngẫu nhiên…) đều góp phần hình thành nên bản
chất của con người. Dù cho các quan hệ xã hội có thay đổi ít hay nhiều, sớm hay muộn thì bản
chất con người cũng sẽ thay đổi theo.
Trong các mối quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể bộc lộ được bản chất
thực sự của mình, và nhờ đó bản chất của con người mới được phát triển.
Ví dụ: Với học sinh sinh viên, nếu được sinh sống và học tập trong một môi trường giáo dục
lành manh, tích cực, trong sáng thì sẽ phát triển khả năng của bản thân theo hướng tiến bộ.
Ngược lại nếu ở môi trường kém phát triển, không tốt thì không những không phát huy được bản
thân mà thậm chí còn thụt lùi đi.
Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương diện
khác của đời sống con người khiến cho con người không thuần túy là một động vật mà là một
động vật xã hội.

13
“Con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề
trên đó thực thể xã hội tồn tại phát triển và chi phối.
Tính chất quan hệ và những khả năng đó không thể có ở bất kì sinh vật nào khác. Trong tác
phẩm Triết học đầu tay – “Gia đình thần thánh” - C. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: con người
chỉ tồn tại thực sự khi đặt trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội; nếu bị tách rời ra khỏi quan
hệ hữu cơ ấy thì con người sẽ chẳng còn ý nghĩa gì.
Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất nhất của con người là tổng hoà các mối quan hệ
giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và cả trong quá khứ. Bản thân của con
người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể. Mặt khác, con người là sản
phẩm của giới tự nhiên nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên,
tách xa thế giới động vật, trở thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ
thế giới, của lịch sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phát huy khả năng của mình. Tuy
nhiên không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ điều kiện để phát triển toàn diện. Vây
nên, đây là một vấn đề đã và đang đặt ra nhiều thách thức của các quốc gia nói riêng và của nhân
loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội.
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
1. Khái niệm cá nhân, nhân cách, xã hội
a) Cá nhân
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân
biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.
Khái niệm cá nhân cũng được phân biệt với khái niệm con người, vì con người là khái niệm
dùng để chỉ tính phổ biến trong bản chất người của tất cả các cá nhân.
Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các nhóm, cộng đồng
và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định. Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để
hình thành cá nhân.
Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến,
là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng
xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội.
b) Nhân cách
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính
chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể
với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân.
Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách
thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt.
Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học,
tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng có của cá nhân, đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh
giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
c) Xã hội

14
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một xã hội là cộng đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn
vị… Lớn hơn nữa là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tộc… Và rộng nhất là cồng đồng nhân loại.
2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
a) Mối quan hệ cá nhân và tập thể
Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể
Cá nhân là một hiện tượng mang tính lịch sử với tính cách là những con người cụ thể và
đồng thời là sản phẩm của sự phát triển xã hội, là chủ thể lao động của các quan hệ xã hội, và
của nhận thức. Cá nhân là một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất những khả năng riêng
có của con người đối với chức năng xã hội do người đó thực hiện.
Tập thể là hình thức liên hệ các cá nhân thành từng nhóm có tính chất xã hội xuất phát từ lợi
ích, nhu cầu về kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, nghề nghiệp… nên xã hội có nhiều tập thể
khác nhau.
Bản chất của quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích – cái cơ sở của sự liên kết
hoặc chia rẽ các thành viên trong một tập thể. Lợi ích là một nhu cầu vật chất – tinh thần của
mỗi cá nhân vừa bao hàm sự thống nhất và mâu thuẫn. Bởi lợi ích và nhu cầu của mỗi cá nhân là
khác nhau và việc thỏa mãn lợi ích và nhu cầu cho mỗi cá nhân của tập thể thường thấp hơn so
với nhu cầu của mỗi cá nhân. Nhưng cá nhân lại luôn cần đến và có nhu cầu tập thể, bởi cá nhân
không thể tồn tại độc lập với tập thể trong tính chất liên kết của các tổ chức xã hội, tính cộng
đồng xã hội.
Sự bảo đảm ổn định về mặt tổ chức và phát triển của cá nhân thường được xây dựng trên cơ
sở những nguyên tắc như: tính chất tương trợ theo tinh thần hữu ái; thực hiện tốt quyền lợi và
nghĩa vụ của cá nhân với tập thể và ngược lại; sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích, nhu cầu cá nhân
với lợi ích nhu cầu tập thể; bình đẳng trong tập thể, tôn trọng tập thể và quyền quyết định của
tập thể; cá nhân có ý thức trước tập thể về hành vi của mình; tập thể luôn quan tâm đến cá nhân,
thỏa mãn những lợi ích, nhu cầu chính đáng của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, tùy theo tính chất của
mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể và những điều kiện lịch sử cụ thể mối quan hệ giữa cá nhân
với tập thể có thể phát triển và cũng có thể tan rã.
b) Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân với tư cách là một con người, không bao giờ có thể tách rời khỏi những cộng
đồng xã hội nhất định.
Mối quan hệ giữa cá nhân – xã hội là hiện tượng có tính lịch sử. Là một hiện tượng lịch sử,
quan hệ này luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra
khi có sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng hình thái kinh tế – xã hội khác.
Ví dụ: Trong giai đoạn cộng sản nguyên thuỷ, không có sự đối kháng cá nhân – xã hội. Lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội căn bản là thống nhất.

15
Khi xã hội phân chia giai cấp, quan hệ cá nhân – xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu
thuẫn, thậm chí là mâu thuẫn đối kháng.
Trong chủ nghĩa xã hội, những điều kiện của xã hội mới tạo tiền đề cho cá nhân, để mỗi cá
nhân phát huy năng lực và bản sắc riêng của mình, phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội
mới. Vì vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền đề và điều kiện
của nhau.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân.
Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng
cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực
hiện.
Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá
trị vật chất và tinh thần. Mặt khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện
để thúc đẩy xã hội tiến lên.
Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu
và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián tiếp, nếu lợi ích
cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực chung
vì một tương lai tốt đẹp.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt khách quan và
mặt chủ quan.
Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động xã hội. Mặt chủ quan
biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con
người.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những
mâu thuẫn cá nhân – xã hội vẫn còn tồn tại. Do đó, để giải quyết đúng đắn quan hệ cá nhân – xã
hội, cần phải tránh hai thái độ cực đoan.
Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, nhu cầu cá
nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này có thể dẫn đến chủ
nghĩa cá nhân.
Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, quan niệm sai lầm về lợi ích xã hội, về chủ
nghĩa tập thể, thực chất là chủ nghĩa bình quân, coi nhẹ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu, lợi ích cá nhân càng đa dạng.
Nếu không quan tâm đến vấn đề cá nhân, sẽ dẫn đến một xã hội nghèo nàn, chậm phát triển,
không phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng
và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới để phát triển cá nhân.

