You are on page 1of 13

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


====***====

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


Đề tài:
“Quan điểm của triết học Mác - Lênin về

bản chất con người và sự vận dụng quan điểm đó

trong nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên.”

Họ và tên SV : Đỗ Ngọc Thiện


Mã SV : 11219289
Lớp : DSEB - K63
Môn học : Triết học Mác - Lênin
GVHD : Lê Thị Hồng

Hà Nội, ngày 05 tháng 11 năm 2022

1
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................................................. 3

I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI................. 4

1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI CỦA NHỮNG NHÀ TRIẾT HỌC TRƯỚC
MÁC. ............................................................................................................................................................ 4

2. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI .............................................................. 4

2.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội ....................................................................................... 4

2.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội .............................................................. 6

2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử ............................................. 7

II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CỦA CON
NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN. ....... 8

̣ ....................................................................................................................................................... 11
KẾT LUÂN

2
LỜI MỞ ĐẦU
Con người là một khách thể hết sức phong phú, là đối tượng được rất nhiều
ngành khoa học nghiên cứu và tìm hiểu như sinh vật học, tâm lý học, xã hội học,
y học,…Mỗi khoa học có cách tiếp cận và phương pháp giải quyết khác nhau về
vấn đề con người, song chủ đề về bản chất con người vẫn luôn là một vấn đề mới
mẻ, phức tạp đáng để ta phân tích và bàn luận chi tiết cụ thể dưới nhiều góc độ.
Triết học, với tư cách là "khoa học của mọi khoa học", với chủ đề là những
quy luật chung nhất của tự nhiên và xã hội, đã xem xét vấn đề "bản chất con
người" một cách sâu rộng và thấu đáo nhất.
Trải qua nhiều năm lịch sử, nhân loại đã từng bước khám phá ra hàng trăm
nghìn điều mới lạ trên Trái đất. Chúng ta mải mê tìm kiếm những bí ẩn của vạn
vật xung quanh mà đôi khi quên mất rằng bản chất con người mới là bản thể bí
ẩn nhất. Vấn đề con người đã được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau,
mỗi lĩnh vực đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và mang lại lợi ích cho
con người. Hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học có nhiều mâu thuẫn
trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây ra một cuộc đấu tranh không biết khi
nào mới dừng lại. Lập trường chính trị về trình độ nhận thức và tâm lý của các
nhà nghiên cứu là khác nhau và do đó các giải pháp khác nhau đã được đề xuất.
Tùy thuộc vào lịch sử và hoàn cảnh của từng thời đại, các trường phái và
triết gia đã phát triển những cách tiếp cận khác nhau góp phần phân tích từ
“người”. Nhưng các lý thuyết trước Mác và Mác tồn tại dưới góc độ các phương
pháp tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con người, và trên thực tế là về
sự tồn tại lâu dài của các vật thể. Về phẩm chất con người và phương pháp giải
phóng con người. Chỉ với sự ra đời của triết học Mác - Lênin trong lĩnh vực duy
vật thì câu hỏi này mới được xem xét một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, tôi đã chọn đề tài “Triết
học Mác - Lênin về nhân loại và sự vận dụng của nó trong học tập, nghiên cứu
và rèn luyện của sinh viên”.

3
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ BẢN CHẤT
CỦA CON NGƯỜI.

1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI CỦA NHỮNG NHÀ
TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC.
Các nhà triết học cổ điển Đức trước kia nói chung, từ Cartơ đến Heghen nói
riêng đã phát triển các tư tưởng triết học của họ về con người theo hướng duy
tâm. Theo Hê-ghen, con người là sản phẩm của ý niệm; tức nguồn gốc con người
là từ những đấng tối cao tạo nê, và những đấng tối cao đó mang trong mình
quyền năng kiểm soát mọi các khía cạnh của sự tồn tại của con người. Phơ-bách
trình bày một quan điểm duy vật đối lập với Hê-ghen, cho rằng con người là sản
phẩm của tự nhiên và là kết quả của quá trình tiến hóa của tự nhiên chứ không
phải là sản phẩm của những khái niệm hão huyền và thiếu tính thực tế. Tất nhiên,
đó là khía cạnh đáng ngưỡng mộ nhất của tự nhiên. Khi ông giải thích cách tâm
trí gắn bó chặt chẽ với các quá trình vật lý xảy ra trong cơ thể con người, tư
tưởng Phơ-bách đã chuyển sang trạng thái duy tâm. Ông đã làm điều này bằng
cách sử dụng các thành tựu của khoa học tự nhiên.