16
Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, dẫn tới phân hóa giàu
nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân với xã hội.
Do đó, chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai trò nhân tố con
người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải
quyết tốt mối quan hệ cá nhân – xã hội: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm
nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống
văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
III. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ LÃNH TỤ TRONG LỊCH SỬ
1. Vai trò của quần chúng nhân dân
a) Khái niệm quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành
phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá
nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời
đại nhất định.

Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, luôn thay đổi cùng
với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định.
Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử
xã hội.

Quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau đây:

 Đây là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò
là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
 Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
 Những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của
mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b) Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử.

Tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò
của quần chúng nhân dân trong trong tiến trình phát triển của lịch sử. Phải đến khi Mác nhận
thức và chỉ rõ vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân là hết sức quan trọng. Quần
chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử,

17
quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được phân tích từ ba góc độ sau
đây:

 Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các
điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có được thông qua sản xuất. Lực lượng
sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và
lao động trí óc.

Ví dụ: Con người không ngừng sản xuất tạo ra các mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống như lúa,
rau, và các loại thực phẩm khác. Ngoài ra con người ngày càng sáng tạo ra các phát minh tiên
tiến, giúp cho xã hội loài người ngày càng phát triển hơn.

 Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Bất cứ cuộc cách
mạng hay cải cách xã hội nào đều xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần
chúng nhân dân. Cách mạng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng
nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.

Ví dụ: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được tiến hành và giành thắng lợi vì nó xuất phát từ
nguyện vọng của nhân dân là thoát khỏi xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp và phát xít Nhật; kết
thúc chế độ quân chủ chuyên chế lỗi thời.

 Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Họ đóng vai trò to
lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành
tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học,
quân sự, kinh tế, chính trị, … của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại.

Ví dụ: Người dân Việt Nam luôn nhớ đến ngày mùng 10/3 âm lịch hàng năm. Nhiều người gần
xa tập trung về tỉnh Phú Thọ để viếng thăm và tỏ lòng biết ơn công lao của các vị vua Hùng.
Đây là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” được giữ gìn bao đời nay, đó là giá trị văn hoá tinh
thần của nhân dân ta.
2. Vai trò của lãnh tụ

18
a) Khái niệm
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất, trưởng thành từ trong phong trào của quần chúng, nắm
bắt được những vấn đề căn bản nhất của một lĩnh vực (chính trị, khoa học, kinh tế, nghệ thuật…)
nhất định của hoạt động thực tiễn và lý luận.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong
trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên.
Để trở thành lãnh tụ, ngoài những phẩm chất trên, cá nhân kiệt xuất còn phải gắn bó và tín
nhiệm bởi quần chúng, nguyện hy sinh hết mình cho lợi ích của quần chúng.
Như vậy, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
 Có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời
đại.
 Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng
nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.
 Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế
và thời đại.
Bất cứ một thời kỳ nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết
thì từ trong phong trào của quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhu
cầu của lịch sử. Lênin viết: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống
trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
b) Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu như sau:
 Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại, trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách
quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
 Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.
 Tổ chức lực lượng giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần
chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
Từ nhiệm vụ trên ta thấy lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng như sau:
 Thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của xã hội.
Ví dụ: Thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 là sự kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng
đắn của Đảng với trí sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Nếu
Đảng tiên phòng không chuẩn bị đầy đủ, không kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách
quan có thuận lợi đến đâu thì cách mạng cũng không nổ ra.
Sau 1975, chiến tranh kết thúc, cơ chế quan liêu bóc lột những bất cập. Sự kéo dài cơ chế
"quan liêu bao cấp" và duy trì quá lâu chính sách kinh tế lạc hậu gây ra nhiều hậu quả nghiêm

19
trọng: đời sống nhân dân khó khăn, hàng hóa "mua như cướp, bán như cho", sản xuất bị trì trệ,
hàng lậu tràn lan, tham nhũng quan liêu trở nên phổ biến.
 Lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó. Vì
vậy, lãnh tụ là người tổ chức điều khiển và quản lý các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và
ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy.
 Lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó. Không
có lãnh tụ cho mọi thời đại, mà chỉ có lãnh tụ gắn với một thời đại nhất định. Sau khi hoàn
thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần mãi mãi trong tình cảm và niềm
tin của quần chúng nhân dân.
c) Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
Mối quan hệ giữa vai trò quần chúng nhân dân với cá nhân chính là quan hệ giữa vai trò
của nhân dân lao động với cá nhân lãnh tụ/vĩ nhân.
Một mặt, quan hệ này thể hiện một phần nội dung quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Mặt khác, nó lại chứa đụng những nội dung mới, khác biệt, bởi trong quan hệ này nó nói
đến quan hệ với những cá nhân đặc biệt, cá nhân lãnh tụ/ vĩ nhân.
Quan hệ giữa lãnh tụ với quần chúng nhân dân là quan hệ thống nhất, biện chứng thể hiện
trên các nội dung sau đây: Cần phải khẳng định rằng, mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân
với lãnh tụ là quan hệ biện chứng. Tính biện chứng ấy được biểu hiện như sau:
 Thứ nhất: Tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào cách
mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông
đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú, những
lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của phong trào quần chúng.
 Thứ hai: Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự
thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng nhân
dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định. Lợi ích biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác
nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa… Quan hệ lợi ích là cầu nối liền, là nội
lực để liên kết các cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành một
khối thống nhất về ý chí và hành động. Lợi ích đó vận động phát triển tùy thuộc vào thời đại,
vào địa vị lịch sử của giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ là đại biểu, phụ thuộc vào khả năng
nhận thức và vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp và tầng lớp
xã hội.
Từ đó, có thể thấy rằng, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở quy định sự thống nhất về
nhận thức và hành động giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
 Thứ ba: Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau
của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của
lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ

20
là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Lãnh tụ có vai trò
như một vị thuyền trưởng chèo lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân lãnh tụ là biện chứng, vừa thống nhất
vừa khác biệt.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, đồng thời
đánh giá cao vai trò của lãnh tụ, kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân.
Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo, sẽ dẫn đến tuyệt đối hóa cá
nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập thể lãnh đạo và của quần
chúng nhân dân. Nó dẫn đến hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân
dân thiếu tin tưởng vào chính bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù quáng, không
phát huy được tính năng động sáng tạo chủ quan của mình. Người mắc căn bệnh sùng bái cá
nhân thường đặt mình cao hơn tập thể, đứng ngoài đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước. Họ không thực hiện đúng chính sách cán bộ của Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt
Đảng, chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực, đánh mất lòng tin trong
cán bộ và nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Vì thế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin luôn luôn coi sùng bái cá nhân là một
hiện tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất, mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản. Những lãnh tụ
vĩ đại của giai cấp vô sản như C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin, Hồ Chí Minh đều hết sức
khiêm tốn, gần gũi với nhân dân, đề cao vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân, xứng
đáng là những vĩ nhân kiệt xuất mà toàn thể loài người tôn kính và ngưỡng mộ.
IV. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
 Phê phán các quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử, quán triệt bài học nước “lấy dân làm
gốc”, chống tệ sùng bái cá nhân.
 Để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần từ
phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ
phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế – xã hội của nó. Chỉ khi đặt
con người vào chính điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào những quan hệ xã hội đang tác
động, chi phối con người mới có thể đưa ra những nhận định đúng đắn về con người. Chẳng
hạn như sự hạn chế năng lực sáng tạo của những con người tiểu nông không thể trả lời từ bản
tính tự nhiên của họ mà phải từ sự hạn chế trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế - chính
trị - văn hoá của xã hội tiểu nông
Ví dụ: Người nông dân Việt Nam từ nhiều đời đã gắn bó với nền sản xuất nông nghiệp nhỏ,
manh mún, tự cung, tự cấp, bó hẹp trong phạm vi làng xã, cộng đồng tự giám sát lẫn nhau thông
qua dư luận xã hội… chính điều đó đã làm nảy sinh một số hạn chế như tư tưởng cục bộ dòng
họ, xem thường pháp luật “phép vua thua lệ làng”, khả năng hạch toán kinh tế kém cỏi, thiếu
chuẩn xác về thời gian, tâm lý cầu an, cầu may, coi trọng kinh nghiệm, coi thường lý luận…
 Động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử
của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là

21
phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là
hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế – xã hội. Theo chủ nghĩa Mác, bản
chất con người được hình thành trong các mối quan hệ xã hội và thay đổi khi các mối quan
hệ xã hội thay đổi. Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
giải phóng họ khỏi những quan hệ xã hội tiêu cực đang đè nặng, đồng thời, tạo ra những
quan hệ xã hội tích cực.
Ví dụ: Để giáo dục một đứa trẻ trở thành người có ích cho xã hội thì phải quan tâm xây dựng
những mối quan hệ xã hội tích cực: Gia đình đầm ấm hạnh phúc, quan hệ bạn bè, thầy cô trong
sáng, văn minh. Trong quá trình cải tạo người lầm lỗi, các quan hệ xã hội tích cực đóng vai trò
quan trọng để họ học tập, thay đổi sửa chữa lỗi. Còn khi họ trở về với xã hội thì phải tiếp nhận
họ một cách chân tình, không phân biệt đối xử, tạo công ăn việc làm cho họ… điều đó sẽ làm
bản chất của họ trở nên tốt đẹp hơn.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC


MAC-LENIN Ở VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM
1. Khái niệm về nguồn lực con người
Nguồn lực được hiểu theo một nghĩa chung là tổng hợp các giá trị phi vật chất và vật chất để
phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định của một chủ thể. Nguồn lực chính là những thứ có
sẵn và những nguồn lực sẽ là sự thúc đẩy để phát triển được kinh tế.
Các nguồn lực tồn tại hiện nay:
 Nguồn lực tự nhiên
 Nguồn lực khoa học - công nghệ
 Nguồn lực tài chính
 Nguồn lực từ nước ngoài
 Nguồn lực con người
Trong tất cả các nguồn lực kể trên thì nguồn lực con người là cơ bản nhất. Nguồn lực con
người còn là sự bao hàm cả về thể lực, trí tuệ, tay nghề, trình độ năng lực quản lý, mức độ thành
thạo công việc, phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn. Vì vậy xã hội muốn phát triển bền vững
thì phải quan tâm đến việc đào tạo nguồn lực con người. Theo ngân hàng thế giới: “Nguồn lực
con người là toàn bộ vốn người, bao gồm cả thể lực, trí lực kỹ năng, nghề nghiệp… mà mỗi các
nhân sở hữu và có thẻ huy động được vào trong quá trình sẳn xuất, kinh doanh hay trong một
hoạt động nào đó”

22
Nguồn lực con người là bao gồm tất cả các yếu tố như là về thể chất, ý thức chính trị, đạo
đức, năng lực, trình độ chuyên môn và vị thế xã hội… Nó tạo nên năng lực của mỗi con người
và được huy động, được tập hợp lại thành một sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng, dân tộc vào
việc phát triển kinh tế – xã hội.
2. Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện
đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
II. THỰC TRẠNG, MỤC TIÊU, VAI TRÒ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Thực trạng
Năm 1986, đất nước ta thực sự bước vào giai đoạn cải cách, đổi mới; xóa bỏ nền kinh tế tập
trung, bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cũng chính từ đây, Nhà
nước đã bắt đầu có những đầu tư trọng điểm hơn cho phát triển nguồn nhân lực nói chung, cũng
như nguồn nhân lực lao động cho các ngành, nghề, lĩnh vực nói riêng. Tuy nhiên, phải đến năm
1996, chính sách phát triển nguồn nhân lực mới thực sự rõ ràng, thông qua Quyết định số 874
ngày 20/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức
nhà nước: “Trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ và quản lý nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thành thạo về chuyên môn,
nghiệp vụ; trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, tận tụy với công vụ; có trình độ, quản lý tốt,
đáp ứng yêu cầu của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nước; thực hiện
chương trình cải cách một bước nền hành chính nhà nước”
Tiếp đó, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) do Đại hội Đảng
lần thứ IX đề ra, việc phát triển nguồn lực con người là một trong những nội dung quan trọng để
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Vì vậy, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển nguồn lực con người, thể hiện ở
nhiều mặt, nhiều nội dung khác nhau như giáo dục, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân… góp phần nâng cao hơn nữa nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước. Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai
đoạn 2001 - 2010… và rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật của Đảng, Nhà nước cũng như
các Bộ, ban, ngành nhằm xây dựng, chuẩn bị cho một chiến lược phát triển, phát huy nguồn lực
con người có “chất lượng” để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.
Từ những chính sách, biện pháp đúng đắn trong xây dựng và phát triển nguồn lực con người
của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua, Việt Nam đã thực sự bước vào giai đoạn dân số
vàng tính từ năm 2007. Đây là một cơ hội lớn để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
phát triển, hiện đại. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê: thời kỳ dân số vàng sẽ kéo dài trong
khoảng 34 năm và kết thúc vào năm 2041. Như vậy, chúng ta đã trải qua hơn 10 năm trong thời