Những ý tưởng được liệt kê ở trên đều tuyệt đối hóa các khía cạnh tinh thần hoặc
thể chất của con người mà không xem xét đến các khía cạnh xã hội. Chủ nghĩa
Mác đã tiếp thu quan điểm của các trường phái trí thức khác về con người để
đưa ra tầm nhìn về bản chất con người đồng thời khắc phục những hạn chế trước
đó.
2. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học.
Với Triết học Mác-Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một
cách đúng đắn trên quan điểm biện chứng duy vật. Theo C.Mác, con người là
một sinh vật có tính xã hội ở trình độ cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã
hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn
hóa1.
2.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội
Dựa trên kết quả của những thành tựu của khoa học tự nhiên, triết học
Mác khẳng định: Con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự

1
Theo Giáo Trình Triết học Mác-Lênin, GS.TS Phạm Văn Đức chủ biên, tr.247
4
nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động chính của bản thân con người. Con người
hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Là thực thể
sinh học, con người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên (theo
thuyết tiến hóa của Đác-Uyn). Vì con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa
tự nhiên nên con người là một bộ phận tất yếu, không tách rời của giới tự nhiên.
Ph.Ăngghen cho rằng : “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà
ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi
những đặc tính vốn có của con vật” 2. Hay nói cách khác, tiền đề vật chất đầu
tiên quyết định cho sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng là “thân thể vô cơ của con người”. Con người tồn tại được trước tiên phải
có cơ thể sống, trong khi đó, cơ thể sống là một bộ phận của tự nhiên, là sản
phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Mặt khác, con người phải đấu
tranh để sinh tồn và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên, các quy luật sinh
học (Ví dụ: quy luật sinh tử, quy luật về quan hệ giữa cơ thể và môi trường, quy
luật dinh dưỡng, quy luật di truyền và biến dị, quy luật đồng hóa, dị hóa... ).
Tuy nhiên, con người không chỉ sống dựa vào tư nhiên mà còn cải biến tự nhiên
dựa trên các quy luật khách quan, đây cũng là một trong những điểm đặc biệt
để phân biệt con người với các loài vật khác.
Tuy nhiên, chúng ta không được tuyệt đối hóa điều đó. Các đặc tính sinh
học, bản năng sinh học hay sự sinh tồn thể xác không phải là những cái duy nhất
quy định bản chất con người, mà chúng ta còn phải nhắc đến phương diện xã
hội. Bởi lẽ, đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật
là phương diện xã hội của nó. Con người là một thực thể xã hội có các hoạt động
xã hội mà điển hình chính là hoạt động lao động. Chính nhờ lao động mà con
người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Con người sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra
các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Vì vậy, ta hoàn toàn có thể khẳng
định: Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình
thành và phát triển của con người. Mặt khác, tính xã hội của con người chỉ có
“xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản
làm cho con người khác với con vật.
Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ
cho con người mà còn cho xã hội như ngôn ngữ giao tiếp, lương tâm, ý thức
con người,…. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự
2
Theo C.Mác và Ph.Angghen (1994), Toàn tập, t.20. Sdd. Tr.146
5
thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho
sự phát triển của xã hội.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội.
Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đề cho
nhau, trong đó mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt xã
hội quyết định bản chất con người.
2.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên,
quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ
đó, suy cho cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với
người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt
động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu
lên một mệnh đề nổi tiếng Luận cương về Phơ-bách: "Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội3”.
Luận đề trên khằng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong
điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội) con người mới
bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận điểm trên khắng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ định mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn
nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết là ở bản
chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục thiếu sót của các nhà triết học trước
Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với
ý nghĩa là cái phổ biển, mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất; do đó
cần phải thấy được các biểu hiện riêng phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân
về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội.