23
kỳ cơ cấu dân số vàng, nhưng thực tế cho thấy giá trị thặng dư, hiệu suất kinh tế chưa tương
xứng với số lượng lao động hiện có của cả nước. Điều này thể hiện rõ ở việc so sánh năng suất
lao động của Việt Nam thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á: chỉ
bằng 7% của Singapore, bằng 17,6% Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia;
56,7% của Philippines và 87,4% so với Lào...”.
Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ những cán bộ trong các cơ quan hành chính nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã chỉ rõ: “...nhìn tổng thể, đội
ngũ cán bộ đông, nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự
liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân
tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và
chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt
còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp,
làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng
làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại
rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt,
ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược,
thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân,
cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ
quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong
cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu
quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy
danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cấp cao, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi”
2. Con người là mục tiêu trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta
Chủ tích Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ
nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển khả năng của mình”. Đó chính là
mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng tới: Giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng,
giá trị, nhân cách của con người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định “Phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của
sự nghiệp đất nước”. Đây cũng là mục tiêu nhân văn của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Con người trong quan niệm của chủ tích Hồ Chí Minh và Đảng ta không phải là con người
trừu tượng mà là những cá nhân, những tập thể, những tầng lớp người cụ thể. Hạnh phúc của
mỗi người dân, của cả dân tộc Việt nam là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ngay trong thời kì cách mạng giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã nói:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

24
Ngày nay trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước để đi lên Chủ nghĩa Cộng
Sản, mục tiêu xây dựng con người được đặt ra một cách thiết thực, trực tiếp.
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kì mới, đường lối
kinh tế của Đảng ta được xác định là đẩy mạnh Công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với định hướng Xã hội Chủ
nghĩa, phát huy cao nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập
kinh tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện cơ sở vật chất và tinh
thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết
hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh và trật tự xã hội.
Đây là con đường phát triển bền vững của đất nước ta nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội văn minh”. Hay nói cách khác là con đường phát triển nhắm tới mục tiêu kép: vừa
phát triển kinh tế, vừa phát triển con người và xã hội. Tại đó, vấn đề con người là mục tiêu của
sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược. Vậy nên chúng ta
cần chú ý những điều sau:
o Cần quan tâm đến lợi ích con người, gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trước hết là lợi
ích vất chất. Hồ Chí Minh cho rằng: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem
xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ Xã hội chủ nghĩa
và Cộng sản chủ nghĩa”.
o Cần bảo đảm và phát huy dân chủ của nhân dân trong đời sống xã hội bắt đầu từ cơ sở trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân trong
sự nghiệp đổi mới Công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Hồ Chí minh đã khẳng định rằng:
“Bao nhiêu lợi ích vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân”
o Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa các nhân, nhóm cộng đồng về cơ hội phát triển
ngang nhau, được hưởng lợi ích công bằng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong
từng giai đoạn cụ thể. Đồng thời phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn
dân tộc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc vì hạnh phúc của dân.
3. Vai trò của con người đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
Đất nước ta có được những thành tựu như ngày hôm nay là do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lí, nhân dân làm chủ. Sự thành công của quá ttrình phát triển kinh tế ở nước ta đòi hỏi
ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có những nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con
người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý... Các nguồn lực này có

25
quan hệ chặt chẽ với nhau cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng với
mức độ khác nhau trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Giống với những quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam phải
phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định. Bởi những lí do sau:
Thứ nhất: Các nguồn lực khác như vốn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... chúng tồn tại
dưới dạng tiềm năng chung, chúng phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi được kết hợp
với nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là
nguồn lực duy nhất biết tư duy có trí tuệ và có ý chí, biết vận dụng các nguồn lực khác và kết
hợp chúng lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp tác động vào quá trình phát triển kinh
tế. Các nguồn lực khác đều là khách thể chịu sự cải tạo và khai thác của con người, vì thế cho
nên hết thảy chúng đều phục vụ như cầu, phát huy lợi ích cho con người nếu con người biết cách
tác động và chi phối. Do đó trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu
tố quan trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại.
Ví dụ: Đất nước Việt Nam ta có nhiều sông, hồ, đầm lớn. Từ xa xưa cha ông ta đã biết đánh bắt
cá phục vụ nhu cầu lương thực. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, nhờ tiếp cận khoa học công
nghệ tiên tiến, nhờ sự giúp đỡ của các nước bạn, nhờ sự năng động và sáng tạo của con người
Việt Nam chúng ta đã xây dựng được các nhà máy thủy điên: Hòa Bình, Sơn La ... và nhiều
công trình khác phục vụ nhu cầu trong nước và một số nước láng giềng
Thứ hai: Các nguồn khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn lực
con người là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sinh sản về mặt sinh học mà còn tự đổi mới
không ngừng nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển không ngừng, nhờ vậy con người đã
biết làm chủ tự nhiên, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, phát minh ra nhiều công cụ sản
xuất hiện đại hơn, đưa xã hội chuyển từ thấp đến cao.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa, trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật và công nghiệp hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển và vận
động đến nền kinh tế của trí tuệ.
Thứ tư: Kinh nghiệm nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của
phát triển kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối chính sách như cách tổ chức
thực hiện của con người. Cơ cấu lao động cần cho quá trình phát triển kinh tế phải bao gồm: các
chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, nhà kỹ thuật và
công nghệ, các công nhân lành nghề... Nếu không có các nhà chính khách, các học giả thì khó có
thể có được những chiến lược những chính sách phát triển đúng đắn. Nếu không có các nhà kinh
doanh thì sẽ không có những người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn nhân lực công
nghệ. Sự thiếu hụt, kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên sẽ có hại cho quá
trình phát triển kinh tế đất nước.

26
Qua toàn bộ phân tích trên đây, ta có thể đi đến kết luận rằng nguồn lực con người có vai trò
quyết định cho sự thành công của quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do vậy, muốn phát trriển
kinh tế thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn
hóa, y tế, giáo dục ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con người. Đây là nhiệm vụ lớn nhất
được coi là khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay
Nói con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trò của nguồn lực con người bao
gồm yếu tố tri thức, kĩ năng, ý chí, tình cảm, đạo đức … của con người trong quá trình phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước. Nghị quyết của hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khía
VIII đã chỉ rõ điều đó: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh là sự
nghiệp xây dựng sáng tạo to lớn của dân ta, đồng thời là một quá trình cải biên xã hội sâu sắc,
đòi hỏi phát huy khả năng và trí tuệ của con người Việt Nam.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kĩ năng nghề nghiệp bí quyết hành
nghề. Trong thời đại khoa học công nghệ thông tin con người tiền lên không chỉ bằng sức mạnh
cơ bắp mà bằng trí tuệ của mình là chủ yếu. Người lao động có tri thức nghề nghiệp, kĩ năng lao
động, có năng lực thích ứng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự biến đổi không
ngừng của nền kinh tế thị trường thì mới đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn
định.
Ngày nay trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sản
sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm
giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của
lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ chủ yếu sử dụng nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí
tuệ. Tri thức là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất.
Chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp khi ta muốn chuyển đổi vật nuôi hoặc cây trồng nào đó ta
đều phải sử dụng đến tri thức. Vai trò của con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở
lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức kỉ luật.
Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thể hiện qua ý trí, tình cảm, đạo
đức… Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá trình cải biến xã hội sâu sắc ở nước ta đòi
hỏi phải có một ý chí lớn, tư tưởng…Cho nên nó đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm
vượt qua khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng đất nước thành công
Do vậy khi đề cập đến vai trò con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấm mạnh: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cho
sự phát triển bền vững”.
4. Vấn đề xây dựng con người trong thời kì Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại hội IX của Đảng đã nêu ra các phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam trong giai
đoạn Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đước thể chất”