3
C.Mác và Ph.Angghen (1995), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr11
6
2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có thế giới tự
nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy con người
là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều
quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
C.Mác đã khằng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là
sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục, cái học thuyết ấy quên rằng
chính bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện
chứng của tự nhiên. Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử
phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch
sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào
việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và cũng không
phải do ý muốn của chúng. Ngược lại,con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử
một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận
động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có
sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình
để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo
mục đích của mình. Trong quá trình cải biển tự nhiên, con người cũng làm ra
lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử của chính bản thân con người, vừa là phương thức để làm biến đổi
đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con
người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ
thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có
hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không
có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài nguòi.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong
mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải
thay đổi cho phù họp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín,
mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù
là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình
lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng
vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng mỗi sự vận động và tiến lên của
7
lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con
người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là
toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
hưóng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa
định hướng giáo dục. Thông qua đó con người tiếp cận hoàn cảnh một cách tích
cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng xử , hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí
tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người và hoàn cảnh
trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ BẢN
CHẤT CỦA CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP
VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN.
Thứ nhất, sinh viên cần hình thành lối sống lành mạnh, cần thiết lập đồng hồ
sinh học hợp lý, xen lẫn học tập, nghiên cứu với rèn luyện sức khỏe, tu dưỡng
phẩm chất đạo đức để phát triển một cách toàn diện về cả thể chất lẫn trí tuệ,
tinh thần. Đặc biệt đối với sinh viên năm nhất mới làm quen với cuộc sống Đại
học tự do, thoải mái, chủ động nhưng cũng đầy rẫy khó khăn và cạm bẫy, sinh
viên cần làm chủ chính bản thân mình, tránh rơi vào trạng thái buông thả, chạy
theo những ham muốn tầm thường của bản năng. Từ thực trạng đáng buồn là
ngoài thời gian trên lớp thì khi đã về nhà, thời gian học tập một cách tự giác của
sinh viên là rất hạn chế. Vậy họ lãng phí thời gian đó vào việc gì, có nghìn lẻ
một lý do cho câu hỏi trên: Ngủ, Sinh nhật, Đi chơi, Đi shopping và thậm chí là
những việc không lành mạnh khác. Do đó khi ngồi vào bàn học là chân tay rã
rời, hoa mắt, mệt mỏi và chẳng mấy chốc là không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ
ập đến. Bao nhiêu kiến thức họ tích luỹ được trên lớp không có cơ hội được củng
cố. Bài học rút ra ở đây là cần phải sắp xếp thời gian giữa học tập và các hoạt
động khác trong đó thời gian dành cho học tập phải chiếm đa số và chúng ta cần
phải tuân thủ chặt chẽ thời gian biểu đó. Bên cạnh việc sắp xếp thời gian học
tập, sinh viên cũng cần tích cực tham gia các môn thể dục thể thao, tích cực tham
gia các hoạt động ngoại khóa của trường, lớp để tăng cường thể chất và phát
triển các kĩ năng mềm của bản thân, từ đó làm tiền đề để sau này trở thành một
công dân toàn diện, đóng góp cho sự tiến bộ chung của toàn xã hội.
8
Thứ hai, để sinh viên phát huy được năng lực sáng tạo của mình thì phụ
thuộc vào nhiều yếu tố; đặc biệt là môi trường, điều kiện, hoàn cảnh. Con người
là một thành viên, là một tế bào của xã hội. Con người sẽ phát triển tốt khi được
ở trong một môi trường điều kiện xã hội tốt, nhưng môi trường điều kiện xã hội
không tự nhiên xuất hiện mà nó là kết quả hoạt động của con người. Ở đây, nếu
nói một cách biện chứng, cần phải kết hợp những điều kiện khách quan và phát
huy vai trò những nhân tố chủ quan để tạo ra động lực cho sinh viên phát huy
năng lực sáng tạo của bản thân. Trên lớp cần đổi mới
cả cách giảng dạy của giảng viên và cách tiếp thu của sinh viên, chúng ta cần
thẳng thắn loại bỏ phương pháp học đọc–chép truyền thống rất dễ gây nhàm chán
cho cả người dạy và người học. Chúng ta cần có thêm nhiều sự trao đổi, thảo
luận giữa các sinh viên và giữa sinh viên với giảng viên để biến cách học một
chiều thành cách học hai chiều có hiệu quả hơn, từ đó sinh viên có nhiều cơ hội
để thể hiện bản thân, phát huy tính chủ động, năng động và sáng tạo trong quá
trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện.
Cuối cùng,“ Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội.”. Bởi vậy, đặt trong mối quan hệ với giảng viên và bạn bè đồng
trang lứa, sinh viên cần tạo dựng những mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh; kết nối
giữa bản thân với thầy cô và bạn bè để cùng nhau hoàn thiện và tiến bộ. Sinh
viên cần phải mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, cần thẳng thắn trao đổi và
bàn luận với bạn bè, với giảng viên. Cần đối chiếu lập trường, quan điểm của
mình với mọi người để tìm ra cái đúng, cái sai trong nhận thức về vấn đề bàn
luận, luôn chính kiến để giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ với những
người xung quanh. Bên cạnh đó, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân,
nâng cao ý thức tập thể; đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung, luôn biết đặt lợi ích
chung lên trên lợi ích cá nhân.
Thời đại ngày nay, bên cạnh những sinh viên có tư duy độc lập thì vẫn
tồn tại không ít những cá nhân thiếu lập trường, sống “thuận theo chiều gió”.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là cách sống buông thả.
Để rồi theo thời gian, những nếp nghĩ lười nhác sẽ ăn mòn ý chí, dập tắt đam
mê, đẩy con người rơi vào vòng luẩn quẩn thụ động. Một khi hàng rào kỉ luật bị
phá vỡ, sinh viên rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực. Thực tế khốc
liệt chứng minh cho ta thấy, hàng loạt các vụ thảm sát đã xảy ra: bạn bè thuê
người giết nhau để bán nội tạng, học sinh đâm chết giáo viên tại trường học hay
thậm chí con cái thẳng tay với bố mẹ chỉ vì lấy tiền hút ma túy,… Thật đau đớn,
xót xa thay! Nhưng không dừng lại ở đó, với sự nhảy vọt của mạng xã hội, con
9
người ta còn mù quáng giẫm đạp lên nhau bằng những ngôn từ rỉ máu. Hãy thử
nhìn lại con người trước Cách mạng Tháng Tám, ngay sau khi bị vùi dập mất
hết cả nhân hình, nhân tính, đến mức trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại
nhưng chỉ cần tình thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị Nở, chỉ cần hơi rượu
tan biến là Chí Phèo sống lại khát vọng hoàn lương. Phẩm chất “người” đâu đó
vẫn âm ỉ chờ ngày bùng cháy mãnh liệt, và khi nó bùng cháy lên thì không có lý
do nào khiến hắn cam lòng trở lại làm quỷ dữ được nữa! Bị cướp đoạt quyền
sống, bị bần cùng đến mức tha hóa nhưng Chí Phèo sẵn sàng hủy hoại mạng
sống của mình để được chết như một con người. Vậy thì tại sao với những điều
kiện đầy đủ như hiện nay, chúng ta, đặc biệt là thế hệ sinh viên trẻ tuổi, lại đối
xử một cách tàn nhẫn với nhau như vậy? Bỗng vang lên trong đầu tôi tiếng thét
phẫn uất “Ai cho ta lương thiện?”. Sâu thẳm bên trong, tôi có niềm tin rằng chủ
nhân của sự lương thiện chính là mỗi con người chúng ta.“Nhân bất thập toàn”,
là con người không ai hoàn hảo cả, điều đáng quý là ta biết nhìn vào những
khuyết điểm, lỗi lầm của mình để sửa đổi. Lịch sử qua đi, hoàn cảnh biến động,
bản chất biến đổi nhưng biến đổi ra sao là do bạn quyết định. Phật giáo có câu:
“Pháp học, Pháp hành, nhân cách, đạo đức”. Là một sinh viên đang ngồi trên
ghế nhà trường, thế hệ chúng em ý thức được rằng song song với việc trau dồi
kiến thức, phải luôn bồi dưỡng nhân cách, rèn luyện đạo đức. Không ngừng gìn
giữ và lan truyền những giá trị tốt đẹp vì bản thân, vì gia đình, vì xã hội, và vì
một Việt Nam thân yêu!