27
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương khóa VIII đã đưa ra những tiêu
chuẩn xây dựng con người Việt Nam “Có tình yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, Chính sách
pháp luật của Nhà nước”.
Đi ngược lập trường tư tưởng chính trị tiến bộ đó là lập trường chính trị phản động. Còn lập
trường tư tưởng chính trị cơ hội biểu hiện ở tính xu hướng, lập trường không dứt khoát, không
nhất quán trong tư tưởng và hành động. Khi cách mạng thuận lợi thì ủng hộ, khi cách mạng khó
khăn thì sẵn sàng vứt bỏ. Thông thường những cán bộ có tư tưởng lập trường chính trị phản
động khi họ không được giáo dục, rèn luyện đến nơi, đến chốn.
Yêu cầu đánh giá về người cán bộ: đạo đức, và hành vi của họ, yêu cầu về ý thức đạo đức
của người cán bộ các cấp ở nước ta trong thời kì đổi mới là: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật,
trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.”
Yêu cầu về tài đối với cán bộ với cán bộ nhân dân các cấp trong thời kì mới là phải: “Có
trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của nhà nước, có trình độ văn hóa chuyên môn đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.”
Đánh giá đúng đức và tài của người cán bộ cần chú ý: Phải đánh giá một cách khách quan
không dự trên mối quan hệ tình cảm riêng tư, phải căn cứ vào những tài liệu, số liệu cụ thể rõ
ràng, cần tham khảo ý kiến làm việc của mỗi người, cần sử dụng nhiều phương pháp thu thập,
phân tích, thống kê khác nhau. Đánh giá công khai gián tiếp có tác dụng thúc đẩy sự nỗ lực lao
động của đối tượng bộc lộ khả năng một cách tự nhiên. Tùy theo đối tượng cán bộ mà sử dụng
các biện pháp đánh giá thích hợp
Người cán bộ cần phải có:
§ Lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái
§ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ năng, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích
của nhân dân, gia đình, tập thể và xã hội
§ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực.
Như vậy, việc xây dựng con người cần phát triển toàn diện và hài hòa về nhân cách, nâng
cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tâm hồn, trong sáng về đạo đức, nhưng
cũng không được quá nóng vội.

III. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO, SỬ DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở
VIỆT NAM

28
Xét về mặt tổng thể mà nói thì sau 10 năm thực hiện CNH - HĐH, chúng ta đã đi những
bước vững chắc và quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình phát triển sau này. Thế hệ sau có nhiều
hình thức đào tạo: chính quy, vừa học vừa làm, đào tạo từ xa... có nhiều trường ở các cấp học,
trường học được mở rộng, xây mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về số lượng và chất lượng
của xã hội.
Đổi mới ở nước ta đã đi qua một chặng đường gần 30 năm, trong quá trình đó, vai trò của
nguồn nhân lực, của yếu tố con người được khai thác, sử dụng, được chú trọng và phát huy.
Nhưng, nếu so với tiềm năng, với trình độ chung của thế giới và với yêu cầu nội tại, bên trong
của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thì phát triển nguồn nhân lực, nhất là cán bộ cấp chiến
lược ở nước ta thời gian qua vẫn còn những bất cập lớn khi quy mô, cơ cấu, chất lượng đào tạo
chưa cân đối, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển. Đặc biệt trong bối cảnh tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo chiều sâu và trong thời đại của
kinh tế tri thức thì vai trò của nhân tố con người, nguồn nhân lực chất lượng cao, cán bộ cấp
chiến lược lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói một dân tộc
tốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; phát triển
kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến
năm 2020 sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, và phải luôn nắm
vững và kiên định đường lối đổi mới toàn diện, vận dụng sáng tạo chủ trương đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong xây dựng và phát triển
con người Việt Nam.
1. Ưu điểm
Giảm tỷ lệ nghỉ việc: Tỷ lệ nghỉ việc là một trong những vấn đề đau đầu nhất trong lĩnh vực
nhân sự. Quản lý nhân sự là một lĩnh vực rất phức tạp, nhưng giảm tỷ lệ nghỉ việc là phương án
tối ưu nhất để cắt giảm chi phí cũng như gia tăng tính trung thành và mức độ hài lòng của nhân
viên. Tỷ lệ nghỉ việc cao phản ánh thực trạng nhân lực bất đồng với môi trường làm việc. Điều
này đồng nghĩa với việc thiếu tính liên kết và hòa hợp tập thể. Khi kéo dài tình trạng này, họ có
thể nhanh chóng rời bỏ công ty khi tìm được cơ hội tốt hơn hoặc đơn giản là môi trường họ thích
hơn. Nếu doanh nghiệp đầu tư thời gian và công sức vào việc đào tạo và bồi dưỡng nhân lực,
hiển nhiên họ sẽ không muốn rời đi. Với tỷ lệ nghỉ việc giảm, doanh nghiệp bạn sẽ tiết kiếm chi
phí tuyển dụng và đào tạo người mới cũng như giúp công việc vận hành hiệu quả hơn.
Nhiều cơ hội thăng tiến cho nhân lực nội bộ: Nguồn nhân lực thuê ngoài luôn tiềm ẩn rủi
ro. Nếu người được thuê không phù hợp với vị trí công việc, bạn sẽ tốn rất nhiều chi phí để thuê
người mới cộng với khoản thời gian và công sức đã bỏ ra dành cho người vừa tuyển không hợp.
Những vị trí cao và quan trọng có thể mất đến hằng tháng hoặc lên đến hằng năm để tuyển
người phù hợp. Vì vậy, nhiều công ty chú trọng đề cử chính những nhân viên nội bộ vào các vị
trí cao. Họ thường là những người hiểu rất rõ về công ty, cách vận hành và lối tổ chức của mọi
phòng ban. Chính vì lẽ đó, việc đào tạo ứng viên tiềm năng cho vị trí cao ngay từ đầu đóng một
vai trò then chốt, củng cố tính ổn định và chắc chắn sau này.