10
̣
KẾT LUÂN

Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con người cho đến thời điểm
hiện tại thì quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một cách đúng
đắn và đầy đủ nhất trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo ông, con người là
thực thể sinh học-xã hội; là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Song trong đời
sống xã hội, khi xem xét con người phải đặt nó trong tổng thể các quan hệ xã
hội, bởi “ Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội.” Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử. Để phát triển bản
chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang
tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã
hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giátrị
có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người mang lại ý nghĩa
vô cùng to lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn đề này, con người sẽ
tiến gần hơn một bước trong việc khám phá về chính mình, từ đó ứng dụng vào
đời sống ở những lĩnh vực khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,….. Hiểu rõ
hơn về bản chất của bản thân và những mối quan hệ liên quan , con người sẽ biết
tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những mối quan hệ đó, từ đó có động
lực phát triển bản thân nói riêng cũng như cộng đồng, xã hội nói chung bền vững
đi lên.

11
TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) GS.TS. Phạm Văn Đức chủ biên > Giáo trình Triết học Mác- Lênin >
NXB Bản Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > Hà Nội – 2019.
(2) Đồng chủ biên GS, TS. Nguyễn Ngọc Long – GS, TS. Nguyễn Hữu Vui >
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dùng trong các trường đại học cao đẳng) >
NXB Chính trị Quốc gia > Hà Nội, tháng 7 năm 2006.
(3) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và Ph.Angghen
Toàn tập, tập 3 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > 1995.
(4) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và Ph.Angghen
Toàn tập, tập 3 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > 1994.

12
13

You might also like