29
Tạo động lực cho nhân viên: Một nguồn nhân lực năng động và tự giác luôn là mục tiêu
của mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, ít ai nhận ra rằng nhằm thúc đẩy nhân viên tự tạo động lực,
cung cấp một môi trường cùng phúc lợi tốt còn chưa đủ, họ cần thử thách và sự rèn luyện tư
duy. Nhân loại luôn khát khao sự cải tiến. Đó có thể là việc đổi mới tư duy, nhận thức hay đơn
giản là phương pháp sử dụng công cụ Word nhanh hơn, hay chỉ là học thêm ngôn ngữ mới. Một
doanh nghiệp chú trọng vào sự phát triển năng lực chuyên môn lẫn kỹ năng sống cho nhân lực là
một doanh nghiệp hình mẫu.
Có khả năng hoạch định và dự đoán tương lai: Bằng việc lên kế hoạch đào tạo bài bản,
doanh nghiệp có thể biết rằng mình cần gì trong tương lai. Mọi kế hoạch đào tạo đều là bước
đầu cho một kế hoạch lâu dài. Ví dụ: bạn chuẩn bị đầu tư và mở rộng nhà máy sản xuất tại nước
ngoài, kế hoạch đào tạo nên chú trọng vào kỹ năng ngoại ngữ lẫn tri thức văn hóa tại vùng lãnh
thổ bạn hướng đến, bởi “đem chuông đi đánh xứ người” mà không chuẩn bị kỹ thì thật sai lầm.
Tương tự như thế, qua những khóa đào tạo này doanh nghiệp sẽ có cái nhìn rõ nét về vị thế và
điểm yếu của nhân lực mình trên thị trường, từ đó hoạch định chiến lược khắc phục hoặc phát
triển hợp lý.
2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, chúng ta còn có những mặt hạn chế cần khắc phục: Do
năng suất lao động thấp nên tình trạng thiếu việc làm diễn ra thường xuyên cả ở thành thị và
nông thôn, trong khu vực nhà nước và quốc doanh. Theo một số nhận định thì trong những năm
đầu của thế kỷ này tình trạng dư thừa lao động vẫn diễn ra. Lao động ở nước ta chủ yếu là lao
động phổ thông, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp công nhân phần biên chế... Song do nhu
cầu CNH, HĐH yêu cầu con người lao động phải có tay nghề, có chuyên môn thì vấn đề việc
làm một nan giải.
Không những thế, đội ngũ tri thức ở nước ta còn phân bố không đều phần lớn tập trung ở
các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... và một số trung tâm công nghiệp khác,
chưa có nhiều ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo. Điều đó là do tác động của cơ chế thị
trường đối với sự phân công lao động trong cả nước. Do chính sách đầu tư không đảm bảo cân
đối giữa các ngành, giữa các vùng nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Ở những vùng này rất ít
trí thức mà nếu có thì chất lượng rất hạn chế do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan
do yếu tố tâm lý của người dân tộc nên việc bồi dưỡng, nâng cao việc giáo dục đào tạo lại chưa
được chú ý một cách thoả đáng.
Trong khi số người được đào tạo giảm thì số sinh viên tốt nghiệp, đại học, cao đẳng, không
tìm được việc làm lại tăng lên theo thống kê chưa đầy đủ thì từ năm 2000 đến nay số sinh viên
tốt nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng ở khu vực Hà Nội chưa tìm được việc làm tăng dần.
Việc sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm là do một số ngành đào tạo chưa được cơ chế
thị trường chấp nhận.

30
Đáng lo ngại nhất là hiện tượng chảy máu chất xám ngày một cách nghiêm trọng. Do nhà
nước chưa có chính sách thu hút nhân tài đủ mạnh nên không thu hút được nhiều nhân tài về
phục vụ đất nước.
3. Những giải pháp để phát triển nguồn lực con người trong tình hình kinh tế của Việt
Nam hiện nay
Cách mạng Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh chung của thế giới bước vào thế kỉ XXI, phải
đối mặt với nhiều vấn đề mới, như vấn đề đấu tranh giai cấp trong tình hình thế giới diễn biến
phức tạp; vấn đề hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc dân tộc; vấn đề bảo vệ hòa bình chống
chiến tranh chống khủng bố, vấn đề phát triển khoa học và công nghệ đòi hỏi xây dựng con
người mới phải có những nhiệm vụ phù hợp. Riêng trong lĩnh vực kinh tế, bước sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước với nền kinh tế tri thức, trong môi trường
hội nhập WTO đòi hỏi những con người phát triển toàn diện năng động, sáng tạo, nhanh nhạy
với thời cuộc và phải dám nghĩ, dám làm.
Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay, trước đỏi hỏi của nền kinh tế là xây
dựng con người mới XHCN, vận dựng chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
xác định cần xây dựng con người phát triển toàn diện cả đức và tài, nắm trong tay tri thức mới,
đặc biệt trong lĩnh vực khoa học công nghệ, năng động phát huy nội lực, có lập trường tư tưởng
vững vàng không xa rời ý tưởng XHCN. Phát triển nguồn lực con người nói chung và nói riêng
trong lĩnh vực kinh tế chúng ta có thể tiến hành theo các biện pháp sau:
a) Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội
Trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong những năm gần đây, tình hình kinh tế thế giới và
trong nước có nhiều bất ổn. Nền kinh tế suy thoái, lạm phát gia tăng, cộng với ảnh hưởng
nghiêm trọng của dịch bệnh Covid dẫn đến nhiều nhà máy xí nghiệp đóng cửa phá sản, công
nhân mất việc làm, sinh viên ra trường không có việc làm. Do đó đào tạo cần đáp ứng nhu cầu
xã hội. Nhà nước cần có đường lối phát triển đúng đắn, kịp thời. Các nhà hoạch định chính sách
cần có những nghiên cứu mang tính chiến lược về lâu về dài, dự báo sớm được những tình
huống diễn biến có thể xảy ra để đưa ra những biện pháp dự phòng kịp thời. Từ đó các bộ, ban,
ngành, hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề có được kế hoạch đào tạo có
chất lượng hiệu quả, tránh dư thừa lao động ở khu vực này mà thiếu hụt lao động ở khu vực
khác. Bản thân người lao động cần nắm được xu thế, nhu cầu của xã hội để có kế hoạch, lối đi
cho mình, tránh ồ ạt, xô bồ chạy theo trào lưu khuynh hướng mà dẫn tới dư thừa, tạo nên gánh
nặng cho xã hội
b) Đối với vấn đề giáo dục
Việc chuyển đổi nền giáo dục truyền thống sang nền giáo dục hiện đại không phải dễ dàng,
nhưng không thể không làm, mà phải làm thực sự quyết liệt ngay từ bây giờ; đổi mới từ cấp tiểu
học trở lên để hình thành nhân cách con người Việt Nam có lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Giáo
dục phải giúp cho sự định hướng xã hội, sử dụng truyền thống như là tiền đề, sức mạnh có khả
năng thích ứng với sự thay đổi của tiến bộ thế giới, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

31
Bên cạnh đó, Chính phủ cần khuyến khích và tạo điều kiện cho việc hình thành hệ thống
giáo dục theo mô hình doanh nghiệp, liên kết đào tạo những lĩnh vực mà xã hội, doanh nghiệp
cần, nhất là lực lượng lao động có tay nghề cao, chuyên môn giỏi, đồng thời khích lệ hoạt động
sáng tạo của người lao động để thích ứng với mọi điều kiện; rèn luyện tính tự lực, tự cường, tìm
tòi sáng tạo cùng với việc chú trọng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ các nhà
khoa học, nhà sáng chế, các chuyên gia nước ngoài
Đi đôi với việc nâng cao chất lượng giáo dục, cần phát triển nhanh quy mô giáo dục. Chúng
ta đã thực hiện phổ cập Trung học cơ sở, phấn đấu đẩy nhanh phổ cập giáo dục trung học phổ
thông vào năm 2015, nâng số năm đi học bình quân của người trong độ tuổi lao động lên 9 năm
vào năm 2010, lên 12 năm vào năm 2020. Nâng tỷ lệ sinh viên đại học, cao đẳng trên một vạn
dân ngang với các nước xung quanh. Hiện nay, có hiện tượng sinh viên học xong ra trường
không có việc làm, nhưng đó chỉ là tạm thời, do sản xuất, kinh doanh chưa bùng phát; và do chất
lượng đào tạo thấp nên nhiều người không tìm được việc làm bởi không đủ năng lực, tiêu chuẩn
của nhà tuyển dụng yêu cầu. Nếu đào tạo tốt, người học ra trường có nhiều khả năng sáng tạo,
biết tổ chức ra việc làm mới, thì các doanh nghiệp mới sẽ phát triển và thu hút nhiều việc làm.
Các doanh nghiệp nếu biết đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm nhanh thì sẽ thu hút được
nhiều lao động có tay nghề cao. Một trong những mục tiêu của giáo dục ở nhà trường là đào tạo
cho các học sinh, sinh viên khả năng tự tạo việc làm. Như vậy chúng ta phải phát triển nhanh
giáo dục phổ thông và giáo dục cho mọi người. Cần hết sức quan tâm giáo dục trẻ thơ và đó là
nền tảng cho cho phát triển nền giáo dục sau này để giảng dạy, truyền đạt và tương tác trong lao
động, trong giáo dục ở nước ta.
Phát triển hệ thống học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để bồi dưỡng nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong một nền kinh tế dựa vào tri
thức thì mọi người đều phải học tập thường xuyên, học tập suốt đời để có thể thích nghi với sự
phát triển và đổi mới nhanh của khoa học – công nghệ, sản xuất, kinh doanh, xã hội, học tập -
thông tin là tiền đề cho nền kinh tế tri thức. Hệ thống giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện cho
mọi người ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào có thể tham gia học tập nâng cao trình độ để theo kịp sự
phát triển của thời đại. Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục. Huy động sức mạnh của
mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức cá nhân tham gia phát triển giáo dục. Đồng thời phát huy
vai trò của Nhà nước trong việc hình thành xã hội học tập và chế độ học tập suốt đời. Nhiệm vụ
cấp bách là phải tiến hành ngay một cuộc cách mạng toàn diện trong giáo dục, cải cách triệt để,
sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy, hệ thống giáo dục và phương thức tổ
chức quản lý giáo dục – đào tạo.
Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục – đào tạo với nước ngoài. Có chính sách tuyển cử đông
đảo giáo viên, sinh viên đi học tập, nghiên cứu ở các nước phát triển và thu hút nhiều giáo sư,
chuyên gia nước ngoài vào nước ta giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm. Mở rộng các
hình thức hợp tác, liên kết các trường đại học ở nước ta với các trường đại học ở nước ngoài để
đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển các đại học quốc tế ở nước ta, được các trường uy tín trên thế giới cấp bằng.

32
Cải cách giáo dục là cuộc cách mạng sâu sắc không chỉ trong ngành giáo dục mà còn trong
cả xã hội, bắt nguồn từ sự đổi mới tư duy về giáo dục. Ngành giáo dục đã cố gắng xử lý rất
nhiều vấn đề, nhưng hầu như mới chỉ là những vấn đề ngọn, cắt gọn được cái này thì phát sinh
cái khác, đối phó, giải quyết từng vụ việc, chưa thay đổi tận gốc, có thể do còn vướng mắc trong
tư duy. Nếu không có quyết tâm cao trong cải cách giáo dục, không có bước chuyển biến mạnh
mẽ về chất lượng giáo dục thì sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các
nước, trước hết là các nước ASEAN. Muốn chấn hưng đất nước cần phải cải cách giáo dục,
nhanh chóng đưa nền giáo dục nước ta lên ngang mức tiên tiến các nước trong khu vực
c) Xây dựng môi trường xã hội tạo điều kiện để phát huy yếu tố con người
Con người là chủ thể đồng thời là sản phẩm của sự vận động xã hội. Vì vậy, muốn phát huy
được yếu tố con người cần phải tạo môi trường thuận lợi: việc giải phóng lực lượng sản xuất
được thực hiện trước tiên và chủ yếu là xoá bỏ cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích cực chủ
động sáng tạo của người lao động đồng thời phải xây dựng một cơ chế mới đảm bảo giải phóng
người lao động về mọi mặt.
Cần xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là người tài. Đây
là điều kiện quan trọng trước hết nguồn nhân lực đào tạo tốt có cơ hội tìm kiếm việc làm phù
hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động đảm bảo công bằng trong kinh tế.
Cần có chủ trương khuyến khích các nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước cùng tham
gia đóng góp vào xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển quốc gia. Để làm tốt vấn đề
này, cần có những chính sách thu hút, đãi ngộ nhân tài thống nhất từ Trung ương xuống các địa
phương.
d) Đổi mới trong tư duy và hành động của người lao động
Về phía bản thân người lao động cần nhận thức được vai trò của mình trước những đòi hỏi
thách thức mới của nền kinh tế để từ đó đổi mới trong tư duy và hành động của mình.
Người Việt Nam có những đức tính tốt như chăm chỉ, cần cù, tiết kiệm, năng động, có
truyền thống tốt đẹp... nhưng còn bảo thủ, trình độ thấp, thói quen của nền sản xuất nhỏ, tiểu
nông manh muốn... Với một xã hội nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng chủ yếu không dễ
thích nghi với lối sống công nghiệp, với quan niệm đạo đức của xã hội công nghiệp và với chuẩn
giá trị xã hội mới theo tiêu chí công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bởi tàn dư của lối sống tiểu nông,
những chậm chạp trong cách sống và cách nghĩ vẫn còn ngự trị trong tâm lý của một số bộ phận
người dân. Do vậy chính bản thân người lao động chúng ta cần đổi mới trong tư duy và hành
động của mình, nhanh nhạy biết kế thừa tiếp thu trước tình hình mới.
Phải thực sự lựa chọn được những cán bộ có đức, có tài để phục vụ nhân dân, phát triển đất
nước. Vì vậy, ngay từ khâu tuyển chọn, bổ nhiệm phải thực hiện nghiêm túc, khách quan, minh
bạch, công bằng, công tâm, trong đó coi trọng công tác thẩm định, thực hiện quy trình từ dưới
lên và lấy ý kiến tham khảo rộng rãi trong nhân dân nơi cư trú; tổ chức mở rộng các hình thức
thi tuyển, đặc biệt là các chức danh lãnh đạo, quản lý với quy trình chặt chẽ và theo đúng tiêu

33
chuẩn, yêu cầu đề ra, từ đó lựa chọn được những cán bộ thực sự có năng lực, nhiệt huyết với
công việc. Làm tốt công tác thi tuyển sẽ tránh được tình trạng “gửi gắm” hoặc “thân quen” khi
tuyển dụng, bổ nhiệm. Mặt khác, trong quy trình bổ nhiệm, xét duyệt các hồ sơ dự tuyển chúng
ta không nên quá coi trọng vấn đề bằng cấp, loại hình đào tạo, điều quan trọng là phải chú trọng
đến yếu tố cần thiết như: năng lực thực sự, tố chất quản lý, đạo đức cách mạng, lòng nhiệt huyết,
say mê với công việc, vị trí khi đảm đương… Bên cạnh đó, trong chủ trương luân chuyển cán bộ
kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương phải được triển khai
quyết liệt và rộng khắp trong cả nước.
Trong một nền kinh tế dựa vào tri thức thì mọi người đều phải học tập thường xuyên, học
tập suốt đời để có thể thích nghi với sự phát triển và đổi mới nhanh của khoa học – công nghệ,
sản xuất, kinh doanh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


 Giáo trình Triết học Mác-Lênin dành cho hệ đại học không chuyên lý luận chính trị
 Hồ Sĩ Quý, “Con người và phát triển con người trong quan niệm của C-Mác và
Ph.Ăngghen
 Đảng CSVN – Cương lĩnh XH Đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. NXB Sự thật,
Hà Nội 1991 Báo Thanh Hoa, “Tìm hiểu luận điểm của C-Mác về bản chất con người và
ý nghĩa trong phát huy nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay.”
 Triết học+, “Con người và bản chất con người theo quan điểm của Triết học Mác-lênin
 Tạp chí xây dựng Đảng, “Quan điểm của Đảng về phát huy nhân tố con người trong phát
triển đất nước.”
 Kho tri thức số, “Quan điểm của triết học Mác-lênin về con người và vấn đề xây dựng
con người Việt Nam hiện nay.”
 Tạp chí công thương, “Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong việc xây dựng và phát triển con người; một số vấn đề lý luận và thực tiễn.”

KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội do con người hình thành và vì con người phát triển. Do vậy, hình thành
mối quan hệ đúng đắn về con người và vai trò của con người trong sự phát triển xã hội là một
vấn đề không thể thiếu trong thế giới quan Mác-Lênin. Triết học Mác - xit dựa trên cơ sở tiếp
thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước đó và những thành tựu của khoa học tự
nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt động thực tiễn để xem xét bản chất con người.

34
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời
là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một
chỉnh thể, trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Nếu chỉ dừng lại ở một số
đặc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người, con người
là một thực thể đặc biệt hoạt động có ý thức khác với con vật, có khả năng sáng tạo để thỏa mãn
nhu cầu của bản thân. Từ tự nhiên và quá trình lao động, những quan hệ xã hội được hình thành
có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển nhân cách, bản chất con người Mác viết “Con người là
tổng hoà của những quan hệ xã hội”. Con người vừa là chủ thể lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch
sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con người. Mối quan hệ giữa con
người với xã hội, giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ luôn mang lại những vai trò quan trọng
trong việc đổi mới đất nước, đổi mới con người. Trong CMXHCN con người là yếu tố quyết
định vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích của một chính sách kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội
chủ nghĩa là xây dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần.
Trong các kỳ đại hội VI, VII, VIII của Đảng ta đã chủ trương xã hội nước ta trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020 là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt bởi chủ trương đó xuất phát
từ trình độ và hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta về các mặt. Chúng ta, thực hiện quá trình CNH,
HĐH phát triển kinh tế đất nước đã khơi dậy năng lực sáng tạo, tính chủ động của con người
phát triển. Do đó, mà nền kinh tế của chúng ta đã thực sự được đổi mới và đạt được những thành
tựu to lớn. Từ một nước nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về khoa học kỹ thuật, đói kém, thì
nay ta đã đảm bảo cho dân được ăn no, và còn có sp dư thừa để xuất khẩu. Mặc dù vậy, chúng ta
vẫn còn rất nhiều khó khăn ở phía trước đòi hỏi nhà nước phải có chính sách, biện pháp khắc
phục để cho sự nghiệp CNH, HĐH phát triển kinh tế đất nước đạt được kết quả. Hơn nữa, chúng
ta phải đặt vấn đề nhân lực con người lên hàng đầu phát triển đồng bộ giữa các ngành, giữa các
vùng, đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không ngừng
nâng cao hiệu quả quản lý đảm bảo công cuộc CNH, HĐH phát triển nhanh. Phải đào tạo đội
ngũ cán bộ quản lý về kinh tế có trình độ, năng lực quản lý, có tư cách đạo đức tốt điều đó đòi
hỏi ta phải có sự giáo dục đào tạo thế hệ trẻ ngay từ khi còn là học sinh, sinh viên đó là nguồn
lực quý giá cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con
người là kim chỉ nam để hướng đất nước ta cần phải đi đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực
hiện thành công công cuộc xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Là công trình nghiên cứu đầu tay, do còn hạn chế về tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm
làm bài nên bài tiểu luận của chúng em còn nhiều thiếu sót.
Nhóm 7 chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các bạn và cô giáo để bài
làm của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.

35

You might also like